Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

nghiên cứu sự di chuyển của lao động nông thôn đến làm việc tại thành phố bắc giang,

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (607.87 KB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI

NguyÔn minh th
Nghiªn cøu sù di chuyÓn cña lao ®éng n«ng th«n
®Õn lµm viÖc t¹i thµnh phè B¾c Giang,
tØnh B¾c Giang

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Chuyên ngành: KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
Mã số: 60.31.10
Người hướng dẫn khoa học: TS. DƯƠNG VĂN HIỂU
HÀ NỘI - 2009
LỜI CAM ĐOAN
- Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là
trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
- Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn
đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ
nguồn gốc.
Tác giả luận văn
Nguyễn Minh Thư
i
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bản luận văn này ngoài sự cố gắng của bản thân tôi còn
nhận được sự giúp đỡ tận tình của nhiều cá nhân và tập thể.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS Dương Văn Hiểu, người đã
tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô trong Viện Sau đại học, khoa
Kinh tế và phát triển nông thôn - trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực tập.
Xin cảm ơn gia đình, ban bè và đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên tôi


trong suốt quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Hà Nội, ngày tháng năm 2009
Tác giả
Nguyễn Minh Thư
ii
MỤC LỤC
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn Error: Reference source not found
Mục lục Error: Reference source not found
Danh mục các chữ viết tắt Error: Reference source not found
Danh mục bảng Error: Reference source not found
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT v
DANH MỤC BẢNG vi
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài 3
1.2.1. Mục tiêu chung 3
1.2.2. Mục tiêu cụ thể 3
1.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu 4
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu 4
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÌNH HÌNH DI CHUYỂN LAO ĐỘNG TỪ NÔNG
THÔN RA THÀNH THỊ 6
2.1. Cơ sở lý luận về sự di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị 6
2.1.1.Các khái niệm cơ bản 6
2.1.2. Lý thuyết liên quan về sự di chuyển lao động nông thôn ra đô thị làm việc 13
2.1.3.Vai trò của lao động 20

2.1.4 Ảnh hưởng của di chuyển lao động đến đời sống, sản xuất và thu nhập của người lao động 22
2.2. Cơ sở thực tiễn 23
2.2.1 Sự di chuyển của LĐNT đến thành phố ở các nước trên thế giới 23
2.2.2 Sự di chuyển của LĐNT đến thành phố làm việc tại Việt nam 27
2.3.Các nghiên cứu của đề tài liên quan 30
3. ĐẶC ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 33
3.1. Đặc điểm của địa bàn nghiên cứu 33
3.1.1. Đặc điểm tự nhiên 33
3.1.2. Đặc điểm kinh tế- xã hội 36
3.2. Phương pháp nghiên cứu 43
3.2.1. Chọn điểm nghiên cứu 43
3.2.2.Mẫu nghiên cứu 43
iii
3.2.3. Tổ chức điều tra thu thập số liệu 44
3.2.4 Phương pháp xử lý và phân tích số liệu 44
3.2.5. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu 45
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 47
4.1 Thực trạng di chuyển của LĐNT đến làm việc tại thành phố Bắc Giang 47
4.1.1 Tình hình cơ bản của LĐNT di chuyển đến làm việc tại thành phố Bắc Giang 47
4.1.2 Thực trạng việc làm và thu nhập của LĐNT di chuyển đến làm việc tại thành phố Bắc Giang 60
4.1.3 Nhân tố tác động đến sự di chuyển của LĐNT làm việc tại thành phố Bắc Giang 72
4.1.4 Đánh giá chung về tình hình di chuyển của LĐNT đến thành phố Bắc Giang làm việc 80
4.2 Định hướng và giải pháp giúp LĐNT có việc làm và thu nhập ổn định tại địa phương và
thành thị 84
4.2.1 Định hướng 84
4.2.2 Các giải pháp chủ yếu để tạo việc làm cho LĐNT 86
5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 95
5.1. Kết luận 95
5.2 Kiến nghị 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO 99

iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
THCS Tốt nghiệp trung học cơ sở
THPT Tốt nghiệp trung học phổ thông
CNH – HĐH Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
KD Kinh doanh
TBXH Thương binh – xã hội
ILO Tổ chức lao động quốc tế
LĐNT LĐNT
LLLĐ Lực lượng lao động
KCN Khu công nghiệp
KT – XH kinh tế - xã hội

v
DANH MỤC BẢNG
STT Tên bảng Trang
Nghiên cứu thực trạng di cư lao động ở Đồng bằng sông Cửu Long trường hợp đồng bào Khơme
tỉnh Trà Vinh, Huỳnh Trường Huy (9/2007)[14] đã cho thấy: 30
Di cư lao động giữa các vùng và từ nông thôn đến thành thị xuất phát từ những nguyên nhân
sau: 30
Thứ nhất, các quốc gia thực hiện chuyển đổi kinh tế, chủ yếu theo hướng phát triển công nghiệp
sản xuất (hoặc gia công) hàng hoá xuất khẩu như may mặc, giày dép, điện tử… dẫn đến nhu cầu
thu hút lao động phổ thông cũng như chuyên môn tại các thành phố lớn, KCN ngày càng tăng.30
Thứ hai, trong khi đó, tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở vùng nông thôn diễn ra chậm do cơ sở
hạ tầng yếu kém cũng như trình độ quản lý dẫn đến sự phát triển không cân đối giữa thành thị và
nông thôn trong quá trình chuyển đổi, chênh lệch về thu nhập bình quân đầu người giữa thành
thị và nông thôn 30
vi
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài

Việt Nam là một nước nông nghiệp, tỷ trọng lao động nông nghiệp chiếm
hơn 70% lực lượng lao động của cả nước trong đó thường xuyên có khoảng
30% lao động thiếu việc làm. Việc làm của lao động nông nghiệp nông thôn
phụ thuộc chủ yếu vào đất đai và mùa vụ canh tác. Hàng năm với 2 mùa vụ
sản xuất chính thì LĐNT lại nảy sinh nỗi lo thất nghiệp. Hơn thế nữa, việc
đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn và
tiến trình hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới thì việc xây dựng các KCN,
khu chế xuất, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng… nhằm đáp ứng nhu cầu
phát triển là một thực tế. Do vậy diện tích đất canh tác của nông nghiệp nông
thôn bị thu hẹp do thu hồi để phục vụ các mục đích trên làm cho LĐNT lại
càng thiếu việc làm. Cùng với các lý do trên là khoảng cách về thu nhập giữa
thành thị và nông thôn hiện nay vẫn còn khá cao. Thực tế đó đã dẫn đến tình
trạng có sự di chuyển lao động từ khu vực nông thôn đến thành thị để tìm việc
làm, kiếm thu nhập trong thời gian vừa qua.
Từ năm 1997 sau khi tách tỉnh đến nay thành phố Bắc Giang tập trung
tiến hành thực hiện công cuộc CNH, HĐH nên đã tạo ra nhu cầu lớn về nguồn
nhân lực, thêm vào đó thu nhập thấp, điều kiện sống khó khăn, sự khan hiếm
ngành nghề phi nông nghiệp có thu nhập cao đã và đang thúc đẩy LĐNT ra
thành phố tìm kiếm việc làm. Tính đến 2004, theo thống kê thành phố Bắc
Giang hiện có khoảng 126.000 người đang sinh sống và làm việc. Trong
những năm gần đây, gắn với sự phát triển mạnh mẽ của thành phố Bắc Giang
là những dòng LĐNT di chuyển vào thành phố ngày càng nhiều, năm sau cao
hơn năm trước. Theo ước tính, năm 2006 có trên 1.000 LĐNT di chuyển vào
1
thành phố Bắc Giang làm việc và tìm kiếm việc làm. Cho đến nay số lượng
LĐNT di chuyển đến thành phố Bắc Giang có xu hướng tăng lên rất nhiều. Sự
di chuyển của LĐNT đến thành phố Bắc Giang tạo được nguồn lực lao động
dồi dào tham gia vào các công việc tại các cơ quan, nhà máy, các cơ sở sản
xuất kinh doanh, các khu - cụm công nghiệp… tạo điều kiện cho thành phố
Bắc Giang phát triển kinh tế. Tuy nhiên, thực tế còn tồn tại những vấn đề bức

xúc về giải quyết của LĐNT di chuyển đến thành phố làm việc.
Thứ nhất, việc làm và thu nhập của LĐNT di chuyển đến thành phố Bắc
Giang không ổn định. Hầu hết LĐNT di chuyển đến thành phố Bắc Giang là
lao động tự do nên khả năng tìm kiếm việc làm và làm việc rất bấp bênh, nặng
nhọc, nguy hiểm, nhiều rủi ro song thu nhập không cao.
Thứ hai, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh Bắc giang lần thứ XVI và Đại
hội Đảng bộ thành phố Bắc Giang lần thứ XIX nhiệm kỳ 2006 – 2015 đã đưa
ra mục tiêu phấn đấu phát triển Thành phố Bắc Giang trở thành một thành
phố sinh thái, hiện đại, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội của
Tỉnh Bắc Giang cùng với đó là các chương trình, dự án, đề án quy hoạch tổng
thể và chi tiết phát triển KT - XH cũng như quy hoạch phát triển các ngành có
liên quan đến thành phố Bắc Giang. Cùng với mục tiêu đó để thực hiện được
Nghị Quyết thành phố Bắc Giang đã và đang tạo môi trường thuận lợi, chính
sách thu hút đầu tư, tăng cường xúc tiến thương mại, cải cách thủ tục hành
chính theo hướng thông thoáng, rút ngắn thời gian tạo điều kiện thuận lợi cho
các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào thành phố Bắc Giang. Với
hướng đó sẽ tiếp tục tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động trong tỉnh
trong đó có LĐNT. Bên cạnh đó do xu thế phát triển các khu - cụm công
nghiệp, khu dân cư trên địa bàn thành phố Bắc Giang cũng như một số huyện
lân cận thành phố và các huyện có vị trí địa lý thuận lợi nên dẫn đến tình trạng
thu hẹp đất sản xuất nông nghiệp, trong khi công tác đào tạo nghề, giải quyết
2
việc làm cho người dân bị thu hồi đất chưa được chú trọng dẫn đến tình trạng
một bộ phận người nông dân không có khả năng tìm cho mình công việc mới.
Thứ ba, sự di chuyển của LĐNT đến thành phố Bắc Giang trong thời
gian vừa qua đã làm nảy sinh hàng loạt các vấn đề xã hội như chỗ ở không
đảm bảo được điều kiện sống, dịch vụ xã hội bị quá tải, môi trường đô thị bị ô
nhiễm, lối sống bị ảnh hưởng …đối với chính bản thân người lao động di
chuyển và cả lao động thành phố.
Những vấn đề đó đòi hỏi việc nghiên cứu để tìm ra giải pháp giúp LĐNT

Bắc Giang có việc làm ổn định, tăng thu nhập cho lao động là một yêu cầu
cần thiết hiện nay. Nghiên cứu này cũng góp phần vào thực hiện mục tiêu của
tỉnh Bắc Giang đó là giảm tỷ lệ thất nghiệp cho LĐNT. Trong khuôn khổ
nghiên cứu này tôi chỉ xin đề cập đến vấn đề kinh tế của lao động di chuyển là
thực trạng LĐNT di chuyển đến làm việc tại thành phố Bắc Giang và các
nhân tố ảnh hưởng đến sự di chuyển của LĐNT. Xuất phát từ thực tế đó tôi
chọn nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu sự di chuyển của LĐNT đến làm việc
tại thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
1.2.1. Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng lao động di chuyển từ nông thôn ra thành thị làm
việc trong thời gian vừa qua, đề xuất giải pháp chủ yếu tạo việc làm cho
LĐNT ổn định đời sống và thu nhập.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
1. Góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về sự di chuyển
LĐNT đến làm việc tại các khu vực thành thị.
2. Nghiên cứu thực trạng của sự di chuyển của LĐNT đến làm việc tại
3
thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.
3. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự di chuyển của LĐNT đến làm
việc tại thành phố Bắc Giang.
4. Đề xuất các giải pháp chủ yếu tạo thêm việc làm cho LĐNT và ổn
định đời sống và thu nhập cho LĐNT tại Bắc Giang.
* Câu hỏi nghiên cứu
- Những lý luận nào làm rõ sự di chuyển của LĐNT đến làm việc tại
thành thị?
- Thực trạng của sự di chuyển LĐNT đến làm việc tại địa bàn nghiên cứu
hiện nay như thế nào?
- Những nguyên nhân nào dẫn đến LĐNT phải di chuyển đến làm việc
tại thành phố Bắc Giang?

- Giải pháp chủ yếu nào có thể giúp LĐNT có cuộc sống và thu nhập ổn
định cũng như góp phần phát triển nông thôn Bắc Giang?
1.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
- LĐNT đang làm các ngành, nghề tại thành phố Bắc Giang.
- Các yếu tố tác động đến tình hình di chuyển của LĐNT, các nguyên
nhân “đẩy”, “kéo” LĐNT di chuyển đến làm việc tại thành phố Bắc Giang,
tỉnh Bắc Giang.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
1.3.2.1. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu sự di chuyển của LĐNT đến thành thị, làm rõ nguyên nhân
xu hướng tác động đến sự di chuyển đó.
4
Do thời gian và nguồn lực nên đề tài chỉ xin đề cập đến vấn đề kinh tế và
các nhân tố tác động đến sự di chuyển của LĐNT đến thành phố Bắc Giang
làm việc.
1.3.2.2. Phạm vi về không gian nghiên cứu
Thành phố Bắc Giang hiện có 7 phường và 4 xã trực thuộc. Do điều kiện
về nguồn lực và thời gian có hạn nên chúng tôi chọn 3 phường để nghiên cứu
trong đó phường Ngô Quyền và phường Trần Nguyên Hãn là các phường có
tốc độ đô thị hoá nhanh; phường Trần Phú là phường đã hình thành và ổn
định tập trung đông dân đã tạo ra các loại thị trường.
1.3.2.3.Phạm vi về thời gian nghiên cứu
Đề tài dự kiến thu thập số liệu thứ cấp trong khoảng thời gian 2006-
2008, số liệu khảo sát tháng 5 năm 2009.
5
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÌNH HÌNH DI CHUYỂN
LAO ĐỘNG TỪ NÔNG THÔN RA THÀNH THỊ
2.1. Cơ sở lý luận về sự di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị
2.1.1.Các khái niệm cơ bản

* Lao động, số lượng lao động, chất lượng lao động
Có nhiều quan điểm khác nhau về lao động.
Mác cho rằng lao động trước hết là một quá trình trong đó với sức lao
động của mình, con người làm trung gian và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ
với giới tự nhiên. [16]
Theo Savchenko lao động là hoạt động có mục đích của con người, bất
cứ làm việc gì con người cũng phải tiêu hao một năng lượng nhất định. Tuy
nhiên chỉ tiêu hao năng lượng có mục đích mới được gọi là lao động.[5]
Luật lao động được quốc hội khoá IX thông qua ngày 23/6/1994 ghi rõ:
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật chất
và các giá trị tinh thần của xã hội .[10]
Nguồn lao động là bộ phận dân số trong quy định thực tế tham gia lao
động và những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm.
Khi xem xét, đánh giá nguồn lao động thường dùng hai chỉ tiêu:
- Số lượng lao động:
Số lượng lao động là toàn bộ nghững người trong độ tuổi lao động quy
định (nam từ 15-60 tuổi, nữ từ 15-55 tuổi)[10] có khả năng tham gia lao động.
Tuy nhiên, do đặc thù của sản xuất nông nghiệp, những người không nằm
trong độ tuổi lao động nhưng vẫn có khả năng tham gia lao động thì vẫn được
6
coi là bộ phận của nguồn lao động nhưng do khả năng lao động của họ hạn
chế nên họ được coi là lao động phụ.
- Chất lượng lao động:
Chất lượng lao động chính là sức lao động của bản thân người lao động,
chất lượng lao động thể hiện ở sức khỏe, trình độ văn hoá, nhận thức hiểu biết
về khoa học kỹ thuật và trình độ kinh tế tổ chức.[10]
* Lực lượng lao động
Có nhiều quan niệm khác nhau về lực lượng lao động.
Theo quan niệm của tổ chức Lao động quốc tế (ILO)[18] thì lực lượng
lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định, thực tế đang có việc

làm và những người thất nghiệp. Các nước thành viên của tổ chức này đều
thống nhất với quan niệm này. Giữa các nước chỉ có sự khác nhau về độ tuổi
quy định. Gần đây, nhiều nước đã lấy tuổi tối thiểu là 15, còn độ tuổi tối đa có
sự khác nhau tuỳ theo tình hình phát triển KT - XH của mỗi nước. Các trị số
tối đa về tuổi thường trùng với tuổi về hưu. Ở Australia không quy định giới
hạn tuổi tối đa.
Theo Tổng cục Thống kê (1995), lực lượng lao động là những người từ
15 tuổi trở lên có việc làm và không có việc làm.
Hiện nay, Bộ Luật Lao động ở Việt Nam quy định là đủ 15-60 tuổi đối
với nam và đủ 15-55 tuổi đối với nữ [10] . Trong đề tài chúng tôi quan niệm
về lực lượng lao động phù hợp với định nghĩa của ILO và theo Bộ luật Lao
động hiện hành, tuy nhiên chỉ lấy trị số tối đa của độ tuổi mà không chia theo
giới. Từ đó khái niệm lực lượng lao động được hiểu là những người có năng
lực hành vi, đủ 15-60 tuổi đang có việc làm và chưa có việc làm. Ngoài ra là
những người không thuộc lực lượng lao động.
7
* Khu vực đô thị, khu vực nông thôn
Trong quá trình phát triển, các quốc gia đều phân vùng lãnh thổ của mình
thành hai khu vực là thành thị và nông thôn. Có nhiều quan điểm khác nhau
về vùng nông thôn và thành thị.
Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học xuất bản năm 2002 [11]
đã định nghĩa đô thị là nơi dân chuyển đông đúc, là trung tâm thương nghiệp
và có thể cả công nghiệp, thành phố hoặc thị trấn. Và cho đến nay trên thế
giới đều thống nhất coi đô thị là một điểm dân chuyển tập trung với số lượng
lớn, mật độ cao và tỷ lệ người làm công nghiệp, dịch vụ nhiều hơn hẳn người
làm nông nghiệp.
Việt Nam là một nước có đặc thù đất chật, người đông nên những quy
định về các tiêu chí của một đô thị khác nhiều so với các nước khác để phù
hợp với điều kiện thực tế.
Theo thời gian, tiến trình phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia trên

thế giới thì khái niệm về nông thôn có thể thay đổi thì các quy định về nông
thôn có thể thay đổi.
Nông thôn Việt Nam bao gồm các địa bàn dân chuyển có số lượng dân
tập trung dưới 4.000 người, mật độ dân chuyển ít hơn 6.000 người/ km
2
và tỷ
lệ lao động phi nông nghiệp dưới 60%, tức là tỷ lệ lao động nông nghiệp đạt
từ 40% trở lên.[4]
Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, có thể hiểu nông thôn là vùng
sinh sống của tập hợp dân chuyển, trong đó có nhiều nông dân. Tập hợp
chuyển dân này tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hoá-xã hội và môi
trường trong một thể chế chính trị nhất định và chịu nhiều ảnh hưởng của
các tổ chức khác.
8
* Di chuyển
Theo từ điển Tiếng Việt thì di chuyển là một hành động di dời, sự thay
đổi từ nơi này đến nơi khác. [11]
* Di chuyển lao động
Di chuyển lao động có thể được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng
và theo nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng:
Di chuyển lao động là hiện tượng nhân khẩu học chịu tác động tổng
hòa của nhiều yểu tố khác nhau như tự nhiên, xã hội, kinh tế, chính trị, tôn
giáo, tâm lý…Di chuyển lao động theo nghĩa rộng được hiểu là sự di dời, thay
đổi bất kỳ của người lao động trong không gian. Di chuyển lao động đồng
nghĩa với khái niệm “sự vận động của dân chuyển” hay là toàn bộ sự di
chuyển của con người trong không gian. Theo E.F Baranov và Breer thì “di
chuyển lao động là bất kỳ sự di chuyển nào của con người giữa các lãnh thổ
có gắn đến sự thay đổi vị trí, dạng hoạt động lao động và ngành có sử dụng
lao động”. I.M. Kozurov cho rằng “di chuyển lao động gắn liền với sự thay

đổi nơi làm việc trong phạm vi một vùng dân chuyển nhất định hay tới các
vùng khác”. Tác giả V.I. Xtopoverop (1975) định nghĩa: “di chuyển lao động
được hiểu là sự thay đổi vị trí của con người về mặt địa lý do có sự thay đổi
thường xuyên hoặc tạm thời của họ từ một cộng đồng kinh tế xã hội này sang
một cộng đồng kinh tế xã hội khác, trở về cộng đồng hoặc sự thay đổi vị trí
của con người về mặt địa lý không gian của toàn bộ cộng đồng nói chung”.
Theo nghĩa hẹp
Theo nghĩa hẹp “di chuyển lao động là sự di dời của người lao động từ
một đơn vị lãnh thổ này đến một đơn vị lãnh thổ khác theo những chuẩn mực
về không gian và thời gian nhất định”.
9
Với những khái niệm trên có thể thấy di chuyển lao động từ nông thôn
ra đô thị làm việc được hiểu đó là những người LĐNT ra đô thị làm việc với
thời gian dài hạn hoặc ngắn hạn nhưng không nhằm mục tiêu định cư.
* Việc làm
Theo giáo trình Kinh tế lao động của Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà
Nội, khái niệm việc làm được hiểu là sự kết hợp giữa sức lao động với tư liệu
sản xuất nhằm biến đổi đối tượng lao động theo mục đích của con người.[18]
Theo Bộ Luật lao động thì khái niệm việc làm được xác định là “Mọi
hoạt động lao động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa
nhận là việc làm” [10] .
Như vậy, khái niệm việc làm có thể hiểu là hoạt động lao động của con
người nhằm mục đích tạo ra thu nhập và hoạt động này không vi phạm pháp luật
* Người có việc làm
Ở nước ta trong thời kỳ quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập
trung trước đây, thì quan niệm người có việc làm là người nằm trong biên chế
nhà nước hoặc làm việc trong hợp tác xã . Hiện nay, quan niệm này đã thay đổi,
chúng tôi thống nhất với quan điểm của Nguyễn Hữu Dũng về người có việc làm
như sau: "người có việc làm là người đang làm việc trong những lĩnh vực, ngành
nghề dạng hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, đem lại thu nhập để

nuôi sống bản thân và gia đình, đồng thời đóng góp một phần cho xã hội".
Tại hội nghị quốc tế lần thứ 13, các nhà thống kê về lao động của ILO đã
đưa ra quan niệm người có việc làm là người làm việc gì đó, có được trả tiền
công, lợi nhuận bằng tiền hay hiện vật hoặc tham gia vào các hoạt động mang
tính tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình không nhận tiền công
hay hiện vật.
Dựa trên khái niệm tổng quát về người có việc làm của Tổ chức lao động
10
quốc tế, khi thu nhập thông tin về người có việc làm, các nước đều đưa ra
điều kiện cụ thể về giới hạn thời gian làm việc, giới hạn tuổi và những nguyên
nhân khách quan và chủ quan dẫn tới tình trạng không làm việc trong tuần lễ
điều tra, nhưng họ sẽ tiếp tục trở lại làm việc trong thời gian nghỉ. Về giới hạn
thời gian làm việc thường phức tạp và rất khác nhau tuỳ thuộc vào trình độ
phát triển, mức sống và khả năng tạo thu nhập ở mỗi nước. Cơ sở xác định
các mức chuẩn này là căn cứ vào số giờ (hoặc số ngày công) tối thiểu cần
phải làm việc để đảm bảo một mức sống tối thiểu. Điều này có thể xác định
cho lao động trong khu vực kết cấu, làm công ăn lương theo mức tiền lương
tối thiểu hiện hành. Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của đề tài thuộc khu vực
nông thôn, chủ yếu làm việc trong khu vực phi kết cấu nên chúng tôi không
căn cứ vào chỉ tiêu này để xác định người có việc làm phải đủ chính xác bao
nhiêu giờ (ngày công). Về giới hạn tuổi, để phù hợp với khái niệm lực lượng
lao động, khái niệm người có việc làm trong đề tài được hiểu là lao động từ
15-60 tuổi đang làm việc để hưởng tiền lương, tiền công hay lợi nhuận hoặc
đang tham gia các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ cho gia đình mình
không nhận tiền công hay lợi nhuận.
Căn cứ vào thời gian thực hiện công việc tổ chức lao động quốc tế phân chia
thành:[18]
Việc làm ổn định và việc làm tạm thời: căn cứ vào số thời gian có việc làm
thường xuyên trong một năm. Trong đó người có việc làm ổn định là người có
việc từ 6 tháng trở lên trong một năm hoặc làm việc dưới 6 tháng trong một năm

nhưng vẫn tiếp tục làm công việc đó trong những năm tiếp theo.
*Thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp
Thất nghiệp, trong kinh tế học, là tình trạng người lao động muốn có việc
làm mà không tìm được việc làm.
11
Theo quan niệm của ILO, thất nghiệp là người không có việc làm, có khả
năng làm việc và có nhu cầu tìm kiếm việc làm[18]. Những người thất nghiệp
là những người trong độ tuổi lao động, có sức lao động chưa có việc làm,
đang có nhu cầu làm việc nhưng chưa tìm được việc làm.
Bộ Lao động TBXH cũng có quy định: “ Người thất nghiệp là những
người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, có nhu cầu tìm kiếm việc
làm nhưng không có việc làm”[10]
Tỷ lệ thất nghiệp là phần trăm số người lao động không có việc làm trên
tổng số lực lượng lao động xã hội. Thất nghiệp có thể được chia thành một số
loại chính như sau:
- Thất nghiệp tự nhiên: tỷ lệ thất nghiệp đương nhiên bởi luôn có một
số người trong giai đoạn chuyển từ chỗ làm này sang chỗ khác, là thất
nghiệp xảy ra khi người lao động đang trong thời kỳ kiếm việc làm hoặc
chờ việc làm.
- Thất nghiệp cơ cấu: Là thất nghiệp xảy ra khi có sự không tương
thích của phân bố lao động và phân bố chỗ làm việc, giữa các ngành nghề
trong khu vực.
- Thất nghiệp chu kỳ: Là thất nghiệp khi tổng cầu lao động thấp hơn tổng
cung lao động ở giai đoạn suy thoái của chu kỳ kinh tế.
- Thất nghiệp kỹ thuật: Là thất nghiệp do việc thay thế công nhân bằng
máy móc hoặc công nghệ tiên tiến hơn.
- Thất nghiệp thông thường: Là thất nghiệp khi thu nhập thực tế xuống
dưới mức chấp nhận được.
- Thất nghiệp theo mùa: Là thất nghiệp khi công việc phụ thuộc vào tình
hình thời tiết.

12
Công thức tính tỷ lệ thất nghiệp
Tỷ lệ thất nghiệp = 100

x
Số người không có việc làm
Tổng số lao động xã hội
* Thời gian di chuyển của lao động
Là số ngày (tháng) trong kỳ mà LĐNT di chuyển đến thành thị làm việc
và tìm kiếm việc làm. Thời gian di chuyển của LĐNT là khác nhau, có lao
động di chuyển đến thành thị làm việc thường xuyên, có lao động di chuyển
đến làm việc tại thành thị là tạm thời. Căn cứ vào thực tế đó quy ước:
- Nhóm lao động di chuyển đến thành thị làm việc thường xuyên: trên 6
tháng/ năm.
- Nhóm lao động di chuyển đến thành thị làm việc tạm thời: dưới 6
tháng/ năm.
2.1.2. Lý thuyết liên quan về sự di chuyển lao động nông thôn ra đô thị làm việc
Di chuyển lao động là một hiện tượng phổ biến trong xã hội loài người.
Lý do tại sao con người lại di chuyển thì rất khác nhau giữa người này với
người khác trong cùng một cộng đồng, giữa dân tộc này với dân tộc khác, giữa
vùng này và vùng khác Chính từ sự phức tạp của quá trình di chuyển hay
nguyên nhân của di chuyển mà không có sự thống nhất cao giữa các nhà
nghiên cứu về nguyên nhân của di chuyển. Sự khác biệt về quan niệm của các
nhân tố tác động đến di chuyển không chỉ xảy ra giữa các nhà nghiên cứu thuộc
các môn khoa học khác nhau mà ngay cả nghiên cứu trong một môn khoa học,
ví dụ như kinh tế học phát triển.
Mô hình về nhân tố “đẩy ”và “kéo”
Trong những năm 80 của thế kỷ XIX, Ernest Ranvenstein là nhà khoa
học đóng vai trò mở đường cho việc phát triển lý thuyết di chuyển, điều này
13

được phản ánh trong tác phẩm “Luật di chuyển” (Laws of Migration, 1989).
Ông cho rằng di chuyển được điều chỉnh bởi quá trình đẩy và kéo(push -
pull), trong quá trình này, người di chuyển chịu hai áp lực dẫn tới quyết định
di chuyển:
Thứ nhất, do điều kiện sống khó khăn, ít công ăn việc làm nên người ta
phải di chuyển – đây là “nhân tố đẩy”.
Thứ hai, sự hấp dẫn về việc làm và mức sống ở nơi đến, và đây là
“nhân tố kéo”.
Từ lý thuyết của Ernest Ranvenstein, Everett Lee trong tác phẩm “Lý
thuyết di chuyển”(A general theory of migration, 1966) cho rằng quyết định
di chuyển của một cá nhân thường phụ thuộc vào 4 nhóm yếu tố:
- Nhóm nhân tố gắn liền với nơi xuất phát.
- Nhóm nhân tố gắn liền với nơi đến.
- Những trở ngại, trở lực xuất hiện giữa nơi xuất phát và nơi đến mà
người di chuyển phải vượt qua.
- Những nhân tố mang tính cách cá nhân, tính cách riêng của người di chuyển.
Như vậy, có nhiều nhân tố tác động tới quyết định di chuyển theo
những cách khác nhau ở cả nơi xuất phát và nơi đến. Một số nhân tố có thể
thu hút người ta chuyển đến, trong khi có những nhân tố thúc đẩy người ta
chuyển đi. Đối với mỗi nhân tố, đối với người này thì là tích cực nhưng đối
với người khác lại là tiêu cực. Chẳng hạn, hệ thống giáo dục tốt là mối quan
tâm của những người di chuyển có con trong độ tuổi đi học nhưng lại tác
động tiêu cực tới những người không có con đi học vì liên quan tới gánh
nặng thuế.
Điểm hạn chế của mô hình này là nó không giải thích được sự khác
biệt do cùng một nhóm nhân tố lên các cá nhân khác nhau. Tùy thuộc vào ưa
thích của từng cá nhân mà có những thay đổi, phản ứng khác nhau giữa các
14
nhân tố đối với mỗi nhân tố. Nó cũng không bóc tách được các tác động đối
với quyết định di chuyển trong cùng một thời điểm. Ngoài ra, mô hình này

không chỉ ra được tầm quan trọng của mỗi nhân tố đối với mỗi nhóm người,
giai cấp khác nhau.
Cách giải thích của mô hình này ngoài ý nghĩa về mặt lý thuyết nó còn
cung cấp một phương pháp luận để đề ra các chính sách nhằm hạn chế các
dòng di chuyển từ nông thôn đến thành thị như ở vùng nông thôn thường có
lực đẩy mạnh do khó khăn về kinh tế, việc làm và điều kiện sống kém phát
triển, do đó cần phải giảm những chênh lệch này so với thành thị.
Mô hình hai khu vực của Arthur Lewis.
Mô hình của Lewis là học thuyết chung của quá trình phát triển các
nước dư thừa lao động. Trong mô hình này, nền kinh tế được chia thành hai
khu vực:
(1) khu vực kinh tế truyền thống ở nông thôn với số lao động dư thừa,
đặc trưng bởi năng suất lao động cận biên rất thấp (gần như bằng không) do
đó có thể rút lao động ra khỏi khu vực nông nghiệp mà không gây thiệt hại gì
cho sản lược đầu ra.
(2) khu vực kinh tế công nghiệp hiện đại ở thành thị với năng suất
cao, nơi mà lao động từ khu vực kinh tế tự nhiên được dần dần chuyển sang.
Trọng tâm của mô hình là thể hiện cả quá trình chuyển giao lao động lẫn sự
gia tăng sản lượng đầu ra và gia tăng mức độ sử dung lao động ở khu vực
thành thị. Sự chuyển giao lao động và gia tăng mức sử dụng lao động ở khu
vực thành thị đều do mở rộng sản lượng đầu ra của khu vực này mang lại.
Trong khi đó tốc độ của việc mở rộng đầu ra này lại được xác định bởi nhịp
độ đầu tư công nghiệp và tích lũy vốn trong chính khu vực kinh tế công
nghiệp. Khối lượng vốn đầu tư có được là nhờ sự vượt trội của lợi nhuận
trong khu vực kinh tế hiện đại so với phần chi trả tiền lương, với giả thiết
15
rằng toàn bộ lợi nhuận được đem đầu tư phục vụ mở rộng sản xuất. Thêm nữa
mức lương ở thành thị được giả thiết là không đổi và cao hơn ít nhất 30% so
với mức lương cố định trung bình được ấn định trước đủ để duy trì cuộc sống
ở khu vực truyền thống. Đường cung về lao động ở nông thôn cho khu vực

kinh tế hiện đại được coi là hoàn toàn co giãn.
Trong khu vực kinh tế truyền thống có hai giả thiết đáng lưu ý. Một là,
có lao động dư thừa; và thứ hai, mức lương thực tế ở nông thôn được xác định
bởi năng suất trung bình (chứ không phải bằng năng suất cận biên của lao
động như trong khu vực kinh tế hiện đại). Còn trong khu vực kinh tế hiện đại
thị trường lao động có tính chất cạnh tranh hoàn hảo.
Do nguồn cung lao động ở nông thôn được coi là không có giới hạn
nên khu vực kinh tế hiện đại có thể thuê thêm bao nhiêu lao động ở nông thôn
cũng được mà không sợ phải nâng cao thêm mức lương. Các chủ doanh
nghiệp trong khu vực kinh tế hiện đại, do muốn tối đa hóa lợi nhuận, nó có
thể thuê bao nhiêu lao động tới mức mà sản lượng đầu ra cận biên của họ
tương đương với mức lương thực tế chi trả.
Quá trình hoạt động trên tiếp diễn cho đến khi tất cả lao động dư thừa ở
nông thôn được thu hút hết vào ngành công nghiệp mới. Đến lúc này,những
lao động bổ sung chỉ có thể rút ra khỏi khu vực nông nghiệp với một chi phí
cao hơn, năng suất lao động cận biên của LĐNT không bằng không nữa. Như
vậy, đường cung lao động lúc này có độ dốc dương khi mức tiền lương và số
việc làm của khu vực hiện đại tiếp tục tăng trưởng. Quá trình chuyển đổi cơ
cấu của nền kinh tế sẽ diễn ra với sự cân bằng các hoạt động kinh tế, chuyển
từ kinh tế nông nghiệp truyền thống sang nền kinh tế hiện đại.
Mô hình hai khu vực của Lewis đơn giản và hầu như phù hợp với kinh
nghiệm lịch sử phát triển kinh tế ở phương tây, nhưng các giả thiết quan trọng
của nó xem ra không còn phù hợp với thực tiễn về thể chế và thực trạng kinh
16
tế của phần lớn các nước đang phát triển hiện nay.
Mô hình Lewis không giải thích nguyên nhân của di chuyển nông thôn
– thành thị mà còn là lý thuyết chỉ ra xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
phát triển công nghiệp trước, nông nghiệp sau và giải thích bất bình đẳng
trong phân phối thu nhập trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa.
Mô hình Micheal Todaro

Mô hình Jọh R. Harris và Micheal Todaro hay còn gọi là mô hình
Todaro nghiên cứu hiện tượng di chuyển nông thôn – thành thị tăng tốc trong
bối cảnh thất nghiệp ở thành thị vẫn tiếp tục gia tăng. Cá nhân người di
chuyển có thể quyết định bất chấp có tình trạng thất nghiệp ở thành thị. Trên
giả thiết mô hình Todaro cho rằng việc di chuyển diễn ra là có sự khác biệt
giữa thành thị và nông thôn về thu nhập dự kiến chứ không phải là về thu
nhập thực tế.
Người di chuyển sẽ xem xét các cơ hội khác nhau để lựa chọn nhằm tối
đa hóa lợi ích dự kiến của họ. Lợi ích này được tính toán bằng hiệu số giữa
thu nhập thực tế ở thành thị và nông thôn, có tính đến khả năng (xác suất)
kiếm được việc làm ở thành thị.
Nếu người di chuyển là trẻ tuổi, như phần đông người di chuyển có tuổi
đời từ 15 – 24 thì quyết định di chuyển sẽ được xem xét trên cơ sở tính toán
tổng thu nhập của một thời kỳ dài hạn hơn. Nếu người này thấy rằng lúc đầu
anh ta có xác suất kiếm được việc làm thấp, nhưng qua các quan hệ mở rộng
dần, khả năng tìm được việc làm với tiền lương đều đặn sẽ tăng lên, thì quyết
định di chuyển vẫn là hợp lý, thậm chí ngay cả trong trường hợp thu nhập dự
kiến ở thành thị trong thời gian đầu có thể thấp hơn thu nhập ở nông thôn.
Chừng nào mà giá trị hiện tại của luồng thu nhập ròng dự kiến ở thành thị,
tính trong “kỳ kế hoạch” của người di chuyển vượt trội hơn giá trị tương ứng
của thu nhập dự kiến ở nông thôn, thì quyết định di chuyển là xác đáng.
17
Mô hình Todaro vẫn có những hạn chế, hạn chế rõ nhất trong lý giải
nguyên nhân di chuyển là do sự chênh lệch thu nhập giữa nông thôn và thành
thị là giải pháp không đầy đủ với vấn đề thất nghiệp. Có thể dẫn tới nghịch lý
là càng mở rộng việc làm ở thành thị, càng tăng tiền lương ở thành thị thì
càng khuyến khích tốc độ di chuyển cao lên, làm thất nghiệp ở thành thị tăng
lên và đồng thời dẫn đến giảm sút sản lượng nông nghiệp. Mặc dù còn có
những hạn chế nhưng mô hình Todaro được ứng dụng nhiều trong thực tế để
dự báo vấn đề di chuyển từ các vùng nông thôn ra thành thị và di chuyển giữa

các nước.
Các học thuyết “mới” về di chuyển
Trong những năm gần đây đã xuất hiện một số cách giải thích khác về
quá trình di chuyển nông thôn ra thành thị. Không giống như các mô hình
trước đây, lý thuyết mới về di chuyển giải thích tại sao hiện tượng di chuyển
lại xảy ra ngay cả khi không có sự chênh lệch về tiền lương giữa thành thị và
nông thôn.
Cách tiếp cận của mô hình này cho rằng quá trình di chuyển nông thôn
ra thành thị không chỉ để tối đa hóa thu nhập dự kiến mà còn để hạn chế rủi ro
và những khó khăn do thất bại thị trường đặc biệt là thị trường lao động
(Massey, 1993).
Lucas (2000) cho rằng di chuyển có thể được xem như là quá trình đa
dạng hóa rủi ro. Thực tế ở các nước đang phát triển cho thấy, điều kiện kinh
tế hay thay đổi và các gia đình có thể gặp phải những rủi ro nguy hiểm từ
nhiều nguồn: thiên tai, bất ổn, suy thoái kinh tế…Do vậy, các gia đình cố
gắng giảm thiểu các rủi ro bằng cách tránh tập trung nguồn lực (các thành
viên gia đình) vào một khu vực hay một hoạt động và vì vậy có thể tránh
được các rủi ro nếu gặp phải những biến động KT - XH
Theo Stark (1990), sự phức tạp của thể chế và sức mạnh mặc cả không
18

×