Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

ngiên cứu chuỗi giá trị ngành hàng cá tra tại tỉnh đồng tháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (632.88 KB, 67 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới nền kinh tế, ngành nông nghiệp cũng
như các ngành kinh tế khác trong cả nước đã có nhiều khởi sắc. Từ một nước lương thực
không đủ ăn, chúng ta đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. Nhiều
mặt hàng nông sản nước ta đã vượt mức kim ngạch xuất khẩu 1 tỷ USD, trong đó ngành
thủy sản ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn của quốc
gia.
Theo báo cáo của Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản (VASEP), năm 2008,
tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản ước đạt 4,509 tỷ USD, đây là lần đầu tiên xuất khẩu
thủy sản vượt qua mức 4 tỷ USD và tiếp tục duy trì tăng trưởng ổn định. Trong đó, cá tra
đang là điểm sáng trong bức tranh xuất khẩu thủy sản của Việt Nam với tốc độ tăng
trưởng đạt mức cao nhất trong các mặt hàng xuất khẩu, đạt giá trị xuất khẩu 1,45 tỷ USD
năm 2008. Thị trường xuất khẩu cá tra Việt Nam đã được mở rộng tới trên 130 quốc gia
và vùng lãnh thổ.
Tuy kim ngạch xuất khẩu luôn tăng qua từng năm, nhưng nghề nuôi cá tra tại Việt
Nam vẫn chưa thật ổn định và còn chứa đựng nhiều rủi ro, vẫn rơi vào tình trạng lúc
thừa, lúc thiếu nguyên liệu. Khoảng nửa cuối năm 2008, do ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng tài chính thế giới, giá cá tra xuất khẩu giảm mạnh gây tồn đọng hàng trăm ngàn
tấn cá. Tính đến ngày 4/7/2008 toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) tồn
đọng tới trên 300.000 ngàn tấn cá tra nguyên liệu. Nhưng chỉ sau đó vài tháng, bước
sang năm 2009, khi giá cá tra có xu hướng hồi phục thì ĐBSCL lại lâm vào cảnh thiếu
nguyên liệu cá tra cung cấp cho các nhà máy chế biến (theo Cục Nuôi trồng Thủy sản).
Việc nuôi cá tra ở nước ta vẫn phát triển tự phát, thiếu quy hoạch, trại nuôi không cần
đăng ký xin cấp phép, thiếu liên kết giữa sản xuất với tiêu thụ. Giống và thức ăn còn có
tình trạng thả nổi cả về chất lượng giá cả, giá lại quá cao và phụ thuộc nhiều vào công ty
nước ngoài. Chưa có cơ chế để buộc các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cá tra hợp
tác và phối hợp với nhau về sản lượng, chất lượng, giá cả, hoạt động marketing. Một số
doanh nghiệp cố tình hạ thấp giá bán để cạnh tranh chiếm thị trường bằng cách hạ thấp
chất lượng sản phẩm, khiến uy tín sản phẩm cá tra Việt Nam suy giảm nghiêm trọng.
1


Nguyên nhân của những tồn tại đó một phần là do thiếu liên kết giữa các tác nhân
tham gia thị trường cá tra. Hơn nữa, thiếu thông tin về thị trường dẫn đến tình trạng “sản
xuất ồ ạt” vào đầu năm và “treo ao” vào cuối năm như vậy.
Trong điều kiện cụ thể của tỉnh Đồng Tháp, một trong những tỉnh sản xuất cá tra lớn
nhất khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, thị trường cá tra thời gian qua cũng có nhiều
biến động theo diễn biến chung của khu vực. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có đề tài nào
đi sâu nghiên cứu, đánh giá một cách có hệ thống về chuỗi giá trị ngành hàng cá tra
nhằm phản ánh đúng thực trạng và đưa ra những giải pháp có tính khoa học nhằm nâng
cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm tại địa phương.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu
đề tài “Nghiên cứu chuỗi giá trị ngành hàng cá tra tại tỉnh Đồng Tháp”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở tìm hiểu, phân tích chuỗi giá trị cá tra tại địa bàn nghiên cứu, từ đó
đưa ra những giải pháp và gợi ý chính sách nhằm nâng cấp các tác nhân trong chuỗi giá
trị cá tra Đồng Tháp.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận cơ bản về chuỗi giá trị; cơ sở thực tiễn về sản xuất tiêu
thụ cá tra;
- Tìm hiểu và phân tích cấu trúc và quan hệ thị trường ngành hàng cá tra tại Đồng
Tháp, ước lượng phân bổ lợi ích, chi phí và doanh thu giữa các tác nhân trong chuỗi giá
trị cá tra;
- Phân tích khó khăn, thuận lợi, cơ hội và thách thức của các tác nhân trong chuỗi
giá trị;
- Đề xuất định hướng và các giải pháp phù hợp để nâng cấp và hoàn thiện chuỗi giá trị
cá tra tỉnh Đồng Tháp.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
Những hiểu biết khái quát về chuỗi giá trị:
- Chuỗi giá trị là gì?
- Chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng có mâu thuẫn với nhau không?

2
- Phân tích ngành hàng và phân tích chuỗi giá trị khác nhau như thế nào?
- Xác định chuỗi giá trị bằng cách nào?
- Thế nào là nâng cấp trong chuỗi giá trị?
Chuỗi giá trị cá tra ở Đồng Tháp có cấu trúc, tổ chức và hoạt động như thế nào?
- Có những tác nhân nào tham gia chuỗi giá trị cá tra Đồng Tháp?
- Chi phí – Lợi nhuận trong chuỗi giá trị được phân bổ như thế nào giữa các tác
nhân?
Những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức cho sự phát triển của từng tác
nhân khi tham gia vào chuỗi giá trị là gì?
- Về sản xuất cá tra nguyên liệu
- Về thu gom nguyên liệu
- Về chế biến cá tra nguyên liệu
- Về xuất khẩu thành phẩm
- Khả năng nâng cấp các tác nhân trong chuỗi giá trị cá tra như thế nào?
Các giải pháp khắc phục khó khăn là gì?
1.4 Đối tượng nghiên cứu
- Những vấn đề lý luận về chuỗi giá trị.
- Những vấn đề thực tiễn về chuỗi giá trị ngành hàng cá tra tại địa bàn nghiên cứu.
Cụ thể là sẽ điều tra, khảo sát, đánh giá các tác nhân tham gia chuỗi giá trị cá tra tại tỉnh
Đồng Tháp.
1.5 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung:
+ Lý thuyết phân tích chuỗi giá trị.
+ Do thời gian có hạn, đề tài tập trung đi sâu nghiên cứu các tác nhân chính tham
gia chuỗi giá trị bao gồm: người sản xuất, thương lái, công ty chế biến - xuất khẩu tại
khu vực nghiên cứu.
+ Đề tài tập trung vào mặt hàng cá tra phile, chưa tính đến các mặt hàng giá trị
gia tăng.
- Phạm vi không gian: Đề tài nghiên cứu chuỗi giá trị cá tra trong địa bàn tỉnh

Đồng Tháp.
3
- Phạm vi thời gian: nghiên cứu tình hình sản xuất, chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu
cá tra của Việt Nam nói chung và tỉnh Đồng Tháp nói riêng từ năm 2006-2008. Nghiên
cứu các tác nhân tham gia trong chuỗi giá trị trong vụ cá tra 2008/09, đề ra định hướng
và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cấp các tác nhân và nâng cao khả năng cạnh tranh của
sản phẩm cá tra đến năm 2020.
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Khái niệm chuỗi giá trị (Value Chains)
Khái niệm chuỗi giá trị
Chuỗi giá trị là một sáng tạo học thuật của GS. Michael Porter, học giả
marketing lừng lẫy. Ông đưa thuật ngữ này lần đầu tiên vào năm 1985 trong cuốn sách
phân tích về lợi thế cạnh tranh, khi khảo sát kỹ các hệ thống sản xuất, thương mại và
dịch vụ đã đạt tới tầm ảnh hưởng rất lớn ở Mỹ và các quốc gia phát triển khác.
Theo Mechael Porter chuỗi giá trị là chuỗi của các hoạt động từ khâu đầu tiên
đến khâu cuối cùng của sản phẩm bao gồm các hoạt động chính và các hoạt động bổ trợ
để tạo nên lợi thế cạnh tranh của sản phẩm. Theo đó khi đi qua lần lượt các hoạt động
của chuỗi mỗi sản phẩm nhận được một số giá trị. Các hoạt động chính là các hoạt động
liên quan đến việc chuyển đổi về mặt vật lý, quản lý sản phẩm cuối cùng để cung cấp
cho khách hàng. Các hoạt động bổ trợ nhằm hỗ trợ cho các hoạt động chính.

Hình 2.1 Chuỗi giá trị (nguồn: www.12manager.com)
4
Các hoạt động chính bao gồm hậu cần đến, sản xuất, hậu cần ra ngoài, marketing
và bán hàng, dịch vụ khách hàng. Hậu cần đến liên quan đến việc nhận, lưu trữ, dịch
chuyển đầu vào sản phẩm. Sản xuất là hoạt động chuyển nguyên vật liệu đầu thành sản
phẩm cuối cùng. Hậu cần ngoài gồm những hoạt động kết hợp thu thập, lưu trữ và phân
phối sản phẩm từ nhà sản xuất đến người mua. Marketing và bán hàng là những hoạt
động liên quan đến việc quảng cáo, khuyến mại, lựa chọn kênh phân phối, quản trị mối

quan hệ trong kênh và định giá. Dịch vụ khách hàng (dịch vụ sau bán hàng) liên quan
đến việc cung cấp dịch vụ nhằm gia tăng, duy trì giá trị của sản phẩm.
Các hoạt động bổ trợ bao gồm các hoạt động như thu mua, phát triển công nghệ,
quản trị nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng của công ty. Thu mua liên quan đến chức năng
mua nguyên vật liệu đầu vào bao gồm nguyên vật liệu, các nhà cung cấp,máy móc…
Phát triển công nghệ liên quan tới các bí quyết, quy trình, thụ tục, công nghệ được sử
dụng. Quản trị nguồn nhân lực bao gồm các hoạt động liên quan tới chiêu mộ, tuyển
dụng, đào tạo, phát triển và quan trị thù lao cho người lao động trong công ty. Cơ sở hạ
tầng công ty bao gồm quản lý chung, lập kế hoạch quản lý, tuân thủ luật pháp, tài chính,
kế toán, quản lý chất lượng, quản lý cơ sở vật chất…
Phân biệt giữa chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng
Theo định nghĩa chuỗi cung ứng, chuỗi cung ứng là đường link liên kết các dòng
chảy sản phẩm, dịch vụ, thông tin từ nhà cung cấp đầu tiên tới khách hàng cuối cùng.
Các hoạt động của chuỗi cung ứng như thu mua nguyên vật liệu, vận chuyển, chuyển
hoá các đầu vào thành sản phẩm, phân phối các sản phẩm tới khách hàng đều tồn tại
trong chuỗi giá trị. Hay nói cách khác chuỗi cung ứng đại diện cho các hoạt động chính
của chuỗi giá trị, là tập con của chuỗi giá trị.
Mối quan hệ giữa chuỗi giá trị và phân tích ngành hàng
Phân tích chuỗi giá trị h
ỗ trợ cho phân tích ngành hàng, đ
ưa ra các yếu tố mới
tăng cường khả năng phân tích ngành hàng, và dựa trên bộ khung của phân tích ngành
hàng.
Ngành hàng
- Xu hướng và đặc điểm thị trường
- Quan hệ giữa các bên tham gia
Chuỗi giá trị
- Cấu trúc phân bổ giữa các bên tham
gia
5

- Cơ hội và thách thức
- Vẽ bản đồ xác định mối liên hệ giữa các
bên tham gia.
- So sánh khả năng cạnh tranh
- Quan hệ giữa các bên tham gia
- Quản trị thị trường
2.1.2 Tầm quan trọng của phân tích chuỗi giá trị
Cùng với phân công lao động mạnh mẽ và việc bố trí các công đoạn sản xuất
rộng khắp trong nền kinh tế toàn cầu, tính cạnh tranh theo hệ thống đóng vai trò ngày
một quan trọng hơn.
Tính hiệu quả trong sản xuất chỉ là điều kiện cần cho khả năng thâm nhập vào
nền kinh tế toàn cầu.
Để thu lợi một cách bền vững từ việc tham gia vào nền kinh tế toàn cầu cần hiểu
rõ tính năng động của các yếu tố trong toàn bộ chuỗi giá trị.
2.1.3 Phương pháp xác định chuỗi giá trị
Các bước mô tả chuỗi giá trị:
• Xác định rõ mục tiêu
• Xác định thị trường cuối cùng
• Xác định các chức năng và hoạt động
• Xác định tác nhân tham gia vào các chức năng
• Mô tả liên kết giữa các tác nhân
• Mô tả mối quan hệ giữa các tác nhân
 Vẽ bản đồ chuỗi giá trị
Chọn điểm bắt đầu: Phụ thuộc vào mục đích của từng đối tượng
Lĩnh vực quan
tâm
Điểm bắt đầu Vấn đề mô tả
Phân phối thu
nhập toàn cầu
Người tiêu dùng cuối

cùng trong ngành sản
phẩm
Ngược lại toàn bộ chuỗi từ người bán lẻ đến
thương lái và nhà sản xuất
Vai trò của đơn
vị bán lẻ
Chuỗi giá trị của siêu
thị và các đại lý bán lẻ
Đi lên các loại khách hàng và ngược lại từ
thương lái, người sản xuất và cung ứng
Vai trò của bên
mua độc lập
Bên mua độc lập, bán
buôn
Ngược lại tới người sản xuất và cung ứng
trong cùng chuỗi, và hướng lên tới đơn vị
6
Lĩnh vực quan
tâm
Điểm bắt đầu Vấn đề mô tả
bán lẻ
Thiết kế
Các cơ sở thiết kế,
quảng cáo độc lập, và
các hãng lớn có thương
hiệu quốc tế
Hướng lên tới người bán lẻ ở các thị trường
cuối cùng khác nhau và ngược lại tới người
sản xuất và cung ứng
Vai trò của đơn

vị sản xuất chủ
chốt
Các hãng lớn lắp ráp
sản phẩm
Hướng lên tới cơ sở bán lẻ và ngược lại tới
người cung ứng và các cơ sở cung ứng cho
họ
Đơn vị cung
ứng cấp 1
Các hãng lớn cung ứng
vật tư cho hãng lắp ráp
Hướng lên tới hãng lắp ráp và người tiêu
dùng có thể ở nhiều ngành sản phẩm khác
nhau. Ngược lại tới người cung ứng và các
cơ sở cung ứng cho họ
Đơn vị cung
ứng cấp 2 và 3
Phần lớn là các hãng
nhỏ
Hướng lên tới khách hàng ở các ngành khác
nhau. Ngược lại tới người cung ứng và các
cơ sở cung ứng cho họ
Đơn vị sản
xuất hàng hoá
Thường là hãng lớn
Hướng lên tới cơ sở sản xuất lớn, thương
mại và thị trường tiêu dùng cuối cùng.
Ngược lại tới người cung ứng máy móc và
thiết bị
Hộ sản xuất

nông nghiệp
Trang trại
Hướng lên tới cơ sở chế biến, thương mại
và khách hàng của họ. Ngược lại tới cơ sở
cung cấp đầu vào
Các doanh
nghiệp nhỏ và
trang trại
Trang trại nhỏ và các
doanh nghiệp công
nghiệp vừa và nhỏ
Người mua trong một số chuỗi giá trị khác
nhau ; người cung ứng đầu vào
Người sản xuất
và buôn bán
phi chính thức
Làm việc tại nhà và
buôn bán nhỏ hè phố
Hướng lên tới cơ sở chế biến, lắp ráp hoặc
các tổ chức phân phối khác. Ngược lại tới
cơ sở bán lẻ
Giới, độ tuổi và
dân tộc
Lao động nữ Sử dụng lao động nữ trong chuỗi giá trị
7
- Sau khi đã xác định được điểm khởi đầu, cần phải làm sạch và đơn giản hoá bản đồ
chuỗi giá trị.
- Các số liệu đi kèm với bản đồ chuỗi giá trị:
(i) giá trị tổng sản lượng;
(ii) giá trị sản lượng ròng (tổng sản lượng trừ đi chi phí đầu vào trung gian);

(iii) chu chuyển vật chất của hàng hoá trong chuỗi;
(iv) chu chuyển của các dịch vụ, tư vấn và kỹ năng trong chuỗi;
(v) khả năng tạo việc làm, có thể phân biệt theo hợp đồng/không có hợp đồng, giới, tuổi,
dân tộc;
(vi) đặc điểm của khu vực bán sản phẩm: bán buôn/bán lẻ, tập trung tiêu thụ và một số
người mua lớn, số lượng người mua;
(vii) xuất nhập khẩu đến/từ vùng nào?
 Quản trị thị trường :
- Để tương tác giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị phản ánh dạng cấu trúc tổ
chức nhất định chứ không phải là quan hệ thị trường ngẫu nhiên.
- Liên quan đến các yếu tố như đặc điểm sản phẩm, quy trình công nghệ và các
dịch vụ hỗ trợ có vai trò ảnh hưởng tới việc xác định các hoạt động, tác nhân, vai trò và
chức năng trong chuỗi.
- Quản trị thị trường có vai trò điều phối quan trọng trong quá trình toàn cầu hóa
các khâu trong chuỗi giá trị.
- Phân biệt giữa điểm nút (có thể thay đổi từ tác nhân này sang tác nhân khác
theo thời gian) và vai trò dẫn dắt trong chuỗi giá trị (nắm thương hiệu/marketing hay
nắm vai trò điều phối và quản lý).
- Quyền lực trong chuỗi giá trị có thể thực hiện trong 2 dạng : (i) ảnh hưởng đến
chiều hướng phát triển của chuỗi (buyer- or supplier-driven); (ii) chủ động quản lý và
điều phối sự vận hành của các khâu trong chuỗi để đưa ra các hoạt động mong muốn.
- Có thể so sánh quản trị thị trường với hệ thống chính trị:
(i) 3 chức năng của chính phủ: lập pháp, hành pháp và tư pháp
8
(ii) Lập pháp: đặt ra luật chơi: mức chi phí cạnh tranh, khả năng cung ứng, chất
lượng, giá thành, giao hàng đúng hạn, tiêu chuẩn quốc tế (ISO9000: chất lượng,
ISO14000: môi trường, SA8000: tiêu chuẩn lao động, SPS, HACCCP: quản lý độc hại
(iii) Hành pháp: hỗ trợ các tác nhân cung cấp các hàng hoá/dịch vụ theo luật
chơi. Hỗ trợ trực tiếp: chất lượng sản phẩm. Hỗ trợ gián tiếp: buộc các hãng cấp một hỗ
trợ các hãng cấp hai đạt được các tiêu chuẩn).

(iv) Tư pháp: giám sát để thưởng phạt các tác nhân trong việc thực hiện luật
chơi.
Tác nhân bên trong chuỗi giá trị Tác nhân bên ngoài chuỗi giá trị
Lập pháp Đặt ra các tiêu chuẩn về cung ứng
như thời điểm giao hàng, mật độ
giao hàng và chất lượng
Tiêu chuẩn môi trường
Tiêu chuẩn lao động trẻ em

Tư pháp Giám sát hoạt động của người cung
ứng để đạt được các tiêu chuẩn
NGO giám sát các tiêu chuẩn lao
động
Các công ty chuyên nghiệp giám
sát tiêu chuẩn ISO
Hành pháp Quản lý chuỗi cung ứng để hỗ trợ
người cung ứng đạt được tiêu chuẩn
Hiệp hội sản xuất hỗ trợ các thành
viên đạt được tiêu chuẩn
Cơ sở cung cấp dịch vụ chuyên
môn
Chính sách hỗ trợ của chính phủ
(v) Xử phạt : xác định xem một tác nhân cụ thể có được tham gia vào mạng lưới
sản xuất hoặc có bán được sản phẩm hay không, hoặc có thể sử dụng cơ chế thưởng/phạt
(vi) tính hợp pháp : quyền được thưởng/phạt mà được quần chúng ủng hộ. Trong
chuỗi giá trị, tính hợp pháp thể hiện qua mức độ tin cậy giữa các tác nhân khác nhau.
Đối với chuỗi giá trị có độ tin cậy thấp (thị trường buôn bán trao tay trong thời đại sản
xuất hàng loạt), các tác nhân chỉ theo đuổi mục tiêu giá cả trong ngắn hạn. Đối với chuỗi
giá trị có độ tin cậy cao (thời đại theo đuổi nhu cầu hàng loạt của khách hàng), không
nhất thiết các tác nhân sẽ bị đào thải nếu không đáp ứng tiêu chuẩn, mà vấn đề là hệ

thống hành pháp phải trợ giúp các tác nhân phạm tội đạt được tiêu chuẩn đề ra và theo
đuổi mục tiêu dài hạn.
9
(vi) Độ sâu và độ thẩm thấu của quản trị thị trường : Độ sâu : mức độ tác động
của quản trị đến các hoạt động cốt lõi của các tác nhân. Độ thẩm thấu : quyền lực và luật
chơi được bao nhiêu tác nhân áp dụng.
Các loại quản trị thị trường
- Phân biệt theo vai trò của bên mua và bên bán trong chuỗi giá trị:
(i) Người mua dẫn dắt (buyer-driven) : các ngành sử dụng nhiều lao động,
thường có trong hệ thống sản xuất hướng tới xuất khẩu và liên kết mạng, vai trò quan
trọng nhất thuộc về các doanh nghiệp lớn phụ trách bán lẻ, marketing, đặt thương hiệu.
Ví dụ : nông sản, may mặc, đồ chơi, dụng cụ gia đình, điện tử gia đình, thủ công.
(ii) Người bán dẫn dắt (supplier-driven) : người sản xuất nắm được các công
nghệ mấu chốt và đóng vai trò điều phối các khâu trong chuỗi, sử dụng nhiều vốn,
thường do đầu tư nước ngoài nắm, phản ánh trật tự của công nghiệp hoá thay thế hàng
nhập khẩu. Ví dụ : ô tô, máy bay, máy tính, bán dẫn, máy công nghiệp.
Người bán dẫn dắt Người mua dẫn dắt
Người dẫn dắt chuỗi hàng
hoá toàn cầu
Tư bản công nghiệp Tư bản thương mại
Năng lực cốt lõi Nghiên cứu và phát triển
(R&D)
Sản xuất
Thiết kế
Marketing
Rào cản gia nhập Tính kinh tế theo quy mô Tính kinh tế theo phạm vi
Ngành sản phẩm Đồ dùng lâu bền
Đầu vào trung gian
Sản phẩm công nghiệp
nặng

Hàng tiêu dùng thường
xuyên
Các ngành tiêu biểu Ô tô
Máy tính
Máy bay
Trang phục
Giày dép
Đồ chơi
Loại sở hữu của các doanh
nghiệp chế tác
Công ty đa quốc gia Doanh nghiệp địa phương,
thường đặt ở các nước đang
phát triển
Dạng liên kết Dựa trên đầu tư Dựa trên thương mại
Cấu trúc liên kết nổi bật Chiều dọc Chiều ngang
10
- Giả thuyết về chuyển đổi từ chuỗi giá trị người mua dẫn dắt sang người bán dẫn
dắt về quản trị thị trường: chuyển từ hoa lợi dựa trên các hoạt động hữu hình sang vô
hình (phần mềm) sử dụng nhiều tri thức và kỹ năng do hệ thống tổ chức đem lại (tạo ra
rào cản gia nhập). Các tài sản vô hình có thể tìm thấy trong tất cả các khâu của chuỗi giá
trị, tuy nhiên tập trung nhiều nhất ở khâu thiết kế, nhãn hiệu và điều phối chuỗi. Do cạnh
tranh tăng lên, nên khâu nhãn hiệu và marketing đóng vai trò quan trọng nhất trong
chuỗi. Tuy nhiên mức độ lan toả của các tài sản vô hình có thể trải ra rất rộng nên có thể
cùng tồn tại trong cùng một chuỗi giá trị dạng người mua dẫn dắt và người bán dẫn dắt.
Các chỉ số tác nhân nắm vai trò chủ chốt trong quản trị thị trường
Chỉ số Điểm mạnh và điểm yếu
Tỷ lệ trong tổng doanh thu
bán của chuỗi
Không hẳn là chỉ số tốt do có thể chỉ là cơ sở buôn lại
các vật liệu và không có nhiều ảnh hưởng

Tỷ lệ trong tổng giá trị gia
tăng của chuỗi
Chỉ số này tốt hơn cho việc đo lường quy mô vì nó phản
ánh tỷ lệ trong tổng hoạt động
Tỷ lệ trong tổng lợi nhuận của
chuỗi
Có thể là một chỉ số tốt cho quyền lực trong chuỗi,
nhưng cũng có thể sinh ra từ việc nắm giữ độc quyền
đối với các nguồn lực tự nhiên (ví dụ bạch kim) và có
thể không có nhiều ảnh hưởng đối với quá trình chế
biến về sau
Tỷ suất lợi nhuận Chỉ số tồi vì các tác nhân nhỏ cũng có thể có lợi nhuận
cao nhưng có ít ảnh hưởng
Tỷ lệ trong sức mua của chuỗi Chỉ số tốt về quyền lực, đặc biệt trong trường hợp xảy
ra bất bình đẳng trong đó hãng phụ thuộc vào bên cung
cung ứng ít hơn so với bên mua
Nắm giữ các công nghệ chủ
chốt và năng lực riêng biệt
Chỉ số tốt đối với chuỗi do người bán dẫn dắt (như
ngành ô tô) vì giúp xác định năng lực riêng biệt của
hãng trong chuỗi, trong khi đó các hãng nhỏ chỉ hỗ trợ
các phần còn lại trong chuỗi
Nắm giữ đặc điểm nhận dạng
của chuỗi (thương hiệu)
Có vai trò mấu chốt trong thị trường mà thương hiệu
đóng vai trò cực kỳ quan trọng
Đánh giá về độ tin cậy trong chuỗi giá trị
11
Chuỗi có độ tin cậy thấp Chuỗi có độ tin cậy cao
Thời hạn của quan

hệ thương mại
Ngắn hạn Dài hạn
Thủ tục đặt hàng Đấu thầu tự do, giá cả được
thoả thuận trước khi hợp đồng
được ký kết
Không cần đấu thầu hoặc bên
bán đã được định trước, giá cả
được xác định khi giao hợp
đồng
Quan hệ hợp đồng Bên cung ứng chỉ sản xuất khi
nhận được hợp đồng viết tay
Bên cung ứng có thể linh động
về yêu cầu của bên đặt hàng và
có thể sản xuất mà chưa cần
hợp đồng
Kiểm định chất
lượng
Khi giao hàng Hầu như không có
Mức độ phụ thuộc Bên bán có nhiều nguời mua,
và bên mua có nhiều người
bán
Chỉ có một vài khách hàng cho
bên bán, và bên mua cũng chỉ
có vài nhà cung ứng
Hỗ trợ kỹ thuật Hiếm khi cần hỗ trợ kỹthuật,
và phải trả tiền
Chuyển giao công nghệ liên tục
Liên lạc Ít và thường qua kênh chính
thức
Chủ yếu tập trung vào phòng

thu mua
Thường xuyên và thường qua
kênh phi chính thức
Thông qua nhiều kênh khác
nhau như kỹ sư, phòng tổ chức,
phòng điều hành
Xác định giá Đối trọng và giấu thông tin Hợp tác và cởi mở
Mở rộng tín dụng Phạt hoặc không có mở rộng
tín dụng
Dễ nhận được mở rộng tín
dụng, thời hạn vay dài và lãi
suất ưu đãi
Điều kiện thanh toán
với việc thuê ngoài
Chậm và thông qua các thủ tục
của khu vực phi chính thức
Thanh toán khi giao hàng
2.1.4 Nâng cấp trong chuỗi giá trị:
Nâng cấp trong chuỗi giá trị khác với đổi mới công nghệ do nâng cấp đề cập tới
vấn đề tốc độ thay đổi tương đối so với đối thủ cạnh tranh.
12
- Nâng cấp theo quy trình: tăng hiệu quả của quy trình bên trong hơn so với các
đối thủ, kể cả trong một khâu (ví dụ tăng công suất sử dụng dự trữ, giảm hư hại sản
phẩm), và giữa các khâu trong chuỗi (ví dụ việc giao hàng đúng hạn, chia thành nhiều
lần nhỏ).
- Nâng cấp sản phẩm: đưa ra các sản phẩm mới hoặc cải thiện các sản phẩm hiện
có nhanh hơn các đối thủ, kể cả trong một khâu và giữa các khâu trong chuỗi.
- Nâng cấp chức năng: thêm giá trị gia tăng thông qua thay đổi một số hoạt động
trong hãng (ví dụ như nhận thêm/hoặc thuê ngoài các dịch vụ kế toán, hậu cần và kiểm
định chất lượng) hoặc chuyển trọng tâm các hoạt động tới các khâu khác trong chuỗi giá

trị (ví dụ từ chế tác sang thiết kế).
- Nâng cấp chuỗi: chuyển đến một chuỗi giá trị mới.
• Con đường nâng cấp:
- Quy trình: chuyển từ lắp ráp thiết bị sang sản xuất thiết bị.
- Sản phẩm: sản xuất thiết bị tự thiết kế.
- Chức năng: sản xuất thiết bị có thương hiệu riêng.
- Chuỗi: chuyển sang chuỗi giá trị mới, ví dụ từ sản xuất TV sang màn hình máy
tính.
• Các chỉ số cho việc nâng cấp
Hoạt động Kết quả
Nâng cấp quy trình
- Trong từng khâu R&D, thay đổi hệ thống hậu
cần và quản lý chất lượng,
đầu tư máy móc mới
Giảm chi phí, tăng chất lượng và
khả năng giao hàng, giảm thời
gian đưa hàng tới thị trường, cải
thiện lợi nhuận, thúc đẩy thương
hiệu
- Giữa các khâu R&D, cải tiến quản lý chuỗi
cung ứng, khả năng kinh
doanh điện tử, hỗ trợ trao đổi
trong chuỗi cung ứng
Giảm giá thành sản phẩm cuối
cùng, tăng chất lượng của sản
phẩm cuối cùng, giảm thời gian
đưa hàng tới thị trường, cải thiện
lợi nhuận cho cả chuỗi, thúc đẩy
thương hiệu
13

Nâng cấp sản phẩm
- Trong từng khâu Mở rộng phòng thiết kế và
marketing, thúc đẩy các bộ
phận chức năng phát triển
sản phẩm mới
Tỷ lệ sản phẩm mới trong tổng
doanh thu (các sản phẩm được
giới thiệu trong một vài năm
trước đó)
Tỷ lệ sản phẩm có thương hiệu
trong tổng doanh thu
- Giữa các khâu Hợp tác với bên cung ứng và
khách hàng để phát triển sản
phẩm mới - ứng dụng kỹ
thuật đồng bộ (concurrent
engineering)
Số nhãn hiệu có bản quyền
Tăng giá trị trên một đơn vị sản
phẩm mà không giảm thị phần
Nâng cấp chức năng
- Trong từng khâu Đạt được các chức năng tạo
ra giá trị gia tăng cao hơn
hoặc thuê ngoài các chức
năng có giá trị gia tăng thấp
Phân công lao động trong chuỗi
Các chức năng đạt được trong
một khâu cụ thể của chuỗi
- Giữa các khâu Chuyển đến khâu mới trong
chuỗi hoặc rời bỏ các khâu
hiện tại

Tăng lợi nhuận, tăng kỹ năng,
tăng tiền lương
Nâng cấp chuỗi Ngừng sản xuất trong chuỗi
và chuyển sang chuỗi mới,
thêm các hoạt động mới
trong chuỗi mới
Tăng lợi nhuận, tỷ lệ doanh thu từ
khu vực sản xuất mới
• Các yếu tố thúc đẩy và cản trở nâng cấp
Cản trở Thúc đẩy
Trong
hãng
- Ngăn cản của cấp quản lý trung
gian đối với hoạt động mới
- Sai lầm của quản lý cao cấp
trong việc cam kết các nguồn
lực cho phát triển sản phẩm mới
- Thiếu các kỹ năng cần thiết
- Ban quản lý cam kết nâng cấp
- Hệ thống R&D được quản lý hiệu
quả
- Định chế hoá hệ thống cải tiến
thường xuyên
Ngoài - Bên mua ngăn cản bên cung ứng - Tác nhân chủ chốt thúc đẩy và hỗ trợ
14
hãng tự đưa ra thiết kế riêng
- Sở hữu trí tuệ
- Thiếu nguồn nhân lực có đủ kỹ
năng trong nền kinh tế
- Cơ sở hạ tầng cho công nghệ

thông tin kém
nâng cấp của các tác nhân khác trong
chuỗi
- Sự tích cực và năng động của các
dịch vụ hỗ trợ kinh doanh có liên kết
với các chương trình của chính phủ
- Các quy định và điều luật bắt buộc
các hãng phải nâng cấp
- Tăng giá đầu vào hoặc tăng cạnh
tranh
Liên hệ giữa nâng cấp và phân phối chủ yếu liên quan đến vấn đề thu nhập. Còn
vấn đề chia sẻ quyền lực đã được bàn ở phần quản trị thị trường.
• Phân phối lợi ích trong chuỗi giá trị
- Lợi nhuận không phải là chỉ số duy nhất phản ánh lợi ích thu được từ chuỗi giá
trị.
- Phân phối trong chuỗi giá trị được phản ảnh qua lợi ích đem lại cho tác nhân
đóng góp vốn, lao động và tài nguyên thiên nhiên trong từng khâu của chuỗi giá trị.
- Lợi ích cần được phản ánh qua thu nhập ròng (tổng doanh thu trừ đi chi phí đầu
vào trung gian) chứ không phải tổng doanh thu.
- Lợi ích thu được phụ thuộc vào hoa lợi và rào cản gia nhập.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Tổng quan thị trường cá tra thế giới và Việt Nam
2.2.1.1 Thế giới
a/ Tình hình sản xuất cá tra trên thế giới
Phân loại và phân bố của cá Tra
Cá Tra là loài cá kinh tế phổ biến ở khu vực châu Á, là một trong 30 loài cá
thuộc họ cá Tra (Pangasiidae) (theo ). Họ cá Pangasiidae được
phát hiện đầu tiên trong thủy vực nước ngọt ở các quốc gia phụ cận khu vực hạ lưu của
Ấn Độ Dương; sự đa dạng thành phần loài của họ cá này tập trung chủ yếu ở khu vực
Đông Nam châu Á (Roberts and Vidthayanon 1991; Gustiano 2003).

15
Cá tra phân bố ở một số nước Đông Nam Á như Campuchia, Thái Lan,
Inđônêxia và Việt Nam. Đây là loài cá được nuôi ở hầu hết ở các nước Đông Nam Á và
là một trong các loài cá nuôi quan trọng của khu vực này (đặc biệt ở Việt Nam). Bốn
nước trong khu vực hạ lưu sông Mê Kông đã có nghề nuôi cá tra truyền thống là Thái
Lan, Campuchia, Lào và Việt Nam do có nguồn cá giống tự nhiên khá phong phú. Ở
Campuchia, tỷ lệ cá tra thả nuôi chiếm 98% trong 3 loài thuộc họ cá tra, chỉ có 2% là cá
basa và cá vồ đém, sản lượng cá tra nuôi chiếm một nửa tổng sản lượng các loài cá nuôi
của cả nước. Tại Thái Lan, trong số 8 tỉnh nuôi cá nhiều nhất, có đến 50% số trại nuôi cá
tra. Một số nước trong khu vực như Malaysia, Inđônêxia cũng đã nuôi cá tra có hiệu quả
từ những thập niên 70-80 của thế kỷ trước.
Ở Việt Nam những năm trước đây khi chưa có cá sinh sản nhân tạo, cá bột và cá
giống tra được vớt trên sông Tiền và sông Hậu. Cá trưởng thành chỉ thấy trong ao nuôi,
rất ít gặp trong tự nhiên địa phận Việt nam, do cá có tập tính di cư ngược dòng sông Mê
kông để sinh sống và tìm nơi sinh sản tự nhiên. Khảo sát chu kỳ di cư của cá tra ở địa
phận Campuchia cho thấy cá ngược dòng từ tháng 10 đến tháng 5 và di cư về hạ lưu từ
tháng 5 đến tháng 9 hàng năm. Hiện tại đã có 11 loài thuộc họ cá Tra được tìm thấy ở
Việt Nam, trong đó có 5 loài là đối tượng nuôi quan trọng trong ao và bè.
Các nước sản xuất chính
Cá tra thuộc bộ cá da trơn, là bộ cá được nuôi nhiều ở Đông Nam Á, Mỹ, Trung
Quốc, một ít ở Nam Mỹ. Các loài chính có tên khoa học như Ictalurus punctatus (cá
nheo Mỹ), Pangasius spp (cá tra), Pangasius hypophthalmus, Silurus asotus, Leiocassi
longirostris, Pelteobagrus fulvidraco, trong đó các loài pangasius, Ictalurus
punctatus, Silurus asotus được nuôi với khối lượng lớn nhất và tập trung ở Việt Nam,
Mỹ và Trung Quốc chiếm trên 99% tổng sản lượng.
- Đông Nam Á: Cá tra được nuôi phổ biến hầu hết ở các nước Ðông Nam Á, là
một trong các loài cá nuôi quan trọng nhất của khu vực này. Bốn nước trong hạ lưu sông
Mê Kông đã có nghề nuôi cá tra truyền thống là Thái Lan, Capuchia, Lào và Việt Nam
do có nguồn cá tra tự nhiên phong phú. Là khu vực sản xuất cá da trơn quan trọng của
thế giới. Trong đó, nhiều nhất là Việt Nam, tiếp đến là Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia.

16
Các nước khác trong khu vực sản xuất không đáng kể. Inđônêxia và Campuchia có sự
tăng trưởng rất nhanh trong giai đoạn 1999-2007.
Sản lượng cá da trơn nuôi ở Đông Nam Á giai đoạn 1999-2007 (đơn vị: tấn)
Quốc gia 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Tổng cộng 21136
7 234405 260655 305034 379102 555322 684384 841800 1192874
Việt Nam
87 000 100 000 114 000 135 000
163 00
0
255 000 376 000 520 000 850 000
Thái Lan 83628 89226 92543 101312 124691 189940 168650 169757 164876
Inđônêxia 27350 31629 36979 49457 70826 80234 102090 109811 130767
Malaixia 11767 12115 15124 15623 16979 19618 24689 25056 28876
Campuchia 510 500 484 508 643 3600 5600 8800 8800
Myanma 0 0 0 500 800 5 000 5 000 6 000 6 900
Philippin 1 112 935 1 525 2 634 2 163 1 930 2 355 2 376 2 655
Sản lượng cá tra nuôi của các nước Đông Nam Á năm 2007
Nguồn: FAO
+ Việt Nam: Kể từ sau năm 2005 đến nay, Việt Nam nổi lên trở thành nước sản
xuất và xuất khẩu cá da trơn lớn nhất thế giới. Loài có khả năng cung cấp cho chế biến
xuất khẩu có tên khoa học là Pangasius spp. Sản lượng cá tra nuôi tính đến năm 2008 đã
đạt trên 1 triệu tấn (theo số liệu thống kể của Hải Quan), xuất khẩu đạt 633.728 tấn với
17
kim ngạch xuất khẩu hơn 1,4 tỷ USD. Sự thành công của Việt Nam chắc chắn sẽ làm
cho nhiều nước ở Đông Nam Á quan tâm hơn đến đối tượng này.
+ Thái Lan: Tổng sản lượng các loài cá da trơn ở Thái Lan tính đến năm 2007 là
164.876 tấn, trong đó loài Pangasius hypophthalmus (giống cá tra Việt Nam) đạt 24.224
tấn. Vùng nuôi chủ yếu tập trung ở 2 tỉnh Mụcdahản và Ubôn Rắtchathani nằm ven sông

Mê Kông, Đông Bắc Thái Lan. Vụ Nghề cá Thái Lan đã phối hợp với Viện Thực phẩm
soạn thảo Kế hoạch phát triển cá da trơn năm 2005, mục tiêu của kế hoạch này là phát
triển cá da trơn trên diện rộng, đem về giá trị xuất khẩu 10 tỷ bạt/năm (khoảng 312 triệu
USD). Tại Thái Lan, trong số 8 tỉnh nuôi cá nhiều nhất, có 50% số trại nuôi cá tra, đứng
thứ hai sau cá rô phi.
+ Inđônêxia: Sản lượng cá da trơn ở Inđônêxia tăng khá nhanh trong giai đoạn
1999-2007, tốc độ tăng bình quân đạt 25%/năm để từ 27.350 tấn năm 1999 tăng lên
130.767 tấn vào năm 2007. Loài được nuôi nhiều nhất có tên khoa học Clarias spp
(không phải cá tra). Sản lượng cá tra (pangasius spp) của Inđônêxia năm 2007 đạt
36.755 tấn, tăng 8.600 tấn so năm 2004 và chiếm 32% tổng sản lượng cá da trơn cả
nước.
+ Malaysia: Sau khi chính sách an ninh lương thực được ban hành gần đây,
Chính phủ Malaixia đã đầu tư 342 triệu Ringgít để xây dựng 49 khu nuôi trồng thủy sản
trên địa bàn cả nước. Tuy nhiên, chính sách tập trung hơn vào các đối tượng tôm sú, rô
phi và nhuyễn thể. Điều này đã thể hiện ở việc xuất khẩu cá da trơn sang Mỹ trong năm
2008 giảm so với trước đây. Theo kế hoạch phát triển NTTS đến năm 2010, sản lượng
nuôi trồng thủy sản của Malaixia sẽ đạt 662.000 tấn, trị giá 6,9 tỷ Ringgít, tăng gấp 4 lần
so với mức sản lượng hiện nay (theo Growfish).
+ Các nước Đông Nam Á khác: Do cùng có sông Mê Kông chảy qua Myanma,
Lào và Campuchia cũng có nhiều lợi thế nuôi cá tra. Ở Capuchia, tỷ lệ cá tra thả nuôi
chiếm 98% trong 3 loài thuộc họ cá tra, chỉ có 2% là cá ba sa và cá vồ đém, sản lượng cá
tra nuôi chiếm một nửa tổng sản lượng các loài cá nuôi. Tuy nhiên, đến nay mỗi nước
cũng chỉ sản xuất trên dưới 5.000 tấn cá tra, và như vậy, khi cá tra của ta đã chiếm lĩnh
thị trường thế giới thì vấn đề cần làm là duy trì lợi thế và thị phần sau đó tiếp tục mở
rộng sang các thị trường mới.
18
- Mỹ: Theo số liệu thống kê của FAO, năm 2007 tổng sản lượng cá da trơn của
Mỹ đạt 261.794 tấn, đối tượng nuôi chính là loài có tên khoa học Ictalurus punctatus. Cá
da trơn ở Mỹ được nuôi chủ yếu ở 4 bang là Albama, Ankansas, Louisiana và Misissipi.
Tuy nhiên, những năm gần đây giá thành sản phẩm tăng do giá xăng và giá thức ăn tăng

đã gây khó khăn cho người nuôi. Hơn nữa, thị trường cá da trơn Mỹ đang bị cạnh tranh
bởi cá da trơn từ nước ngoài (Trung Quốc, Việt Nam, Nam Mỹ) nên nghề nuôi cá da
trơn ở Mỹ hiện gặp rất nhiều khó khăn, sản xuất thu hẹp dần.
Sản lượng cá da trơn nuôi tại Mỹ giai đoạn 1999-2007
Danh
mục
1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Tổng
sản
lượng
(tấn)
270.629 269.257 270.846
286.03
9
300.05
6
285.970
274.66
4
258.049 255.781
Giá
trị
(1000
USD)
438.41
9
446.96
7
387.31
0

357.549 384.072
440.39
4
428.476
441.26
4
424.596
(Nguồn: FAO)
- Trung Quốc: Nổi lên trở thành nhà xuất khẩu cá da trơn lớn thứ hai vào Mỹ
(chỉ sau Việt Nam). Hiện tại Trung Quốc chiếm khoảng 27% tổng sản lượng cá da trơn
nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Xuất phát từ nhu cầu thị trường quốc tế và nội địa rất lớn nên
sản lượng cá da trơn nuôi của Trung Quốc kể từ năm 2003 tăng rất nhanh, đạt 648.098
tấn vào năm 2007, tăng hơn 300.000 tấn so với năm 2004 và tăng gần 400.000 tấn so với
năm 2003. Các đối tượng nuôi chính là Silurus asotus, Ictalurus punctatus,
Pelteobagrus fulvidraco.
Sản lượng cá da trơn nuôi của Trung Quốc giai đoạn 1999-2007 (đơn vị: tấn)
Danh mục 2003 2004 2005 2006 2007
Tổng sản lượng cá da trơn 274.703 325.908 412.556 519.186 648.098
Trong đó:
Silurus asotus 183.233 212.275 246.861 264.696 315.322
Ictalurus punctatus 39.352 54.061 87.254 147.339 204.929
19
(Nguồn : FAO)
- Nam Mỹ: Cũng có nhiều nước nuôi cá da trơn như Braxin, Costa Rica, Ecuađo,
Chilê nhưng nhìn chung quy mô nuôi ở các nước này còn nhỏ so với các nước ở khu vực
khác, đặc biệt là so với cá tra của Việt Nam. Vì vậy, khả năng phát triển trong tương lai
của họ sẽ khó cạnh tranh một khi Việt Nam vẫn giữ được lợi thế về giá và chất lượng
sản phẩm. Tính đến năm 2008, tổng sản lượng cá da trơn của Braxin đạt 2.769 tấn, tăng
20,3% so với năm 2006, trong đó cũng chủ yếu là loài Ictalurus punctatus. Cũng sản
xuất loài cá này nhưng ở Costa Rica sản lượng chỉ đạt 189 tấn.

b/ Tình hình tiêu thụ cá tra trên thế giới
Trong thập kỷ trước, cá da trơn chỉ chủ yếu được tiêu thụ tại thị trường nội địa
thì nay đã trở thành một mặt hàng được thương mại rộng rãi trên thị trường quốc tế và là
mặt hàng được tiêu thụ phổ biến ở các thị trường Mỹ, Châu Âu và Đông Nam Á. Cá tra
Việt Nam và cá nheo Mỹ (Ictalurus punctatus) là hai loài được tiêu thụ chính trên thị
trường quốc tế, trong khi các loài cá da trơn khác như Clarias sp chủ yếu được tiêu thụ
nội địa ở châu Á và châu Phi.
Tại Mỹ, cá da trơn được xếp thứ 5 trong số các mặt hàng được tiêu thụ phổ biến
nhất tại nước này sau tôm, cá ngừ, cá hồi và cá minh thái. Tuy nhiên, ngành sản xuất cá
da trơn của Mỹ lại đang gặp nhiều khó khăn khi chi phí sản xuất tăng cao. Hiện nay, một
số bang nuôi cá da trơn như bang Missisipi (bang có diện tích nuôi cá da trơn lớn nhất
nước Mỹ) đã đóng cửa và các trang trại còn lại cũng rất vất vả trong việc duy trì sản
lượng nuôi. Trong khi đó nhu cầu cá da trơn trên thị trường này sẽ còn tăng cao do
nguồn cung các loài cá thịt trắng khác như cá minh thái, cá tuyết hiện nay đều giảm.
Người Mỹ cũng ưa chuộng loại cá này vì giá thành hợp lý, dễ chế biến và bổ dưỡng. Vì
vậy, trong thời gian tới Mỹ sẽ tăng cường nhập khẩu cá da trơn nhằm bù đắp lượng thiếu
hụt trên thị trường.
Tại các thị trường Châu Âu, bao gồm Đông Âu như Nga và Ba Lan, cá tra của
Việt Nam đã trở thành một “hiện tượng” trong 2 năm trước đây. Ở Châu Á và châu Phi,
cá da trơn đã trở thành một thực phẩm phổ biến đối với người tiêu dùng và trong những
năm gần đây đã xuất hiện một làn sóng mới của philê cá tra đông lạnh từ Việt Nam bằng
20
con đường thâm nhập vào các chuỗi siêu thị và nhà hàng thuỷ sản ở các thành phố lớn ở
châu Á.
2.2.1.2 Việt Nam
a/ Tình hình sản xuất cá tra vùng Đồng bằng sông Cửu Long
Diện tích nuôi
Cá tra là đối tượng được nuôi tương đối phổ biến ở các tỉnh trong vùng ĐBSCL,
đặc biệt là các tỉnh ven sông Tiền và sông Hậu. Sản lượng cá tra của ĐBSCL chiếm trên
95% sản lượng cá da trơn của cả nước.

So với các đối tượng nuôi khác thì diện tích nuôi cá tra không lớn, tuy nhiên do
năng suất nuôi rất cao nên sản lượng cá tra nuôi đã đóng góp một phần quan trọng trong
tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản của vùng ĐBSCL và cả nước. Diện tích nuôi cá tra
trong vùng nhìn chung có xu hướng tăng chậm trong giai đoạn vừa qua. Năm 2005, đạt
4.912,5 ha tăng gấp 2,3 lần so với năm 2000 và 3,81 lần so với năm 1997. Năm 2008,
diện tích nuôi cá tra là 6.610 ha tăng 1,25 lần so với năm 2007 (nguồn: báo cáo tổng kết
của các địa phương).
Cuối năm 2006, do giá bán cá nguyên liệu giảm thấp (xuống dưới 9.000 đ/kg)
nên diện tích nuôi cá tra trong ao đất khu vực ven sông và trên các cồn, bãi giảm xuống
còn 4.243 ha; sau đó do giá cá có xu hướng tăng lên nên đến tháng 6/2007 diện tích nuôi
đạt 4.919,7 ha và tiếp tục tăng đến 6.160 ha vào tháng 12/2008.
Nuôi cá tra thâm canh tập trung chủ yếu dọc hai bên sông Tiền, sông Hậu và các
cồn nổi trên sông (cũng trên sông Tiền và sông Hậu). Các vùng có điều kiện cấp thoát
nước không thuận lợi (nằm xa sông chính) thì nuôi ở mức thâm canh thấp hơn, chủ yếu
là kết hợp và tậnn dụng mương vườn sẵn có. Riêng hai tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu chỉ nuôi
theo mô hình VAC để cung cấp thực phẩm tại chỗ không phục vụ chế biến xuất khẩu.
Các lồng nuôi cá tra trên sông rạch cũng đang có xu hướng giảm mạnh, đặc biệt
là trong những năm gần đây do nuôi cá trong ao năng suất cao, trong khi nuôi lồng chi
phí sản xuất cao, hiệu quả sản xuất thấp. Các lồng nuôi cá tra đang chuyển sang nuôi các
đối tượng khác như điêu hồng, cá he, cá hú, cá trắm cỏ, cá lóc,… Năm 2006, số bè
21
(lồng) nuôi cá tra là 2.892 chiếc (tương đương 837.793 m3) giảm xuống còn 959 chiếc
vào tháng 6/2007 (tương đương 308.353 m3).
Sản lượng
Theo báo cáo tổng kết của các địa phương trong vùng ĐBSCL thì sản lượng nuôi
cá tra ao, cồn, đăng quần tăng liên tục trong giai đoạn 1997 – 2005, từ 22.550 tấn năm
1997 lên 371.482 tấn năm 2005 (tăng gấp 16,47 lần). Tốc độ tăng trưởng sản lượng
trung bình trong giai đoạn 1997-2005 là 41,94%/năm, cao hơn rất nhiều so với tăng
trưởng bình quân diện tích là 19,3%/năm. Năm 2006, sản lượng cá tra đạt 567.082 tấn,
trong đó: sản lượng cá tra nuôi ao đạt 562.051 tấn (chiếm 99% tổng sản lượng); sản

lượng cá tra nuôi bè đạt 4.211 tấn (gần 1%); đến năm 2007 sản lượng cá tra tăng lên
900.332 tấn và năm 2008 đạt trên 1,2 triệu tấn, tăng trưởng bình quân sản lượng từ
2005-2008 là 47,83%/năm.
Năng suất nuôi cá tra
Năng suất nuôi cá tra tăng liên tục trong giai đoạn 1997-2005. Năm 1997, năng
suất nuôi cá ao mương vườn, cồn, đăng quần đạt 17,5 tấn/ha/năm, tăng lên 75,6
tấn/ha/năm ở năm 2005 (tăng gấp 4,32 lần). Nuôi cá tra bè năng suất tăng từ 35 kg/m3
năm 1997 lên 140 kg/m3 vào năm 2005 (tăng gấp 4 lần).
Năm 2007-2008, năng suất bình quân sử dụng 1 ha đất tự nhiên để nuôi cá tra đạt
120-500 tấn/ha/vụ, cá biệt có những nơi đạt 600 tấn/ha/vụ nuôi.
Giá trị sản xuất cá tra vùng ĐBSCL
22
Giá cá tra thương phẩm tùy thuộc vào chất lượng thịt cá (thịt trắng, thịt hồng, thịt
vàng), kích cỡ cá và giá cả thị trường theo từng thời điểm. Nhìn chung, giá cá tra bình
quân hàng năm của vùng ĐBSCL biến động từ 9.235đ/kg (năm 2005) đến 15.000đ/kg
(năm 2007). Hiện tại giá cá tra bình quân của các tỉnh trong vùng là 14.071đ/kg, giá cá
thịt trắng cao hơn cá thịt vàng khoảng 1.000đ/kg. Các tỉnh có giá bán cá tra trung bình
cao là Trà Vinh, Bến Tre, Sóc Trăng so với các tỉnh khác trong vùng. Điều này chứng tỏ
môi trường nuôi được đảm bảo và cao hơn cá tra tra thịt trắng chiếm tỷ trọng cao hơn.
Giá trị sản xuất cá tra tăng nhanh theo sự tăng lên của sản lượng và giá, từ
220.875 triệu đồng năm 1997 tăng lên 10.257.855 triệu đồng năm 2007 (tăng gấp 46,5
lần trong 11 năm). Mặc dù giá cá tra còn bấp bênh do nhiều nguyên nhân khác nhau như
thị trường tiêu thụ chưa thực sự ổn định, giá cả đầu vào tăng giảm thất thường riêng 7
tháng đầu năm 2008 giá trị sản xuất đạt được 11.793.891 triệu đồng. Trong khoảng 3
năm gần đây (2006 - 7/2008), tỉnh Cần Thơ có bước đột phá trong sản xuất tiêu thụ cá
Tra và dẫn đầu trong vùng về giá trị sản lượng (khoảng 7.913 tỷ đồng), đứng thứ 2 là
tỉnh Đồng Tháp (khoảng 7.361 tỷ đồng), kế tiếp là tỉnh An Giang (khoảng 5.658 tỷ
đồng), có giá trị sản xuất đạt trên 1.000 tỷ đồng là tỉnh Vĩnh Long, Bến Tre.
Các hình thức sản xuất cá tra
- Nuôi cá tra trong ao, đầm: Hầu hết các tỉnh, thành phố trong vùng đều có hình

thức nuôi ao, đầm. Đối với những hộ nuôi quy mô nhỏ thường tận dụng ao, mương vườn
sẵn có. Đối với những hộ nuôi quy mô lớn, vị trí ao nuôi thường gần các sông rạch để
thuận tiện cho việc cấp thoát nước, vận chuyển khi thu hoạch và cung cấp giống, thức ăn
phục vụ sản xuất. Các ao nuôi có diện tích dao động trong khoảng từ 500- 5.000 m2, tập
trung chủ yếu trong khoảng 1.000- 2.000 m2. Độ sâu các ao nuôi dao động từ 2- 4m, tập
trung trong khoảng 2,5- 3m. Các ao nuôi thường được kết hợp để trồng các loại cây ăn
trái trên bờ để tận dụng diện tích và tăng thu nhập.
- Nuôi cá tra cồn, bãi bồi: Hình thức nuôi này mới được áp dụng vài năm gần đây
và có xu hướng phát triển mạnh vì có thể thả mật độ cao để tăng năng suất sản lượng,
nguồn nước cung cấp thuận lợi, thu hoạch và vận chuyển dễ dàng.
- Nuôi cá tra đăng quầng: Nuôi đăng quầng thường ở những con sông nhánh tốc
đọ dòng chảy thấp, hoặc nằm khuất trong các khúc co của các con sông. Mô hình nuôi
23
này đã xuất hiện ở hầu hết các tỉnh nằm dọc theo sông Tiền và sông Hậu. Chi phí xây
dựng đăng quầng thấp hơn so với đào ao, không phải đầu tư cống bọng, máy bơm
nước, Năng suất nuôi đăng quầng trung bình từ 120- 250 tấn/ha/vụ.
- Nuôi cá tra trên lồng bè: Các bè nuôi thường nằm thành cụm khoảng 4- 5 bè
dọc các con sông lớn (cấp I, II). Mỗi cụm cách nhau từ 70- 150 m; kích thước bè nuôi
dao động từ 50- 500 m3, tập trung trong khoảng 200- 300 m3. Các bè nuôi được thiết kế
bằng khung sắt, xung quanh bao bằng lưới inox. Chiều sâu của bè nuôi từ 3- 5m. Năng
suất cá nuôi trong bè dao động từ 80- 150 kg/m3, tùy theo mật độ nuôi. Thời gian nuôi
cá bề từ 5- 7 tháng/vụ, kích cỡ cá thương phẩm dao động từ 1,0- 1,2 kg/con.
Nhìn chung, cá tra được nuôi với nhiều hình thức khác nhau như nuôi ao, nuôi
cồn, nuôi đăng quầng, bè. Những năm gần đây người dân chủ yếu nuôi theo hình thức
thâm canh trong các ao, hầm với năng suất cao từ 150- 500 tấn/ha/vụ.
Lực lượng lao động nuôi cá tra
- Lao động nuôi cá tra thương phẩm và sản xuất giống:
Đối với nuôi cá sử dụng thức ăn công nghiệp thì số lao động trên 1 héc ta thấp
hơn nuôi sử dụng thức ăn tự chế biến (giai đoạn đầu), trung bình 1 héc ta có khoảng 3
lao động thường xuyên. Đối với bè có kích cỡ dưới 150m

3
, trung bình có khoảng 2-3 lao
động thường xuyên trên bè; đối với bè có kích thước lớn trên 150m
3
, số lao động khoảng
3-5 người, tùy thuộc vào trình độ kỹ thuật nuôi và suất đầu tư.
Lao động sản xuất giống chiếm từ 8-16% so với toàn bộ lao động nghề nuôi cá
tra trong vùng, trong đó tập trung chủ yếu ở 2 tỉnh An Giang và Đồng Tháp. Riêng năm
2005-2007 tỉnh Đồng Tháp có khoảng 4.200-11.500 người và An Giang khoảng 1.600-
3.100 người.
Lao động nuôi cá tra tăng từ 6.470 lao động năm 1997 lên 101.314 lao động năm
2007 (tăng gấp 15,66 lần). Đến tháng 7 năm 2008 thu hút được 105.535 người tập trung
chủ yếu ở Đồng Tháp, An Giang,Tiền Giang, Cần Thơ,…
- Lao động dịch vụ, thời vụ:
Bao gồm lao động cung cấp thức ăn, thuốc hóa chất, lao động cải tạo ao, lao
động thu hoạch,…. số lượng lao động này tương đối lớn, tuy nhiên do thời gian lao động
trong vụ ít nên lao động dịch vụ được ước bằng khoảng 10% tổng số lao động nuôi và
24
sản xuất giống.
- Cơ cấu và độ tuổi lao động:
Lao động thuê thường có độ tuổi trung bình thấp, từ 20-35 tuổi. Chủ ao hoặc chủ
cơ sở có độ tuổi trung bình cao hơn, dao động trong khoảng 40-55 tuổi. Lao động nuôi
cá nam chiếm 80% tổng số lao động. Lao động nữ thường tham gia vào công tác hậu cần
để phục vụ lao động trực tiếp.
- Trình độ lao động:
Hầu hết lao động đều được tham gia các lớp tập huấn do Trạm Thủy sản, Chi
Cục thủy sản, Trung tâm khuyến ngư tổ chức. Ngoài ra, các lao động nuôi còn được học
hỏi kinh nghiệm thông qua các hộ nuôi đạt kết quả tốt trong vùng.
Đối với lao động cho sinh sản nhân tạo ra cá bột, sau đó ương nuôi thành cá
giống để bán có trình độ cao và chuyên nghiệp hơn so với lao động chỉ mua cá bột về

ương nuôi và cung cấp cho nuôi thương phẩm.
Lao động trẻ thường có trình độ văn hóa cao hơn lao động cao tuổi. Có khoảng 80%
lao động đều trải qua phổ thông cơ sở (lớp 8 hoặc lớp 9 trở lên), 10% lao động trình độ văn
hóa cấp 2, 10% biết đọc, biết viết, không có người mù chữ trong các hộ phỏng vấn.
- Thu nhập của lao động:
Lao động nắm kỹ thuật để điều hành sản xuất chính thường là chủ hộ, hoặc nếu
thuê mướn lao động này thì lương bình quân từ 1,5-1,8 triệu đồng/tháng (chưa tính
thưởng vào cuối vụ nuôi); đối với lao động đơn giản, dịch vụ lương khoảng 800.000-
1.200.000đ/tháng. Lao động nữ khoảng 600.000-800.000đ/tháng.
Tình hình nghiên cứu và sản xuất giống cá tra
- Trước năm 1999, cá tra phải vớt giống ngoài tự nhiên để nuôi thương phẩm, do
sản xuất giống gặp khó khăn về kỹ thuật và hiệu quả sản xuất không cao. Năm 2000 đã
hoàn thiện quy trình sinh sản nhân tạo và sản xuất ở nhiều nơi trong vùng, trong đó tập
trung chủ yếu ở An Giang và Đồng Tháp. Trong giai đoạn 2000- 2004, nguồn giống cá
tra cung cấp cho nuôi thương phẩm vẫn còn lệ thuộc nhiều vào giống tự nhiên (trên
50%). Từ năm 2004 trở lại đây, tình hình sản xuất cá giống đã có nhiều chuyển biến tích
cực, lượng giống cung cấp cho nuôi thương phẩm tăng dần lên, đến thời điểm hiện nay
25

×