Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

ĐỔI mới tổ CHỨC và HOẠT ĐỘNG của tòa án VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.84 KB, 60 trang )

LỜI CÁM ƠN
Trong những năm tháng học tập và sinh hoạt tại Khoa Luật-Đại học
Quốc gia Hà Nội, em đã được mọi người, từ các thầy, cô giáo đến các bảo vệ,
các cô lao công nhiệt tình chỉ bảo, giúp đỡ. Các thầy, các cô không chỉ dạy em
về kiến thức mà còn cả tác phong, kinh nghiệm cuộc sống. Tin rằng, với
những điều mà em đã học được từ các thầy cô, em sẽ trở thành con người có
ích cho xã hội, cho gia đình.Và ngày hôm nay, em muốn được gửi lời cảm ơn
sâu sắc nhất, lời cảm ơn từ đáy lòng đến các thầy, các cô.
Xin được cám ơn GS.TS Nguyễn Đăng Dung đã viết ra những tác phẩm
hay trở thành nguồn tham khảo to lớn cho em hoàn thành khóa luận này.
Xin được cám ơn gia đình, bạn bè đã động viên, gắn bó, giúp sức em
học tập và hoàn thành khóa luận.
Xin được cám ơn TS. Trần Nho Thìn đã có những chỉ dẫn quan trọng,
những định hướng chủ đạo cho em hoàn thành khóa luận.
Cám ơn, cám ơn mọi người rất nhiều!!!
Hà Nội, ngày 19 tháng 05 năm 2014.
Sinh viên
Phạm Văn Hiệp
1
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TAND Tòa án nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
HĐND Hội đồng nhân dân
2
MỤC LỤC
3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của
Đảng ta trong những năm vừa qua, đặc biệt từ khi nhiệm vụ xây dựng Nhà
nước pháp quyền được chính thức ghi nhận vào trong Hiến pháp (2001) đã


chứng tỏ tính đúng đắn của chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam, thể hiện xu thế khách quan, tất yếu trong quá trình đổi mới, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và tham gia hội nhập khu vực cũng như thế giới.
Những nghiên cứu về việc lý luận và hoạt động thực tiễn xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam không chỉ giúp sáng tỏ những đặc trưng cơ bản
của Nhà nước pháp quyền, con đường xây dựng Nhà nước pháp quyền, mà
còn làm rõ việc áp dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam cho phù hợp.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền là tiền đề thúc đẩy và hỗ trợ phát triển
kinh tế thị trường và xã hội dân sự, tạo môi trường thuận lợi cho việc thực
hiện đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Trong Nhà nước pháp quyền, Nhà nước và công dân luôn hoạt động,
thực hiện hành vi theo đúng pháp luật. Nhà nước, cá nhân và các chủ thể khác
trong xã hội luôn phải đặt mình trong phạm vi pháp luật cho phép. Pháp luật
phải là một hệ thống được biết đến rộng rãi trong quốc gia đó. Một điều quan
trọng đó là pháp luật đó phải có được một hệ thống bảo đảm việc thực thi và
chế áp khi cần thiết. Đó chính là hệ thống tư pháp.
Để có được tầm ảnh hưởng trên thực tế, nguyên tắc của Nhà nước pháp
quyền được đảm bảo bởi sự hiện diện của các cơ quan tố tụng độc lập, có
thẩm quyền tài phán đối với các tranh chấp giữa các chủ thể pháp lý khác
nhau bằng cách áp dụng đồng thời nguyên tắc hợp pháp vốn có được từ sự tồn
tại của một trật tự các quy phạm, và nguyên tắc bình đẳng vốn đối lập với sự
xét xử phân biệt giữa các chủ thế pháp lý. Một mô hình như thể dẫn tới sự
hiện diện của sự phân chia quyền lực và một hệ thống tư pháp độc lập. Trong
thực tế, tư pháp là một phần của Nhà nước, tuy nhiên nó độc lập với quyền
4
lập pháp và tư pháp và được đảm bảo bằng tính công minh của tư pháp trong
việc áp dụng cả quy phạm pháp luật. Các cơ quan tư pháp phải đối chiếu các
quy phạm khác nhau khi xét xử.
Trong hệ thống tư pháp thì Tòa án đóng một vai trò trọng tâm, đây là
cơ quan thực hiện chức năng tư pháp và xét xử, bản án có tính hiệu lực bắt

buộc và hoạt động nhằm mục đích bảo vệ công lý (Khoản 3 Điều 102 Hiến
pháp năm 2013). Trên thế giới có nhiều loại hình Tòa án nhưng một trong
những tiêu chí cơ bản của Tòa án đó là phải có được tính độc lập của mình,
tách rời quyền lực lập pháp và hành pháp, không bị chi phối bởi các nhánh
quyền lực kia.
Từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, Đảng và Nhà nước luôn
chủ trương xây dựng hệ thống Tòa án chuyên nghiệp, độc lập. Tuy nhiên,
trong tiến trình lịch sử của đất nước, trong điều kiện chiến tranh giải phóng
dân tộc từ 1945 đến 1975, các cuộc chiến tranh biên giới, một thời gian bị cô
lập, đất nước còn nhiều khó khăn, hoạt động của hệ thống Tòa án cũng không
phải ngoại lệ, gặp vô vàn trở ngại trong tổ chức và hoạt động. Nhưng từ khi
công cuộc Đổi mới do Đảng lãnh đạo thực hiện từ 1986 đến nay, đất nước đã
có một diện mạo mới, ngành Tòa án cũng có những điều kiện mới, vận hội
mới, những sự giao lưu mới. Tòa án ngày càng có tính độc lập và hoạt động
đạt hiệu quả ngày càng tốt hơn.
Đi kèm với những thành tựu trong tổ chức và hoạt động của Tòa án thì
cũng có những hạn chế trong tổ chức và hoạt động của mình. Nhận thấy
những thiếu sót đó, Đảng và Nhà nước đã liên tục có những chủ trương và
chính sách nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành Tòa án. Cụ thể,
ngày 02/6/2005, Bộ chính trị đã ban hành Nghị Quyết 49-NQ/TW về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Ngày 28/7/2010, Bộ Chính trị đã ban
hành Kết luận số 79-KL/TW về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa
án, Viện kiểm sát và cơ quan điều tra theo tinh thần Nghị quyết trên trong
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
5
Do đó, việc nghiên đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay là vô cùng cần thiết,
nhằm cung cấp những luận cứ khoa học và tổng kết thực tiễn để kiện toàn về tổ
chức nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống cơ quan này.
2. Tình hình nghiên cứu

Nhà nước pháp quyền và vai trò của Tòa án trong Nhà nước pháp
quyền là một trong những chủ đề được quan tâm nghiên cứu không chỉ ở
trong nước ta mà còn trên toàn thế giới. Tất cả xuất phát từ sự nhận thức được
tầm quan trọng của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền, đó là từ yêu cầu của
chiến lược cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
Hiện nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học, sách chuyên
khảo, bài viết về Nhà nước pháp quyền, về Tòa án trong Nhà nước pháp
quyền, về vấn đề tổ chức và hoạt động, đặc điểm, sự độc lập của Tòa án. Cụ
thể là:
Về công trình nghiên cứu khoa học
“Cơ sở lý luận và thực tiễn về Nhà nước pháp quyền XHCN của dân,
do dân, vì dân”, Đề tài khoa học cấp Nhà nước, Mã số KX.04.01 do GS.VS
Nguyễn Duy Quý làm chủ nhiệm đề tài;
“Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân, vì dân trong giai đoạn 2001-2010”, Đề tài khoa học cấp Nhà
nước, Mã số KX.04.02 do GS.TSKH Đào Trí Úc làm chủ nhiệm đề tài;
“Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trên thế giới về xây dựng và phát
triển Nhà nước pháp quyền”, Đề tài khoa học cấp bộ, Mã số CT 11-16-06 do
TS. Lê Mai Thanh làm chủ nhiệm đề tài.
Về sách chuyên khảo:
- “Tính độc lập của Tòa án” của TS. Tô Văn Hòa, Nxb Lao động, 2007;
- “Thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền” của GS. TS Nguyễn Đăng
Dung, Nxb. Tư pháp, 2004;
- “Tòa án Việt Nam trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền” do GS. TS
Nguyễn Đăng Dung chủ biên, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2011;
6
- “Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến”, Đại học quốc gia Hà Nội- Khoa
Luật, Nxb Lao động – Xã hội, 2012.
Về các bài đăng trên các tạp chí khoa học:
- “Quan điểm và những đặc trưng cơ bản của mô hình tổng thể Nhà nước pháp

quyền XHCN ở Việt Nam” của GS.TSKH Đào Trí Úc, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật số 3 năm 2000;
- “Cải cách tư pháp: ý nghĩa, mục đích và trọng tâm” của GS. TSKH. Đào Trí
Úc, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 2, 2003;
- “Cải cách tư pháp trong tổ chức quyền lực nhà nước “của GS.TS. Nguyễn
Đăng Dung, Tạp chí khoa học Đại học quốc gia Hà Nội, Luật học số 25 năm
2009;
- “Một số biện pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật” của PGS.TS. Phạm Hồng Hải, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật số 5, 2003;
- “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân” của Ts. Trần Văn Độ,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 11, 2003.
Không chỉ các học giả trong nước quan tâm đến các vấn đề của Tòa án
trong Nhà nước pháp quyền mà các học giả trên thế giới cũng hết sức quan
tâm đến vấn đề này. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc tinh túy từ các ý tưởng,
nghiên cứu của các học giả trong nước và trên thế giới, tác giả Khóa luận triển
khai nghiên cứu vấn đề này nhằm đóng góp công sức bé nhỏ của mình vào
công cuộc cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích, đánh giá các tư tưởng, học thuyết về nội dung và mô hình tổ
chức và hoạt động Tòa án ở Việt Nam.
Làm rõ vị trí, vai trò của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền.
Kiến nghi khả năng vận dụng lý luận và kinh nghiệm tổ chức và hoạt
động Tòa án trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của
Tòa án ở Việt Nam.
Khóa luận chủ yếu nghiên cứu lý luận và thực tiễn tổ chức và hoạt
động của Tòa án trong thời kì Đổi mới từ năm 1986 đến nay nhằm đem đến

những giá trị trong việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án trong giai
đoạn tới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận sẽ được thực hiện là các quan điểm của Chủ
nghĩa Mác – Lê nin và các quan điểm của Đảng và Nhà nước về tính phổ biến
và đặc thù của Tòa án cũng như Nhà nước pháp quyền nhằm xây dựng, đổi
mới tổ chức và hoạt động của Tòa án trong điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền tại Việt Nam.
Các phương pháp nghiên cứu bao gồm: Phương pháp lịch sử; Phương
pháp phân tích tổng hợp; Phương pháp hệ thống; Phương pháp nghiên cứu so
sánh; Phương pháp tổng hợp thống kê; Phỏng vấn sâu, tọa đàm chuyên gia;
Phương pháp trao đổi, thảo luận.
6. Kết cấu khóa luận.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, Khóa
luận có kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1 Vị trí, vai trò của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền.
Chương 2 Thực trạng về tổ chức hoạt động của Tòa án Việt Nam hiện nay.
Chương 3 Những kiến nghị và đề xuất nhằm đổi mới tổ chức và hoạt
động của Tòa án Việt Nam trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền.
8
CHƯƠNG 1
VỊ TRÍ, VAI TRÒ TÒA ÁN TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
1. Nhận thức chung về Nhà nước pháp quyền trên thế giới và Việt Nam.
1.1.1 Nhận thức chung về Nhà nước pháp quyền trên thế giới
Từ thời Hy Lạp cổ đại, tư tưởng pháp quyền đã xuất hiện ở nơi mà nền
dân chủ sơ khai được hình thành và phát triển, cho dù nền dân chủ đó chỉ là
nền dân chủ chủ nô, chỉ có dân chủ cho một bộ phận thực sự. Trong giai đoạn
này, các nhà tư tưởng cổ đại đã không chỉ thuần túy quan tâm tới tổ chức nhà
nước như thế nào, việc tổ chức và hoạt động phải quan tâm tới tính thượng
tôn của pháp luật. Họ quan niệm rằng pháp quyền là một trong những phương

thức tìm kiếm sự tổ chức hợp lý của hệ thống quyền lực nhà nước. Hai nhà tư
tưởng lớn tiêu biểu cho thời kì này là các triết gia nổi tiếng Platon và Aristole.
Tiếp theo đó là một quá trình lịch sử châu Âu chìm trong đêm trường
trung cổ, phong kiến kéo dài, tưởng như tư tưởng pháp quyền đã biến mất.
Nhưng đột nhiên, các cuộc cách mạng tư sản bùng nổ, các tư tưởng của thời
kỳ Phục hưng bùng cháy lên và soi rọi cho nhân loại. Tư tưởng pháp quyền
được phát triển và hòa quyện vào các học thuyết phân quyền, chủ nghĩa lập
hiến, dân chủ, tự do, quyền con người. Các tên tuổi và các tác phẩm bất hủ
trong thời kỳ này cần phải kể đến J. Loke với tác phẩm “Khảo luận lần thứ
hai về chính quyền”, J.J Rousseau với tác phẩm “Khế ước xã hội” và Ch. L.
Montesquieu với tác phẩm “Tinh thần pháp luật”. Các tư tưởng pháp quyền
này tuy có những điểm khác nhau nhưng nhìn chung đều đề cao các giá trị
dân chủ, tự do và quyền con người.
Trong lịch sử cận đại, đặc biệt là vào cuối thế kỷ XIX trong các học
thuyết pháp lý của Đức, lý thuyết về Nhà nước pháp quyền đã trở thành một
quan điểm chính thống, thống trị trong nền chính trị với thuộc tính bảo đảm
cho an toàn pháp lý và cho các tự do cơ bản.
9
Trước khi trở thành một thuật ngữ phổ biến trong khoa học pháp lý và
khoa học chính trị thế kỷ XX, Nhà nước pháp quyền đã được biết đến từ
nhiều thập kỷ trước với một số giai đoạn phát triển.
Giai đoạn phát triển thứ nhất: Các quan điểm được đưa ra bởi các luật
gia và được sử dụng bởi các luật gia. Từ những năm 80 của thế kỷ XX, Nhà
nước pháp quyền đã trở thành trung tâm của các tranh luận mang tính triết
học và chính trị liên quan đến vai trò của Nhà nước. Khái niệm Nhà nước
pháp quyền đã được du nhập vào một số nước có truyền thống pháp luật
Anglo-saxon và các nước phương Đông và phương Nam, trở thành một chuẩn
mực quốc tế mà các quốc gia cố gắng để phù hợp.
Trong giai đoạn phát triển tiếp theo, Nhà nước pháp quyền là thuật ngữ
được sự ghi nhận rộng rãi, thậm chí còn được sử dụng trong các bản Hiến

pháp, trong nhiều văn kiện quốc tế và được áp dụng nhiều trong các mô hình
chính trị hiện đại.
Các quốc gia châu Âu là những nước đi tiên phong trong việc sử dụng
và áp dụng thuật ngữ Nhà nước pháp quyền. Tại Anh, Albert Venn Dicey là
người đầu tiên sử dụng khái niệm pháp quyền (rule of law) một cách rộng rãi.
Học thuyết của Dicey có ảnh hưởng hết sức sâu rộng trong giới thẩm phán và
luật sư theo hệ thống luật án lệ (Common law). Nội dung chính của học
thuyết pháp quyền do Dicey khởi xướng nhấn mạnh một số khía cạnh sau:
- Sự ngự trị tuyệt đối của pháp luật như là sự hạn chế ảnh hưởng của việc sử
dụng quyền lực một cách tùy tiện, đặc biệt là lĩnh vực hình sự và tự do cá
nhân.
- Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, các viên chức Chính phủ phải chịu
trách nhiệm bồi thường với hành vi gây thiệt hại.
- Các nguyên tắc Hiến pháp không phải là nguồn gốc mà là kết quả của những
quyền cá nhân.
Những tư tưởng mà Dicey khởi xướng đã có những ảnh hưởng sâu rộng
nhưng đã không có một định nghĩa toàn diện nào về pháp quyền được đưa ra
từ các nghiên cứu sau này. Điều này là do cách tiếp cận của người Anh là
10
được thiết kế đặc biệt cho duy nhất hệ thống Hiến pháp của Anh quốc cũng
như tổ chức bộ máy nhà nước của quốc gia này và nó chỉ có những giá trị
nhất định đối với nền khoa học pháp lý thế giới.
Hiện nay trên thế giới cách tiếp cận của người Đức được chấp nhận
rộng rãi hơn bởi hai lý do: Đức là một quốc gia có truyền thống sâu rộng
trong việc nghiên cứu về bản chất Nhà nước pháp quyền hơn bất kỳ quốc gia
nào, khái niệm Nhà nước pháp quyền (Rechtsstaat) của Đức được chấp nhận
và áp dụng khá rộng rãi.
Khái niệm Rechtsstaat khởi đầu được dùng để chỉ một Nhà nước mà
trong đó các hoạt động của cơ quan hành pháp luôn luôn là đối tượng điều
chỉnh của các quy tắc pháp lý. Trong thời gian gần đây, khái niệm Rechtsstaat

được bổ sung thêm một số yêu cầu, Rechtsstaat bao gồm các nguyên tắc pháp
lý thúc đẩy tiếp cận công lý, nguyên tắc phân chia quyền lực trong tổ chức bộ
máy nhà nước và sự công nhận các quyền con người.
Đó là hai cách tiếp cận của người Anh và người Đức, thế còn Hoa Kỳ -
quốc gia có một nền khoa học pháp lý phát triển hàng đầu thế giới thì sao?
Trên cơ sở phân tích, tổng hợp các học thuyết pháp quyền hiện đại Giáo sư
Richard H. Fallon từ đại học Havard khẳng định, pháp quyền được công nhận
khi có đủ các yếu tố sau đây :
- Mọi người có thể hiểu pháp luật và tuân thủ chúng;
- Tính hiệu lực của pháp luật khi thực sự hướng dẫn dân chúng;
- Tính ổn định của pháp luật;
- Tính tối cao của pháp luật;
- Những thiết chế để thực thi một nền công lý không thiên vị với những thủ tục
xét xử công bằng.
Như vậy nhìn chung các hướng tiếp cận về pháp quyền trên thế giới là
hết sức đa dạng, thậm chí là cạnh tranh lẫn nhau nhưng chúng không loại trừ
lẫn nhau mà cần phải xem xét trong mối quan hệ biện chứng, liên tục, đan
xen, gắn bó và bổ sung cho nhau.
1.1.2 Nhận thức chung về Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
11
Ở Việt Nam, các quan điểm về Nhà nước pháp quyền mới được nghiên
cứu và phổ biến trong khoảng 20 năm nhưng thực sự cách đây gần một thế kỷ
đã có người nhắc đến hai từ “pháp quyền”. Đó chính là Nguyễn Ái Quốc.
Năm 1919, khi các nước thắng trận trong thế chiến thứ nhất đang họp
tại Véc-xai (Pháp), Nguyễn Ái Quốc đã gửi: “Bản yêu sách của nhân dân An
Nam” tới các nước Đồng minh thắng trận và Chính phủ Pháp. Trong đó tại
Điều 7 của Bản yêu sách này có ghi : “Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế
độ ra các đạo luật”. Sau này, Người đã thể hiện lại 8 điểm trong bản yêu sách
này bằng lời ca và điều 7 được thể hiện: “Bảy xin Hiến pháp ban hành. Trăm
điều phải có thần linh pháp quyền” (Yêu cầu ca).

Gần 30 năm sau khi bản yêu sách ra đời, cách mạng Tháng Tám năm
1945 thành công, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập. Dưới
sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng về Nhà
nước, tổ chức bộ máy nhà nước đã được thẻ chế hóa trong bản Hiến pháp đầu
tiên – Hiếp pháp năm 1946.
Với Hiến pháp năm 1946, Đảng ta chủ trương thực hiện “chính quyền
mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” nhằm đoàn kết toàn dân, không phân
biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo, đảm bảo các quyền tự do dân chủ”.
Trong bản Hiến pháp 1946 đó đã thể hiện những tư tưởng cơ bản của hai từ
“pháp quyền” mà Hồ Chí Minh đã nhắc tới.
Đại hội lần thứ VI (tháng 12/1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam với
đường lối đổi mới đã đặt ra những cơ sở quan trọng cho việc đổi mới tư duy,
quan điểm về xây dựng nhà nước trong các điều kiện tiến hành cải cách kinh
tế. Mặc dù vẫn dùng khái niệm “Nhà nước chuyên chính vô sản”, nhưng chức
năng, nhiệm vụ của nhà nước trong quan điểm của Đảng tại đại hội Đảng VI
đã có đổi mới: “Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chức năng của Nhà nước là thể
chế hóa bằng pháp luật, quyền hạn, lợi ích, nghĩa vụ của nhân dân lao động và
quản lý kinh tế, xã hội theo pháp luật. Nhà nước ta phải đảm bảo quyền dân
chủ thực sự của nhân dân lao động, đồng thời kiên quyết trừng trị những kẻ vi
phạm quyền làm chủ của nhân dân…”. Cũng trong Báo cáo chính trị này,
12
Đảng ta chủ trương: “…để thiết lập cơ chế quản lý mới, cần thực hiện một
cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước theo phương
hướng: Xây dựng và thực hiện một cơ chế quản lý nhà nước thể hiện quyền
làm chủ tập thể của nhân dân lao động ở tất cả các cấp, tăng cường bộ máy
nhà nước từ Trung ương đến địa phương và cơ sở thành một hệ thống thống
nhát, có sự phân định rành mạch nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm từng cấp
theo nguyên tắc tập trung đan chủ, phân biệt rõ chức năng quản lý – hành
chính – kinh tế với quản lý sản xuất - kinh doanh, kết hợp quản lý theo ngành
với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ, phù hợp với đặc điểm tình hình

kinh tế, xã hội…”
1
.
Đại hội lần thứ VII của Đảng xác định thực hiện dân chủ XHCN là thực
chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị. Đây vừa là mục tiêu
vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Như vậy, việc đổi mới vừa là kiên
toàn hệ thống chính trị của Đảng ta đặt ra như một tất yếu để thực hiện và
phát huy dân chủ XHCN.
Quan điểm của Đảng về Nhà nước trong “Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” tại đại hội Đảng lần thứ VII
(6/1991) đã nhấn mạnh đến những vẫn đề có tính nền tảng đối với tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước trong một chế độ dân chủ - pháp quyền: có
đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật pháp, quản lý xã hội bằng luật pháp;
thống nhất quyền lực (thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp)
với sự phân công rành mạch ba quyền đó. Tuy chưa đề cập trực tiếp đến phạm
trù Nhà nước pháp quyền nhưng sự thể hiện các vấn đề cơ bản có tính pháp
quyền trong tổ chức bộ máy nhà nước ở tầm cương lĩnh chính trị cho thấy
quyết tâm chính trị của Đảng ta trong đổi mới tổ chức và hoạt động của nhà
nước theo các yêu cầu, đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền XHCN trong bối
cảnh cụ thể ở nước ta.
1 Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần VI tháng 12 năm 1986, phần 4 “Về phát huy về làm chủ
tập thể của nhân dân lao động, nâng cao hiệu quả quản lỷ của Nhà nước xã hội chủ nghĩa”
13
Đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì khóa VII (1994) lần đầu
tiên Đảng ta chính thức sử dụng thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền”. Đại hội
đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX (4/2002) và Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X (4/2006) đã tiếp tục khẳng định nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện nhà
nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội Đảng XI
(1/2011) đã làm sâu sắc thêm nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa và khẳng định “tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện

nhà nước pháp quyền XHCN, đảm bảo Nhà nước ta thực sự là của dân, do
dân, vì dân, do Đảng lãnh đạo, thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế, quản
lý xã hội, giải quyết đúng mới quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức khác
trong hệ thống chính trị, với nhân dân với thị trường”.
Nhìn chung thì tại Việt Nam, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền chủ
yếu theo quan điểm và học thuyết mà Đảng Cộng Sản Việt Nam và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đưa ra. Cụ thể, chúng ta thừa nhận phải xây dựng Nhà nước
pháp quyền nhưng phải định hướng, đi kèm chế độ xã hội chủ nghĩa, mà ở
Việt Nam chúng ta thường gọi là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Trong Nhà nước đó phải thể hiện được những điểm sau:
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
- Quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất trên cơ sở có sự
phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thừa nhận và thể hiện vị trí
tối thượng của Hiến pháp và luật trong đời sống xã hội, tổ chức và hoạt động
của Nhà nước thực hiện trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện mối quan hệ qua lại
giữa Nhà nước với công dân, giữa Nhà nước và xã hội, tôn trọng, bảo đảm
quyền con người, quyền công dân.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm thực hiện nghiêm
chỉnh và có thiện chí các cam kết quốc tế.
14
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo.
Như vậy, từ khi ra đời cho đến nay, trong đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn quán triệt tư tưởng xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân,
coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật – phương tiện quan
trọng trong quản lý nhà nước.

1.2 Tòa án là một thành tố quan trọng của quyền lực Nhà nước
1.2.1. Quyền tư pháp ở một số quốc gia trên thế giới
Ở các nước trên thế giới, nhất là phương Tây, tư pháp được hiểu là một
nhánh quyền lực độc lập trong cơ chế tổ chức quyền lực nhà nước. Đó là
nhánh quyền lực thứ ba – Quyền tư pháp trong cơ chế phân quyền giữa các
nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp. Khái niệm tư pháp thuộc nội
hàm của khái niệm quyền lực nhà nước. Chủ thể thực hiện quyền lực này mà
không phải bất kỳ cơ quan Nhà nước nào mà chỉ có Tòa án – cơ quan có khả
năng và năng lực vốn có của mình để tác động đến hành vi của con người và
thông qua đó tác động đến quá trình hoạt động diễn ra trong xã hội. Thực ra
không chỉ có tác động đến con người mà Tòa án còn có khả năng tác động
đến các cơ quan nhà nước khác. Tòa án là một thể chế tư pháp độc lập trong
hệ thống bộ máy nhà nước. Khi đề cập đến tư pháp, các hoạt động tư pháp có
nghĩa là đề cập đến một trong ba quyền cơ bản nhất của hệ thống quyền lực
nhà nước và Tòa án chính là một hệ thống cơ quan độc lập của Nhà nước thực
hiện quyền tư pháp.
Ngay từ thời cổ Hy Lạp và La Mã người ta đã khẳng định : Ở đâu có
pháp luật, thì ở đó phải có một hệ thống bảo đảm cho pháp luật được thi hành
một cách nghiêm chỉnh.Sự bảo đảm đó trước hết phải bằng hoạt động của các
cơ quan trong hệ thống nhà nước. Các cơ quan nhà nước này có chức năng xét
xử các hành vi vi phạm các quy định của pháp luật nhà nước. Và các cơ quan
này được gọi là Tòa án
2
.
2 Tòa án Việt Nam trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền, GS. TS Nguyễn Đăng Dung,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011, tr 78.
15
Các loại hình Tòa án trong chế độ chiếm hữu nô lệ và phong kiến đều
nằm trong tay giai cấp thống trị, phục vụ quyền lợi cho giai cấp này, và
“Chánh án tối cao” của nó lại chính là một người được gọi là Vua. Chỉ sau

này, khi các cuộc cách mạng tư sản diễn ra thì các Nhà nước dân chủ tư sản
đã tách hoạt động ban hành, thực hiện với xét xử các hành vi vi phạm pháp
luật ra. Quá trình chia tách như trên tạo ra sự độc lập cho 3 nhánh quyền lực
là lập pháp, hành pháp và tư pháp. Và theo quan điểm của các học giả phương
Tây thì quyền lực tư pháp chỉ nằm trong tay Tòa án.
Thể chế Tòa án đã cung cấp cho xã hội một phương pháp xác định sự
thật và sự công bằng trong các hành động của tư nhân và Nhà nước bằng 3
lĩnh vực cơ bản:
- Thứ nhất, Tòa án có tác dụng bảo đảm cho sự bình ổn xã hội, bảo đảm công
lý.
- Thứ hai, Tòa án là cơ chế giải quyết các mâu thuẫn giữa các các nhân với
nhau, giữa chính quyền và công dân.
- Thứ ba, chỉ có ngành này mới có quyền chính thức phán quyết sự hợp pháp
của những hoạt động của các ngành hành pháp và lập pháp.
Để có thể đảm bảo được những điều như trên, thì thiết yếu như đã nói
cần tách hoạt động của Tòa án ra khỏi những hoạt động của hai nhánh quyền
lực trên. Ngay từ ngày đầu lập quốc, các học giả của Hoa Kỳ đã nhận định
rằng: “… ngành tư pháp, do bản tính và nhiệm vụ của nó lúc nào cũng là
ngành ít nguy hiểm nhất đối với những quyền tự do chính trị ghi trong Hiến
pháp, bởi vì ngành này có ít khả năng nhất để ngăn cản hoặc xâm phạm tới
những quyền tự do Hiến pháp đó…”
3
.
Vì lẽ đó, ngành tư pháp là một ngành quyền mềm yếu nhất trong 3
ngành, rằng ngành này không có khả năng xâm phạm tới 2 ngành quyền còn
lại, có chăng thường bị xâm phạm bởi hai ngành quyền kia. Do đó, càng cần
bảo vệ ngành quyền này trước sự xâm phạm của hai ngành quyền kia.
3 Luận về Hiến pháp Hoa Kỳ (The federalist papers), Việt Nam khảo dịch xã, tr 214.
16
Chính vì lẽ đó các nhà nước phương Tây như Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Đức,

… luôn luôn duy trì một hệ thống Tòa án độc lập, bảo vệ hệ thống này trước
sự xâm phạm của hai ngành quyền lực lập pháp và hành pháp. Điều này xuất
phát từ một thực tế là hai ngành quyền lực lập pháp và hành pháp thường có
sự gắn kết chặt chẽ với nhau. Nếu như ở các nước theo thể chế đại nghị, như
Anh, Đức, chính phủ do phe đa số trong Nghị viện lập nên, thường các chính
sách pháp luật, các đạo luật thường do Chính phủ đệ trình. Ngoài ra thì Chính
phủ còn có khả năng ban hành các văn bản dưới luật nhằm đưa các quy phạm
này vào đời sống xã hội. Nếu như ở các nước Cộng hòa Tổng thống, như Hoa
Kỳ thì Tổng thống thường can thiệp vào việc lập pháp thông qua Thông điệp
Liên bang hoặc qua các thành viên trong đảng của mình, hoặc qua các nghị sĩ
thân cận với mình. Việc kết hợp này thường không có gì sai trái, vì điều đó
góp phần cho pháp luật đi vào cuộc sống. Ngoài ra, hai ngành này thường có
sự cân bằng nhất định, nhất là ở Hoa Kỳ. Nhưng nếu như ngành tư pháp mà
kết hợp với một trong hai ngành này thì là một sự nguy hại vô cùng, bởi vì
với bản tính mềm yếu của mình, ngành tư pháp dễ bị lệ thuộc. Đồng thời sẽ
tạo ra tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi”. Như thế sẽ chẳng còn gì bảo
đảm cho người dân được hưởng một hệ thống pháp luật công bằng.
Chính vì các lí do trên và thực tiễn đã chứng minh ở bất kì một thể chế
chính trị đương đại nào trên thế giới thì sự kết hợp chủ yếu là giữa lập pháp
và hành pháp, còn tư pháp thì luôn luôn phải độc lập. Mối quan hệ giữa tính
độc lập của Tòa án với Nhà nước pháp quyền là mối quan hệ điều kiện, mối
quan hệ cần và đủ. Nhà nước pháp quyền cần phải có một hệ thống Tòa án
độc lập, ngược lại, hệ thống Tòa án độc lập thì mới đủ để Nhà nước pháp
quyền hình thành.
1.2.2 Quyền tư pháp ở Việt Nam
Việt Nam với những đặc điểm của lịch sử, của tư duy pháp lý thì khái
niệm “tư pháp” của Việt Nam không đồng nhất. Ở các nước nói trên, khái
niệm tư pháp chỉ được dùng để chỉ hoạt động của Tòa án, thì ở Việt Nam khái
niệm tư pháp không chỉ được dùng cho hệ thống Tòa án, mà còn các cơ quan
17

nhà nước khác thực hiện chức năng liên quan đến hoạt động xét xử. Đó là các
cơ quan như Viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án…
Nhìn chung, chỉ từ khi thực hiện “Đổi mới”, hoạt động của ngành tư
pháp đã có những bước tiến mới nhưng hầu như mới chỉ là những bước khởi
đầu. Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về những nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, được coi là một đòn bẩy mãnh
liệt của công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
Những điểm khác đầu tiên là chức năng của Viện kiểm sát. Viện kiểm
sát là một hệ thống riêng có ở các nước xã hội chủ nghĩa, với mục tiêu thực
hiện sự kiểm sát quyền lực nhà nước từ bên trong. Nhưng trong Hiến pháp
năm 1992, chúng ta đã quyết tâm bỏ đi chức năng kiểm sát chung của cơ quan
này, chỉ còn giữ lại chức năng giữ quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của hoạt động tư pháp.
Hệ thống các cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án ngày cảng làm việc
có trách nhiệm hơn, phát hiện, xử lý hàng loạt vụ việc nổi cộm, đồng thời
đảm bảo cho bản án của Tòa án được thực thi trong thực tế.
Ngoài ra, trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay, một lực lượng
quan trọng khác cần phải tính đến, cải thiện chất lượng đó chính là đội ngũ
luật sư ở nước ta. Số liệu thông kê của Bộ Tư pháp cho thấy cả nước có 62
Đoàn luật sư với hơn 6.250 luật sư và hơn 3.000 người tập sự hành nghề luật
sư đang hoạt động trong 2.750 tổ chức hành nghề luật sư, trong đó chỉ có
khoảng 10 tổ chức hành nghề luật sư chuyên sâu về đầu tư, kinh doanh và
thương mại có yếu tố nước ngoài
4
. Chính số lượng luật sư thấp kéo theo tỷ lệ
luật sư trên đầu người thấp, chỉ bằng 1/10 so với các quốc gia trong khu vực
và trên thế giới, nên người dân khó tiếp cận với các dịch vụ pháp lý khi có
nhu cầu hoặc phải trả giá quá cao cho các dịch vụ này. Trong nhiều vụ việc
người dân không thể nhờ luật sư cho nên quyền và lợi ích hợp pháp của họ
không được đảm bảo.

4 Nguồn: Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp, ngày 30/9/2013
18
Đó là chưa kể đến chất lượng luật sư. Thực tế, trong hoạt động tư vấn
pháp luật, chủ yếu các luật sự tư vấn về dân sự, đất đai, hôn nhân và gia đình,
còn số lượng luật sư chuyên sâu trong các lĩnh vực đầu tư, kinh doanh,
thương mại (sở hữu trí tuệ, tài chính ngân hàng, hàng không, hàng hải, bảo
hiểm, thương mại quốc tế…) rất ít, chiếm tỷ lệ 1,2%, trong đó, chỉ khoảng 20
luật sư có trình độ ngang tầm với luật sư trong khu vực.
Nhìn chung, các cơ quan như Viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan
thi hành án, đội ngũ luật sư đều có những bước chuyển mình mới, tuy nhiên
trọng tâm của chiến lược cải cách tư pháp phải hướng đến Tòa án. Do Tòa án
là cơ quan tiến hành xét xử, đảm bảo sự thật và sự công bằng dựa trên ba lĩnh
vực như đã nói ở trên. Việt Nam cần hướng đến lấy Tòa án làm trung tâm của
hoạt động tư pháp.
Đồng thời với đó, trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện này thì Tòa án không chỉ là trung tâm của hoạt
động tư pháp mà còn phải độc lập, tách riêng ra so với hai ngành lập pháp và
hành pháp. Tuy nhiên, ở nước ta, trước nay thì có một số hạn chế, như tổ chức
của Tòa án theo đơn vị hành chính, Chánh án các Tòa thường phải báo cáo
cho HĐND địa phương, vô hình chung nhánh hành pháp ở địa phương đã ảnh
hưởng đến Tòa án, đến tư pháp. Do đó Tòa án chưa có được sự độc lập cho
riêng mình.
Một vấn đề nữa là số lượng thẩm phán còn hạn chế, các hội thẩm nhân
dân chưa đáp ứng được kỳ vọng. Thậm chí chất lượng của đội ngũ thẩm phán
còn chưa được đảm bảo, chẳng thế mà trong năm 2005, khi trả lời chất vấn
của đại biểu Quốc hội, Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao khi đó còn tuyên
bố : “Nhiều nơi hiện nay phải vơ vét thẩm phán cho đủ số”. Với một đội ngũ
thẩm phán như thế thì ngay cả về chuyên môn ngành Tòa án cũng chưa đáp
ứng được chứ chưa nói về vấn đề phân chia quyền lực.
Như vậy, nền tư pháp Việt Nam với những đặc thù riêng có của mình

thì hiện nay đang gặp khó khăn rất nhiều, thách thức rất lớn trong công cuộc
cải cách tư pháp, hướng đến xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
19
nghĩa. Và với vị trí trung tâm của mình thì tổ chức và hoạt động của Tòa án
Việt Nam đang có những yêu cầu bức thiết nhằm đưa đến sự độc lập, sự đổi
mới cho không những cho Tòa án nói riêng mà còn cả cho ngành tư pháp. Sự
thay đổi này không chỉ trong vấn đề con người, đội ngũ thẩm phán mà cao
hơn nữa là trong cả cách tổ chức và hoạt động.
20
1.3 Những yêu cầu đối với Tòa án trong Nhà nước pháp quyền.
Ai cũng biết rằng Tòa án phải độc lập, ai cũng biết rằng Tòa án phải vô
tư và công bằng khi phán xử, vậy muốn được độc lập, Tòa án phải có những
yêu cầu như thế nào? Đó là nhiệm kỳ thẩm phán bền vững và lâu dài, chế độ
lương bổng cao, tăng cường trách nhiệm của Thẩm phán và Thẩm phán xét xử
theo lương tâm.
1.3.1. Thẩm phán độc lập.
Nếu thẩm phán chỉ được bổ nhiệm trong một thời gian ngắn ngủi dù có
theo bất kỳ cách nào, họ cũng sẽ không có được sự độc lập, niềm tin vào công
lý và tinh thần cương quyết để đưa ra các phán quyết. Nếu như Thẩm phán
được bổ nhiệm bởi hành pháp hay lập pháp thì cố nhiên Tòa án đã lệ thuộc
vào một trong hai nhóm ngành này. Nếu thẩm phán được bổ nhiệm hoàn toàn
bởi nhân dân, mà nhân dân thường hay hành động theo cảm xúc, theo danh
tiếng, theo lời nói hơn là những đánh giá chính xác và khách quan về chuyên
môn của Thẩm phán.
Do đó, nếu nhiệm kỳ thẩm phán ngắn ngủi thì sẽ không giữ được độc
lập cho ngành Tòa án, dễ dẫn đến sự lệ thuộc, cũng như không có được những
thẩm phán với chất lượng cao nhất có thể. Chính vì vậy, Thẩm phán có nhiệm
kỳ suốt đời có lẽ là một yếu tố quan trọng nhất để cho Tòa án có thể độc lập.
Liệu bạn có thể yên tâm làm việc khi ai đó nắm giữ túi tiền của bạn?
Liệu bạn có thể công tâm và vô tư khi ai đó nắm giữ miếng cơm manh áo của

gia đình bạn? Hẳn nhiên là không! Thẩm phán cũng là những con người, họ
cũng có gia đình, cũng có những ham muốn bình thường. Vì vậy, lương bổng
của Thẩm phán trong bất cứ điều kiện nào cũng phải được đảm bảo một cách
đầy đủ, không phụ thuộc vào biến động kinh tế hay sự lạm phát. Mức lương
không chỉ đủ nuôi sống họ mà còn có thể đem đến cho họ và gia đình một
mức sống khá giả.
Ngoài ra chế độ lương bổng ở đây còn bao hàm cả những chi phí tối
thiểu phục vụ cho hoạt động của Tòa án như trụ sở, chi phí điện nước… Nếu
không có những điều đó thì tất cả là vô nghĩa.
21
Bạn có thể vô tư khi không phải chịu trách nhiệm về hành động của
mình nhưng những hành động đúng đắn sẽ không đến. Vì nếu như bạn không
phải chịu trách nhiệm hay trách nhiệm ít, bạn sẽ không sợ gì cả. Điều đó là
nguy hại vô cùng. Do đó, đặc biệt là Thẩm phán, khi mà các phán quyết của
họ ảnh hưởng vô cùng lớn, đôi khi là cả tính mạng con người thì họ phải chịu
trách nhiệm về những hành động của mình. Nhờ đó giúp cho hệ thống Tòa án
nói riêng và hệ thống tư pháp nói chung ở Việt Nam có có hiệu quả hơn, công
bằng hơn. Việc xét xử phải được công khai, phải có cơ chế để bãi miễn Thẩm
phán khi những người này làm sai do lỗi của chính họ.
Có người nói Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, không cần quan tâm
đến điều gì khác. Nhưng nếu như thế con người nên sáng tạo ra một cái máy
đọc luật hơn là đào tạo Thẩm phán. Thẩm phán cần có đạo đức.
Công việc của một Thẩm phán là phải áp dụng từng quy định cụ thể
của pháp luật vào trong từng trường hợp cụ thể của cuộc sống. Cuộc sống
muôn màu, muôn vẻ, đôi khi có những điều tưởng chừng là đúng nhưng lại
không thể xét xử như thế được. Và lúc đó thì lương tâm của người thẩm phán
phải lên tiếng.
Nhưng đạo đức của Thẩm phán chính là xét xử đúng pháp luật, một
việc cần phải được rèn luyện thông qua nghiệp vụ chuyên môn. Chúng ta
không dựa vào bằng cấp một cách máy móc, nhưng chúng ta cũng không thể

tiếp tục chấp nhận việc thẩm phán học tập qua quít, không đủ trình độ. Vừa có
tài, vừa có đức, đó mới là một Thẩm phán, đó mới đem đến sự bảo đảm cho
tư pháp đạt được những yêu cầu trong Nhà nước pháp quyền.
1.3.2. Tòa án trong Nhà nước pháp quyền phải là nơi có thẩm quyền xét xử
với hành pháp và lập pháp.
Như đã nói ở trên, hai ngành hành pháp và lập pháp thường có xu
hướng gắn kết lại với nhau, do đó thường có được quyền lực to lớn. Nhà nước
phải có đủ quyền lực để bảo vệ người dân của mình, nhưng không được có
quyền lực quá lớn để xâm phạm đến các quyền cơ bản của người. Trong khi
nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, nhân dân có thể giám sát Nhà
22
nước qua nhiều công cụ như Quốc hội, Hội đồng nhân dân… nhưng thực tế
thì công cụ quan trọng nhất mà người dân nên và phải sử dụng lại chính là
Tòa án.
Ở đâu có quyền lực thì thường có sự tha hóa quyền lực, do đó cần có
một cơ chế nhằm hạn chế điều này. Và Tòa án chính là giải pháp. Tuy nhiên
cũng cần phải có cơ chế nhằm bắt buộc hai ngành hành pháp và lập pháp phải
tuân theo sự xét xử của Tòa án. Nếu không tất cả đều là vô nghĩa.
Việc Tòa án thực hiện quyền tư pháp của mình chính là công cụ, là
thành lũy cuối cùng nhằm đảm bảo cho các giá trị, tự do, công lý của người
dân được đảm bảo chống lại sự lạm quyền như đã nói ở trên. Nếu không có
thành lũy này thì tất cả đều sẽ vô nghĩa.
Việc Tòa án có quyền xét xử hai ngành lập pháp và hành pháp hạn chế
quyền lực của hai ngành lập pháp và hành pháp. Vậy sự hạn chế này là như
thế nào và bằng cách nào? Đó chính là thông qua việc xét xử các văn bản luật
trái với Hiến pháp và các hành vi của các cơ quan này trong đời sống xã hội.
Việc hạn chế này không chỉ nhằm vào các cơ quan mà bất cứ cá nhân nào dù
nắm bất cứ cương vị nào trong hai hệ thống ngành nói trên cũng phải chịu sự
xét xử của Tòa án, nếu như họ vi phạm những luật định đã được định sẵn.
1.3.3. Tòa án trong Nhà nước pháp quyền phải bị hạn chế quyền lực.

Như đã nói ở trên, ngành tư pháp có trách nhiệm hạn chế quyền lực với
ngành lập pháp và hành pháp. Tuy nhiên, trong Nhà nước pháp quyền, mọi
thứ đều theo luật, luật pháp cũng phải hạn chế quyền lực của Tòa án. Tòa án
phải tự hạn chế hoặc bị bắt buộc hạn chế theo luật định, nếu không Tòa án
cũng sẽ trở thành “con thủy quái lạm quyền”. Vậy làm thế nào để hạn chế
được hoạt động của Tòa án? Tòa án phải luôn tổ chức và hoạt động theo các
nguyên tắc sau đây:
Thứ nhất, Tòa án chỉ được xét xử khi có tranh chấp. Đây là giới hạn
đầu tiên và căn bản nhất của hoạt động tư pháp, sự tranh chấp ở đây không
chỉ giữa các công dân với nhau mà còn giữa công dân với Nhà nước.
23
Thứ hai, luận điểm phải cụ thể. Điều này có nghĩa là Tòa án không thể
xét xử theo tình, tình khác lương tâm, mà phải theo luật định. Nếu một người
không có căn cứ cho rằng theo Hiến pháp và pháp luật quyền lợi của mình bị
xâm phạm thì Tòa án không xét xử.
Thứ ba, người hưởng lợi không được kiện. Điều này có thể giải thích
do người đó không bị xâm phạm vì quyền lợi, họ không cần đến sự bảo vệ
của Tòa án, việc đi kiện của họ chỉ nhằm thỏa mãn lòng tham vô đáy, tính vị
kỉ của họ, không mang đến sự cân bằng xã hội.
Thứ tư, các giải pháp khác phải được tính đến trước khi đi đến Tòa án.
Điều này một phần nhằm giảm tải cho Tòa án, hạn chế chi phí nhưng quan
trọng nhất là đem đến một sự hạn chế hoạt động của Tòa án.Ví dụ như ly hôn
bắt buộc phải qua hòa giải.
Thứ năm, Tòa án không thể xét xử các yếu tố chính trị, tính sáng suốt
của ngành lập pháp hay hành pháp. Điều này có nghĩa là Tòa án không thể
xét xử vấn đề hợp lý hay không mà chỉ xem xét tính hợp pháp của các hoạt
động.
24
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG

CỦA TÒA ÁN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Tòa án Việt Nam từ Cách mạng
tháng Tám năm 1945 đến trước Đổi mới (năm 1986).
Việt Nam là một quốc gia có lịch sử lâu đời, tuy nhiên với gần 1000
năm bị phong kiến Trung Quốc đô hộ nên chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi văn hóa
Trung Hoa. Và với gần 1000 năm của chế độ phong kiến, đất nước ta cũng
không có hệ thống Tòa án độc lập, mà như đã nói ở trên, các hệ thống Tòa án
trong chế độ phong kiến luôn nằm trong tay giai cấp thống trị là địa chủ, đứng
đầu là Vua. Năm 1858, Pháp xâm lược Việt Nam và thống trị dân tộc ta trong
non một thế kỷ. Tuy rằng trong thời kỳ này, hệ thống Tòa án cũng nằm trong
tay người Pháp là chính, mà đứng cao nhất là Viên Toàn quyền Đông Dương.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đã lật đổ chế độ phong
kiến hàng ngàn năm, ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp trong cả thế kỷ,
đem đến độc lập cho dân tộc Việt Nam. Cuộc cách mạng này thành công gắn
liền với tên tuổi của Hồ Chí Minh, một trong những người đề cập đến Nhà
nước pháp quyền đầu tiên ở Việt Nam. Và với tư tưởng của Người, Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ tuy gặp vô vàn khó khăn cũng đã mang
những dấu hiệu của Nhà nước pháp quyền trong mình. Dấu hiệu quan trọng
trong đó là các Tòa án được thành lập, xét xử công khai và bước đầu được
độc lập.
Tại Việt Nam, tuy rằng có nói đến cơ quan tư pháp bao gồm những
quan niệm về cả các hệ thống cơ quan Viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ
quan thi hành án nhưng theo nghĩa Hán Việt thì đó là những hoạt động của cơ
quan nhà nước có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của tư nhân. Theo
nguồn gốc Latinh thì tư pháp là “Justice” có nghĩa là công lý. Và cho dù quan
niệm thế nào thì cũng không thể chối bỏ được thực tế rằng hoạt động Tòa án
là trung tâm, bao trùm lấy hoạt động tư pháp.
25

×