Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

vấn đề xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở việt nam hiện nay (qua thực tế các trường đại học khối xã hội nhân văn ở miền bắc việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.63 KB, 96 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Đảng ta khẳng định: "Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong
những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát
triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững" [14, tr. 108-109]. Ở đây
những nhiệm vụ trọng yếu, nền tảng của chương trình giáo dục đại học là
xây dựng một đội ngũ trí thức có nhân cách đạo đức trong sáng, làm chủ về
chuyên môn nghiệp vụ, khỏe mạnh về thể chất đáp ứng tốt yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Điều đó sẽ tạo ra hệ điều
chỉnh bên trong, tự giác, tự nguyện; làm cho sự quan tâm của con người đối
với người khác cũng như đối với lợi ích của xã hội trở thành nhu cầu và sự
thôi thúc từ nội tâm. Đây là yếu tố kích thích tính tích cực trong mỗi con
người, hướng họ biết giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa cá nhân và xã
hội, góp phần khắc phục sự mất cân đối trong quá trình phát triển con
người - xã hội dưới những tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học
- công nghệ và cơ chế thị trường hiện nay.
Việt Nam, sau hơn 15 năm đổi mới, chuyển sang phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đạt được những thành tựu đáng
tự hào. Bên cạnh đó, kinh tế thị trường lại là mảnh đất màu mỡ nảy sinh
nhiều yếu tố tiêu cực. Các tác động của kinh tế thị trường đã can thiệp, phá
vỡ nhiều nét đẹp của văn hóa truyền thống, chà đạp lên những khuôn mẫu
đạo đức, những giá trị đạo đức đích thực. Mặt khác, các thế lực thù địch
đang tiến công chúng ta trên lĩnh vực văn hóa, đạo đức, lối sống, nhất là
đối với thanh niên, sinh viên. Và thực tế ngày nay, đáng lo ngại là một bộ
phận học sinh, sinh viên suy thoái đạo đức, mờ nhạt lý tưởng, thực dụng,
1
thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai bản thân và tiền đồ đất
nước.
Như vậy, đổi mới, mở cửa, thuận lợi, khó khăn, thời cơ, nguy cơ đan
xen nhau. Trong đó, nhân tố đạo đức, giá trị của đời sống tinh thần của sinh


viên đang trở thành điểm nóng trong sự phát triển nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì thế, việc nghiên cứu vấn đề xây dựng
nhân cách đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay là một yêu cầu cơ bản và cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu
Về vấn đề xây dựng nhân cách, giáo dục đạo đức trong điều kiện
kinh tế thị trường hiện nay nói chung đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên
cứu ở những khía cạnh khác nhau, theo những cách tiếp cận khác nhau:
- Nhóm các tác giả đề cập đến mối quan hệ giữa kinh tế với đạo đức
đã làm rõ tính chất hai mặt của kinh tế thị trường và tác động của nó đối
với đời sống đạo đức: GS.TS Nguyễn Ngọc Long: "Quán triệt mối quan hệ
biện chứng giữa kinh tế và đạo đức trong việc đổi mới tư duy", Tạp chí
Nghiên cứu lý luận, tháng 1-2, 1987; TS Nguyễn Thế Kiệt: "Quan hệ giữa
kinh tế và đạo đức trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay", Tạp
chí Triết học 6/1996; PGS.TS Nguyễn Tĩnh Gia: "Sự tác động hai mặt của cơ
chế thị trường đối với đạo đức người cán bộ quản lý", Tạp chí Nghiên cứu lý
luận, số 2/1997;
- Một số tác giả quan tâm nghiên cứu sự biến đổi của đạo đức và
thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta:
PGS.TS Nguyễn Chí Mỳ: "Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền
kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở
nước ta hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999; Nguyễn Văn Lý:
"Kế thừa và đổi mới những giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình
2
chuyển sang nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay", Luận án Tiến sĩ,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1998.
- Nhân cách sinh viên và giáo dục nhân cách sinh viên là vấn đề
được nhiều tác giả đặc biệt quan tâm: "Chủ nghĩa xã hội và nhân cách" của
tập thể các nhà khoa học Liên Xô (cũ), nhà xuất bản sách giáo khoa Mác -
Lênin phát hành năm 1983; "Nhân cách của người sinh viên" của tập thể

các nhà khoa học trường đại học Lêningrát, Tủ sách Đại học Kinh tế kế
hoạch năm 1981; Lê Diệp Đĩnh: "Thực trạng tâm lý xã hội của sinh viên và
vấn đề giáo dục nhân cách cho sinh viên ở nước ta hiện nay", Luận văn
thạc sĩ Triết học bảo vệ năm 1995; Trần Sỹ Phán: "Giáo dục đạo đức với
việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên trong giai đoạn hiện
nay", Luận án tiến sĩ triết học bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh năm 1999
Về xây dựng nhân cách đạo đức có tác giả quan tâm nghiên cứu ở
phương diện chung: Trần Thị Tuyết Sương: "Vấn đề xây dựng nhân cách
đạo đức con người Việt Nam trong điều kiện hiện nay", Luận văn thạc sĩ
Triết học, bảo vệ tại Viện Triết học 1998
Nhìn chung, các công trình kể trên đã có nhiều đóng góp trong việc
làm rõ mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức với việc xây dựng và giáo dục
nhân cách cho sinh viên, nhưng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu
một cách hệ thống về vấn đề xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên
trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài: "Vấn đề xây dựng nhân cách đạo
đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
(qua thực tế các trường đại học khối xã hội nhân văn ở miền Bắc Việt
Nam" làm luận văn tốt nghiệp của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích:
3
Qua khảo sát nhân cách đạo đức sinh viên hiện nay tại một số trường
đại học khối xã hội nhân văn ở miền Bắc Việt Nam, luận văn đưa ra các
giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên trong
điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích nói trên, luận văn đã thực hiện những nhiệm
vụ cơ bản như sau:

- Góp phần làm rõ khái niệm nhân cách đạo đức và những nhân tố cơ
bản quy định sự phát triển nhân cách đạo đức của sinh viên.
- Phân tích tầm quan trọng của việc xây dựng nhân cách đạo đức cho
sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
- Tìm hiểu thực trạng của nhân cách đạo đức sinh viên các trường đại
học khối xã hội nhân văn ở miền Bắc Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng nhân cách đạo đức
sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu nhân cách đạo đức sinh viên trong một số trường đại học
tiêu biểu được chọn làm khảo sát, làm rõ sự biến đổi nhân cách đạo đức
trong sinh viên từ sau đổi mới đất nước đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là mối quan hệ giữa tồn tại xã
hội và ý thức xã hội; các phương pháp lịch sử và lôgic, phân tích và tổng
hợp, điều tra xã hội học, thống kê cũng được sử dụng trong quá trình thực
hiện đề tài.
4
6. Cái mới của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ thực trạng nhân cách đạo đức sinh viên
trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu xây dựng nhân cách đạo đức mới
cho sinh viên hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần tìm hiểu, nghiên cứu một vấn đề bức thiết của
môn Đạo đức học và đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn xã hội: nghiên
cứu nhân cách đạo đức sinh viên trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Trên bình diện nghiên cứu và những kết quả đã đạt được, chúng tôi
hy vọng luận văn sẽ góp phần làm phong phú thêm nguồn tài liệu tham

khảo cho giáo viên, sinh viên dạy và học môn Đạo đức học.
Luận văn có ý nghĩa nhất định đối với công tác giáo dục và xây dựng
nhân cách đạo đức cho sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay ở nước ta.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 2 chương, 4 tiết.
5
Chương 1
NHÂN CÁCH ĐẠO ĐỨC, TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC
XÂY DỰNG NHÂN CÁCH ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN HIỆN NAY
1.1. NHÂN CÁCH ĐẠO ĐỨC VÀ NHỮNG NHÂN TỐ CƠ BẢN QUI
ĐỊNH SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NHÂN CÁCH ĐẠO ĐỨC CỦA SINH VIÊN
1.1.1. Nhân cách
Tư tưởng về nhân cách xuất hiện từ Arixtôt (384 - 322 TCN) - nhà
Triết học cổ đại Hy Lạp - khi ông cho rằng, con người là "sinh vật chính
trị" (Joon poltikon). Ở đây, bước đầu Arixtôt đã thấy được vai trò của tác
động xã hội, của giáo dục đào tạo đối với sự phát triển con người như là
một nhân cách. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, lần đầu
tiên, hai nhà tâm lý học người Đức Dilthey và Spranger mới đưa ra khái
niệm nhân cách. Theo hai ông, nhân cách là cái "mặt nạ" có tính chất xã hội
của cái tôi bên trong; khi nào cái "mặt nạ" đó trùng với cái tôi thì nhân cách
phát triển chín muồi [24, tr. 42].
Đến nay, nhân cách được nghiên cứu, định nghĩa dưới nhiều góc độ
khác nhau, những đại biểu nổi tiếng như: S.Freud với thuyết "Phân tâm
học" coi bản chất nhân cách là thuộc tính sinh vật hay sinh vật hóa bản chất
nhân cách, coi nó là bản năng tình dục; J.H.eysenck coi nhân cách là một
dạng nào đó của ý thức trí tuệ và ý thức đạo đức thực hiện sự tự chủ trong
bối cảnh tương tác; A.A.dler với thuyết "Siêu đẳng bù trừ", G.Allport với
thuyết "đặc trưng" và năm 1949 ông đã đưa ra trên 50 định nghĩa khác nhau

về nhân cách Đại biểu nổi tiếng nhất của chủ nghĩa Nhân bản triết học tư
sản thế kỷ XX là M.Sêlơ - một nhà triết học Đức - cho rằng: "Bản chất vốn
có của con người không gắn với tồn tại của nó về mặt sinh vật và xã hội mà
nằm trong tinh thần của nó, trong khả năng của con người trở thành nhân
6
cách" [7, tr. 23]. Theo quan niệm của ông con người không tồn tại thực mà
con người chỉ là một bộ phận của thực tại tinh thần. Nhìn chung, các học
thuyết trên hoặc xem nhân cách như là sự đáp ứng nhu cầu sinh học thuần
túy, hoặc xem nhân cách chỉ có tính chất thuần túy của cá nhân con người
mà không thấy được tính quyết định của vai trò xã hội trong sự hình thành
và phát triển nhân cách con người.
Triết học Mác ra đời đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử tư
tưởng của nhân loại. Theo đánh giá của V.I. Lênin, triết học Mác đã khắc
phục được những thiếu sót lớn nhất của lịch sử triết học: Chủ nghĩa duy
tâm "không thấy được" điểm xuất phát là từ hiện thực khách quan, chủ
nghĩa duy vật siêu hình "không thấy được" vai trò tích cực của chủ thể con
người. Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định, con người là thực thể sinh
học xã hội. Mặt sinh học và mặt xã hội có mối quan hệ bao chứa lẫn nhau,
chế ước lẫn nhau. Mặt sinh học không thuần túy là sinh học mà là sinh học
- xã hội. Mặt xã hội không trừu tượng, trống rỗng, hư vô mà nó là sự phản
ánh hiện thực của tồn tại sinh học - xã hội.
Như vậy, con người không chỉ xuất hiện và tuân theo nhờ những qui
luật tiến hóa hữu cơ mà nó còn chịu sự tác động của những qui luật xã hội.
Sự hoàn thiện bản chất xã hội trong con người cũng đồng thời là quá trình
hoàn thiện về nhân cách, trong quá trình này, cái sinh học ngày càng được
xã hội hóa, nhân tính hóa nhiều hơn. Nhân cách được hình thành và phát
triển trong quá trình sống, lao động, quan hệ giao tiếp
Tuy nhiên, trên lập trường triết học mác xít, giữa các nhà khoa học
cũng có nhiều định nghĩa khác nhau về nhân cách: Chẳng hạn "Nhân cách
là hệ thống những phẩm giá xã hội của cá nhân thể hiện trong cá nhân,

ngoài cá nhân, thông qua hoạt động giao tiếp của cá nhân ấy" [4, tr. 74];
"Nhân cách là toàn bộ những đặc điểm tâm lý của cá nhân đã hình thành và
phát triển từ trong các quan hệ xã hội" [53, tr. 80] hoặc "Khái niệm nhân
7
cách được thể hiện là toàn bộ đời sống" tinh thần và xã hội của con người
bao gồm "tầng" xã hội và "tầng" tâm lý trong con người. Khái niệm này
cho phép hiểu bản chất Người ở mỗi cá nhân, cái tư cách làm Người của
nó, cái phân biệt nó với giống loài động vật. Tuy nhiên, nhân cách là một
khái niệm phức tạp, cần được tiếp cận từ nhiều phía " [49, tr. 28] và có
hàng trăm định nghĩa khác nhau về nhân cách và mỗi ngành khoa học lại
tiếp cận nhân cách từ góc độ nghiên cứu đặc thù của mình, đi sâu vào mặt
này, hoặc mặt khác của nhân cách, tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu của
ngành đó. Tuy nhiên, có thể nhận thấy rằng, các quan điểm đó tập hợp
thành hai khuynh hướng cơ bản:
- Một là: Coi nhân cách như là đặc trưng, chức năng, vai trò, vị trí
của con người trong xã hội.
- Hai là: Coi nhân cách là đặc trưng bản chất của con người [48, tr. 11].
Chúng tôi thống nhất với khuynh hướng thứ hai coi nhân cách là đặc
trưng bản chất của con người.
Khi bàn về vấn đề con người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
đặc biệt chú ý tới bản chất xã hội của con người, lý giải các quan hệ xã hội
tham gia vào sự hình thành bản chất ấy cũng như vai trò của thực tiễn và
hoạt động thực tiễn đối với sự bộc lộ những sức mạnh bản chất Người, tới sự
hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách Người. Mác đưa ra nhận xét
bản chất con người đặc thù không phải là râu của nó, không phải là máu
của nó, không phải là bản chất thể xác trừu tượng của nó mà chính là phẩm
chất xã hội của nó. "Mỗi quan hệ của anh ta đối với con người và đối với
giới tự nhiên phải là một biểu hiện của đời sống cá nhân hiện thực" [34, tr.
136]. Như vậy, con người là một thực thể sinh học - xã hội mang bản chất


hội, còn nhân cách phản ánh trình độ phát triển về mặt xã hội, phản ánh
mức độ cá thể hóa, tính độc đáo trong mỗi cá nhân con người. Nhân cách là
8
sự thống nhất biện chứng giữa yếu tố xã hội và cá nhân trong mỗi con
người. Sự thống nhất này tạo điều kiện cho quá trình hình thành và phát
triển nhân cách.
Triết học Mác - Lênin xem nhân cách như là một chỉnh thể cá nhân,
có tính lịch sử - cụ thể. Nó tham gia vào hoạt động thực tiễn, đóng vai trò
chủ thể của nhận thức và của sự phát triển xã hội [7, tr. 33]
Nói đến nhân cách, trước hết là nói tới nhân cách của con người hiện
thực, gắn liền với bản chất xã hội của nó, là sản phẩm của những hoàn cảnh
xã hội, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể. Nó là kết quả của hoạt động người trong
quá trình họ tiếp nhận sự giáo dục của xã hội và quá trình tự giáo dục của
bản thân. Quá trình này không chỉ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự
phát triển nhân cách mà còn là phương diện chủ yếu để tạo ra diện mạo
nhân cách đạo đức con người. Ở đây, các nhân tố sinh vật di truyền, tâm
sinh lý và xã hội xoắn xuýt với nhau. Đối với sự phát triển nhân cách, cải
tạo sinh vật di truyền và tâm sinh lý là cơ sở sinh vật, là những điều kiện tự
nhiên, mà trên cơ sở đó hình thành nên những đặc điểm lịch sử - xã hội của
con người.
Mặt khác, nhân cách là nhân cách của từng cá nhân riêng biệt, cụ thể
có mối quan hệ mật thiết với điều kiện tự nhiên, xã hội xung quanh. Mỗi cá
nhân mang nhân cách này vừa có khả năng tự đánh giá những hành vi của
bản thân mình, vừa có khả năng đánh giá hành vi của cá nhân mang nhân
cách khác. Quá trình tự đánh giá và được đánh giá đó là quá trình cá nhân
thực hiện những hành vi cho mình và cho người khác theo yêu cầu chung
của nhân cách xã hội. Nói cách khác, nhân cách là những phẩm chất bên
trong của mỗi cá nhân trước những đòi hỏi của xã hội và của bản thân cá
nhân để cá nhân đó tồn tại và làm tròn trách nhiệm của mình với bản thân,
với xã hội. Do đó, nhân cách cá nhân bị chi phối bởi nhân cách xã hội,

9
phản ánh nhân cách xã hội, đồng thời nhân cách xã hội tìm thấy mình qua
những hình ảnh, diện mạo riêng rất đa dạng của mỗi nhân cách cá nhân.
1.1.2. Nhân cách đạo đức, nhân cách đạo đức của sinh viên
Nhân cách đạo đức: Là tổng thể những phẩm chất đạo đức của
nhân cách (nhu cầu, tình cảm, niềm tin, tri thức, lý tưởng, năng lực đạo
đức ) được hình thành một cách lịch sử - cụ thể, được thể hiện, thực hiện
trong toàn bộ hoạt động sống của mình như một cá nhân.
Nếu nhân cách là một chỉnh thể thống nhất giữa đức và tài, của những
thuộc tính, phẩm chất, xu hướng bên trong, riêng biệt của mỗi cá nhân, dùng
để phân biệt cá nhân này và cá nhân khác thì nhân cách đạo đức lại thể hiện
năng lực đạo đức cá nhân, là ý thức, tình cảm, lý tưởng đạo đức cá nhân.
Nhân cách là một khái niệm rộng bao hàm trong nó phương diện đạo đức,
phương diện thẩm mỹ, phương diện nhận thức hoặc nói cách khác nhân
cách bao gồm những phẩm chất đạo đức, phẩm chất thẩm mỹ, phẩm chất
nhận thức tức là những phẩm chất xã hội của con người. Những phẩm
chất xã hội ấy được hình thành trong quá trình hoạt động thực tiễn, hoạt
động xã hội của con người chứ không phải do thiên phú hay là những phẩm
chất bẩm sinh. Vì vậy, tất yếu trong cấu trúc của nhân cách phải bao gồm
phẩm chất thẩm mỹ, phẩm chất nhận thức và phẩm chất đạo đức của cá
nhân.
Tuy nhiên, sự tham gia của nhân cách đạo đức trong cấu trúc của
nhân cách không chỉ được hiểu đơn giản chỉ là yếu tố cấu thành lên nhân
cách, dù là yếu tố nền tảng. Sự tham gia đó biểu hiện mối quan hệ biện
chứng giữa nhân cách và nhân cách đạo đức, nhân cách đạo đức phát
triển sẽ là "chất men" kích thích sự phát triển của trí tuệ, của tư duy sáng
tạo và năng lực thực tiễn của nhân cách. Nói đến nhân cách đạo đức là có
10
ý thức nhấn mạnh phẩm chất đạo đức là phẩm chất tiêu biểu nhất, là "cái
gốc" làm nên nhân cách con người.

Nhân cách đạo đức có sự tương đồng và khác biệt so với đạo đức.
Theo quan điểm triết học mác xít, đạo đức là một hình thái ý thức xã
hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh
và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ
với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và
sức mạnh của dư luận xã hội. Xét theo góc độ về mối quan hệ giữa cái chung
và cái riêng, cái phổ biến với cái đặc thù và cái đơn nhất thì đạo đức được
cấu thành từ đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân (nhân cách đạo đức). Trong
đó, nhân cách đạo đức được xem là yếu tố quan trọng nhất, đóng vai trò trung
tâm chỉ đạo, thể hiện năng lực thực hiện những hành vi đạo đức trong thực
tiễn, cũng như việc lựa chọn, tiếp thu những lý tưởng, chuẩn mực, đánh giá
đạo đức truyền thống, biến kinh nghiệm xã hội thành kinh nghiệm bản thân
Hiện nay, xoay quanh những nội dung của phẩm chất đạo đức cá nhân
(nhân cách đạo đức) cũng còn có nhiều ý kiến, nhiều xu hướng khác nhau:
- Xu hướng thứ nhất, đồng nhất những phẩm chất đạo đức cá nhân
với những nguyên tắc của đạo đức cộng sản, được biểu hiện bởi tình yêu
đối với lao động, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa quốc tế Xu hướng này có
yếu tố hợp lý vì nguyên tắc đạo đức cộng sản chính là cơ sở nhân sinh quan
mới, chỉ đạo mọi hoạt động của con người. Tuy nhiên, xu hướng này có
yếu tố không hợp lý vì các nguyên tắc đạo đức cộng sản chỉ là cơ sở lý
luận, có tính chất định hướng về mặt tư tưởng, những tiêu chuẩn bên ngoài
mà mỗi người cần hướng tới. Nó chưa phải là những tính cách với ý nghĩa
là một bộ phận cấu thành nhân cách cá nhân.
- Xu hướng thứ hai, đồng nhất đạo đức cá nhân với những qui tắc,
chuẩn mực cụ thể trong từng lĩnh vực hoạt động nhất định. Dù cụ thể hơn,
11
nhưng những nguyên tắc, những qui tắc và chuẩn mực vẫn chỉ được coi là
những yêu cầu chung cho tất cả các cá nhân trong từng lĩnh vực hoạt động cụ
thể. Trước những yêu cầu chung ấy, mỗi cá nhân hành động theo nhận thức
của mình. Vì vậy, nếu đồng nhất đạo đức cá nhân với những qui tắc, những

chuẩn mực đạo đức sẽ tạo ra mô hình phát triển rập khuôn, hạn chế sự phát
triển độc lập của mỗi cá nhân. Đây là điều hoàn toàn không có trong hiện
thực!
- Xu hướng thứ ba, quan niệm: phẩm chất đạo đức cá nhân không thể
chỉ là những yêu cầu chung của đạo đức xã hội mà nó còn phải là những
nét tính cách mang ý nghĩa tâm lý đạo đức của con người cấu thành nên
nhân cách cá nhân. Đó là sự thống nhất giữa giữa lý tưởng và hiện thực
cuộc sống, giữa trí tuệ, tình cảm và hoạt động thực tiễn của các cá nhân.
Thống nhất với xu hướng thứ ba, chúng tôi đi vào phân tích một số
đặc trưng của nhân cách đạo đức.
Nhu cầu đạo đức: Nhân cách con người chỉ thực sự hình thành và phát
triển thông qua sự phát triển của hoạt động của con người. "Nền tảng của
nhân cách là những quan hệ phối thuộc giữa các hoạt động của con người
mà vốn do tiến trình phát triển của những hoạt động ấy tạo ra" [31, tr. 128],
mà yếu tố có liên quan chặt chẽ tới hoạt động và giữ vai trò động lực của
hoạt động là nhu cầu.
Nhu cầu là một thuộc tính tâm lý cá nhân, là một yếu tố trong nhóm
xu hướng của cấu trúc nhân cách. Nhu cầu có tác dụng xác định xu hướng
của cá nhân, xác định thái độ của người đó đối với hiện thực và trách
nhiệm của bản thân. Nó ảnh hưởng mạnh mẽ tới lối sống và hoạt động của

nhân [24, tr. 51].
12
Nhu cầu của con người hết sức đa dạng. Trong tổng hệ nhu cầu có
nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Trong nhu cầu tinh thần có nhu cầu
thẩm mỹ, nhu cầu đạo đức Nhu cầu đạo đức là nhu cầu con người hướng
tới cái thiện, là động lực của những hành động thiện. Đó cụ thể là nhu cầu
tương trợ giúp đỡ người khác, nhu cầu phục vụ tự nguyện tự giác lợi ích
của người khác, lợi ích của toàn xã hội
Trong nhu cầu nói chung, nhu cầu đạo đức nói riêng có sự thống

nhất giữa chủ quan và khách quan. Trước hết, nhu cầu đạo đức là những
đòi hỏi khách quan về những chuẩn mực đạo đức xã hội còn thiếu hụt trong
mỗi con người trong những điều kiện hoàn cảnh nhất định, bảo đảm cho
nhân cách đạo đức phát triển hài hòa. Sau đó, nhu cầu đạo đức khi đã thỏa
mãn sẽ trở thành trạng thái chủ quan, thái độ của cá nhân và có hướng điều
chỉnh hành vi, hoạt động, xác định hướng suy nghĩ, tình cảm và ý chí của
bản thân con người. Chính ở phương diện chủ quan, nhu cầu đạo đức trở
thành động lực bên trong của hoạt động. Những yêu cầu về chuẩn mực đạo
đức mà xã hội đề ra cho mỗi người nếu được cá nhân tiếp nhận sẽ thì dần
dần chuyển hóa thành nhu cầu, và khi đó, các yêu cầu của xã hội được từng
cá nhân thực hiện một cách tự giác. Sự thỏa mãn nhu cầu đạo đức sẽ góp
phần khẳng định tư cách là một chủ thể đạo đức của con người. Nhờ vậy,
nhu cầu tinh thần ngày càng cao, thúc đẩy hoạt động đạo đức phát triển,
tăng cường mối quan hệ phối thuộc giữa các hoạt động làm nền tảng cho sự
hình thành và phát triển của nhân cách đạo đức.
Tình cảm đạo đức là một đặc trưng hết sức bản chất của con người
nói chung và nhân cách đạo đức nói riêng để phân biệt sự khác nhau căn
bản giữa con người với loài vật. Nó là một bộ phận của hệ thống tình cảm
chung của con người, là phản ứng chủ quan của cá nhân đối với thế giới
khách quan. Tình cảm đạo đức biểu hiện ra như là những phản ứng có điều
13
kiện của tình cảm của con người đối với những hiện tượng đạo đức. Người
ta đồng tình, ngưỡng mộ trước hành động thiện, tức giận, căm phẫn trước
những hành vi ác đó vừa là sự biểu hiện khả năng nhận thức, khả năng
đánh giá những hành vi đạo đức, vừa là sự biểu hiện xu thế phát triển của
nhân cách đạo đức theo hướng tích cực của mỗi chủ thể đạo đức. Hêghen
đã viết thực chất của tình cảm đạo đức là sự quên mình ở một cái tôi khác
nhưng chính trong sự biến mất này, trong sự quên đi này lần đầu tiên này,
ta tìm được bản thân mình và làm chủ được bản thân ta. "Quên mình ở một
cái tôi khác" theo ông có nghĩa là hành động xả thân vì lợi ích người khác

(lợi ích của tập thể, lợi ích của xã hội) [22, tr. 27]. Hêghen đã đưa ra một
vấn đề tưởng như là nghịch lý: Quá trình tự quên bản thân mình lại chính là
quá trình tự làm chủ bản thân mình, sâu xa hơn nữa chính lúc quên mình đi
ấy, lần đầu tiên ta tìm được bản thân mình và làm chủ được bản thân mình.
Tình cảm đạo đức chẳng những là sự biểu hiện của đặc trưng "Người" mà
nó còn là hình thức thông qua đó cá nhân ý thức được về mình, phát hiện
bản thân mình và làm chủ bản thân mình. Với tình cảm đạo đức - con
người "trở lại" với chính mình trong những hành vi đạo đức không vì mình.
Như vậy, tình cảm đạo đức không chỉ là biểu hiện của nhân cách đạo đức,
mà đây còn là một nét quan trọng của chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Bồi
dưỡng tình cảm đạo đức có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong xây dựng
nhân cách đạo đức, xây dựng con người mới. "Nói rèn luyện con người,
trước hết nói giáo dục lòng nhân ái cho con người, vì lòng thương người là
đạo lý cuộc sống, là đạo lý làm người" [22, tr. 29].
Niềm tin là cơ sở để xây dựng một nhân cách đạo đức tốt đẹp.
Niềm tin là yếu tố quan trọng trong toàn bộ đời sống tinh thần của con
người. Mác và Ăngghen coi niềm tin là động lực quan trọng để thúc đẩy
hoạt động của con người. Niềm tin là cơ sở vững chắc để chúng ta xây
dựng lý tưởng cộng sản chủ nghĩa và đấu tranh chống lại mọi thế lực thù
14
địch trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Là cái riêng có của con
người, niềm tin được thể hiện qua quan niệm sống, lý tưởng, tình cảm
của mỗi cá nhân. Con người làm nên lịch sử của mình chính nhờ năng lực
hiểu biết thế giới và quá trình không ngừng cải tạo thế giới. Đó là quá trình
điều chỉnh, hoàn thiện dần mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, giữa
con người với những người xung quanh mình. Niềm tin được tạo lên từ con
tim và khối óc, từ sự kết hợp hài hòa, thẩm thấu lẫn nhau giữa tình cảm và
trí tuệ. Niềm tin là động lực mạnh mẽ thúc đẩy và qui định mức độ khám
phá, hiểu biết và do đó, nó qui định hành động của mỗi người. Trong hành
vi đạo đức, niềm tin là cơ sở đem đến cho chúng ta một nhận thức, một tâm

trạng tốt - xấu, thiện - ác trước khi hành động. Khi có niềm tin trong sáng
con người hoạt động tích cực hơn, hướng thiện hơn, tạo cho con người một
sự tin tưởng vào chính khả năng nhận thức của mình, vào sự quyết định
đúng đắn cho mỗi hành vi mà mình thực hiện. Niềm tin là điều mà nhân
cách đạo đức cần và trước hết phải có để thực hiện một hành vi đạo đức.
Tri thức đạo đức: Tri thức đạo đức là kết quả của quá trình nhận thức
đạo đức, là sự phản ánh hiện thực đời sống đạo đức của xã hội con người.
Giống như tri thức khoa học, tri thức đạo đức cũng được phân thành hai
cấp độ: tri thức đạo đức ở trình độ thông thường và tri thức đạo đức ở trình
độ
lý luận.
Tri thức đạo đức ở trình độ thông thường là những nhận thức, hiểu
biết về các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức tối thiểu trong cuộc sống hàng
ngày như thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm Để trở thành một con người
có nhân cách đạo đức, họ trước hết phải nắm được những tri thức đạo đức
tối thiểu ấy. Bởi vì, những tri thức đạo đức này là cơ sở nền tảng để họ
đánh giá, nhận thức và thực hiện hành vi đạo đức, cao hơn nữa nó là những
đảm bảo cần thiết cho sự phát triển nhân cách đạo đức. Tuy nhiên, nếu tri
15
thức đạo đức chỉ dừng lại ở mức độ kinh nghiệm thì nó không đủ sức giải
quyết những mâu thuẫn đang nảy sinh trong hiện thực đời sống mà cần
thiết phải có trình độ phát triển cao hơn của tri thức đạo đức đó là tri thức
lý luận.
Tri thức đạo đức ở trình độ lý luận là những tư tưởng, quan điểm,
những phạm trù, những nguyên lý đạo đức có vị trí đặc biệt quan trọng
trong sự hình thành nhân cách đạo đức. Nhà đạo đức học Bandzeladze đã ví
tình cảm và tình cảm đạo đức như động cơ của một chiếc xe, còn tri thức và
tri thức đạo đức như chiếc đèn pha. Nếu thiếu động cơ thì xe không thể
hoạt động, vì vậy sẽ không thể có hoạt động đạo đức, nhưng nếu thiếu tri
thức, tri thức đạo đức tức là thiếu đèn pha thì người ta sẽ hoạt động không

có định hướng, không có mục đích, hoạt động tùy tiện [52, tr. 44].
Lý tưởng đạo đức vừa là tiền đề, vừa là cơ sở căn bản quyết định sự
hình thành và phát triển của nhân cách đạo đức.
Không thể xác định được phạm trù lý tưởng đạo đức nếu không dựa
trên nền tảng chung của nó là lý tưởng, vì cùng với lý tưởng chính trị - xã
hội, lý tưởng tôn giáo, lý tưởng thẩm mỹ lý tưởng đạo đức là một bộ phận
hợp thành lý tưởng chung của một nhóm người, của một giai cấp, của một
dân tộc.
Lý tưởng nói chung là trạng thái cao nhất, hoàn hảo nhất mà con
người muốn đạt tới. Lý tưởng thôi thúc con người hành động để thỏa mãn
các nhu cầu lợi ích [17, tr. 42].
Trong đời sống mọi giai tầng xã hội, lý tưởng có một ý nghĩa rất
quan trọng. Lý tưởng đạo đức cao đẹp, trong sáng là tiền đề để hình thành
một nhân cách đạo đức cao đẹp. Không thể xây dựng một nhân cách đạo
đức cao đẹp trong một con người sống không có lý tưởng, không nhận thức
được điều nên làm hay không nên làm, dễ bị du nhập, lôi kéo Lý tưởng
16
chung của thời đại chúng ta đã được Đảng, Bác Hồ và cả dân tộc ta lựa
chọn: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Lý tưởng đạo đức phải
gắn với lý tưởng xã hội - chính trị thì mới có một nội dung cụ thể, xác định.
Lý tưởng đạo đức trong thời đại chúng ta đó là đấu tranh để thực hiện thắng
lợi đường lối, chủ trương, chính sách do Đảng và Nhà nước đề ra để bảo vệ
và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Là bộ phận hợp thành lý tưởng,
lý tưởng đạo đức là cơ sở lựa chọn những giá trị đạo đức của thời đại; là
mục tiêu cao nhất cho mọi hành vi đạo đức của các cá nhân; là tiêu chuẩn
cao nhất của các đánh giá đạo đức.
Thế giới mà chúng ta đang sống là tổng thể của những chân lý và sai
lầm, của các điều thiện và ác, của những hành vi đẹp và xấu được diễn ra
trong mối quan hệ tương tác giữa con người với tự nhiên và giữa những
con người với nhau. Xuất phát từ mục đích thực hiện lợi ích của mình, của

dân tộc mình, của quốc gia mình, mỗi cá nhân, mỗi dân tộc phải biết chọn
lựa những giá trị phù hợp làm định hướng cho hành động của mình. Lý
tưởng đạo đức có vai trò quan trọng trong việc định hướng giá trị, định
hướng mục tiêu cho mọi hành động, tạo ra sự khát vọng, say mê, tạo ra
động cơ thúc đẩy chủ thể trong các hoạt động sáng tạo những giá trị đạo
đức phù hợp với lợi ích của mình, của dân tộc mình.
Lý tưởng đạo đức không chỉ phản ánh những giá trị đạo đức căn bản
trong thực tiễn xã hội mà còn phản ánh khả năng thực tế của sự phát triển
xã hội tiến tới những giá trị đạo đức cần có, những giá trị đạo đức cao nhất
và hoàn thiện những giá trị đạo đức ấy đáp ứng yêu cầu trong tương lai con
người mong muốn. Trên bình diện nhân cách đạo đức, lý tưởng đạo đức
phản ánh những khát vọng của con người về giá trị đạo đức với tư cách là
mục đích của hành vi, là lợi ích của họ. Ở đây, nhu cầu và lợi ích của chủ
thể đạo đức là hai yếu tố căn bản xác định nội dung sự định hướng giá trị
đạo đức. Sự thống nhất biện chứng giữa lý tưởng đạo đức của cá nhân và lý
17
tưởng đạo đức của xã hội là điều kiện cho chủ thể đạo đức tham gia tích
cực vào hoạt động đạo đức xã hội. Đồng thời nó cũng là một chỉ báo về sự
phát triển ý thức đạo đức của con người như một nhân cách. Tuy nhiên,
"đạo đức là lý trí thực hành" nên lý tưởng đạo đức "trừu tượng" hay "không
trừu tượng", có giữ vai trò định hướng cho mọi hành vi đạo đức hay không
chính là thể hiện ở sự vận dụng, sự thực hành của mỗi cá nhân.
Như vậy, tình cảm, niềm tin, tri thức và lý tưởng đạo đức chỉ được
thể hiện trong hiện thực cuộc sống khi nó được vận dụng, thực hành, tức là
được thể hiện thông qua năng lực thực tiễn, qua đó thể hiện năng lực đạo
đức của mỗi chủ thể đạo đức.
"Năng lực là một tập hợp hoặc tổng hợp những thuộc tính của mỗi cá
nhân con người, đáp ứng những nhu cầu của hoạt động và bảo đảm cho
hoạt động có hiệu quả cao" [6, tr. 90].
Trong mỗi con người tiềm ẩn nhiều năng lực, nhưng năng lực ấy có

được bộc lộ ra hay không phụ thuộc vào rất nhiều các điều kiện chủ quan
và khách quan. Năng lực đạo đức là một tập hợp những thuộc tính về tâm
sinh lý, cùng với những phẩm chất tinh thần đặc biệt giúp cho mỗi cá nhân
có khả năng nhận thức, khả năng đánh giá, khả năng thực hiện những hành
vi đạo đức trong hiện thực.
Năng lực đạo đức trong mỗi nhân cách phát triển ở mức độ khác
nhau, tùy thuộc vào năng khiếu bẩm sinh nhưng yếu tố giữ vai trò quyết
định hơn cả đó là quá trình tu dưỡng, rèn luyện, học tập trong hoạt động
thực tiễn của mỗi cá nhân.
Nhân cách đạo đức chân chính nhất thiết phải được thể hiện bằng
hành động và hành động đó nhất thiết phải hướng vào cải tạo thế giới trong
đó con người sống và làm việc. Hành vi đạo đức không chỉ tạo lên những
giá trị đạo đức mà còn là đặc trưng bản chất để phân biệt sự khác nhau căn
bản giữa con người và con vật. Hoạt động của con vật chỉ là hoạt động
18
"thích nghi bị động". Hoạt động của con người, về bản chất vẫn là hoạt
động thích nghi, nhưng đồng thời cùng với sự phát triển và hoàn thiện của
văn hóa, nhân cách mà hoạt động đó trở thành hoạt động cải tạo thế giới
con người đang sống và cải tạo chính bản thân con người. Quá trình con
người thể hiện năng lực đạo đức của mình trong hiện thực mang một ý
nghĩa tích cực là tác động cải tạo môi trường sống; cải tạo và phát triển
chính bản thân mình; phân biệt hoạt động của con người với con vật. Với ý
nghĩa ấy, năng lực đạo đức là một đặc trưng hết sức cốt yếu trong nhân
cách đạo đức.
Nói một cách tổng quát thì nhân cách đạo đức có cấu trúc từ ý thức
đạo đức và năng lực đạo đức. Ý thức đạo đức là sự thống nhất biện chứng
của tình cảm đạo đức, niềm tin đạo đức, tri thức đạo đức và lý tưởng đạo
đức. Các yếu tố này tác động qua lại lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau cùng
phát triển. Năng lực đạo đức bao gồm năng lực nhận thức, năng lực đánh
giá, năng lực thực hiện hành vi đạo đức trong thực tế của mỗi chủ thể đạo

đức. Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ mang một ý nghĩa tương đối, bởi ý
thức đạo đức khi thực hiện chức năng điều tiết các hành vi đạo đức của con
người thì nó hiện ra như là một yếu tố của năng lực đạo đức. Sự phát triển
của nó chính là sự kích thích nhu cầu và là điều kiện cho quá trình nhận
thức, đánh giá, quá trình thực hiện những hành vi đạo đức. Ngược lại, quá
trình thực hiện hành vi đạo đức, quá trình nhận thức và đánh giá đúng các
hiện tượng đạo đức không chỉ là sự biểu hiện năng lực đạo đức mà còn là
thước đo sự phát triển của ý thức đạo đức.
Mỗi cá nhân ở những địa vị xã hội khác nhau đều có sự thể hiện
nhân cách đạo đức đặc trưng phù hợp với vị thế xã hội của mình: Nhân
cách đạo đức cán bộ lãnh đạo, nhân cách đạo đức giáo viên Sinh viên,
một bộ phận xã hội đặc thù cũng có phương diện thể hiện tính đặc thù trong
nhân cách đạo đức của mình. Nhân cách đạo đức sinh viên là trường hợp cụ
19
thể của nhân cách đạo đức, là hình thức biểu hiện của tính Người ở một
tầng lớp xã hội đặc biệt.
Nhân cách đạo đức của sinh viên: Là tổng thể những phẩm chất đạo
đức (nhu cầu, tình cảm, niềm tin, tri thức, lý tưởng, năng lực đạo đức )
của người sinh viên. Nhân cách đạo đức sinh viên được thể hiện, thực hiện
trong hoạt động học tập, trong hoạt động ứng xử thông qua các quan hệ
chủ đạo: quan hệ thày - trò, bạn bè, tình yêu , trong hoạt động xã hội mà
tập trung trong các hoạt động văn thể của cá nhân mỗi sinh viên.
Xuất phát từ bộ phận xã hội đặc thù nên nhân cách đạo đức của sinh
viên, bên cạnh những biểu hiện chung của nhân cách đạo đức, thì có những
biểu hiện đặc thù của nhân cách đạo đức sinh viên.
Ví dụ: Lý tưởng đạo đức cao cả của sinh viên Việt Nam hiện nay vẫn
là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là lý tưởng đạo đức cộng sản. Ở tầm
cao nhất, lý tưởng đạo đức cộng sản là sự thống nhất giữa quan niệm và
biểu tượng về các chuẩn mực, các quan hệ đạo đức và các nhân cách đạo
đức xã hội chủ nghĩa. Họ hiểu rằng sống có lý tưởng, lý tưởng đạo đức là

phải thiết tha với độc lập của Tổ quốc, bởi đó là thành quả được đổi bằng
biết bao xương máu của các thế hệ cha ông đánh bại mọi kẻ thù xâm lược
dưới sự lãnh đạo của Đảng và ngày nay đang thực hiện thắng lợi sự nghiệp
đổi mới, đưa đất nước vững bước tiến vào thế kỷ XXI. Họ hiểu rằng muốn
củng cố và bảo vệ nền độc lập, tự do cho dân tộc thì chỉ có con đường duy
nhất là đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, lý tưởng, lý tưởng đạo
đức của sinh viên còn được biểu hiện trong khát vọng học tập, nghiên cứu;
biểu hiện ở ý thức trách nhiệm trong học tập, ở sự nỗ lực, chuyên cần, sáng
tạo trong học tập nắm vững những tri thức được học tập trong trường, vươn
lên chiếm lĩnh những đỉnh cao của khoa học - công nghệ, nhanh chóng hội
nhập với xu thế phát triển của nền văn minh nhân loại. Bởi trong nền kinh
20
tế tri thức, dân tộc nào vươn lên đến đỉnh cao trí tuệ, dân tộc đó sẽ chiến
thắng.
Tình cảm đạo đức với tư cách là phản ứng của con người với các
hiện tượng đạo đức. Nó có những biểu hiện sâu sắc, nhạt nhòa khác nhau
cùng như sự biểu hiện đa dạng, phong phú khác nhau ở những giai đoạn
phát triển khác nhau của nhân cách đạo đức. Tình cảm đạo đức của sinh
viên được biểu hiện căn bản trong tình cảm với gia đình, thầy cô và bè bạn,
đặc biệt nổi trội là tình cảm đối với thầy cô, tình cảm với bạn bè và tình
yêu. Ở mỗi sinh viên, bên cạnh sự kính yêu cha mẹ, là lòng kính trọng các
thầy cô, tình cảm này bắt nguồn từ chính vị trí lớn lao của thầy cô giáo đối
với việc hình thành nhân cách của mỗi sinh viên. Tình cảm đạo đức được
biểu hiện trước hết là sự trung thực trong học tập, rèn luyện, lòng dũng
cảm, tình đoàn kết, sự yêu thương, kính trọng và giúp đỡ bạn bè trong học
tập, công tác. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn học sinh, sinh viên nói
chung: "Phải khiêm tốn, thật thà", "kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn là kẻ thù số
một của học tập".
"Phải tự nguyện, tự giác, xem công tác học tập cũng là một nhiệm vụ
mà người cách mạng phải hoàn thành cho được". Do đó, "không lùi bước

trước bất kỳ khó khăn nào trong học tập".
"Phải bảo vệ chân lý, phải có nguyên tắc tính, không được ba phải,
điều hòa".
"Phải đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập" [44, tr. 256]. Tình
yêu ở đây, không chỉ được hiểu đơn thuần là tình yêu đôi lứa mà nó bao
hàm cả tình yêu đối với tri thức khoa học. Đó là những đặc trưng cơ bản
nhất của tình cảm đạo đức trong sinh viên.
1.1.3. Những nhân tố cơ bản qui định sự hình thành nhân cách
đạo đức của sinh viên
21
Sự hình thành và phát triển của nhân cách đạo đức bị qui định trước
hết bởi điều kiện kinh tế - xã hội. Con người trong hoạt động sản xuất, hoạt
động chính trị xã hội đều thể hiện mục đích, lợi ích của mình trong quan
hệ với những người xung quanh, với xã hội. Mác khẳng định lịch sử không
phải là cái gì khác mà là hoạt động của con người theo đuổi những mục
đích của mình, nhưng mục đích của con người bao giờ cũng xuất phát và
gắn liền với tính chế định của các điều kiện lịch sử - xã hội, các quan hệ
kinh tế trong một thời đại nhất định. Tính qui định khách quan của điều
kiện kinh tế - xã hội là tạo ra một giới hạn chung, một xu thế chung cho
mọi hoạt động của con người. Sự phát triển của nhân cách đạo đức, với tư
cách là đạo đức của một cá nhân trong cộng đồng xã hội cũng không nằm
ngoài những qui định đó. Vì "con người ta, dù tự giác hay không tự giác,
rút cuộc đều rút những quan niệm đạo đức của mình ra từ những quan hệ
thực tiễn đang làm cơ sở cho vị trí giai cấp của mình, tức là từ những quan
hệ kinh tế trong đó người ta sản xuất và trao đổi" [39, tr. 136].
Bị qui định khách quan bởi điều kiện kinh tế - xã hội, nhưng cái trực
tiếp qui định bản chất và đặc trưng của nhân cách đạo đức lại không phải là
tất cả các quan hệ kinh tế, mà nhân tố qui định nhân cách đạo đức ở tầng
sâu nhất đó là quan hệ lợi ích. Bởi cái lõi vật chất của đạo đức là vấn đề lợi
ích, không xuất phát từ lợi ích thì tư tưởng đạo đức không có cơ sở và càng

không thể hiểu được hành động trong thực tiễn lịch sử của con người. Nói
cụ thể hơn, tính chất của việc giải quyết quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã
hội là nhân tố sau cùng qui định bộ mặt đạo đức của nhân cách.
Mỗi cá nhân riêng lẻ không làm nên xã hội, mà xã hội bao giờ cũng
là tập hợp của những cá nhân cùng với các mối quan hệ của họ. Nói cách
khác, do lợi ích và thông qua việc thực hiện lợi ích mà các cá nhân tập hợp,
liên kết và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Ăngghen đã chỉ ra rằng: "Ở
đâu không có lợi ích chung thì ở đó không thể có sự thống nhất về mục
22
đích và càng không thể có sự thống nhất về hành động được" [38, tr. 21].
Tuy nhiên, ở mỗi cá nhân lại có nhu cầu, lợi ích riêng, khác nhau, thậm chí
nhiều khi lợi ích cá nhân lại đối lập với lợi ích xã hội, lợi ích dân tộc mình.
Sự phát triển của con người nói chung, nhân cách đạo đức nói riêng chỉ có
thể phát triển đúng qui luật khi mỗi cá nhân tự giác nhận thức đúng đắn,
giải quyết hài hòa về mối quan hệ cá nhân - xã hội xét trên phương diện lợi
ích. Mác - Ăngghen đã chỉ rõ:
Chừng nào con người còn ở trong xã hội hình thành một
cách tự nhiên, do đó chừng nào còn có sự chia cắt giữa lợi ích
riêng và lợi ích chung chừng đó bản thân con người sẽ trở
thành một lực lượng xa lạ, đối lập với con người và nô dịch con
người, chứ không phải bị con người thống trị [36, tr. 47].
Lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp cho mọi hoạt động của con
người. Con người, ở bất kỳ thời đại nào cũng hành động trước hết vì lợi ích
của bản thân mình. Vì vậy, lợi ích cá nhân đóng vai trò trực tiếp, cơ sở cho
mọi hoạt động tự giác, hoạt động tích cực của con người. Lợi ích cá nhân
cũng là nhân tố quyết định trước hết, là cơ sở để thực hiện lợi ích xã hội.
Lợi ích xã hội với ý nghĩa là lợi ích hướng vào thỏa mãn những nhu cầu
chung của nhiều thành viên hợp lại thành cộng đồng xã hội. Vì vậy, lợi ích
xã hội là điều kiện và đóng vai trò định hướng cho việc thực hiện lợi ích cá
nhân. Tuy nhiên, trên thực tế không phải lợi ích cá nhân nào cũng chính

đáng, có những lợi ích cá nhân khi thực hiện nó ảnh hưởng đến lợi ích của
người khác, lợi ích của xã hội. Việc thực hiện những lợi ích cá nhân này
làm cho con người xa rời những chuẩn mực đạo đức, xa rời những yêu cầu
chung mà xã hội đặt ra, thiếu ý thức trách nhiệm đó là cội nguồn để niềm
tin, tình cảm, lý tưởng, năng lực đạo đức tức là nhân cách đạo đức bị suy
thoái. Vì vậy, nhân cách đạo đức chỉ được hoàn thiện và phát triển khi giải
quyết hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Đó là quá trình mà việc
23
thực hiện lợi ích cá nhân này không xâm phạm đến lợi ích của cá nhân
khác, không xâm phạm đến lợi ích chung của toàn xã hội. Và lợi ích xã hội
thể hiện vai trò động lực của mình thông qua lợi ích của mỗi cá nhân. Điều
này đã được các nhà kinh điển mác xít căn dặn: "Nếu lợi ích đúng đắn là
nguyên tắc của toàn bộ đạo đức thì do đó cần ra sức làm cho lợi ích riêng
của con người cá biệt phù hợp với toàn thể loài người" [35, tr. 199-200].
Việc giải quyết hài hòa giữa lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân là động
lực của sự phát triển nhân cách đạo đức được minh chứng rõ ràng qua quá
trình xây dựng đất nước ta. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, lợi
ích tập thể được đề cao, lấn át lợi ích cá nhân, dẫn tới có sự đối lập tách rời
giữa việc thực hiện hành vi đạo đức với việc thực hiện lợi ích cá nhân. Con
người đứng trước hai lựa chọn: thực hiện hành vi đạo đức phải từ bỏ lợi ích
của cá nhân; ngược lại hoạt động vì lợi ích cá nhân không thể có động cơ
để thực hiện hành vi đạo đức, điều này khiến cho hoạt động đạo đức của
nhân cách bị hạn chế. Vì vậy, nhân cách nói chung và nhân cách đạo đức
nói riêng không có điều kiện phát triển một cách hoàn thiện. Từ khi đất
nước đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, cơ chế thị trường với tính đặc thù của mình là thừa nhận tính hợp lý
và thỏa mãn tối đa lợi ích cá nhân. Trên mặt tích cực của mình, lợi ích cá
nhân là "chất kích thích" thôi thúc con người năng động, sáng tạo, tích cực
hoạt động. Quá trình tham gia và chủ động tham gia vào các hoạt động
kinh tế xã hội tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện của nhân cách đạo

đức. Bởi nhân cách đạo đức nói riêng và đạo đức có thể chỉ được xác định
đầy đủ khi đặt nó trong mối quan hệ với các nhu cầu và lợi ích.
Sự phát triển nhân cách đạo đức còn chịu sự tác động mạnh mẽ của
truyền thống đạo đức. Đồng thời nó cũng bị qui định bởi nhân tố văn hóa
tinh thần xã hội và gắn liền với sự phát triển của văn hóa tinh thần trong
24
mỗi cá nhân. Đạo đức truyền thống có tác động mạnh mẽ đến sự hình thành
những kiểu mẫu hành vi đạo đức, đến sự đánh giá và những tình cảm đạo
đức. Hiệu quả của giáo dục, với tính cách là một nhân tố phát triển nhân
cách đạo đức phụ thuộc rất nhiều vào kỹ năng vận dụng những giá trị truyền
thống trong hoàn cảnh mới để phục vụ xã hội và bản thân mỗi cá nhân.
Văn hóa tinh thần xã hội là tổng hòa của văn hóa tinh thần cá nhân,
tuy nhiên đây không phải là phép cộng đơn giản của tất cả văn hóa tinh
thần cá nhân mà nó là sự kết tinh những tinh hoa của nhiều thời đại, nhiều
thế hệ đã qua. Mỗi cá nhân khi sinh ra đã được sống, được tiếp nhận một hệ
các giá trị, hệ các chuẩn mực của văn hóa tinh thần xã hội. Những giá trị,
chuẩn mực này được phản ánh trong thế giới quan, hệ thống tri thức xã hội,
trong những chuẩn mực về pháp lý, đạo đức, thẩm mỹ Chúng ta không
thể nói đến nhân cách của một đứa trẻ sơ sinh. Nhân cách, nhân cách đạo
đức của con người dần được hình thành và phát triển trong môi trường họ
sống một cách gián tiếp thông qua quá trình giáo dục và tự giáo dục.
Trong những yếu tố cấu thành nên văn hóa tinh thần xã hội thì thế
giới quan, những chuẩn mực pháp lý, thẩm mỹ, đạo đức có vị trí quan
trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách đạo đức.
Thế giới quan có vị trí đặc biệt trong cấu trúc nhân cách. Nó được
cấu thành từ những yếu tố cơ bản là tri thức, niềm tin, lý tưởng. Nó là hạt
nhân của nhân cách, là cơ sở để hình thành các quan điểm, tư tưởng chính
trị, văn hóa, đạo đức, lối sống. Từ đó, con người tự nhận thức về mình, tự
rút ra những nhận định cần thiết trong mối quan hệ với các thành viên khác
và xã hội. Vì vậy, một thế giới quan đúng đắn là cơ sở quan trọng nhất để

xây dựng một nhân cách, nhân cách đạo đức toàn diện. Nói cách khác, thế
giới quan giữ vai trò định hướng chung cho con người trong mọi hoạt động
hiện thực của họ. Trong xã hội có phân chia giai cấp, thế giới quan bao giờ
cũng mang tính giai cấp và phản ánh lợi ích của một giai cấp nhất định. Do
25

×