ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: Thông qua diễn biến trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ
(1954), hãy làm rõ sức mạnh đoàn kết của dân tộc. Liên hệ với vấn đề phát huy
sức mạnh đại đồn kết dân tộc trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện
nay.
SINH VIÊN THỰC HIỆN: TRƯƠNG BÙI HOÀI THƯƠNG
LỚP HP: 000014008
MSSV: 19510101208
GVHD: ThS NGUYỄN THỊ LAN CHIÊN
DẪN LUẬN
“Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”
Tố Hữu
Sắp tới kỷ niệm 67 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954 – 7-5-2021),
mỗi người dân Việt Nam đều bồi hồi về chiến công hiển hách của dân tộc với sự
lãnh đạo tài tình của Đảng và Nhà nước. Với nước Pháp, “Điện Biên Phủ thất thủ
gây nỗi kinh hồng khủng khiếp. Đó là một trong những thảm hại lớn nhất của
phương Tây”. Một trong những nguyên nhân đi đến thắng lợi vẻ vang này được
nhận định là do sự đồng lịng, dốc sức của tồn thể nhân dân trong chiến dịch, gọi
là sức mạnh của đoàn kết toàn dân. Sức mạnh này đã được minh chứng trong các
cuộc chiến tranh thời phong kiến, cho đến chiến thắng Điện Phủ như thế nào, và
sức mạnh ấy cịn được đề cao trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày
nay hay không?
1
NỘI DUNG
1. Chương 1. CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ SỨC MẠNH ĐOÀN
KẾT TOÀN DÂN TỘC
1.1. Chiến thắng Điện Biên phủ (1954)
1.1.1. Bối cảnh lịch sử
Tháng 5-1953, Pháp cử Đại tướng H. Navarre (Hăngri Nava) đang đảm
nhiệm chức vụ tổng tham mưu trưởng lục quân khối NATO sang làm Tổng chỉ huy
quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Tháng 7-1953, Nava đã vạch ra kế hoạch
chính trị - quân sự mới lấy tên là “Kế hoạch Nava”, dự kiến thực hiện trong 18
tháng nhằm “chuyển bại thành thắng”. Nava chủ trương tăng cường tập trung binh
lực, hình thành những “quả đấm thép” để quyết chiến với chủ lực của Việt Minh.
Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng lớn nằm ở phía tây rừng núi Tây Bắc,
gần biên giới Lào, có vị trí chiến lược then chốt ở Đơng Dương và cả ở Đông Nam
Á nên quân Pháp cố nắm giữ.
Nava tập trung mọi cố gắng để xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn
cứ điểm mạnh nhất Đông Dương. Tổng số binh lực địch ở đây lúc cao nhất có tới
16200 qn, được bố trí thành ba phân khu: phân khu Bắc gồm các cứ điểm Độc
Lập, Bản Kéo; phân khu Trung tâm ở ngay giữa Mường Thanh, nơi đặt sở chỉ huy,
có trận địa pháo, kho hậu cần, sân bay, tập trung 2/3 lực lượng; phân khu Nam đặt
tại Hồng Cúm, có trận địa pháo, sân bay. Tổng cộng cả ba phân khu có 49 cứ điểm.
Sau khi kiểm tra, các tướng lĩnh Pháp và Mĩ đều coi Điện Biên Phủ là “một
pháo đài bất khả xâm phạm”. Và nơi đây được giới quân sự, chính trị Pháp – Mĩ
đánh giá là “một cỗ máy để nghiền Việt Minh”.
Để đánh bại âm mưu và kế hoạch Nava, Đảng chủ trương mở cuộc tiến công
chiến lược Đông Xuân 1953-1954. Cuối tháng 9-1953, Bộ Chính trị họp bàn và
thông qua chủ trương tác chiến chiến lược Đông Xuân 1953-1954 nhằm tiêu diệt
sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng của ta giữ vững thế chủ động, buộc địch phải
phân tán lực lượng để đối phó. Tháng 12-1953, Bộ Tổng tham mưu đã xây dựng
xong các kế hoạch tác chiến cụ thể cho các chiến trường và được Bộ Chính trị phê
chuẩn. Trên cơ sở báo cáo quyết tâm của Tổng Quân ủy, cuộc họp Bộ Chính trị
ngày 6-12-1953 đã quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ và giao Đại tướng Võ
Nguyên Giáp – Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh quân đội trực tiếp làm
2
Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch. Mục tiêu của chiến dịch là tiêu diệt lực
lượng địch ở đây, gải phóng vùng Tây Bắc, tạo điều kiện giải phóng Bắc Lào.
Chân dung Đại tướng Võ Nguyên Giáp chụp bởi Catherine Karnow.
Khi che nủa mặt bên trái của cụ lại, sẽ thấy một người đàn ơng hịa nhã, hiền lành. Khi
che nửa mặt bên phải của cụ, sẽ thấy một vị tướng dung cảm, sẵn sang quét sạch bất kì kẻ thù
nào, dù có hùng mạnh đến mấy, dám xâm lược đất nước ông.
3
1.1.2. Diễn biến
Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến
thắng!”, cả nước dồn sức cho chiến trường Điện Biên Phủ. Lực
lượng tham gia chiến đấu lên đến 55.000 quân, gồm 3 đại đoàn
bộ binh (308, 312, 316), Trung đoàn bộ binh 57 (Đại đoàn 304),
Đại đoàn công binh - pháo binh 351. Trên 260.000 dân công và
27.400 tấn gạo được huy động để cung cấp cho chiến dịch. Hàng
vạn thanh niên xung phong phối hợp cùng bộ đội công binh ngày
đêm mở đường ra mặt trận dưới bom đạn địch, nên sau một thời
gian ngắn, hàng ngàn km đường được xây dựng, sửa chữa. Công
tác chuẩn bị các mặt trên vượt ra ngồi mọi dự đốn, tạo bất ngờ
lớn đối với cả Pháp và Mỹ.
Chiến dịch Điện Biên Phủ chia làm 3 đợt:
Đợt 1, từ ngày 13 đến ngày 17-3-1954: quân ta tiến công tiêu diệt cụm cứ
điểm Him Lam và toàn bộ phân khu Bắc. Kết quả, ta loại khỏi vòng chiến đấu gần
2000 tên địch.
Đợt 2, từ ngày 30-3 đến ngày 26-4-1954: quân ta đồng loạt tiến cơng các cứ
điểm phía đơng phân khu Trung tâm như E1, D1, C1, C2, A1 v.v.. Ta chiếm phần
lớn các cứ điểm của địch, tạo thêm điều kiện để bao vây, chia cắt, khống chế địch.
Sau đợt này, Mĩ khẩn cấp viện trợ cho Pháp và đe dọa ném bom nguyên tử xuống
Điện Biên Phủ. Ta kịp thời khắc phục khó khan về tiếp tế, nâng cao quyết tâm
giành thắng lợi.
Đợt 3, từ ngày 1-5 đến ngày 7-5-1954: quân ta đồng loạt tiến công phân khu
Trung tâm và phân khu Nam, lần lượt tiêu diệt các cứ điểm đề kháng còn lại của
địch. Chiều 7-5, quân ta đánh vào sở chỉ huy địch. 17 giờ 30 phút ngày 7-5-1954,
tướng Đờ Caxtơri cùng toàn bộ Ban Tham mưu của địch đầu hàng và bị bắt sống.
4
Lược đồ diễn biến chiến lược Điện Biên Phủ (1954)
Các chiến trường toàn quốc đã phối hợp chặt chẽ nhằm phân tán, tiêu hao,
kìm chân địch, tạo điều kiện cho Điện Biên Phủ giành thắng lợi.
1.1.3. Kết quả
Tiêu diệt toàn bộ quân địch, loại khỏi vòng chiến đấu 16200 quân địch, trong
đó có 1 thiếu tướng, hạ 62 máy bay các loại, thu tồn bộ vũ khí, phương tiện chiến
tranh.
Cuộc chiến dịch lịch sử đã đập tan kế hoạch Nava, giáng địn quyết định Vị
ý chí xâm lược của thực dân Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh ở Đông
Dương, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh ngoại giao của ta giành thắng
lợi.
Ngày hôm sau, 8-5-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi bộ đội,
dân công, thanh niên xung phong và đồng bào Tây Bắc đã chiến thắng vẻ vang ở
Điện Biên Phủ: “Quân ta đã giải phóng Điện Biên Phủ. Bác và chính phủ thân ái
gửi lời khen ngợi cán bộ, chiến sĩ, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào
địa phương đã làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang.Thắng lợi tuy lớn nhưng là
5
mới bắt đầu. Chúng ta khơng nên vì thắng mà kiêu, không nên chủ quan khinh
địch. Chúng ta kiên quyết kháng chiến để tranh lại độc lập, thống nhất, dân chủ,
hịa bình. Bất kì đấu tranh về qn sự hay ngoại giao cũng đều phải đấu tranh
trường kỳ gian khổ mới đi đến thắng lợi hồn tồn. Bác và Chính phủ sẽ khen
thưởng những cán bộ, chiến sĩ, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào địa
phương có cơng trạng đặc biệt.”
Chiến dịch dài ngày nhất (56 ngày đêm), động viên nỗ lực cao nhất của
Quân đội và nhân dân Việt Nam trong chiến dịch với 55000 quân và hơn 260000
dân công phục vụ chiến dịch. Đây là chiến thắng lớn nhất của toàn bộ cuộc chiến
tranh chống Pháp, nhiều tấm gương hy sinh anh hung nhất, xuất hiện nhiều con
người vĩ đại nhất, cũng là trận đánh có thương vong lớn nhất với 4020 chiến sĩ tử
trận, 9118 chiến sĩ bị thương, 792 người mất tích. Xương máu của những chiến sĩ
Việt Minh làm rạng danh nòi giống Việt Nam – Châu Á, khiến cho người dân
thuộc địa noi gương, góp phần quyết định đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ trên
phạm vi thế giới.
1.1.4. Ý nghĩa
Chiến dịch Điện Biên Phủ là một mốc son chói lọi trong dòng chảy lịch sử
dân tộc Việt Nam, kết thúc 9 năm kháng chiến trường kỳ, anh dũng của nhân dân ta
chống thực dân Pháp, trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng và sức mạnh
Việt Nam, đồng thời tác động mạnh đến phong trào đấu tranh vì hịa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Báo chí phản động Pháp – Mỹ đã
phải nhận rằng: “Điện Biên Phủ là cuộc thất bại to lớn nhất từ ngày Pháp đầu hàng
Đức (1940). Quân viễn chinh Pháp đã bị chặt mất đầu”. Tin Điện Biên Phủ thất bại
về đến Pháp đúng vào ngày cả nước Pháp đang tưng bừng sắm sửa ăn mừng
“thắng” Đức (1945). Thành thử cuộc ăn mừng cụt hứng mà hóa ra cuộc truy điệu.
1.2.
Sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc
1.2.1. Sức mạnh đồn kết dân tộc trong q khứ
Ngược dịng thời gian trở về với với những trận chiến hào hùng của dân tộc,
những trận chiến đem lại thắng lợi vẻ vang mà nguyên nhân cốt yếu là sức mạnh
của đoàn kết toàn dân tộc. Trong những trang lịch sử chống giặc ngoại xâm của
dân tộc ta đã ghi nhận, quân dân triều Trần đã ngăn chặn và đập tan ba cuộc chiến
tranh xâm lược của đội quân Thành Cát Tư Hãn thiện chiến (1258, 1285, 1287 1288). Để có được những thắng lợi đó, chắc chắn vua tơi nhà Trần đã khéo léo quy
6
động sức mạnh tồn dân, trên dưới một lịng, quyết tâm chống giặc cứu nước, bảo
vệ nền độc lập dân tộc.
Trước sức mạnh hủy diệt của quân Mông - Nguyên, nền độc lập dân tộc và
cương vực nước Đại Việt bị đe đọa… Đứng trước tình hình đó, một số quan lại,
quý tộc nhà Trần đã tỏ ra nao núng lo sợ, một bộ phận khác lộ rõ tư tưởng thỏa
hiệp, đầu hàng, còn đối với người dân Đại Việt, họ vốn chỉ biết lam lũ làm ăn, lo
toan nghéo khó, khơng quen cung, ngựa… làm sao chống lại được đội quân bách
chiến, bách thắng Mông - Nguyên.
Khi quân của Trấn Nam vương Thoát Hoan (con của Hốt Tất Liệt) chuẩn bị
đưa đại quân tiến vào lãnh thổ Đại Việt, lập tức tháng 10-1282, vua Trần đã tổ chức
hội nghị các vương hầu tại bến Bình Than để bàn kế sách chống giặc Nguyên xâm
lược. Tại hội nghị dù có nhiều ý kiến trái ngược nhau để đối phó với giặc, nhưng
cũng tại hội nghị, “Trần Quốc Tuấn và Trần Khánh Dư quyết xin đem quân đi
phòng giữ các nơi hiểm yếu, không cho quân Mông – cổ sang nước Nam. Nhân
tông ưng nghe lời ấy”.
Việc tổ chức hội nghị Bình Than đã minh chứng cho sự khéo léo của vua
Trần trong việc tập trung huy động toàn bộ tướng lĩnh nhà Trần, những người chịu
trách nhiệm trước vận mệnh quốc gia để cùng nhau tham gia, hoạch định chiến
lược chống giặc cứu nước. Tinh thần quyết chiến của các quý tộc Trần chính là
ngọn lửa thắp sáng thêm tinh thần quyết chiến của toàn dân nước Đại Việt.
Sau hội nghị Bình Than, vương triều Trần tỏ rõ quyết tâm phát động và lãnh
đạo cuộc kháng chiến chống xâm lược. Với tư cách là tầng lớp lãnh đạo, triều Trần
nhận thấy nước Đại Việt có đủ sức mạnh để đánh bại đạo quân Mông – Nguyên
trên cơ sở phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, phát động cuộc chiến tranh
nhân dân chống giặc cứu nước. Do vậy, năm 1285, khi quân của Thoát Hoan đã áp
sát biên giới nước Đại Việt, vua Trần liền tổ chức hội nghị Diên Hồng, mời các bô
lão, những bậc cao niên được làng xã kính trọng, đại diện của nhân dân khắp nơi
trong cả nước về triều để bàn hỏi về việc đánh giặc.
Tại hội nghị Diên Hồng, khi nhà vua hỏi nên hịa hay đánh?,“Các phụ lão
đều nói là nên đánh, muôn người cùng lời như một”. Sử thần Ngô Sĩ Liên có
viết:“Thánh tơng muốn làm thế để xét lịng u nước của nhân dân và để nhân dân
nghe lời dụ hỏi mà cảm kích hăng hái lên thơi”. Giáo sư sử học Trần Văn Giàu
nhận xét: “Quyết tâm của bô lão“quyết chiến!” là lời hứa hẹn, lời thề quyết chiến
của nhân dân đối với triều đình, cũng là lời của triều đình muốn qua các bơ lão
truyền vào nhân dân cả nước”. Hà Văn Tấn - Phạm Thị Tâm cũng khẳng
định “Hòa hay chiến?” cùng tiếng trả lời “Quyết chiến !” ở Hội nghị Diên Hồng
ngày xưa chính là một trong những biểu hiện sơ khai của sự kết hợp giữa tinh thần
cứu nước và ý thức dân chủ của nhân dân ta”, “khơng nghi ngờ gì nữa, cuộc chiến
7
tranh vệ quốc thế kỷ XIII là một cuộc kháng chiến toàn dân, một cuộc chiến tranh
nhân dân theo cách nói của Engels, “một cuộc chiến tranh nhân dân để bảo tồn
dân tộc” . Việc tổ chức hội nghị Diên Hồng một lần nữa minh chứng cho sự khéo
léo đến tài tình của vua Trần trong việc tạo sự đồng thuận trong toàn dân, đồng thời
phát động toàn dân quyết tâm cùng triều đình đánh giặc cứu nước.
Vận nước lâm nguy, nhà vua trực tiếp cầm quân ra trận, tướng sĩ “tới bữa
quên ăn, nửa đêm vỗ gối, nước mắt đầm đìa, ruột đau như cắt, chỉ giận khơng
được ăn thịt, nằm da, nuốt gan, uống máu quân thù”, “dầu trăm thân ta phơi
ngồi nội cỏ, nghìn xác ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm”, Đất nước
đứng trước nạn ngoại xâm, từ vua quan đến thần dân, từ tướng lĩnh đến quân sĩ, từ
người già đến trẻ nhỏ… tất cả đồng lòng quyết tâm chống giặc cứu nước bảo vệ
nền độc lập dân tộc.
Trước lúc xung trận, lời thề Sát Thát được khắc chạm vào những cách tay
trần của người dân Đại Việt, khối đại đoàn kết của cả một dân tộc đã tạo nên một
sức mạnh thần thoại, sức mạnh Phù Dổng có thể đánh bại mọi kẻ thù xâm lược. Và
thực tế lịch sử đã chứng minh, vua tôi nước Dại Việt đã đập tan các cuộc chiến
tranh xâm lược của đội quân Mông - Nguyên hùng mạnh.
Song trong một số cuộc chiến tranh không tận dụng được sức mạnh của sự
đoàn kết toàn dân nên đã bị thất bại thảm hại. Chiến tranh Đại Ngu – Đại Minh
(1406-1407) là một minh chứng, khi kết quả là nhà Minh đánh bại hoàn toàn quân
đội nhà Hồ, bắt được Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương, bởi Hồ Quý Ly đem lại sự
bất mãn cho tầng lớp q tộc và dân chúng trong nước, khơng được lịng dân nên
khơng sử dụng được sức mạnh của sự đồn kết dân tộc.
1.2.2. Sức mạnh đoàn kết dân tộc trong chiến dịch Điện Biên Phủ
Một trong những nguyên nhân quyết định thắng lợi của chiến dịch Điện
Biên Phủ là sức mạnh đoàn kết của toàn thể nhân dân, nhân dân góp sức, hết lịng
hướng về chiến dịch lịch sử. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đồn kết tồn dân
tộc khơng phải là sách lược hay thủ đoạn chính trị mà là chiến lược lâu dài, nhất
quán của cách mạng Việt Nam. Người nói rõ: “Sử dạy cho ta bài học này: Lúc nào
dân ta đồn kết mn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân
ta khơng đồn kết thị bị nước ngồi xâm lấn”. Trong chỉ thị của chủ tịch Hồ Chí
Minh cho đại tướng Võ Nguyên Giáp (12-1953), Người chỉ rõ: “chiến dịch này là
một chiến dịch rất quan trọng, không những về qn sự mà cả về chính trị, khơng
những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn
Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”.
Nhận thấy được sức mạnh của đoàn kết toàn đân, nhằm phát huy sức mạnh
của hậu phương, chi viện tiền tuyến, nhất là lực lượng nông dân, Trung ương
8
Đảng, Quốc hội và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định phát động phong trào quần
chúng đấu tranh triệt để giảm tô, giảm tức và tiến hành cải cách ruộng đất, Bộ
Chính trị quyết định thành lập Ủy ban chi viện tiên tuyến; Hội đồng cung cấp Mặt
trận Trung ương và các địa phương cũng được thành lập. Mọi nguồn nhân tài, vật
lực, dân công tiếp tế, chi viện cho mặt trận Điên Biên Phủ được tăng cường với
hàng vạn ngày công, hàng vạn tấn lương thực, đạn dược, vũ khí, phương tiện trang
bị,…
21 000 xe đạp thồ, 261500 dân công cùng các loại ô tô, tàu, thuyền, lừa, ngựa… ngày
đêm vận chuyển lương thực, vũ khí, đạn dược lên mặt trận Điện Biên Phủ - một hình ảnh đẹp.
Sự đóng góp to lớn của lực lượng dân cơng, đảm bảo hậu cần cho chiến dịch
là một trong những nguyên nhân chính làm nên chiến thắng. Với khẩu hiệu “Tất cả
cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng!”, cả nước dồn sức cho chiến trường Điện
Biên Phủ. Lực lượng tham gia chiến đấu lên đến 55000 quân, gồm 3 đại đoàn bộ
binh (308, 312, 316), Trung đoàn bộ binh 57 (Đại đồn 304), Đại đồn cơng binh –
pháo binh 351. Trên 260000 dân công và 27400 tấn gạo được huy động để cung
cấp cho chiến dịch. Hàng vạn thanh niên xung phong phối hợp cùng bộ đội công
binh ngày đêm mở đường ra mặt trận dưới bom đạn địch, nên sau một thời gian
ngắn, hàng ngàn km đường được xây dựng, sửa chữa. Công tác chuẩn bị cho các
mặt trận vượt ra ngồi mọi dự đốn, tạo bất ngờ lớn đối với cả Pháp và Mỹ.
9
Bài thơ “Hoan hô Chiến sĩ Điện Biên” của nhà thơ Tố Hữu có những đoạn
thơ đã trở nên rất quen thuộc với từng chiến sĩ, cho thấy sức mạnh về ý chí và sự
đồn kết khơng ngại gian khổ để đi đến thắng lợi:
“Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Chiến sĩ anh hùng, đầu nung lửa sắt
56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non, gan khơng núng, chí khơng mịn!
…Những bàn tay xẻ núi lăn bom
Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện
Và những chị, những anh ngày đem ra tiền tuyến
…Dù bom đạn xương tan thịt nát
Khơng sờn lịng, không tiếc tuổi xanh…”
Kéo pháo vào trận địa
Tiếp về nguyên nhân thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại tá, TS.
Phạm Đình Bách – Chủ nhiệm Bộ mơn Lịch sử quân sự, Khoa Chiến lược, Học
viện Quốc phòng – nhấn mạnh: Chiến thắng Điện Biên Phủ là sức mạnh mạnh tổng
hợp của nhiều nhân tố hợp thành, trong đó bước phát triển của nghệ thuật quân sự
Việt Nam thể hiện trên 3 lĩnh vực chỉ đạo chiến lược, nghệ thuật chiến dịch và
chiến thuật là nhân tố góp phần quyết định. Về chỉ đạo chiến lược, Bộ Chính trị,
Tổng Quân ủy đã rất nhạy bén, sớm phát hiện và đánh giá đúng âm mưu chiến lược
của địch; chỉ đạo kiên quyết, linh hoạt, giữ vững và phát huy quyền chủ động chiến
lược của ta. Về nghệ thuật chiến dịch, ta đã giải quyết thành công nhiều vấn đề
10
mới, nhất là nghệ thuật chiến dịch tiến công như tập trung ưu thế binh hỏa lực,
đánh chắc thắng, tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch, từng bước uy hiếp, tiến tới
tiêu diệt khu vực trọng yếu của địch… Về chiến thuật, khi ta tập trung sức mạnh
của cả dân tộc quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, chiến thuật của
ta đã có những bước phát triển mới như chiến thuật công kiên đã phát triển từ cấp
tiểu đoàn, đại đoàn (thiếu) lên tới quy mơ đại đồn, đánh hiệp đồng binh chủng,
hay xuất hiện chiến thuật phòng ngự trận địa, sự ra đời của chiến thuật đánh lấn…
Sự phát triển toàn diện về nghệ thuật quân sự trên nhiều lĩnh vực trong Chiến dịch
Điện Biên Phủ đã góp phần đánh bại cố gắng chiến tranh cao nhất của thực dân
Pháp và can thiệp của đế quốc Mỹ, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống
Pháp.
Vì vậy, sức mạnh của đồn kết dân tộc là điều không thể chối cãi cho sự
chiến thắng của cuộc chiến dịch lịch sử.
1.2.3. Vai trị của đại đồn kết toàn dân tộc
Đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành
cơng của cách mạng. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu và
nhiệm vụ khác nhau, chính sách và phương pháp tập hợp đại đồn kết có thể và cần
thiết phải điều chỉnh cho phù hợp với từng đối tượng khác nhau song không bao
giờ được thay đổi chủ trương đại đồn kết tồn dân tộc, vì đó là nhân tố quyết định
sự thành bại của cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, dưới chế độ dân chủ cộng hịa,
nhân dân có nghĩa vụ, đồng thời có quyền lợi. Nhân dân có quyền tự do tư tưởng,
tự do tổ chức, tự do tín ngưỡng, có quyền ứng cử và bầu cử. Đàn bà có quyền lợi
như đàn ơng. Các dân tộc trong nước đều có quyền lợi như nhau. Cho nên mọi
người cần phải hăng hái làm tròn nghĩa vụ của mình trong mọi cơng việc kháng
chiến, cứu nước, xây dựng nước nhà. Nhân dân là bốn giai cấp công, nông, tiểu tư
sản, tư sản dân tộc và những phần tử khác yêu nước. Đó là nền tảng của quốc dân.
Hồ Chí Minh đã khái quát nhiều luận điểm mang tính chân lý về vai trò và sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”,
“Đồn kết là một lực lượng vơ địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy
thắng lợi”…
Đại đoàn kết toàn dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng Việt Nam. Đảng là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam nên tất yếu đại
đoàn kết toàn dân tộc phải được xác định là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và nhiệm
11
vụ này phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương,
chính sách, tới hoạt động thực tiễn của Đảng. Trong lời kết thúc buổi ra mắt Đảng
Lao động Việt Nam ngay 3-3-1951, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Mục đích của Đảng
Lao dộng Việt Nam có thể gồm trong tám chữ là: ĐỒN KẾT TỒN DÂN,
PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng
và vì quần chúng.
Chương 2. PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC
TRONG CƠNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY
2.1.
Sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay
Theo những chiến công hiển hách mà cha ông ta đã để lại trong những trang
sử vàng mà phần lớn là áp dụng sức mạnh của đoàn kết toàn dân. Song dến ngày
nay, tinh thần ấy lại trỗi dậy khi đất nước gặp lâm nguy.
Đối với vấn đề nhạy cảm và phức tạp trên biển Đông, trước nguy cơ lãnh thổ
Việt Nam bị Trung Quốc chiếm hữu, nhân dân Việt Nam đã một lòng hướng về
biển đảo quê hương. Sức mạnh yêu nước được thể hiện qua tất cả các phương tiện
thông tin đại chúng với nội dung kiên quyết khẳng định chủ quyền lãnh thổ, hàng
loạt bài báo cập nhập liên tục tình hình biển Đơng lúc bấy giờ, hàng loạt bài đăng
bày tỏ quan điểm trên mạng xã hội, hàng loạt sản phẩm giải trí trên nền tảng
Youtube đều chèn thơng điệp “Hồng Sa, Trường Sa là của Việt Nam”. Gần đây
nhất vấn đề chủ quyền được hâm nóng trở lại với sự kiện H&M không tôn trọng
đất nước Việt Nam khi đăng tải hình ảnh bản đồ chứa đường lưỡi bò. Nhân dân
Việt Nam, đặc biệt là giới trẻ, lại chung tay đẩy mạnh làn sóng tẩy chay thương
hiệu này bằng cách không sử dụng các sản phẩm từ thương hiệu này. Đúng với
truyền thống yêu nước mà Bác Hồ đã nói: “Dân ta có một lịng nồng nàn yêu
nước, đó là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Từ xưa đến nay,mọi khi tổ quốc
bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn song vơ cùng mạnh
mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán
nước và lũ cướp nước.” Nhân dân Việt Nam vẫn giữ vững tinh thần ấy, tạo thành
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trong năm 2020, đất nước phải đối mặt với thiên tai, dịch bệnh xảy ra
thường xuyên, đặc biệt là dịch COVID-19 và lũ lụt ở miền Trung, nhưng với sự nỗ
lực, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, kinh tế nước ta vẫn đạt mục
tiêu tăng trưởng dương, an sinh xã hội, đời sống của Nhân dân được đảm bảo.
12
Góp vào thành cơng chung đó của đất nước có sự vào cuộc tích
cực của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội. Mặt trận các
cấp đã luôn bám sát sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo của Nhà
nước, với tinh thần trách nhiệm cao cùng nỗ lực, quyết tâm, đổi
mới hình thức tổ chức phù hợp với thực tiễn. Minh chứng rõ nét
nhất là việc Mặt trận các cấp đã huy động được sức mạnh của
lịng dân khi hưởng ứng lời kêu gọi “Tồn dân tham gia ủng hộ
phịng chống dịch COVID-19” của Đồn Chủ tịch Uỷ ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cùng chung tay hướng về đồng
bào các tỉnh phải hứng chịu những ảnh hưởng nặng nề bởi thiên
tai, bão lũ. Chúng ta lại thêm tự hào khi giành thêm một chiến thắng từ sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc: Chiến thắng “giặc COVID-19”. Tuy chưa phải là
chiến thắng cuối cùng, nhưng đã giành thắng lợi trên từng chặng đường tính đến
thời điểm này. Cả hệ thống chính trị vào cuộc, nhân dân đồng lòng, hưởng ứng Lời
hiệu triệu tinh thần đồn kết, chung sức, đồng lịng của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước
Nguyễn Phú Trọng; quyết tâm “chống dịch như chống giặc” theo tinh thần chỉ đạo
của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc. Chúng ta đã thực hiện các biện pháp
phòng, chống dịch đúng đắn, hiệu quả, được các tổ chức quốc tế, các quốc gia
đánh giá cao. Trong đó, khơng thể khơng nhắc đến việc người dân trên mọi miền
đất nước thực hiện nghiêm Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về các
biện pháp cấp bách phòng, chống dịch COVID-19, trọng tâm là thực hiện quyết liệt
các biện pháp giãn cách xã hội. Đến giờ phút này, Việt Nam đã cơ bản đẩy lùi dịch
bệnh COVID-19. Vì thế, giãn cách xã hội khơng đơn thuần là phòng, chống dịch
bệnh, mà một lần nữa khẳng định tinh thần đoàn kết toàn dân tộc đã được phát huy
một cách mạnh mẽ trong lúc đất nước gặp khó khăn. Nhân dân các dân tộc tiếp tục
đoàn kết, đồng lịng, ủng hộ Đảng, Chính phủ, với niềm tin chiến thắng “giặc
COVID-19” một ngày không xa.
2.2.
Tiếp tục khơi dậy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc
Vấn đề sức mạnh đại đồn kết dân tộc ln được nêu ra trong các kỳ Đại
hội, Hội nghị Trung ương Đảng.
Phát biểu tại Đại hội Thi đua yêu nước Mật trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn
2020-2025, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh: Chính phủ đề nghị Mặt trần
Tổ quốc Việt Nam tiếp tục khơi dậy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, quyết tâm
13
thi đua thực hiện thành cơng chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước.
Thủ tướng chúc mừng những thành tích to lớn đã đạt được và biểu dương
phong trào thi đua yêu nước của Mặt trận Tổ quốc các cấp; trân trọng cảm ơn tất cả
các tầng lớp nhân dân cả nước, các dân tộc, tôn giáo, đồng bào ta ở nước ngoài đã
nêu cao tinh thần yêu nước, đoàn kết, hưởng ứng, ủng hộ và nỗ lực thực hiện các
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, góp phần làm nên những thành tựu
chung của đất nước. Đồng thời ghi nhận, đánh giá cao những thành tích nổi bật của
các đại biểu tham dự Đại hội cũng như rất nhiều tấm gương thầm lặng khác trên
các lĩnh vực công tác của Mặt trận, trong các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, tôn
giáo, đồng bào ta đang lao động, học tập, sinh sống ở nước ngoài. Đây thực sự là
những bông hoa tươi thắm trong vườn hoa thi đua yêu nước của cả nước. Thực tiễn
lịch sử cách mạng trong 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh, đã tập hợp, đoàn
kết các tầng lớp nhân dân thành lực lượng cách mạng to lớn để đánh đổ ách thống
trị của thực dân, phong kiến, đấu tranh chống đế quốc xâm lược, giành độc lập, tự
do cho Tổ quốc. Trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Mặt trận
ngày càng có vai trị quan trọng, góp phần tích cực củng cố, mở rộng và phát huy
khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự đồng thuận xã hội; chăm lo đời sống
nhân dân. Mặt trận đã động viên nhân dân phát huy dân chủ, hăng hái tham gia các
phong trào thi đua yêu nước; thực hiện giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây
dựng Đảng, chính quyền, đấu tranh phòng, chống tham nhũng; mở rộng quan hệ
hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước.
Cần tiếp tục giương cao ngọn cờ tập hợp đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tập trung tuyên truyền, vận động để các tầng
lớp nhân dân, đoàn viên, hội viên, thành viên nâng cao nhận thức và trách nhiệm,
tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, củng cố và mở rộng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc; đồn kết các dân tộc, đồn kết các tơn giáo, đoàn kết đồng
bào trong nước cũng như đồng bào ta ở nước ngoài.
2.3.
Liên hệ bản thân
Bản thân sinh viên tiếp thu tích cực những bài học Lý luận chính trị, đặc biệt
những bài học về kết quả mà đại đoàn kết toàn dân tộc đã mang lại cho Việt Nam
thời kỳ cách mạng và hiện nay. Từ đó gầy dựng nên một ý thức tốt đẹp, đúng đắn
14
đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phân biệt rõ ràng những hình thức
áp dụng sức mạnh đồn kết tồn dân, đâu là tích cực, đâu là tiêu cực để không sa
ngã vào những điều trái lẽ phải. Tích cực hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và nhà
nước trong những tình thế lâm nguy của đất nước như chung tay đầy lùi dịch bệnh
COVID-19, tuân thủ những nguyên tắc phòng chống dịch bệnh.
KẾT LUẬN
Chiến thắng vĩ đại ở Điện Biên Phủ là thắng lợi của ý chí và khát vọng độc
lập, tự do của nhân dân Việt Nam mà nòng cốt là lực lượng Quân đội nhân dân anh
hùng. Năm 1962, trong lời đề tựa cuốn “Đêm thực dân” (La Nuit Coloniale), nhà
lãnh đạo giải phóng dân tộc Ferhat Abbas, sau này trở thành tổng thống đầu tiên
của Algerie, viết: “Điện Biên Phủ không chỉ là một chiến thắng quân sự. Đó là xác
nhận về nhân quyền quy mơ tồn cầu. Tại Điện Biên Phủ, nước Pháp đã đánh mất
sự hiện diện hợp lý duy nhất, đó là lý lẽ của kẻ mạnh.” Sau này khi tổng kết về
chiến thắng của Quân đội Nhân dân Việt Nam tại Điện Biên Phủ, các tướng lĩnh và
các nhà nghiên cứu của hai bên đều thống nhất được với nhau: một nguyên nhân
chính làm nên chiến thắng của Quân đội Nhân dân Việt Nam tại trận đánh này là đã
huy động được rất lớn nguồn sức người để đảm bảo hậu cần cho chiến dịch, một
việc mà Pháp cho rằng không thể giải quyết được. Đây là sức mạnh của đại đoàn
kết toàn dân tộc mà cho đến ngày nay sức mạnh ấy vẫn luôn tồn tại và góp phần
qua trọng trong cơng cuộc xây dựng Tổ quốc hiện nay.
15
MỤC LỤC
Dẫn luận ____________________________________________________1
Nội dung____________________________________________________2
Chương 1. Chiến thắng Điện Biên Phủ và sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc_2
1.1.
1.2.
Chiến thắng Điện Biên phủ (1954)___________________________2
1.1.1. Bối cảnh__________________________________________2
1.1.2. Diễn biến__________________________________________4
1.1.3. Kết quả___________________________________________5
1.1.4. Ý nghĩa___________________________________________6
Sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc_____________________________6
1.2.1. Sức mạnh đoàn kết dân tộc trong quá khứ_________________6
1.2.2. Sức mạnh đoàn kết dân tộc trong chiến dịch Điện Biên Phủ__8
1.2.3. Vai trị của đồn kết tồn dân tộc______________________11
Chương 2. Phát huy sức mạnh đại đồn kết dân tộc trong cơng cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện_________________________________________12
2.1. Sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay___________12
2.2. Tiếp tục khơi dậy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc_____________13
2.3. Liên hệ bản thân__________________________________________14
Kết luận____________________________________________________15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam (HN 8-2019)
Sách giáo khoa Lịch sử 12
Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 2011, tập 7.
Trần Văn Giàu (1993), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, tr.242.
5. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (HN-2019)
16
17