Tải bản đầy đủ (.doc) (203 trang)

tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng nhất thể hóa pháp luật về đầu tư tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (766.46 KB, 203 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với việc mở rộng và đa dạng hóa các quan hệ hợp tác quốc tế,
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một bộ phận quan trọng trong
toàn bộ chính sách kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Trong những
năm vừa qua, FDI ngày càng được thừa nhận như là một giải pháp quan trọng
góp phần thúc đẩy sự phát triển nội sinh của nền kinh tế đất nước.
Trong quá trình đó, pháp luật về FDI có vai trò hết sức quan trọng.
Pháp luật về FDI là công cụ quản lý hữu hiệu và khoa học của Nhà nước
nhằm định hướng cho các hoạt động đầu tư nước ngoài, là "vũ khí" cạnh tranh
sắc bén với các nước trong khu vực trong thu hút đầu tư; đồng thời là hàng
rào pháp lý để ngăn chặn các ảnh hưởng tiêu cực của các hoạt động này, giữ
ổn định và cân đối cho các hoạt động đầu tư trong xã hội. Hơn thế nữa, pháp
luật về FDI còn thúc đẩy sự hoàn thiện của cả hệ thống pháp luật.
Trong khi ở nhiều nước trên thế giới chỉ tồn tại một khung pháp luật
về đầu tư áp dụng chung cho mọi đối tượng, thì ở Việt Nam, ngay từ khi văn
bản pháp luật đầu tiên về FDI ra đời cho đến nay, hệ thống các quy phạm
pháp luật về FDI vẫn đang tồn tại với tính chất là một khung pháp luật tương
đối độc lập bên cạnh khung pháp luật về đầu tư trong nước. Sự tồn tại của hai
khung pháp luật về đầu tư đã làm cho các chủ thể kinh doanh chưa được bình
đẳng thực sự về mặt kinh tế bởi các chính sánh và biện pháp khuyến khích,
bảo hộ đầu tư hay hạn chế đầu tư được áp dụng rất khác nhau đối với các chủ
thể đầu tư.
Hệ thống các văn bản pháp luật về FDI ở Việt Nam hiện nay có đến
hàng trăm văn bản quy định về nhiều vấn đề khác nhau và liên tục được sửa đổi,
bổ sung, hoàn thiện trong hơn 14 năm qua, kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài tại
1
Việt Nam được Quốc hội ban hành ngày 29 tháng 12 năm 1987. Tuy nhiên,
trước những yêu cầu mới của việc phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay,
với tính chất là một bộ phận trong hệ thống pháp luật của Nhà nước, pháp luật về
FDI cũng còn nhiều vấn đề bất cập, cần tiếp tục được sửa đổi, bổ sung, hoàn


thiện.
So với pháp luật về FDI thì hệ thống các văn bản pháp luật về đầu tư
trong nước còn đồ sộ hơn nhiều, với hàng ngàn văn bản quy phạm pháp luật,
trong đó không ít những quy định còn chồng chéo, mâu thuẫn, bất cập với sự
vận động của cơ chế kinh tế mới, chưa bị bãi bỏ hoặc chưa được kịp thời sửa
đổi, bổ sung. Một số lĩnh vực hoạt động của cơ chế kinh tế thị trường còn
trống vắng sự điều chỉnh của pháp luật.
Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước bước sang một giai đoạn mới của
công cuộc đổi mới và phát triển theo định hướng của Đảng và Nhà nước ta là
"phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội
nhập sâu rộng hơn vào kinh tế khu vực và thế giới", với những cơ hội và thách
thức mới trong phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế thì hệ thống các văn bản
pháp luật về đầu tư nói chung đang đứng trước những đòi hỏi bức xúc cần tiếp
tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nhằm xác lập quyền bình đẳng thực sự cho các
chủ thể kinh doanh, góp phần tạo thế cạnh tranh thắng lợi với các nước khu vực
trong thu hút FDI, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các hoạt động
đầu tư trong nước.
Từ những lý do trên đây, việc nghiên cứu vấn đề hoàn thiện pháp luật về
FDI đặt trong xu hướng và yêu cầu nhất thể hóa pháp luật về đầu tư ở Việt Nam
đang được đặt ra có tính bức xúc cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Tại nước ta trong những năm gần đây, chủ đề nghiên cứu về khung pháp
luật và cơ chế, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, hoàn thiện pháp luật
2
điều chỉnh các hoạt động đầu tư nước ngoài đã thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà luật học, kinh tế học. Ở mức độ và phạm vi khác nhau, đã có nhiều công
trình nghiên cứu được công bố như: Giáo trình Luật Kinh tế của Trường Đại
học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Kinh tế của Khoa Luật Trường Đại học
Khoa học Xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình đầu tư
nước ngoài của Đại học Ngoại thương; Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở một số

nước Đông Nam Á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993; các bài: Đầu tư
trong nước và đầu tư nước ngoài, của GS.TS Nguyễn Mại, Tạp chí Nghiên
cứu kinh tế, số 6, 1993; Pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam -
Quá khứ, hiện tại và tương lai của TS. Hoàng Phước Hiệp, Thông tin khoa học
pháp lý, Bộ Tư pháp, 1997; Khu vực thương mại và đầu tư tự do ASEAN của TS.
Vũ Đức Long, Tạp chí Luật học, số 4, 2002; Cơ sở khoa học của việc hoàn thiện
khung pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, Luận án Phó Tiến sĩ
của Lê Mạnh Tuấn, 1996; Cơ chế điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, Luận án Phó Tiến sĩ của Hoàng Phước Hiệp,
1996; Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam - sự ra đời, quá trình phát triển và
hoàn thiện, Luận án Tiến sĩ của Đỗ Nhất Hoàng, 2002. Nhiều công trình nghiên
cứu khác cũng đề cập ở mức độ khác nhau những nội dung về pháp luật đầu
tư nói chung và pháp luật FDI nói riêng như các công trình nghiên cứu của
các tác giả: PGS.TS Nguyễn Bích Đạt, PGS.TS Lê Hồng Hạnh, TS. Nguyễn
Bá Diến, TS. Vũ Huy Hoàng, TS. Vũ Chí Lộc, TS. Võ Đại Lược Một số dự
án hợp tác quốc tế có nội dung liên quan như: Dự án VIE/94/003 "Tăng
cường quản lý nhà nước bằng pháp luật tại Việt Nam" do Chương trình Phát
triển của Liên hợp quốc (UNDP) và Ngân hàng Thế giới (WB) tài trợ; Dự án
VIE/95/015 "Tăng cường sự hội nhập của Việt Nam với ASEAN" do UNDP
tài trợ, với chuyên đề "Môi trường đầu tư nước ngoài ở Việt Nam - con
đường đi tới khu đầu tư ASEAN (AIA)" do nhóm nghiên cứu của Viện Chiến
lược phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện. Tác giả luận án có một số
3
bài viết được công bố và đã bảo vệ thành công luận văn Thạc sĩ Luật học có
nội dung liên quan đến pháp luật về FDI.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đây đã đề cập trực tiếp
hoặc gián tiếp đến nhiều nội dung về hoàn thiện pháp luật về FDI ở những
mức độ và phạm vi khác nhau, tương ứng với những khoảng thời gian nhất
định, giải quyết nhiều vấn đề bức xúc. Tuy nhiên, việc nghiên cứu có hệ
thống và tương đối đầy đủ về cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề hoàn thiện

pháp luật về FDI tại Việt Nam trong xu hướng và nhu cầu của việc xây dựng
một hệ thống pháp luật đầu tư thống nhất áp dụng chung cho cả đầu tư trong
nước và đầu tư nước ngoài, đến nay vẫn chưa có công trình nào đề cập.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận án là nghiên cứu vấn đề hoàn thiện pháp luật về
đầu tư trực tiếp nước ngoài trong xu hướng và nhu cầu nhất thể hóa pháp luật
về đầu tư ở Việt Nam, đề xuất các giải pháp cụ thể về tiếp tục hoàn thiện pháp
luật về đầu tư và tiến tới nhất thể hóa pháp luật về đầu tư ở Việt Nam.
Với mục đích như trên, các nhiệm vụ mà luận án phải giải quyết là:
- Nghiên cứu, làm rõ một số khái niệm, quá trình hình thành và nội dung
từng bước hoàn thiện pháp luật về FDI ở Việt Nam, với tính chất là một bộ phận
trong hệ thống pháp luật, trong mối quan hệ tác động với các yếu tố chính trị,
kinh tế - xã hội ở trong nước và quốc tế, trong sự tương tác với hệ thống pháp
luật về đầu tư trong nước;
- Nghiên cứu các quy định cùng loại trong pháp luật một số nước để
rút ra những kinh nghiệm có thể vận dụng vào việc hoàn thiện pháp luật đầu
tư ở Việt Nam;
4
- Từ việc nghiên cứu trên đây rút ra những đặc điểm đặc thù của pháp
luật về FDI của Việt Nam và chứng minh xu hướng xích lại gần nhau giữa
pháp luật về đầu tư nước ngoài và pháp luật về đầu tư trong nước ở Việt Nam
trong những năm qua;
- Xác lập cơ sở lý luận và đề xuất những kiến nghị cụ thể về việc tiếp
tục hoàn thiện pháp luật về FDI theo xu hướng nhất thể hóa pháp luật về đầu tư
trong mối quan hệ với các cơ chế chính sách có liên quan với biện pháp và bước
đi cụ thể, nhằm phúc đáp những đòi hỏi của thực tiễn cả về trước mắt và lâu
dài.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là: 1) Hệ thống các văn bản pháp
luật thực định về đầu tư nước ngoài của Nhà nước ta trong mối liên hệ với

pháp luật thực định về đầu tư trong nước và các điều kiện về chính trị, kinh tế
xã hội của đất nước và thực tiễn quốc tế; 2) Thực tiễn công tác thi hành pháp
luật đầu tư nước ngoài và tình hình hợp tác đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt
Nam; 3) Pháp luật thực định về đầu tư nước ngoài của một số nước và những
điều ước quốc tế có liên quan.
Nội dung nghiên cứu mà luận án đề cập là rất rộng và phức tạp, liên
quan đến nhiều chuyên ngành như Lý luận Nhà nước và pháp luật, Luật Kinh
tế, Luật Hành chính, Tư pháp quốc tế, Kinh tế học Phạm vi nghiên cứu của
luận án này chỉ tập trung sâu vào một nội dung thuộc chuyên ngành Luật Kinh
tế, đó là vấn đề hoàn thiện pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài theo xu hướng
nhất thể hoá pháp luật về đầu tư ở Việt Nam trong mối quan hệ giữa Nhà nước
với các chủ thể đầu tư để xác lập và bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của
họ. Đối với một số nội dung cụ thể có liên quan đến các chuyên ngành khác,
luận án chỉ đề cập ở một mức độ nhất định, trong mối quan hệ cần thiết nhằm tạo
lập cơ sở lý luận có tính hệ thống cho việc thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu.
5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận án là: 1) Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về
nhà nước pháp luật; 2) Hệ thống các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà
nước ta trong sự nghiệp đổi mới. Đó là các quan điểm, chủ trương trong lĩnh
vực xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước, đặc biệt là các quan điểm "mở cửa" và
"kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại" trong hợp tác đầu tư với
nước ngoài, cũng như các quan điểm về xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật trong cơ chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa;
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận án là phương pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, nghiên cứu lý luận kết hợp với thực
tiễn. Luận án cũng sử dụng phương pháp luật học so sánh để phân tích và so
sánh tổng hợp một một số khía cạnh trong pháp luật về FDI của Việt Nam với
một số quy định cùng loại trong pháp luật của một số nước khu vực để từ đó

đưa ra các kiến nghị có sức thuyết phục về lý luận và thực tiễn trong việc vận
dụng kinh nghiệm nước ngoài vào việc hoàn thiện pháp luật về đầu tư của Việt
Nam.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu đầu tiên thuộc chuyên ngành Luật
Kinh tế có nội dung về hoàn thiện pháp luật về FDI đặt trong sự tương tác của
cả hệ thống pháp luật để chứng minh xu hướng và nhu cầu nhất thể hóa pháp
luật về đầu tư ở Việt Nam; làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc
nhất thể hóa pháp luật đầu tư ở Việt Nam.
Luận án xem xét các vấn đề pháp luật về FDI trong mối liên hệ biện
chứng giữa các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật Chính vì vậy, các
nhận định trong luận án chứa đựng những thể hiện mới về cách tiếp cận toàn
diện khi nghiên cứu vấn đề nhất thể hóa pháp luật về đầu tư.
6
Luận án phân tích, đánh giá một cách tương đối đầy đủ về những nhân
tố ảnh hưởng đến sự ra đời, phát triển và nội dung của pháp luật về FDI ở
Việt Nam; khái quát hóa về mặt lý luận các đặc điểm của pháp luật về FDI ở Việt
Nam.
Luận án thể hiện nội dung nghiên cứu về mặt lịch sử và thực tiễn các
quy phạm pháp luật về đầu tư, qua đó chứng minh tính độc lập tương đối của
pháp luật về FDI, xu hướng vận động, xích lại gần nhau giữa đầu tư trong
nước và đầu tư nước ngoài; khẳng định nhu cầu tất yếu của việc nhất thể hóa
pháp luật đầu tư ở Việt Nam.
Từ những kết quả nghiên cứu trên đây, luận án xác lập cơ sở lý luận
và thực tiễn cùng những kiến nghị cụ thể cho việc tiếp tục hoàn thiện pháp
luật về FDI nói riêng theo xu hướng nhất thể hóa pháp luật về đầu tư nước
ngoài với pháp luật về đầu tư trong nước, xây dựng mặt bằng pháp luật chung
cho các hoạt động đầu tư ở Việt Nam.
Luận án có ý nghĩa quan trọng, góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận
và thực tiễn của sự hình thành, quá trình vận động và không ngừng hoàn thiện

của pháp luật về FDI; làm rõ cơ sở lý luận và chứng minh xu hướng nhất thể
pháp luật về đầu tư, đồng thời xác định những nguyên tắc và giải pháp mang
tính chất định hướng cho việc tiếp tục thực hiện quá trình nhất thể hóa này.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu hệ thống
pháp luật thực định về đầu tư nước ngoài, trong công tác xây dựng pháp luật,
trong quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài hay trong công tác giảng dạy các
môn khoa học pháp lý như Luật kinh tế, Lý luận nhà nước và pháp luật, Luật
so sánh
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 3 chương, 10 mục.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1. KHÁI NIỆM VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Cùng với việc mở rộng và đa dạng hóa các quan hệ hợp tác kinh tế
quốc tế, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành một bộ phận quan
trọng trong toàn bộ chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước ta. Trong những
năm vừa qua, kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài được ra đời và thực hiện, đầu
tư trực tiếp nước ngoài ngày càng được thừa nhận như là một giải pháp quan
trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển nội sinh của nền kinh tế đất nước.
Về mặt kinh tế, FDI là một hình thức đầu tư quốc tế được đặc trưng
bởi quá trình di chuyển tư bản từ nước này sang nước khác. Mặc dù còn nhiều
khác biệt về quan niệm nhưng nhìn chung ở các nước thì FDI được hiểu như
là một hoạt động kinh doanh mà ở đó có sự tách biệt ở tầm vĩ mô về mặt chủ
thể nhưng lại có sự kết hợp ở tầm vi mô trong việc sử dụng vốn và quản lý đối
tượng đầu tư. Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), đầu tư trực tiếp nước ngoài
được định nghĩa là: "Một khoản đầu tư với những quan hệ lâu dài, theo đó,

một tổ chức trong một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp) muốn kinh doanh với
một tổ chức trong một nền kinh tế khác. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là
muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế
khác đó" [105]. Như vậy, FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có
nhân tố nước ngoài (chủ đầu tư, vốn đầu tư và địa điểm đầu tư từ các quốc gia
khác nhau). Nhân tố nước ngoài ở đây không chỉ thể hiện ở sự khác biệt về
quốc tịch hoặc về lãnh thổ cư trú thường xuyên của các bên tham gia vào
8
quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài mà còn thể hiện ở việc di chuyển tư bản
trong đầu tư trực tiếp nước ngoài vượt ra ngoài tầm kiểm soát của một quốc
gia. Việc di chuyển tư bản này là nhằm phục vụ mục đích kinh doanh tại nước
tiếp nhận đầu tư mà việc kinh doanh đó do chính các chủ đầu tư nước ngoài
thực hiện hoặc kết hợp với chủ đầu tư của nước tiếp nhận đầu tư thực hiện.
Từ đó, có thể rút ra hai đặc điểm cơ bản của FDI là:
- Có sự dịch chuyển tư bản trong phạm vi quốc tế;
- Chủ đầu tư (pháp nhân, thể nhân) trực tiếp tham gia vào hoạt động
sử dụng vốn và quản lý đối tượng đầu tư.
Hiện nay quá trình đầu tư trực tiếp nước ngoài diễn ra tại hầu hết các
nước trên thế giới. Về mặt pháp lý, khái niệm về FDI đã trở thành một khái
niệm phổ biến được ghi nhận trong các đạo luật, đó là Luật khuyến khích đầu
tư (ở Thái Lan), Luật khuyến khích đầu tư áp dụng cho từng ngành (ở Hàn
Quốc) hoặc Luật riêng về đầu tư trực tiếp nước ngoài (ở Indonesia, Việt
Nam)
Theo Luật Đầu tư của Indonesia thì: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là
nhằm mục đích thực hiện kinh doanh tại Indonesia, với nhận thức rằng người
chủ sở hữu vốn phải trực tiếp gánh chịu rủi ro của đầu tư. Do đó, cần phải chỉ
ra khả năng vốn nước ngoài được sử dụng trong một doanh nghiệp hoặc được
sử dụng trong một doanh nghiệp có hợp tác với vốn trong nước. Vốn nước ngoài
không chỉ là ngoại tệ mà bao gồm cả các tài sản cố định cần thiết cho hoạt
động của doanh nghiệp ở Indonesia, phát minh sáng chế thuộc sở hữu của tổ

chức, người nước ngoài được sử dụng vào doanh nghiệp ở Indonesia, và lợi
nhuận lẽ ra được chuyển ra nước ngoài nhưng lại được sử dụng ở Indonesia
[100].
Trong quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài, đối với nước xuất khẩu tư
bản, đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem như việc di chuyển tư bản ra nước
ngoài nhằm thiết lập ở đó những hoạt động kinh doanh nhất định để thu lợi
9
nhuận; còn đối với nước tiếp nhận đầu tư nó lại là việc tiếp nhận vốn của
người nước ngoài để cho phép chủ đầu tư nước ngoài tổ chức các hoạt động
kinh doanh theo những hình thức mà pháp luật quy định. Điều đó cho thấy,
dù nhìn nhận dưới góc độ nào FDI cũng đều là hoạt động kinh doanh quốc tế
dựa trên cơ sở của quá trình di chuyển tư bản giữa các quốc gia, chủ yếu do
các pháp nhân và thể nhân thực hiện theo những hình thức nhất định mà qua
đó chủ đầu tư trực tiếp tham gia vào quá trình đầu tư.
Ở Việt Nam, văn bản pháp lý đầu tiên về đầu tư trực tiếp nước ngoài
là Điều lệ về đầu tư của nước ngoài tại Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được ban hành kèm theo Nghị định số 115/CP ngày 18/4/1977. Điều lệ này
không nêu định nghĩa cụ thể FDI nhưng trong tư tưởng của các quy phạm thì
khái niệm FDI cũng cơ bản giống như khái niệm được ghi nhận sau này trong
các Luật Đầu tư như sau: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước
ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào được
Chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc
thành lập doanh nghiệp liên doanh, hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
(khoản 3, Điều 2, Luật Đầu tư 1987; khoản 1, Điều 2, Luật Đầu tư 1996).
Như vậy, về mặt pháp lý, khái niệm FDI được đề cập trong luật của
các quốc gia chỉ giới hạn phạm vi nhìn nhận về FDI dưới con mắt của nước
tiếp nhận đầu tư. Khái niệm này không bao gồm hoạt động đầu tư gián tiếp
nước ngoài, cũng không bao gồm các quan hệ thương mại thông thường.
Tuy nhiên, một điều cần chú ý khi nghiên cứu là, khái niệm đầu tư
trực tiếp theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam với giới hạn như trên khác

với khái niệm đầu tư nước ngoài trong các Hiệp định khuyến khích và bảo hộ
đầu tư mà Việt Nam đã ký kết với các nước. Theo các Hiệp định này, thuật
ngữ "đầu tư nước ngoài" được sử dụng để chỉ các loại tài sản mà các nhà đầu
tư của nước ký kết này dùng để đầu tư vào nước ký kết hữu quan kia. Khái
niệm đó cũng được sử dụng để chỉ các giá trị tài sản của các nhà đầu tư của
10
các nước hữu quan. Danh mục các tài sản và giá trị tài sản được gọi là "đầu
tư" đó rất rộng, từ những cái rất cụ thể như "cổ phần", "bản quyền", các "động
sản", "bất động sản" đến những cái rất trừu tượng như "yêu sách về tiền được
sử dụng để tạo ra các giá trị kinh tế", "yêu sách về dịch vụ có giá trị kinh tế"
hoặc "địa nhượng theo công pháp" [10]. Nội dung khuyến khích và bảo hộ
đầu tư trong các Hiệp định này bao gồm việc khuyến khích và bảo hộ đầu tư
đối với cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
1.1.2. Đầu tư nước ngoài dưới góc độ so sánh
Để làm rõ hơn khái niệm FDI, việc so sánh FDI với đầu tư gián tiếp
nước ngoài, các quan hệ thương mại có nhân tố nước ngoài và đầu tư trong
nước là hết sức cần thiết.
1.1.2.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư gián tiếp nước ngoài
Để phân biệt FDI và đầu tư gián tiếp nước ngoài, trước hết cần nghiên
cứu tổng quát về các nguồn tài chính nước ngoài du nhập vào một nước.
Dòng vốn tư bản nước ngoài du nhập vào một nước bằng hai kênh:
1) kênh nhà nước có tên gọi là Tài chính phát triển chính thức (Official
Development Finance - ODF); 2) kênh tư nhân có tên gọi là các nguồn tư
"nhân (Total Private Flows - TPF). Kênh nhà nước còn gọi là kênh chính thức
hoặc kênh công quản (Official). Hình thức chủ yếu của kênh nhà nước là hỗ
trợ hay viện trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance -
ODA) gồm viện trợ cho không (Official Grants) và cho vay dài hạn với lãi
suất thấp có tên gọi là cho vay ưu đãi chính thức (Official Concessional
Loans). Ngoài ra, còn có hình thức cho vay dài hạn thông thường có tên gọi là
cho vay không ưu đãi chính thức (Official Nonconcessional Loans). Hình

thức chủ yếu của kênh tư nhân là đầu tư trực tiếp của nước ngoài (Foreign
Direct Investment - FDI) và đầu tư gián tiếp bằng đóng góp vốn cổ phần (đầu
tư chứng khoán lãi không cố định - Porfolio Equity Flows) cùng các nguồn
vay tư nhân. Các nguồn vay tư nhân gồm vay ngân hàng thương mại
11
(Commercial Bank) với lãi suất trên thị trường, vay dưới hình thức phát hành
trái phiếu (Bond Debt Flows) và các nguồn tư nhân khác. Hình thức đầu tư
chứng khoán lãi không cố định (Porfolio Equity Flows) và vay dưới hình thức
trái phiếu (Bond Debt Flows) hợp thành hình thức đầu tư chứng khoán nói
chung (Porfolio Investment).
(1)- Phân biệt Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và Hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA): Sự khác biệt về chủ thể đầu tư được thể hiện ở chỗ, trong
đầu tư gián tiếp (dưới hình thức ODA), chủ thể chủ yếu là các quốc gia và các
tổ chức tài chính quốc tế. Trong khi đó, chủ thể chủ yếu thực hiện các hoạt
động đầu tư trực tiếp là thể nhân và các pháp nhân.
Về nguồn vốn, trong FDI, vốn đầu tư bao gồm tiền mặt, sở hữu công
nghiệp và các tài sản khác được nước nhận đầu tư chấp nhận. Khác với nguồn
FDI, các loại nguồn ODA bao gồm: a) hỗ trợ tài chính: Cung cấp tiền ở dạng
cho không hay cho vay lãi suất thấp. Khi hỗ trợ tài chính ở dạng song phương
thì nó có thể bị ràng buộc với việc phải mua hàng ở nước tài trợ; b) Hỗ trợ kỹ
thuật: Cung cấp cố vấn và những chuyên gia kỹ thuật mà nước tiếp nhận đang
thiếu (nhưng cũng quy ra tiền thông qua lương và các khoản thù lao trả cho
các cố vấn, chuyên gia đó); hỗ trợ bằng hiện vật dưới dạng hàng hóa như tư
liệu sản xuất, lương thực, thực phẩm v.v
Về mục đích, quan hệ FDI là quan hệ kinh doanh theo cơ chế thị
trường, có mục đích kinh doanh. Vì vậy, lợi nhuận là mục tiêu cao nhất và
cuối cùng của các chủ đầu tư. Còn trong đầu tư gián tiếp dưới hình thức
ODA, kinh doanh và lợi nhuận không phải là mục tiêu trực tiếp của chủ đầu
tư bởi quan hệ này không phải là quan hệ kinh doanh một cách thuần túy.
Mục đích ODA có thể là: a) Tính đoàn kết quốc tế như quyết định của Liên

Hợp Quốc là các nước giàu phải dành 0,7% GDP cho viện trợ cho các nước
nghèo; b) Lợi ích thương mại: Các nước tài trợ muốn dùng viện trợ như một
biện pháp để tăng cường xuất khẩu sang các nước đang phát triển và có thể áp
12
dụng các ràng buộc thương mại đối với phần viện trợ của họ; c) Lợi ích chính
trị: Các nước tài trợ muốn khuyến khích Chính phủ các nước tiếp nhận viện
trợ thay đổi chính sách của họ về khía cạnh nào đó, ví dụ như: Thay đổi chính
sách kinh tế vĩ mô, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, chống tham nhũng; các yêu cầu
liên quan tới nhân quyền, dân chủ và vai trò của khu vực nhà nước
Thực ra, cần thấy rằng ODA không phải là sự chuyển giao
đơn thuần và những nhà tài trợ không hoàn toàn "vô tư". Trong
nhiều trường hợp, nước nhận ODA phải tăng cường nhập khẩu các
hàng hóa và dịch vụ của nước tài trợ và mở cửa ưu đãi cho các công
ty của những nước này chiếm các hợp đồng béo bở trong các dự án
có nhận vốn ODA. Đó là lý do khiến nhiều nhà kinh tế ví von ODA
như là mũi khoan của một nước giàu, có thể xuyên thủng bức tường
bảo hộ mậu dịch của một nước khác [89].
Về tính chất, vì quan hệ FDI là quan hệ có mục đích kinh doanh, tìm
kiếm lợi nhuận nên nó chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế trong nền
kinh tế thị trường, ít chịu ảnh hưởng bởi các quan hệ chính trị. Hoạt động đầu
tư trực tiếp nước ngoài là việc các chủ đầu tư nước ngoài đưa vốn vào nước
tiếp nhận đầu tư để kinh doanh. Vì vậy, FDI không thể biến nước tiếp nhận
đầu tư thành con nợ của nước có tư bản xuất khẩu qua đầu tư trực tiếp. Còn
đối với đầu tư gián tiếp ODA thì sao ? Quan hệ đầu tư gián tiếp này là quan
hệ mang màu sắc chính trị, bị ảnh hưởng bởi quan hệ giữa các quốc gia với
nhau và với các tổ chức tài chính quốc tế, ít chịu sự chi phối của các quy luật
kinh tế. Trong đầu tư gián tiếp, viện trợ không hoàn lại không phải là phổ
biến mà phổ biến là quan hệ cho vay ưu đãi. Như vậy, đầu tư gián tiếp biến
nước tiếp nhận đầu tư thành con nợ của nước hay tổ chức quốc tế đã xuất
khẩu tư bản qua các quan hệ đầu tư gián tiếp. Hơn nữa, nước tiếp nhận đầu tư

gián tiếp không chỉ bị biến thành con nợ mà còn phải bảo đảm một số điều
kiện khác mang tính chính trị như phải bảo đảm tốc độ tăng trưởng, ổn định tỷ
lệ lạm phát, cân bằng cán cân thanh toán, phải giảm chi thường xuyên từ ngân
13
sách Nhà nước, phải có dự án đầu tư cụ thể thì mới được tiếp nhận vốn đầu
tư với hình thức chủ yếu là vay vốn tín dụng ưu đãi. Về vấn đề này, Báo cáo
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tháng 3/1996 đã đề cập:
Bên cạnh những thuận lợi to lớn ở trong nước và quốc tế đối
với việc thu hút và sử dụng ODA, chúng ta còn nhiều khó khăn và
thách thức. ODA trên thế giới là nguồn vốn có hạn, lại có sự cạnh
tranh gay gắt giữa các nước đang phát triển. ODA và chính trị đi
liền với nhau, các nước cung cấp ODA thường hay gắn các điều
kiện để mưu tìm lợi ích kinh tế hoặc chính trị. Phần lớn ODA là vốn
vay, tuy có phần ưu đãi song phải trả nợ, nếu không tính toán đúng
đắn sẽ có nguy cơ mắc phải nợ nần [3].
Báo Asahi Shibun, ngày 13/6/1996 của Nhật Bản cũng đã coi "ODA
là vũ khí ngoại giao quan trọng nhất của Nhật Bản" [76].
(2)- Phân biệt FDI với đầu tư gián tiếp nước ngoài của pháp nhân,
thể nhân: Pháp nhân, thể nhân khi tiến hành đầu tư với mục đích tìm kiếm lợi
nhuận tại một quốc gia khác, họ trở thành nhà đầu tư nước ngoài. Hình thức
đầu tư mà họ có thể lựa chọn là đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp.
Các hình thức đầu tư này, tuy có điểm giống nhau về chủ thể đầu tư và
mục đích kinh doanh nhưng khác nhau về bản chất và nội dung quản lý vốn, đối
tượng đầu tư, thủ tục tiến hành và nguồn luật điều chỉnh.
Về bản chất, trong đầu tư trực tiếp, chủ thể đầu tư và vốn đầu tư luôn
gắn bó chặt chẽ với nhau. Các nhà đầu tư trực tiếp quản lý vốn đầu tư của
mình, trực tiếp điều hành hoặc tham gia điều hành dự án đầu tư, thu lợi nhuận
và trực tiếp gánh chịu rủi ro từ hoạt động đầu tư. Trong đầu tư gián tiếp, các
nhà đầu tư thực hiện đầu tư thông qua việc mua cổ phiếu, trái phiếu của các
doanh nghiệp ở nước nhận đầu tư hoặc cho các doanh nghiệp ở nước nhận

đầu tư vay vốn tín dụng. Việc thu lợi nhuận được thực hiện qua qua lãi cổ tức
14
hoặc lãi suất thỏa thuận. Các chủ đầu tư gián tiếp nước ngoài không trực tiếp
điều hành quản lý hoạt động kinh doanh của dự án họ bỏ vốn đầu tư. Các
doanh nghiệp tiếp nhận vốn đầu tư có toàn quyền chủ động sử dụng và quản
lý vốn đầu tư theo mục đích của dự án đầu tư.
Trong đầu tư trực tiếp, vốn đầu tư có thể bằng tiền, tài sản khác hoặc
bằng công nghệ. Vì vậy, thông qua FDI, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được
công nghệ tiên tiến và học hỏi được kinh nghiệm quản lý do nhà đầu tư nước
ngoài đưa vào. Đối với đầu tư gián tiếp, vốn chỉ có thể là tiền, không thể là
hiện vật hoặc công nghệ. Vì vậy, doanh nghiệp nhận vốn không thể tiếp nhận
công nghệ hiện đại trực tiếp từ việc tiếp nhận vốn đầu tư gián tiếp của các nhà
đầu tư nước ngoài.
Ở nước ta, nguồn luật điều chỉnh hoạt động FDI là Luật Đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam và các văn bản có liên quan. Nguồn luật điều chỉnh hoạt
động đầu tư gián tiếp là một số văn bản khác, thích ứng với từng trường hợp
như: các quy định về bán cổ phiếu, trái phiếu cho nhà đầu tư nước ngoài trong
Luật Khuyến khích đầu tư trong nước và các văn bản có liên quan, các quy
định về vay vốn tín dụng nước ngoài trong các Luật về doanh nghiệp, Luật về
ngân hàng
Độ an toàn về kinh tế cho nước tiếp nhận đầu tư cũng thể hiện sự khác
biệt lớn giữa hai hình thức đầu tư nói trên. Đầu tư gián tiếp của thể nhân,
pháp nhân nước ngoài tuy có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế
của nước nhận đầu tư nhưng lại biến nước nhận đầu tư thành con nợ. Đa số
nguồn vốn này là cổ phiếu, trái phiếu được chuyển nhượng dễ dàng qua thị
trường chứng khoán. Vì vậy, rất dễ xảy ra tình trạng rút vốn ồ ạt mà nước
nhận đầu tư không kiểm soát nổi. Tình hình này sẽ gây tác động xấu đối với
nền kinh tế. Ngược lại, FDI không có các đặc điểm như vậy nên việc tiếp
nhận FDI có độ an toàn về kinh tế cao hơn cho nước tiếp nhận đầu tư. Báo
15

cáo về "Triển vọng phát triển châu Á" (ADO) của Ngân hàng Phát triển châu
Á (ADB), tháng 4 năm 2001 đã phân tích lý do của dòng vốn đầu tư gián tiếp
trên thế giới gồm cổ phiếu, trái phiếu và các quỹ đầu tư khác (gồm cả vay tín
dụng ngân hàng) đã: "tăng lên khi các thị trường được nới lỏng kiểm soát và
các nhà đầu tư nhìn thấy cơ hội tìm kiếm nhiều lợi nhuận". Cùng với sự rút
vốn ồ ạt ra khỏi các thị trường kém hấp dẫn, các hoạt động đầu tư gián tiếp
này "suy yếu dần sau cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Mê-hi-cô năm 1995" và
"sụp đổ hoàn toàn sau cuộc khủng hoảng tài chính ở châu Á vào năm 1997-
1998". Vào thời điểm này, nguồn vốn đầu tư gián tiếp đã giảm đến 87% so với
đỉnh cao năm 1996, làm cho nền tài chính của nhiều nước càng nhấn sâu vào
khủng hoảng. Trong khi đó "đầu tư trực tiếp nước ngoài tỏ ra ổn định hơn nhiều
so với dòng vốn đầu tư gián tiếp trong suốt cuộc khủng hoảng tài chính ở châu
Á. Hơn nữa có một nhận thức rõ ràng rằng nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài
không thể dễ dàng tháo gỡ máy móc ra khỏi nhà máy khi họ mất niềm tin và
muốn rút lui" [66, tr. 2; 33].
1.1.2.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư trong nước
Đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, dù xét dưới giác độ đều là
đầu tư trực tiếp, không có sự tách rời quyền quản lý của chủ đầu tư và vốn
đầu tư nhưng cũng có nhiều sự khác nhau do bản chất về vốn và tính chất của
chủ đầu tư quy định.
Về hình thức biểu hiện, sự khác biệt chủ yếu thể hiện qua chủ thể đầu
tư, nguồn gốc vốn đầu tư và hình thức đầu tư. Trong FDI, bắt buộc phải có sự
hiện diện của các nhân tố nước ngoài, đó là vốn đầu tư và quốc tịch của chủ
thể đầu tư. Ngược lại, đối với đầu tư trong nước, pháp luật không có đòi hỏi
mang tính bắt buộc này.
Về các hình thức đầu tư theo các quy định của pháp luật Việt Nam,
đầu tư nước ngoài được thực hiện dưới các hình thức: doanh nghiệp liên
doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hợp đồng hợp tác kinh doanh;
16
còn đầu tư trong nước được thực hiện theo các hình thức: doanh nghiệp nhà

nước, hợp tác xã, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp
danh, doanh nghiệp tư nhân
Pháp luật Việt Nam có nhiều quy định về thủ tục và điều kiện đầu tư, sự
khuyến khích hay hạn chế đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài khác với đầu tư
trong nước. Ngược lại, ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển, chế độ
đối xử đối với các nhà đầu tư trong nước cũng như các nhà đầu tư nước ngoài
được áp dụng trên một mặt bằng pháp lý chung.
1.1.2.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với các quan hệ thương mại có
yếu tố nước ngoài
Các quan hệ này đều là quan hệ kinh tế có yếu tố nước ngoài. Các yếu tố
nước ngoài được thể hiện qua chủ thể, hàng hóa, tiền tệ, nơi thực hiện quan
hệ.
Các quan hệ hợp đồng trong đầu tư trực tiếp nước ngoài (hợp đồng
liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh ) có nhiều điểm khác biệt nếu so
sánh với các quan hệ thương mại hàng hóa như quan hệ thông qua các hợp
đồng xuất nhập khẩu hàng hóa, gia công hàng hóa, chuyển giao công nghệ
Bản chất của FDI là việc di chuyển tư bản từ nước này sang nước
khác để kinh doanh và chủ đầu tư không bị tách rời khỏi vốn đầu tư như trên
đã phân tích. Quan hệ hợp đồng trong đầu tư trực tiếp là quan hệ hợp tác
nhằm thực hiện một dự án đầu tư, không phản ánh trực tiếp sự ngang giá về
hàng - tiền. Các quan hệ này chịu sự điều chỉnh của pháp luật về FDI và có
thời hạn kéo dài theo thời hạn của dự án đầu tư. Còn các quan hệ thương mại
là các quan hệ trao đổi hàng - tiền giữa các chủ thể trong từng vụ việc cụ thể,
theo nguyên tắc ngang giá (tính chất có đền bù); dù có sự chuyển dịch hàng -
tiền quan biên giới, từ nước này qua nước khác nhưng không kéo theo sự
quản lý của chủ sở hữu. Sự chuyển giao quyền quản lý và trách nhiệm gánh
chịu rủi ro giữa chủ thể này với chủ thể khác ở các quốc gia khác nhau trong
17
quan hệ thương mại hàng hóa đi liền với đối tượng chuyển giao. Các quan hệ
này chịu sự điều chỉnh của pháp luật về thương mại.

1.1.3. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Thực tiễn thế giới cũng như ở Việt Nam đã phản ánh rằng FDI có vai
trò hết sức to lớn đối với nước tiếp nhận đầu tư, đặc biệt những nước đang
phát triển. Đây là một vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng và thông thường, nó
luôn được đề cập trong các công trình nghiên cứu về FDI. Vốn, công nghệ và
kinh nghiệm quản lý tiên tiến, khai thác tài nguyên, hợp lý hóa cơ cấu kinh tế
để phát triển đất nước, tạo công ăn việc làm là nhu cầu và nguyện vọng của
bất cứ quốc gia nào. Đối với những nước nghèo, chậm phát triển nó lại càng
là mơ ước mà khó có thể tự mình thực hiện. Trong thực tế nhiều năm qua, FDI
đã giúp cho các nước nghèo thực hiện dần những nguyện vọng đó của mình. Vì
vai trò quan trọng của FDI nên ngày nay kể cả các nước phát triển và đang phát
triển đều đang ra sức cạnh tranh để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đem lại cho nước chủ nhà nhiều mối lợi.
Thể hiện rõ ràng nhất là việc chuyển giao vốn, công nghệ hiện đại và kỹ năng
quản lý nếu không có FDI sẽ không có được hoặc có với giá rất đắt Đầu tư
trực tiếp nước ngoài của các công ty đa quốc gia sản xuất để xuất khẩu giúp
nước chủ nhà có thể tiếp cận được với thị trường nước ngoài [46, tr. 32].
Có nhiều công trình nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài đề cập
đến vai trò của FDI với mức độ khác nhau. Theo chúng tôi, các vai trò sau
đây của FDI là đặc biệt đáng ghi nhận.
1.1.3.1. Bổ sung vốn cho nền kinh tế
Trước hết, FDI đóng vai trò là một nguồn cung cấp vốn lớn, góp phần
giải quyết tình trạng thiếu vốn đầu tư - một căn bệnh kinh niên và phổ biến
của bất kỳ quốc gia chậm phát triển nào. Ở Indonesia, sau khi ban hành Luật
Đầu tư nước ngoài năm 1967, FDI đã cung cấp một lượng vốn bình quân
18
trong 27 năm (1967 - 1994) là 1,15 tỷ USD. Ở Philippines, FDI đã cung cấp
170 triệu USD năm 1987 và tăng gấp 16 lần vào năm 1994 (2,66 tỷ USD).
Trong những năm Philippines đang trên đà tăng trưởng kinh tế ở mức cao họ
vẫn cho rằng nếu sử dụng vốn nước ngoài hợp lý thì có thể khuyến khích

được tính hiệu quả của nền kinh tế và từ năm 1991 Philippines không còn coi
đầu tư nước ngoài vào nền kinh tế nội địa là "chủ nghĩa đế quốc kinh tế" nữa,
mà coi đó là "sự cần thiết và bây giờ phải mở cửa" [97]. Ở Trung Quốc, FDI
đã cung cấp cho đất nước rộng lớn này 87 tỷ USD vốn thực hiện trong 15
năm 1979 đến năm 1994 và hàng trăm tỷ USD từ năm 1995 đến năm 2001
Một nước phát triển cao như Mỹ với tổng GNP là 7.233 tỷ USD (1995) và
tổng vốn đầu tư là 1.029 tỷ USD (1995), FDI cũng làm tăng thêm nguồn sinh
khí mới cho thị trường đầu tư của Mỹ. Đối với các nước đang rất thiếu vốn để
công nghiệp hóa như Việt Nam thì FDI càng có tầm quan trọng hơn. Vốn FDI
được sử dụng sẽ có tác động thúc đẩy các đồng vốn khác trong nước hoạt
động (một số nhà kinh tế đã tính rằng 1 đồng vốn FDI đã làm cho 4 đồng vốn
trong nước hoạt động theo) [60]. Lý do là, các nhà đầu tư nước ngoài vào
nước ta phải sử dụng đường sá, cầu cống, bến cảng, đất đai, nhà ở, bệnh viện,
trường học của ta và họ phải trả phí dịch vụ cho các hoạt động đó, và như
vậy đã làm cho các đồng vốn bỏ vào các lĩnh vực trên hoạt động náo nhiệt
hơn. Một vùng đất hoang không có giá trị nay được chủ đầu tư sử dụng, lập
tức có giá trị hàng triệu USD. Một kết quả nghiên cứu khác ở Singapore cũng
cho thấy rằng vốn đầu tư nước ngoài tăng bao nhiêu thì đầu tư trong nước
cũng tăng bấy nhiêu tại nước chủ nhà [103].
Ở Việt Nam, tính đến hết năm 1995, vốn FDI đã được thu hút với mức
vốn đăng ký là 19,353 tỷ USD, mức vốn thực hiện khoảng 30% (bình quân
gần 1 tỷ USD/năm trong giai đoạn 1988 - 1996). Tốc độ thu hút vốn FDI ở Việt
Nam từ 1988 - 1995 tăng bình quân 50%/năm [4]. Trong giai đoạn 1996 - 2000:
19
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục gia tăng đóng góp tích
cực vào phát triển kinh tế - xã hội, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (không kể phần góp vốn trong nước) đạt khoảng 10 tỷ USD
gấp 1,5 lần so với 5 năm trước. Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
cấp mới và bổ sung đạt 24,6 tỷ USD, tăng so với thời kỳ trước 34%
[26, tr.238].

Theo đánh giá của Vụ Quản lý dự án thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
"tỷ trọng nguồn vốn FDI trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội đã tăng từ 25,75%
thời kỳ 1991-1995 lên khoảng 30% trong những năm 1996-2000" [32]. Năm
2001, vốn thực hiện đạt 2,2 tỷ USD, vốn đăng ký mới và bổ sung thêm đạt
2,8 tỷ USD [17, tr. 7]. Dự kiến vốn FDI được thực hiện trong kế hoạch 5 năm
2000-2005 khoảng 9 - 10 tỷ USD, bao gồm vốn các dự án đã được cấp phép
chưa được thực hiện của các năm trước; vốn thực hiện các dự án cấp phép
mới và vốn bổ sung các dự án đã thực hiện [26, tr. 269].
Những con số nêu trên cho thấy FDI có vai trò rất quan trọng trong
việc trực tiếp bổ sung vốn, đồng thời kích thích việc tăng đầu tư nội địa cho
sự nghiệp phát triển kinh tế của mỗi nước.
1.1.3.2. Cung cấp công nghệ mới cho sự phát triển
Bên cạnh vai trò cung cấp vốn, FDI mang lại cho nước tiếp nhận đầu
tư những kỹ thuật công nghệ tiên tiến, góp phần phát triển lực lượng sản xuất,
cơ cấu lại nền kinh tế Thực tế cho thấy rằng, kỹ thuật và công nghệ nước
ngoài đã giúp cho Malaysia thực hiện thành công chiến lược "công nghiệp
hóa thay thế hàng nhập khẩu" và chiến lược "hướng về xuất khẩu". Từ chỗ cơ
cấu kinh tế lạc hậu, kỹ thuật thủ công, phân tán, lực lượng sản xuất kém phát
triển, đến giữa những năm 1980, Malayxia đã là nước xuất khẩu lớn nhất thế
giới về găng tay cao su, thứ hai thế giới về chất bán dẫn và tinh thể sơ đồ tích
phân và thứ ba thế giới về máy điều hòa nhiệt độ [29, tr. 20]. Rõ ràng là, chỉ
20
có đầu tư nước ngoài với trình độ kỹ thuật cao phương pháp sản xuất tiên tiến
và khả năng thâm nhập thị trường thế giới của các công ty xuyên quốc gia
mới tạo được thành công nói trên.
Cũng phải kể đến một xu hướng nữa trong FDI là trong nhiều trường
hợp, các nước phát triển còn mang vào các nước chậm phát triển những công
nghệ tiến tiến hơn ngay cả so với nước mình. Ví dụ ở Nhật Bản, do đồng Yên
tăng giá nên ngày càng nhiều các công ty của Nhật Bản mang những công
nghệ tiến tiến nhất ra nước ngoài để sản xuất hàng hóa rồi nhập khẩu trở lại

Nhật Bản nhằm thu lợi nhuận cao. Đã có thời kỳ các doanh nghiệp có vốn đầu
tư của Nhật Bản ở Malaixia và Philippines chiếm giữ gần 60% kim ngạch
xuất khẩu vào Nhật Bản của những nước này (năm 1987).
Ở Việt Nam, qua FDI chúng ta đã tiếp nhận được một số thiết bị kỹ
thuật, công nghệ tiên tiến trong nhiều ngành kinh tế kỹ thuật quan trọng như:
thông tin viễn thông, thăm dò dầu khí, công nghiệp điện tử, sản xuất và lắp
ráp ô tô, xe máy, hóa chất, công nghệ sinh học phần lớn các thiết bị đưa
vào nước ta thuộc loại trung bình của thế giới và tiên tiến hơn những thiết bị
ta đã có.
1.1.3.3. Đào tạo nguồn nhân lực
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò như là một hình thức đào tạo
giúp nước tiếp nhận đầu tư kiến thức sử dụng công nghệ hiện đại và học tập
kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài trong sản xuất kinh doanh, nâng
dần trình độ sản xuất kinh doanh của đất nước, hòa nhập vào phân công lao
động quốc tế. Trong một thời gian dài của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, các
giám đốc sản xuất kinh doanh của Việt Nam thường chỉ làm theo kế hoạch và
sự bao cấp của Nhà nước, tính năng động sáng tạo bị hạn chế. Khi bước sang
cơ chế thị trường, không ít người tỏ ra lúng túng, bất cập với công tác quản lý
mới và rất cần nâng cao trình độ v.v Việc cùng làm, cùng chịu trách nhiệm
21
với các nhà quản lý nước ngoài trong các dự án đầu tư để học hỏi kinh
nghiệm của họ là một con đường đào tạo ngắn và có hiệu quả. Qua hơn 15
năm thực hiện công cuộc đổi mới, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của Việt
Nam tuy đã có nhiều tiến bộ song "nói chung vẫn còn nhiều hạn chế" [60].
Các nhà đầu tư nước ngoài vào làm ăn ở Việt Nam sẽ đưa các chuyên gia
quản lý vào áp dụng chế độ quản lý doanh nghiệp hiện đại, có hiệu quả vào
nước ta. Các nhà doanh nghiệp nước ta sẽ có cơ hội học tập và phát triển.
Hơn thế nữa, FDI cũng góp phần đào tạo một đội ngũ công nhân có
trình độ kỹ thuật cao cho đất nước, hạn chế tình trạng thất nghiệp, nâng cao
mức thu nhập cho người lao động. Trung Quốc và các nước ASEAN đều có

chính sách khuyến khích các dự án đầu tư nước ngoài có sử dụng nhiều lao
động. Ở Việt Nam, trong giai đoạn 1996 - 2000 "Khu vực kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài đã thu hút trên 35 vạn lao động trực tiếp" [17, tr. 239]. Ngoài
ra, FDI còn gián tiếp tạo việc làm và thu nhập cho hàng chục vạn lao động
làm việc trong các ngành xây dựng, thương mại và dịch vụ liên quan [6]. Một
kết quả nghiên cứu của các chuyên gia quốc tế đã chỉ ra rằng, cứ mỗi việc làm
do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra thì ít nhất có 1,6 việc
làm được tạo ra trong các khu vực khác nhau của nền kinh tế [99].
Tiền lương của người lao động, về cơ bản được giải quyết phù hợp với
quy định, cao hơn mức lương của người lao động cùng loại trong nhiều doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Thu nhập bình quân một lao động
của năm 1996 là 136 USD/tháng, trong đó thu nhập của người Việt Nam là
94 USD/ tháng (riêng ngành dầu khí 692 USD/tháng, các ngành khác phổ
biến trong khoảng 55 đến 80 USD/tháng, thấp nhất dưới 35 USD/tháng). Thu
nhập của lao động người Việt Nam tăng bình quân 5,8%/năm,
1.1.3.4. Góp phần mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu
22
Trong thời đại ngày nay, nước ta cũng như các nước trên thế giới đều
có nhu cầu mở rộng thị trường cả trong nước và nước ngoài. Thị trường nội
địa của nước ta tuy không lớn nhưng phần lớn số hàng nhập khẩu là hàng
trong nước chưa sản xuất được. Đó là cơ sở chủ yếu thúc đẩy các nhà đầu tư
nước ngoài đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Như vậy, thị phần họ nhằm là thị
phần hàng hóa thay thế hàng nhập khẩu của Việt Nam, trước hết là những mặt
hàng nhập khẩu mà Việt Nam chưa thể sản xuất được.
Việc mở rộng thị phần của Việt Nam ở nước ngoài còn có ý nghĩa
quan trọng hơn nhiều nhưng năng lực tiếp thị ngoài nước, trình độ công nghệ
và quản lý của nhiều doanh nghiệp đầu tư trong nước rất hạn chế. Trong vấn
đề này, các công ty nước ngoài đầu tư trực tiếp vào Việt Nam sẽ có ưu thế
hơn bởi họ am hiểu thị trường thế giới, có các cơ sở tiếp thị ở các thị trường
quan trọng. Với sức mạnh về công nghệ và vốn, cùng với việc sử dụng lợi thế

về lao động, địa lý và tài nguyên của Việt Nam, họ có khả năng vượt trội hơn
tất cả các công ty nội địa Việt Nam trong việc mở rộng thị trường bên ngoài,
cạnh tranh với các công ty xuyên quốc gia để xuất khẩu. Với việc họ trở thành
pháp nhân Việt Nam xuất hiện trên thương trường thế giới như trên thì khả
năng mở rộng thị trường nước ngoài của Việt Nam sẽ thuận lợi hơn nhiều.
Kinh nghiệm của Malayxia cho thấy, nếu không có các công ty xuyên quốc
gia nước ngoài thì nước này khó có thể mở rộng xuất khẩu như hiện nay.
Ở Việt Nam, giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
chiếm một phần đáng kể trong số kim ngạch xuất khẩu hàng năm của cả
nước: Năm 1994 chiếm 27,1%; 1995 chiếm 24,7%; 1996 chiếm 24,5% tổng
kim ngạch XK cả nước; năm 2001,"nếu kể cả dầu khí thì các doanh nghiệp
FDI hiện đóng góp đến gần một nửa trị giá xuất khẩu của nền kinh tế" [72, tr.
7].
1.1.3.5. Góp phần tăng thu ngân sách, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng
23
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, năm 1994 tổng số nộp ngân sách
là 621 triệu USD, năm 1995: 738 triệu USD, năm 1996 là 980 triệu USD,
tăng bình quân 25,6%/năm. Trong đó, ngành dầu khí chiếm từ 56% đến 60 %,
công nghệ chế biến chiếm từ 30% đến 32%. Khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài đã tạo ra những sản phẩm, những ngành kinh tế cá biệt mới có kỹ thuật
công nghệ cao như: Khai thác dầu khí, lắp ráp ô tô, xe máy, sản xuất một số
mặt hàng điện tử gia dụng và thiết bị điện tử chính xác, áp dụng kỹ thuật tiên
tiến vào một số lĩnh vực của ngành trồng trọt, chế biến mía đường, cao su
và chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong nền kinh tế nước ta. Thể hiện đậm nét
nhất là ngành công nghiệp. Vốn đầu tư nước ngoài trong ngành công nghiệp
năm 1995 chiếm 25,04% giá trị sản xuất, năm 1996 là 26,73% và 1997 là
28,55%. Theo niên giám thống kê năm 1996, khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài đã có mặt ở 24 ngành công nghiệp, từ lĩnh vực khai thác đến chế biến,
từ sản xuất thực phẩm, đồ uống đến những ngành công nghiệp nhẹ, điện và
điện tử Năm 1996, ở một số ngành sản xuất công nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài đã vượt cả khu vực ngoài quốc doanh về giá trị sản xuất như sản xuất
radio, ti vi, thiết bị truyền thông, sản xuất sửa chữa xe có động cơ, sản xuất
sửa chữa vận tải thủy
Sơ bộ tính toán kết quả sản xuất của khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài chiếm khoảng 6,58% GDP của năm 1995, 7,27% GDP của năm 1996,
7,48% GDP của năm 1997 [30], 11,75% của năm 1999 [32] và 13,3% của
năm 2000 [15, tr. 16]. Những ngành kinh tế có tỷ trọng đầu tư trực tiếp của
nước ngoài cao như: Công nghiệp, vận tải, thông tin liên lạc, khách sạn nhà
hàng, kinh doanh bất động sản và hoạt động tư vấn, là những ngành có tốc độ
phát triển cao nhất và vốn đầu tư nước ngoài có tác dụng quyết định.
Một công trình nghiên cứu của Công ty tư vấn đầu tư nước ngoài
(FIAS) đã đưa ra nhận xét:
24
Trong thời gian 4 năm 1994-1997, dòng vốn FDI vào Việt
Nam trung bình hơn 2,2 tỷ USD một năm thực sự là nhiều và là một
con số lớn so với quy mô của nền kinh tế Việt Nam. Tại năm đỉnh
điểm thu hút FDI, dòng vốn này chiếm tới hơn 11 % GDP, còn tỷ lệ
trung bình trong giai đoạn 1994-1997 là 9 % GDP. Con số này
không chỉ cao hơn các nước láng giềng nổi tiếng về thu hút vốn đầu
tư nước ngoài như Trung Quốc, Indonesia, Malayxia, Philippine,
Thái Lan mà Việt Nam còn đứng thứ nhất trong số các nước đang
phát triển và các nước đang trong giai đoạn chuyển tiếp, nếu không
tính đến các nước có dân số nhỏ hơn một triệu người [28, tr. 11].
Tóm lại, đầu tư trực tiếp nước ngoài đem lại những tác động tích cực
và lâu dài cho nền kinh tế. Xuất phát từ việc FDI có vai trò quan trọng và có
ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển kinh tế của đất nước mà người Malaixia
đã nhận xét rằng: trong một chừng mực nhất định FDI từ chỗ là "nhân tố
bên ngoài" chuyển thành "nhân tố bên trong" quyết định phần lớn tốc độ
tăng trưởng kinh tế, cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu, tốc độ và phương
hướng phát triển của ngành công nghiệp Malaysia. Còn theo Tạp chí Kinh tế

Viễn Đông thì sau khi có chính sách mở cửa và Luật Đầu tư nước ngoài,
nền kinh tế của Indonesia được coi như "người khổng lồ của Đông Nam Á
đang ngủ đã tỉnh dậy trở thành một quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế
nhanh" [101, tr. 41].
Ở Việt Nam FDI trong những năm qua đã góp phần đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng kinh tế của đất nước, khai thác tài nguyên, tạo việc làm góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sản xuất nhiều hàng hóa và dịch vụ có hàm lượng
kỹ thuật cao, đẩy mạnh xuất khẩu, đưa nước ta vào phân công lao động quốc
tế, tạo hình ảnh mới và vị thế mới với uy tín ngày càng tăng của Việt Nam
trên trường quốc tế. Một nghiên cứu của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cho thấy
rằng: "Ở Việt Nam, sự tăng trưởng thu nhập quốc dân mạnh, luồng FDI đổ
25

×