Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Trách nhiệm của công ty mẹ đối với hành vi của công ty con.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.63 KB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
H
O
À
N
G
T
H
U
H
À
*
T
R
Á
C
H
N
HI

M
C

A
C
Ô
N
G
T
Y


M

Đ
ỐI
V
ỚI
H
À
N
H
VI

LUẬN VĂN THẠC SĨ

TRÁCH NHIỆM CỦA CÔNG TY MẸ ĐỐI VỚI HÀNH VI
CỦA CƠNG TY CON

Ngành: Luật Kinh tế

HỒNG THU HÀ


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

TRÁCH NHIỆM CỦA CÔNG TY MẸ ĐỐI VỚI HÀNH VI
CỦA CÔNG TY CON


Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380107

Họ và tên học viên: Hoàng Thu Hà

Người hướng dẫn: PGS., TS. Ngô Quốc Chiến

Hà Nội, năm 2022


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn “Trách nhiệm của công ty mẹ đối với hành vi của công ty con” này là
công trình nghiên cứu của bản thân tơi trên cơ sở tham khảo và học hỏi từ nhiều
nguồn tư liệu khác nhau. Tơi xin cam đoan đã trích dẫn đầy đủ tất cả những nội
dung nghiên cứu, ý tưởng, quan điểm của người khác mà tôi sử dụng trong đề tài
nghiên cứu của mình.
Nếu có bất kỳ sự khiếu nại, khiếu kiện của tổ chức, cá nhân nào về việc nội dung
trong đề tài này là sản phẩm của sự sao chép khơng trung thực và vi phạm quyền sở
hữu trí tuệ của người khác, tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm trước tổ chức, cá
nhân đó cũng như trước pháp luật.
Hà Nội, ngày 22 tháng 03 năm 2022
Tác giả

Hoàng Thu Hà


LỜI CẢM ƠN
Quá trình theo học chương trình Cao học Luật Kinh tế của Trường Đại học
Ngoại thương trong hơn một năm qua đã mang đến cho tôi thực sự nhiều kiến thức
và kinh nghiệm quý báu cho nghề nghiệp của bản thân. Cũng trong hơn một năm

này, tôi đã rất may mắn được gặp những giảng viên có hiểu biết sâu rộng, giàu kinh
nghiệm giảng dạy, lại vô cùng tận tụy và tâm huyết. Họ đã cho tôi một nguồn cảm
hứng lớn lao đối với việc học và thực hành những kiến thức pháp luật trong đời
sống cá nhân cũng như trong công việc. Tôi xin cảm ơn duyên lành đã cho tơi biết
đến chương trình Cao học này của Trường Đại học Ngoại thương.
Trong quá trình nghiên cứu và viết bài luận này, tơi vơ cùng cảm kích sự hướng
dẫn, động viên và khích lệ của những thầy, cô phụ trách lớp Cao học Luật Kinh tế
4A gồm cô Nguyễn Thị Thu Hằng đến từ Khoa Sau Đại học và thầy Nguyễn Ngọc
Hà, người bạn đồng môn Khối E K40 Kinh tế đối ngoại và cũng là người thầy của
tôi đến từ Khoa Luật, Trường Đại học Ngoại Thương. Tôi cũng cảm ơn những
người bạn đồng hành là những học viên trong lớp Cao học Luật Kinh tế 4A đã sát
cánh, chia sẻ với tôi ở những giai đoạn khó khăn trong q trình nghiên cứu, động
viên tơi cố gắng mỗi ngày đặc biệt là khi vào giai đoạn cuối để hoàn thành nhiệm
vụ, dù đáng lẽ với vai trị là lớp trưởng tơi mới phải là người động viên các bạn
mình.
Trên tất cả, tơi dành sự biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến thầy Ngô Quốc
Chiến, người đã khơi nguồn cảm hứng cho tôi, đã hướng dẫn tơi trong q trình
nghiên cứu, đã nghiêm khắc với tơi từ nội dung đến hình thức của bài luận và đặc
biệt thấm thía là về tính cam kết trong thời hạn hoàn thành nhiệm vụ cuối cùng của
chặng đường cao học này. Mặc dù vậy, tôi tự thấy rằng mình đã khơng hồn thành
được nhiệm vụ như sự mong đợi của thầy, và tôi biết ơn thầy thêm nữa về sự bao
dung, rộng lượng thầy đã dành cho tôi.
Cuối cùng, tôi xin dành lời cảm ơn không thể thiếu cho gia đình và đồng nghiệp
tại nơi cơng tác của tôi đã tạo điều kiện về mặt thời gian cũng như hỗ trợ về mặt
tinh thần cho tôi trong q trình hồn thành luận văn này.
Trân trọng cảm ơn vì tất cả.


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................................1

1.

Tính cấp thiết của đề tài...................................................................................................1

2.

Tổng quan tình hình nghiên cứu....................................................................................2

2.1. Các cơng trình nghiên cứu ở trong nước.........................................................................2
2.2. Các cơng trình nghiên cứu trên thế giới..........................................................................3
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................................7

3.1. Mục đích nghiên cứu.......................................................................................................7
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................................................7
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................................................8

5.

Phương pháp nghiên cứu.................................................................................................9

6.

Kết cấu của đề tài............................................................................................................10

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TY VÀ TRÁCH NHIỆM
CỦA CƠNG TY MẸ..............................................................................................................11

1.1. Lý thuyết về cơng ty và sự xuất hiện của nhóm cơng ty............................................11
1.1.1. Tư cách pháp nhân và trách nhiệm hữu hạn...............................................................11
1.1.2. Trách nhiệm hữu hạn và ý nghĩa của trách nhiệm hữu hạn........................................12
1.2. Nhóm cơng ty...................................................................................................................15
1.2.1. Sự xuất hiện của nhóm cơng ty..................................................................................15
1.2.2. Khái niệm và đặc điểm của nhóm cơng ty.................................................................16
1.2.3. Mối quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con theo pháp luật một số quốc gia..........19
1.3. Trách nhiệm pháp lý phát sinh từ hành vi của công ty.............................................22
1.3.1. Khái niệm “trách nhiệm” và “trách nhiệm pháp lý”..................................................22
1.3.2. Trách nhiệm dân sự....................................................................................................23
1.3.3. Trách nhiệm hành chính.............................................................................................25
1.3.4. Trách nhiệm hình sự...................................................................................................26
1.4. Các quan điểm lý luận về trách nhiệm của công ty mẹ đối với hành vi của công ty
con 30
1.4.1. Quan điểm ủng hộ cơ chế “vén màn công ty”............................................................31
1.4.2. Quan điểm phản đối cơ chế “vén màn cơng ty”.........................................................33
1.5. Tính chất và cơ sở trách nhiệm của cơng ty mẹ.........................................................34
1.5.1. Tính chất trách nhiệm của công ty mẹ.......................................................................34
1.5.2. Cơ sở trách nhiệm của công ty mẹ.............................................................................36


1.6. Tiểu kết Chương 1..........................................................................................................34
CHƯƠNG 2 – BẤT CẬP TỪ MƠ HÌNH CƠNG TY MẸ - CƠNG TY CON VÀ QUY
ĐỊNH CỦA CÁC QUỐC GIA VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA CÔNG TY MẸ..................39
2.1. Mơ hình cơng ty mẹ - cơng ty con bị lợi dụng để doanh nghiệp trốn tránh trách
nhiệm........................................................................................................................................39
2.1.1. Chuyển giá để trốn thuế.............................................................................................39
2.1.2. Sử dụng các “công ty bình phong”.............................................................................42
2.2. Quy định pháp luật của một số quốc gia về trách nhiệm của công ty mẹ..............47
2.1.1. Pháp luật về công ty và học thuyết “vén màn công ty”..............................................47

2.1.2. Pháp luật về trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng (tort law) và lý thuyết về trách
nhiệm cẩn trọng (duty of care).............................................................................................54
2.1.3. Trách nhiệm của công ty mẹ theo một số luật riêng..................................................57
2.3. Quy định pháp luật của Việt Nam về trách nhiệm của công ty mẹ.........................58
2.3.1. Pháp luật về cơng ty...................................................................................................58
2.3.2. Pháp luật về trách nhiệm dân sự ngồi hợp đồng.......................................................59
2.4. Tiểu kết Chương 2..........................................................................................................60
CHƯƠNG 3 – MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH
NHIỆM CỦA CÔNG TY MẸ ĐỐI VỚI HÀNH VI CỦA CÔNG TY CON VÀ
NHỮNG LƯU Ý ĐỐI VỚI NHĨM CƠNG TY VÀ CÁC CHỦ THỂ LIÊN QUAN....62
3.1. Kiến nghị về hoàn thiện hệ thống các quy phạm pháp luật về trách nhiệm của
công ty mẹ đối với hành vi của công ty con........................................................................62
3.1.1. Cần làm rõ khái niệm về sự chi phối của công ty mẹ đối với công ty con................62
3.1.2. Cần cụ thể hóa các nguyên tắc áp dụng những ngoại lệ trong cơ chế trách nhiệm hữu
hạn…....................................................................................................................................64
3.1.3. Cần một án lệ về “vén màn cơng ty”..........................................................................66
3.2. Kiến nghị về hồn thiện hệ thống các quy phạm pháp luật nhằm ngăn ngừa các
hành vi lợi dụng vỏ bọc công ty, lợi dụng mơ hình cơng ty mẹ - cơng ty con để thực
hiện các hành vi vi phạm pháp luật.....................................................................................67
3.3. Khuyến nghị với các doanh nghiệp thuộc các nhóm cơng ty....................................67
3.3.1. Thực hiện đúng và đủ các quy định về quản lý, điều hành công ty...........................68
3.3.2. Hạn chế sự không tách bạch trong hoạt động giữa công ty mẹ và công ty con 69
3.3.3. Thực hiện đúng cam kết góp vốn...............................................................................70


3.4. Khuyến nghị với các tổ chức, cá nhân khi giao dịch với các thành viên trong một
nhóm cơng ty...........................................................................................................................71
3.5. Tiểu kết chương 3............................................................................................................73
KẾT LUẬN.............................................................................................................................74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................76



8

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Cùng với sự ra đời và phát triển của các loại hình công ty trong nền kinh tế,
khoa học pháp lý về công ty cũng đã ra đời và trải qua một quá trình phát triển lâu
dài để định hình nên những nguyên lý cơ bản. Trong đó, “tư cách pháp nhân” của
công ty và “trách nhiệm hữu hạn” của nhà đầu tư là hai nguyên lý nền tảng và cũng
được coi là những đặc quyền mà các nhà làm luật trao cho các công ty và những
người đầu tư vào chúng. Các nhóm cơng ty cũng hình thành từ đó bởi các nhà đầu
tư ngày càng biết cách “tận dụng” cơ chế trách nhiệm hữu hạn để tối đa hóa lợi
nhuận thu về nhưng lại khoanh vùng được rủi ro của mình.
Tuy nhiên, cũng như mọi sự vật hiện tượng của cuộc sống, tư cách pháp nhân
và trách nhiệm hữu hạn cũng có hai mặt của một vấn đề. Một mặt, nó tạo ra một
“bức màn cơng ty”, bảo vệ những người góp vốn trước những rủi ro từ hoạt động
kinh doanh của cơng ty, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế thông qua việc thu hút
nguồn vốn nhàn rỗi của xã hội. Mặt khác, nó lại dễ dàng bị lợi dụng vào những mục
đích phi pháp, gây thiệt hại cho nhiều bên và tạo ra những hệ lụy tiêu cực cho trật tự
xã hội. Người ta gọi những trường hợp này là lợi dụng vỏ bọc công ty hay lợi dụng
bức màn cơng ty. Pháp luật đã có những quy định buộc những người chủ thực sự
của công ty phải chịu trách nhiệm cá nhân trong một số trường hợp nhân danh công
ty thực hiện những hành vi trái với pháp luật. Tuy vậy, nếu chủ sở hữu của một cơng
ty lại là một cơng ty khác thì pháp luật quy định như thế nào về trách nhiệm của
công ty này? Dù đã có những quy định về trách nhiệm của pháp nhân song trên
quan điểm các pháp nhân là độc lập với nhau về mặt địa vị pháp lý, các văn bản quy
phạm pháp luật hiện nay của Việt Nam mới chỉ dừng lại ở mức độ yêu cầu pháp
nhân tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình mà chưa hề đề cập trực tiếp và rõ

ràng về trách nhiệm của pháp nhân trong vai trò là công ty mẹ của công ty khác.
Đây cũng là vấn đề chung của nền pháp luật nhiều quốc gia. Tuy nhiên, tại một số
nước mà pháp luật về công ty đã hình thành từ lâu, giới nghiên cứu đã phát triển
một học thuyết để giải quyết vấn đề này, gọi tên là học thuyết hay cơ chế “vén màn
công ty”, được áp dụng chủ yếu ở các nước theo hệ thống thông luật (Common law)
mà tiêu biểu là Anh và Hoa Kỳ. Vấn đề đặt


ra là, cơ chế này có thực sự giải quyết được câu hỏi cơng ty mẹ có trách nhiệm với
hành vi của công ty con hay không, trách nhiệm trong trường hợp nào, trách nhiệm
đến mức độ nào và khi nào thì có thể áp dụng cơ chế này?
Những câu hỏi đặt ra trên đây khiến cho đề tài nghiên cứu về “Trách nhiệm
của công ty mẹ đối với hành vi của công ty con” trở thành một chủ đề cấp thiết cần
được nghiên cứu để đóng góp vào việc hồn thiện các định chế pháp lý về cơng ty ở
Việt Nam. Với niềm tin đó, tơi đã quyết định lựa chọn “Trách nhiệm của công ty mẹ
đối với hành vi của công ty con” làm đề tài luận văn thạc sỹ Luật Kinh tế của bản
thân. Đề tài này phù hợp với chuyên ngành đào tạo thạc sỹ Luật Kinh tế của cơ sở
đào tạo, cũng như định hướng nghề nghiệp của cá nhân tơi.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Các vấn đề về tính trách nhiệm hữu hạn của công ty, việc bức màn công ty bị
lạm dụng và các biện pháp xác định trách nhiệm của công ty mẹ đối với hành vi của
công ty con đã được rất nhiều học giả trong và ngoài nước nghiên cứu. Nhiều tác
giả ủng hộ việc buộc công ty mẹ phải có trách nhiệm về hành vi của cơng ty con
trong một số hoàn cảnh cụ thể. Tuy nhiên, cũng có một số quan điểm phản đối.
Dưới đây là những cơng trình nghiên cứu trong và ngồi nước mà tác giả đã khảo
cứu nhằm phục vụ cho đề tài này.
2.1. Các cơng trình nghiên cứu ở trong nước
(1) Phan Vũ (2020), “Những ngoại lệ trong chế độ trách nhiệm hữu hạn của


chủ sở hữu công ty đối vốn – kinh nghiệm Hoa Kỳ và liên hệ với Việt Nam”, Tạp
chí Luật học số 7/2020. Bài viết giới thiệu về những ngoại lệ trong chế độ trách
nhiệm hữu hạn và thực tiễn áp dụng học thuyết “vén màn công ty” tại Hoa Kỳ thơng
qua một số án lệ, từ đó liên hệ với pháp luật của Việt Nam để đưa ra một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về trách nhiệm tài sản của pháp nhân,
chế độ trách nhiệm tài sản của chủ sở hữu công ty đối vốn. Điểm hạn chế của bài
viết này là chưa nêu được xuất phát điểm hay lý do của việc nghiên cứu, chẳng hạn
như vì sao lại phải có những ngoại lệ trong chế độ trách nhiệm hữu hạn.
(2) Nguyễn Thị Phương Thảo (2021), “Vận dụng cơ chế “xuyên qua màn che

cơng ty” đối với nhóm cơng ty – kinh nghiệm từ Anh, Hoa Kỳ và kiến nghị cho Việt


Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 1/2021. Bài viết có sự dẫn dắt từ những
vấn đề lý luận cơ bản về cơng ty và nhóm cơng ty, về ngoại lệ của trách nhiệm hữu
hạn đối với nhóm công ty đến các nội dung kiến nghị cho pháp luật Việt Nam.
Trong bài viết, tác giả nhận định: “việc áp dụng cơ chế “xuyên qua màn che công
ty” trong các trường hợp liên quan đến nhóm cơng ty thực sự là một thách thức đối
với các tòa án”. Tuy nhiên, trong số ba kiến nghị mà tác giả đưa ra, kiến nghị về áp
dụng cơ chế “xuyên qua màn che công ty” vẫn là nội dung được chú trọng hơn cả.
Ngồi các cơng trình nêu trên, cũng cịn một số bài viết của các luật sư, các
nhà nghiên cứu được đăng tải trên một số tạp chí khoa học. Tuy nhiên, nhìn chung
thì vấn đề trách nhiệm của cơng ty mẹ đối với hành vi của công ty con còn khá mới
mẻ và chưa được nghiên cứu thấu đáo tại Việt Nam.
2.2. Các cơng trình nghiên cứu trên thế giới

Trách nhiệm của công ty mẹ đối với hành vi của công ty con là một chủ đề
được nghiên cứu rất nhiều ở nước ngoài. Nhằm phục vụ nghiên cứu đề tài này, tác
giả đã khảo sát các cơng trình tiêu biểu sau:
(1) I. Maurice Wormser (1912), “Piercing the veil of corporate entity”,


Columbia Law review, Vol. 12, No. 6. Với mục tiêu chỉ ra những trường hợp một
công ty sẽ không được coi là một chủ thể độc lập, giáo sư I. Maurice Wormser của
Đại học Illinois đã xem xét và phân tích phán quyết của các tịa án tại Hoa Kỳ trong
một số vụ tranh chấp liên quan đến trách nhiệm pháp lý của những cổ đông hay chủ
sở hữu của một cơng ty, từ đó rút ra một nguyên tắc chung là: Khi khái niệm “pháp
nhân” hay “doanh nghiệp” được lợi dụng để lừa gạt các chủ nợ, trốn tránh nghĩa vụ
của cổ đông, hay để lách luật, để tạo dựng vị thế độc quyền, che giấu tội phạm…,
tịa án sẽ bỏ qua bức màn cơng ty và coi công ty như một hiệp hội của các cổ đông
và sẽ thực thi công lý đối với cá nhân từng chủ sở hữu. Mặc dù vậy, tác giả cũng
bày tỏ quan điểm thống nhất với nhiều nhà nghiên cứu khác rằng trong một phạm vi
nhất định, các công ty vẫn phải được coi là những thực thể độc lập với những chủ
sở hữu hay cổ đông của chúng. Bài viết được đăng tải vào những năm đầu của thế
kỷ XX và có lẽ là một trong những bài phân tích sớm nhất về cái gọi là “bức màn
cơng ty” và những bất cập khi khái niệm này bị lạm dụng. Tuy nhiên, bài viết chưa
xem xét đến


vấn đề lợi dụng bức màn công ty ở các nhóm cơng ty và chỉ tổng hợp các phán
quyết của tòa án để đưa ra kết luận chung chứ chưa phát triển thành học thuyết “vén
màn công ty” như các học giả sau này. Dù sao đi nữa, những nghiên cứu của Giáo
sư I. Maurice Wormser cũng mang ý nghĩa đặt nền móng cho những nghiên cứu sau
này về vấn đề trách nhiệm của cổ đông hay chủ sở hữu đối với hoạt động của công
ty.
(2) Sam Elson (1930), “Legal Liability of Holding Companies for Acts of

Subsidiary Companies”, Washington University Law Review, Vol. 15, Issue 4.
Thông qua việc tổng hợp và phân tích các án lệ, tác giả Sam Elson đã đưa ra nhận
định của mình trong vấn đề gây bối rối cho nền tư pháp Hoa Kỳ đó là trách nhiệm
của các công ty Holdings1 đối với hành vi của các cơng ty con. Ơng ủng hộ quan

điểm tịa án không nên coi các công ty là những thực thể độc lập bằng mọi giá mà
trong một số trường hợp cụ thể các công ty Holdings phải chịu trách nhiệm về nghĩa
vụ của các công ty con. Giá trị của nghiên cứu này nằm ở chỗ dường như nó là bài
phân tích sớm nhất và trực tiếp nhất đến vấn đề trách nhiệm của một công ty đối với
hành vi của một cơng ty khác. Bên cạnh đó, nó cũng đã chỉ ra được những yếu tố
mà khi có sự xuất hiện của chúng trong mối quan hệ giữa cơng ty Holdings và cơng
ty con thì trách nhiệm của công ty Holdings cần phải được xem xét. Tuy nhiên, hạn
chế của bài nghiên cứu cũng đã được chính tác giả Sam Elson nhận định, đó là nó
chỉ đề cập đến trách nhiệm trong trường hợp các công ty mẹ và cơng ty con có mối
quan hệ về sản xuất mà chưa giải quyết được vấn đề trách nhiệm trong trường hợp
của các công ty Holdings thuần túy, nghĩa là chỉ nắm giữ về vốn (kể cả là 100% vốn
của công ty con) mà không thực sự tham gia vào điều hành hoạt động sản xuất kinh
doanh của công ty con thì như thế nào. Mặc dù vậy, đây vẫn là tác phẩm rất có giá
trị về mặt cơ sở lý luận để buộc cơng ty mẹ phải có trách nhiệm với hành vi của
công ty con.
(3) Richard H. Burgess (1963), “Liability of Parent Corporation for Tort of

Subsidiary”, Cleveland State Law review, Vol. 12, Issue 1. Trong bài viết này, tác
giả cho rằng pháp luật khơng có quy định cụ thể về trách nhiệm của các công ty mẹ

1

Công ty Holdings là một công ty làm chủ cổ phần hoặc phần vốn góp của các cơng ty khác. Bản thân
cơng ty holdings khơng sản xuất hàng hóa hay cung cấp các dịch vụ. Mục đích của nó là nắm giữ cổ phần
hoặc phần vốn góp tại nhiều cơng ty để kiểm sốt nhiều cơng ty khác nhau, hưởng lợi từ hoạt động sản xuất
kinh doanh của các cơng ty đó đồng thời làm giảm rủi ro cho những người giữ cổ phần.


và do đó ơng thảo luận về khái niệm “vén màn công ty” trong trường hợp một công
ty riêng lẻ (khơng thuộc nhóm cơng ty). Ơng cũng đề cập trong bài viết của mình

rằng vì pháp luật khơng quy định trách nhiệm pháp lý của các công ty mẹ nên việc
một công ty sở hữu cổ phần của một công ty khác khơng làm mất đi tính độc lập về
mặt chủ thể của cơng ty bị sở hữu đó. Việc buộc các cơng ty mẹ có trách nhiệm
pháp lý gián tiếp đối với các hành vi của công ty con sẽ khiến cho nguyên lý độc lập
về mặt chủ thể (hay là pháp nhân riêng biệt – separate legal entities) giữa các công
ty bị lung lay. Tuy nhiên, tại phần sau của bài viết, tác giả cũng nêu lên các ngoại lệ
liên quan đến trách nhiệm của công ty mẹ, từ đó phát triển thành trách nhiệm pháp
lý theo nhóm của các nhóm cơng ty. Hạn chế của bài viết này thể hiện ngay trong
chính tiêu đề của nó, đó là phạm vi mà nó đề cập chỉ là trách nhiệm trong những
trường hợp sai phạm của công ty con (“torts”), nghĩa là nó đã bỏ sót các trường hợp
khơng có sự sai phạm của cơng ty con, ví dụ như khi cơng ty con mất khả năng
thanh tốn và các chủ nợ khởi kiện công ty mẹ để thanh tốn các khoản nợ thay
cơng ty con vì cơng ty mẹ đã có những hành vi chi phối khơng phù hợp khiến cơng
ty con mất thanh khoản (ví dụ việc công ty mẹ buộc công ty con chia lợi nhuận
trong khi cơng ty con chưa hồn thành các nghĩa vụ tài sản với các bên thứ ba).
(4) Meriem Ouassini Sahli (2014), La responsabilité de la société mère du fait

de ses filiales, luận án tiến sỹ luật học được bảo vệ năm 2014 tại Đại học Paris
Dauphine - Pháp. Đây là một cơng trình nghiên cứu khá đồ sộ nhưng có phần giới
hạn về phạm vi là trong khuôn khổ pháp luật của Pháp. Cơng trình này đã đi vào chi
tiết các khía cạnh trách nhiệm của cơng ty, như: trách nhiệm dân sự và trách nhiệm
hình sự theo luật chung và trách nhiệm pháp lý của công ty mẹ trong một số luật
riêng của Pháp. Ngoài ra, tác giả cũng đề cập đến một khía cạnh mà khá ít bài
nghiên cứu nói đến, đó là trách nhiệm của cơng ty mẹ ở cấp độ quốc tế (trường hợp
của các nhóm cơng ty hay các tập đồn đa quốc gia) khi mà công ty mẹ và công ty
con không thuộc cùng một khu vực pháp lý. Cơng trình này cũng có một điểm đáng
chú ý là đã đề cập đến một căn cứ quan trọng để buộc công ty mẹ phải có trách
nhiệm đối với hành vi của cơng ty con đó chính là dựa trên những thỏa thuận của
chính cơng ty mẹ về việc bảo đảm, bảo lãnh cho công ty con trước một bên thứ ba.



(5) Tetiana Kravtsova & Gana Kalinichenko (2016), “The vicarious liability

of parent compay liability for its subsidiary”, Corporate Ownership & Control, Vol.
14. Đây là một bài phân tích thuần túy về mặt lý thuyết xoay quanh vấn đề trách
nhiệm của công ty mẹ đối với công ty con. Các tác giả của bài viết đã đưa ra hai căn
cứ cho trách nhiệm pháp lý của cơng ty mẹ, đó là: trách nhiệm trực tiếp (khi chính
cơng ty mẹ vi phạm nghĩa vụ cẩn trọng) và trách nhiệm gián tiếp (khi công ty con vi
phạm nghĩa vụ cẩn trọng và tòa án áp dụng biện pháp “vén màn công ty” đối với
công ty mẹ). Trong đó, các tác giả tập trung phân tích các quan điểm khác nhau về
trách nhiệm gián tiếp của công ty mẹ, đồng thời nêu lên những cơ sở lý luận về việc
cần phải buộc công ty mẹ có trách nhiệm đối với các vấn đề của cơng ty con. Điểm
hạn chế lớn nhất của bài viết này là các tác giả đã khơng đề cập gì đến những cơ sở
thực tiễn mà từ đó có thể tổng kết thành lý thuyết nêu trên cũng như không nêu lên
được tình hình áp dụng những lý thuyết trên trong thực tiễn xây dựng và hoàn thiện
các quy định pháp luật có liên quan.
(6) Martin Petrin & Barnali Choudhury (2018), “Group Company Liability”,

European Business Organization Law Review, Vol. 19. Trong bài viết này, các tác
giả đã đưa ra một tập hợp các đề xuất về phương pháp tiếp cận để định hình lại trách
nhiệm của các cơng ty trong một nhóm cơng ty như: (i) làm rõ các căn cứ cho phép
áp dụng cơ chế “xuyên màn công ty”; (ii) bổ sung những quy định về trách nhiệm
cẩn trọng của cơng ty mẹ và những điều kiện để có thể ràng buộc trách nhiệm này
với công ty mẹ; (iii) yêu cầu các cơng ty mẹ tự chứng minh mình khơng có trách
nhiệm đối với nạn nhân của cơng ty con; (iv) đưa ra khái niệm trách nhiệm nhóm
(thay vì chỉ là trách nhiệm của cơng ty mẹ). Bên cạnh đó, các tác giả cũng nêu lên
vấn đề trách nhiệm nhóm cần được áp dụng khơng chỉ cho các nhóm cơng ty truyền
thống (nghĩa là các nhóm cơng ty mà các công ty quan hệ với nhau trên cơ sở nắm
giữ cổ phần hoặc sở hữu vốn góp của nhau) mà cho cả các nhóm cơng ty khơng
truyền thống (là các nhóm cơng ty mà quan hệ giữa các cơng ty trong nhóm được

thiết lập trên cơ sở các hợp đồng mật thiết như hợp đồng độc quyền cung cấp và
phân phối).


Đánh giá về tình hình nghiên cứu
Từ các cơng trình nghiên cứu về đề tài trách nhiệm của công ty mẹ đối với
hành vi của công ty con trên đây, chúng ta có thể thấy rằng chưa có một cơng trình
nào ở Việt Nam và về pháp luật Việt Nam thực sự đủ lớn và bao quát về tất cả các
nội dung từ lịch sử hình thành những lý luận về cơng ty, trách nhiệm của cơng ty, về
nhóm cơng ty và trách nhiệm của các công ty mẹ đến những bất cập của chế định
trách nhiệm hữu hạn, những hậu quả hay rủi ro có thể phát sinh từ những bất cập đó
và cách thức khắc phục. Đa số các bài nghiên cứu tập trung vào phân tích học
thuyết “vén màn công ty”, là học thuyết chung về những trường hợp ngoại lệ mà cơ
chế trách nhiệm hữu hạn cần được bỏ qua và cũng chỉ số ít trong các bài nghiên cứu
là dành riêng để nói về việc áp dụng học thuyết này để xác định trách nhiệm của
công ty mẹ đối với hành vi của công ty con. Bên cạnh đó, hầu hết các tác phẩm đều
chưa đưa ra được những khuyến nghị với các bên có liên quan mà chỉ kiến nghị
chung chung về việc hoàn thiện hoặc cải cách các quy định luật pháp về trách
nhiệm của cơng ty.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Đề tài nhằm mục đích làm rõ cơ sở lý luận, cũng như các quy định của pháp
luật Việt Nam về trách nhiệm của công ty mẹ đối với hành vi của công ty con, để đề
xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và các vấn đề cần lưu ý đối với các chủ thể
có liên quan.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, Luận văn sẽ có các nhiệm vụ cụ thể
sau: Thứ nhất, khái quát hóa những vấn đề lý luận về: tư cách pháp nhân và trách

nhiệm hữu hạn, cơng ty và nhóm cơng ty, trách nhiệm của công ty mẹ đối với hành
vi của công ty con;
Thứ hai, phân tích những bất cập của cơ chế trách nhiệm hữu hạn trong pháp
luật về cơng ty, những hình thức lợi dụng mơ hình cơng ty mẹ - cơng ty con trong
thực tiễn và những phương pháp tiếp cận của thế giới trên con đường tìm kiếm một


biện pháp để áp dụng những ngoại lệ của cơ chế trách nhiệm hữu hạn đối với nhóm
cơng ty.
Thứ ba, đề xuất giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trên cơ sở
tiếp thu những kinh nghiệm và bài học thực tiễn từ các nước đi trước.
Thứ tư, đưa ra khuyến nghị đối với các doanh nghiệp từ cả góc độ nhóm cơng
ty và góc độ đối tác của nhóm cơng ty vì một mục tiêu chung là sự minh bạch, lành
mạnh và công bằng của hoạt động kinh doanh thương mại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các cơ sở lý luận của khoa học pháp lý về
công ty và trách nhiệm của công ty; các quy định của pháp luật thực định về trách
nhiệm của pháp nhân nói chung và trách nhiệm của cơng ty mẹ nói riêng; học
thuyết “vén màn công ty” và thực tiễn áp dụng pháp luật cũng như học thuyết này.
Về phạm vi nghiên cứu, đề tài nghiên cứu này có một số điểm giới hạn mà tác
giả muốn nhấn mạnh như sau:
Thứ nhất, các loại hình cơng ty trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói
riêng bao gồm cả các cơng ty có tư cách pháp nhân và cơng ty khơng có tư cách
pháp nhân (như các doanh nghiệp tư nhân hay công ty hợp danh khi mà các chủ sở
hữu khơng có chế độ trách nhiệm hữu hạn). Do đề tài muốn khai thác vấn đề trách
nhiệm của công ty mẹ đối với hành vi của công ty con trong bối cảnh chế độ trách
nhiệm hữu hạn nên phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ dừng lại ở các cơng ty có tư
cách pháp nhân (cơng ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn), tức là các công ty
mà chủ sở hữu được hưởng chế độ trách nhiệm hữu hạn và chỉ chịu trách nhiệm

trong phạm vi số vốn góp hoặc số cổ phần mà mình sở hữu.
Thứ hai, mặc dù nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng cơ chế “vén màn công
ty” trong thực tiễn cũng như chuyển tải một số nội dung cơ bản của cơ chế này vào
các văn bản luật song đề tài chỉ tập trung nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn tại hai
quốc gia là Anh và Hoa Kỳ bởi đây gần như là hai cái nơi hình thành và phát triển
nền khoa học pháp lý về công ty nhờ vào sự sôi động của nền kinh tế tại hai quốc
gia này.


Thứ ba, việc bức màn công ty bị lợi dụng hiện đang diễn ra trên rất nhiều lĩnh
vực, trước hết là do điểm bất cập của cơ chế trách nhiệm hữu hạn nhưng ngồi ra
cũng cịn do những kẽ hở của pháp luật ở các lĩnh vực khác. Mặc dù có đề cập đến
hiện tượng lợi dụng bức màn cơng ty trong các lĩnh vực như quản lý thuế, kinh
doanh bất động sản, phòng và chống tham nhũng, rửa tiền… nhưng đề tài sẽ không
đi vào chi tiết các vấn đề bất cập trong các chế định pháp luật khác này mà chỉ dừng
lại ở việc khai thác những quy định của pháp luật doanh nghiệp về chế độ trách
nhiệm của chủ sở hữu.
5. Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả sử dụng các phương pháp
nghiên cứu truyền thống, bao gồm:
Phương pháp tổng hợp và phân tích: được sử dụng để thu thập tư liệu từ các
nguồn sách, báo, tạp chí, văn bản quy phạm pháp luật, các báo cáo, đề tài nghiên
cứu… từ đó xác định mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu. Ngoài ra, phương pháp này
cũng được áp dụng chủ yếu trong Chương 1 nhằm làm rõ những vấn đề mang tính
lý luận.
Phương pháp so sánh luật học: được sử dụng chủ yếu ở Chương 1 và Chương
2 khi đề cập đến các quy định của pháp luật thực định về trách nhiệm của pháp nhân
nói chung và trách nhiệm của cơng ty mẹ trong nhóm cơng ty nói riêng.
Phương pháp kết hợp lý thuyết và thực tế: được sử dụng trong Chương 2 và

Chương 3 khi phân tích về các nội dung: (i) những bất cập của các chế định pháp lý
dẫn đến thực trạng lạm dụng cơ chế trách nhiệm hữu hạn và những rủi ro cho xã
hội;
(ii) sự ra đời của học thuyết “vén màn công ty”, thực tiễn áp dụng cơ chế này và liên

hệ với Việt Nam.
Phương pháp bình luận án lệ: được sử dụng trong Chương 2 khi bàn về các
trường hợp công ty mẹ phải có trách nhiệm đối với hành vi của công ty con.
Phương pháp lịch sử: được sử dụng trong Chương 1 và Chương 2 khi nghiên
cứu quá trình hình thành và phát triển của các học thuyết và các quy định pháp luật
của các quốc gia (trong đó có Việt Nam) về vấn đề công ty và trách nhiệm của công
ty.


6. Kết cấu của đề tài

Đề tài này cũng được kết cấu thành ba phần chính, gồm có: phần mở đầu,
phần nội dung và phần kết luận. Trong đó, nội dung chính của đề tài được chia làm
03 chương, lần lượt là:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về công ty và trách nhiệm của công ty mẹ.
- Chương 2: Những bất cập từ mơ hình cơng ty mẹ - công ty con và quy định

của các quốc gia về trách nhiệm của công ty mẹ.
- Chương 3: Một số kiến nghị về hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của công

ty mẹ đối với hành vi của cơng ty con và những lưu ý đối với nhóm công ty và các
chủ thể liên quan.


CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TY VÀ
TRÁCH NHIỆM CỦA CƠNG TY MẸ
1.1. Lý thuyết về cơng ty và sự xuất hiện của nhóm cơng ty
1.1.1. Tư cách pháp nhân và trách nhiệm hữu hạn

Bàn về trách nhiệm của công ty mẹ đối với hành vi của công ty con, cần phải
hiểu được hai nguyên tắc cơ bản trong lý thuyết về công ty là “tư cách pháp nhân”
và “trách nhiệm hữu hạn”. Đây có lẽ là những lý thuyết nền tảng về công ty mà
pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay đều công nhận và lịch sử
của pháp luật doanh nghiệp hay pháp luật công ty của mọi quốc gia đều gắn liền với
hai nguyên tắc cơ bản này.
Thuở sơ khai của lịch sử cơng ty, những người có cùng nhu cầu làm ăn kinh
doanh cùng nhau tập hợp lại, cùng nhau tổ chức kinh doanh và cùng chia sẻ lợi ích
cũng như rủi ro từ hoạt động kinh doanh chung. Công ty mà họ lập ra lúc này giống
như một cơ chế giúp cho việc hoạt động và phân chia lợi nhuận giữa những người
góp vốn được dễ dàng và thuận tiện. Những cá nhân tham gia thành lập công ty vẫn
phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với những nghĩa vụ của cơng ty do khơng có sự
tách bạch về mặt chủ thể giữa công ty và bản thân người thành lập công ty. Cùng
với sự phát triển của kinh tế, việc kinh doanh dần trở nên phức tạp và rủi ro hơn
khiến những người chủ công ty dần có tâm lý e ngại và thận trọng hơn khi quyết
định lập công ty và đầu tư vốn vào kinh doanh. Nhằm thúc đẩy đầu tư để tăng
trưởng kinh tế, các nhà làm luật đã nghĩ ra một phương án tháo gỡ tâm lý e ngại này
của những nhà đầu tư, đó là tạo ra một cơ chế để bảo vệ nhà đầu tư trước những rủi
ro mà họ có thể gặp phải trong những giao dịch của cơng ty mà họ góp vốn. Cơ chế
đó chính là việc cho phép nhà đầu tư không phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với
các hoạt động của công ty. Theo đó, giới hạn trách nhiệm của nhà đầu tư đối với
những khoản nợ của công ty chỉ nằm trong phạm vi số vốn đã góp, khi đã góp đủ
vốn thì nhà đầu tư không phải chịu thêm bất cứ trách nhiệm nào về hoạt động của
công ty. Để đảm bảo được tính trách nhiệm hữu hạn này, cơng ty đã được các nhà
lập pháp coi là một chủ thể độc lập với người góp vốn thành lập ra nó mà trong

khoa học pháp lý được gọi là “tư cách


pháp nhân”, một tấm màn che của công ty nhằm bảo vệ những người đứng đằng sau
cơng ty đó.
Trong hệ thống pháp luật Anh – Mỹ, án lệ Salomon v. Salomon & Co. Ltd
năm 1897 tại Anh được coi là một dấu mốc mở ra một thời kỳ vận dụng linh hoạt và
triệt để nguyên tắc thực thể pháp lý độc lập đối với công ty. Công ty Salomon & Co.
Ltd được thành lập bởi ông chủ tiệm giày da Salo mon bằng phần lớn tài sản của
.

.

.

.

mình và hoạt động kinh doanh của công ty cũng được thực hiện bởi chính ơng
.

Salomon. Tuy nhiên, tịa án đã khẳng định công ty Salomon là một thực thể tồ n tại đ
.

.

ộc lập, tách biệt với chính người thành lập ra nó. Do đó, cơng ty là chủ thể duy

.

.


.

.

nhất phải chịu trách nhiệm đối với chủ nợ của công ty cịn ơng Salomon khơng phải
.

chịu t rách nhiệm. Án lệ này khẳng định hai nội dung cơ bản mà sau này được các
.

tịa án theo hệ thống thơng luật cũng như pháp luật các quốc gia theo hệ thống
.

.

.

.

dân luật kế thừa và vận dụng: Một là, công ty là một chủ thể pháp lý tồn tại độc lập
và tách biệt với những người thành lập cơng ty, do đó, có các quyền và nghĩa vụ
pháp lý riêng của nó (chính là tư cách pháp nhân); Hai là, trách nhiệm của người
.

chủ cơng ty chỉ gói gọn trong phạm vi số vốn mà người đó đã đầu tư vào cơng ty
(tính trách nhiệm hữu hạn).
Để hiểu rõ hơn về “tư cách pháp nhân” và “trách nhiệm hữu hạn” trước khi đi
vào những vấn đề chính, bài luận sẽ dành một phần nội dung dưới đây để tìm hiểu
nguồn gốc pháp lý của hai khái niệm này.

1.1.2. Trách nhiệm hữu hạn và ý nghĩa của trách nhiệm hữu hạn

Trách nhiệm hữu hạn chính là cơ chế đặc quyền mà luật pháp đã trao cho
những nhà đầu tư để gạt đi tâm lý e ngại của họ khi quyết định góp vốn vào công ty
và tiến hành các hoạt động kinh doanh. Trách nhiệm hữu hạn ở đây là trách nhiệm
của người đứng đằng sau công ty chứ không phải trách nhiệm của công ty. Công ty
đương nhiên phải chịu trách nhiệm bằng tồn bộ tài sản của mình đối với các rủi ro
trong kinh doanh, cịn người góp vốn thì chỉ mất số tiền mà họ đã đầu tư vào công
ty nếu công ty kinh doanh thua lỗ.
Cho đến nay, trách nhiệm hữu hạn dường như đã trở thành lý thuyết căn bản
trong khoa học pháp lý và được thừa nhận rộng rãi ở Việt Nam. Thực vậy, ngay từ
trong Luật Công ty năm 1990, rồi sau này là đến các thế hệ Luật Doanh nghiệp về


sau đều tiếp tục khẳng định nguyên tắc này. Cụ thể, Luật Doanh nghiệp năm 2020
đề cập đến nguyên tắc này như sau:
- Thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên “chịu trách

nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số
vốn đã góp vào doanh nghiệp”Thành viên hội đồng thành viên công ty trách nhiệm
hữu hạn “chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty
trong phạm vi số vốn đã góp vào cơng ty”Chủ sở hữu cơng ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên “chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty”Cổ đông công ty cổ phần “chỉ
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong
phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp”Đối với cơng ty hợp danh, “thành viên
góp vốn là tổ chức, cá nhân và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty
trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào cơng ty”2
3
4

5
6

và thành viên góp vốn có nghĩa vụ “Chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác
của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp”7.
Những quy định của pháp luật Việt Nam về nguyên tắc trách nhiệm hữu hạn
chắc chắn đã được xây dựng trên cơ sở kế thừa từ các nền lập pháp tiên tiến trên thế
giới. Mặc dù vậy, việc xác định nguồn gốc hình thành của cơ chế trách nhiệm hữu
hạn chưa bao giờ là dễ dàng với các nhà nghiên cứu. Theo các tác giả J.Mickletwait
và A.Woolridge của cuốn sách “The Company – A short History of a revolutionary
idea” (tạm dịch: “Công ty – Lịch sử ngắn của một ý tưởng có tính chất cách mạng”)
do nhà xuất bản The modern library của New York phát hành năm 2003, dấu hiệu
về sự hình thành công ty được ghi nhận từ khoảng 3.000 năm trước Công nguyên,
từ

2

Khoản 1 Điều 46 Luật Doanh nghiệp 2020
Khoản 1 Điều 50 Luật Doanh nghiệp 2020
4
Khoản 1 Điều 74 Luật Doanh nghiệp 2020
5
Điểm c Khoản 1 Điều 111 Luật Doanh nghiệp 2020
6
Điểm c Khoản 1 Điều 177 Luật Doanh nghiệp 2020
7
Điểm a Khoản 2 Điều 187 Luật Doanh nghiệp 2020
3



người Assyria, Phoenicia rồi người Hy Lạp8. Nhưng mãi đến thời La Mã cổ đại, tính
.

.

.

.

.

trách nhiệm hữu hạn mới được nhen nhóm hình thành trong các co rpo ra hay col
.

.

.

.

legia (“công ty” theo tiếng Latin). Sự phát triển của tính trách nhiệm hữu hạn sau đó
.

.

song hành cùng với sự ra đời và bánh trướng mạnh mẽ của công ty cổ phần ở Mỹ và
khắp châu Âu9. Tuy nhiên, ở Anh, ban đầu tính trách nhiệm hữu hạn chỉ được áp
dụng cho lĩnh vực kinh doanh quốc tế. Phải đến năm 1441, cơ chế trách nhiệm hữu
hạn mới được trao một cách đầy đủ hơn cho một vài trường hợp ở quốc gia này.
Trong khi đó, tại Hoa Kỳ, cơ chế trách nhiệm hữu hạn được áp dụng rộng rãi và

giúp cho các Bang của Hoa Kỳ thu hút được nhiều vốn đầu tư để phát triển sản xuất.
Trước sự phát triển của nền kinh tế Hoa Kỳ, Anh đã khơng thể tiếp tục đứng ngồi
cuộc chơi nên đã ban hành đạo luật về trách nhiệm hữu hạn (“Limited Liability
Act”) vào năm 1855 để áp dụng rộng rãi cơ chế trách nhiệm hữu hạn nhằm thúc đẩy
phát triển kinh tế. Ở một số nước châu Âu khác như Pháp, quy định về trách nhiệm
hữu hạn đi sau Mỹ và Anh khi mà đến năm 1863 luật công ty trách nhiệm hữu hạn
mới được ra đời.
Tuy nhiên, ngay cả khi các quốc gia đã có những định chế pháp lý về trách
nhiệm hữu hạn thì thực tế ý niệm trọn vẹn của nguyên tắc này vẫn còn được tranh
cãi nhiều. Như tại phần dẫn nhập về tư cách pháp nhân và trách nhiệm hữu hạn mà
bài luận đã nêu, chỉ đến khi vụ kiện Salomon v. Salomon & Co. năm 1897 được
Thượng Nghị viện Anh đưa ra phán quyết, các ý niệm về nguyên tắc trách nhiệm
hữu hạn mới được củng cố. Vụ kiện này sau đó đã được xem như là một án lệ mang
tính dấu mốc và là nền tảng của pháp luật về công ty hiện đại.
Về mặt kinh tế, cơ chế trách nhiệm hữu hạn là một cơ chế hữu hiệu để khuyến
khích đầu tư và thúc đẩy kinh tế. Ngoài khả năng thu hút nguồn lực của xã hội vào
hoạt động kinh tế, cơ chế trách nhiệm hữu hạn đã tạo ra một sự chuyển dịch rủi ro
về tài chính từ nhà đầu tư sang cho chủ nợ của công ty. Khi nhà đầu tư góp vốn vào
cơng ty là họ đã sẵn sàng chấp nhận rủi ro đối với số tiền đó, cịn các đối tác hay
chính các chủ nợ khi giao dịch với cơng ty thì xác định rõ ràng cơng ty mới là con
nợ của mình

8

Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung (2009), Công ty, vốn, quản lý và tranh chấp, NXB Tri thức, Hồ
Chí Minh, trang 32 đến trang 37
9
Ngơ Huy Cương (2013), Giáo trình Luật Thương mại – Phần chung và thương nhân, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, trang 157



và từ đó có động cơ để giám sát hoạt động của công ty một cách chặt chẽ hơn. Hiệu
quả của hoạt động kinh doanh cũng vì thế mà được đảm bảo hơn.
Trên một khía cạnh khác, khi hàng chục, hàng trăm người có thể cùng góp vốn
vào một cơng ty nhưng lại chỉ có một số ít trong số họ thực sự tham gia vào vận
hành và quản lý cơng ty nên có những nhà đầu tư sẽ ở vào tình thế đặ t tài sả n của
.

.

.

.

mình vào sự quản lý và sử dụng của người khác. Cơ chế trách nhiệm hữu hạn lúc
.

.

.

.

.

.

này có ý nghĩa như một sự đảm bảo công bằng giữa các nhà đầu tư, để những người
không được hoặc không thể tham gia trực tiếp vào điều hành công ty sẽ chỉ phải
chịu rủi ro đối với các quyết định của công ty trong phạm vi số tiền mà họ đã bỏ vào

đó. Đó chính là khi cơng ty trở nên tách biệt với người bỏ vốn và trở thành một màn
che bảo vệ những người góp vốn đứng đằng sau nó.
1.2. Nhóm cơng ty
1.2.1. Sự xuất hiện của nhóm cơng ty

Lịch sử kinh tế thế giới đã cho thấy chính hai nguyên lý cơ bản về tư cách
pháp nhân và trách nhiệm hữu hạn trong khoa học pháp lý về công ty đã giúp cho
nền kinh tế tồn thế giới có một bước phát triển vượt bậc. Cũng chính hai nguyên lý
này đã góp phần thúc đẩy các nhóm cơng ty xuất hiện và dần trở nên phổ biến trên
thế giới. Bởi lẽ, khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh để
tối đa hóa lợi ích mà vẫn đảm bảo kiểm soát được rủi ro trong phạm vi những gì mà
mình đã bỏ ra là điều mà nhà đầu tư nào cũng mong muốn.
Về logic, khi là một chủ thể độc lập và có đầy đủ năng lực tham gia vào các
quan hệ kinh tế, bản thân các cơng ty cũng có thể trở thành những nhà đầu tư. Chính
vì thế, pháp luật của các quốc gia đã cho phép các công ty được phép sử dụng tài
sản của chính mình để thành lập hoặc góp vốn, mua cổ phần của công ty khác. Tại
Hoa Kỳ, bang New Jersey là bang đầu tiên trao quyền này cho các cơng ty vào năm
188910. Sau đó, các bang khác cũng lần lượt bổ sung quy định này vào pháp luật
cơng ty của mình. Từ đó, các nhà đầu tư đã tận dụng tối đa cơ chế trách nhiệm hữu
hạn để mở rộng kinh doanh. Họ dùng chính những cơng ty mà mình thành lập ra
để thành lập
10

Nguyễn Thị Phương Thảo (2021), “Vận dụng cơ chế “xuyên qua màn che cơng ty” đối với nhóm cơng
ty – kinh nghiệm từ Anh, Hoa Kỳ và kiến nghị cho Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 1/2021,
trang 46.


những cơng ty khác và các nhóm cơng ty bắt đầu được hình thành. Lúc này nguyên
lý trách nhiệm hữu hạn thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết ý nghĩa pháp lý của nó.

Trách nhiệm hữu hạn khơng chỉ áp dụng cho những nhà đầu tư cá nhân mà được áp
dụng cho cả các công ty với tư cách là các thành viên, cổ đông hay chủ sở hữu vốn
của các cơng ty khác trong nhóm cơng ty.
Có thể nói, nhóm cơng ty là sự vận dụng triệt để, linh hoạt và nhuần nhuyễn
nhất các lý thuyết về tư cách pháp nhân và trách nhiệm hữu hạn. Chính trách nhiệm
hữu hạn và tư cách pháp nhân cùng với nhu cầu tích tụ sản xuất đã tạo nên xu
hướng hình thành và phát triển các nhóm cơng ty, biến nó thành “hiện tượng của thế
kỷ XX”11. Bước vào thế kỷ XXI, những nhóm cơng ty ngày càng phát triển mạnh
mẽ hơn với việc đầu tư, mua cổ phần xuyên biên giới. Nhiều công ty mẹ, công ty
con, công ty thành viên ở khắp nơi trên thế giới tạo thành những nhóm cơng ty đa
quốc gia. Trong đó, những cơng ty sở hữu cổ phần, phần vốn góp hoặc quyền chi
phối đối với công ty khác trở thành các “công ty mẹ” cịn các cơng ty bị chi phối trở
thành các “cơng ty con”.
1.2.2. Khái niệm và đặc điểm của nhóm cơng ty
1.2.2.1. Khái niệm

Trước sự ra đời của mơ hình nhóm cơng ty và vai trị của mơ hình này đối với
sự phát triển của các nền kinh tế thế giới, rất nhiều quốc gia đã xây dựng những
định chế pháp lý để khái qt hóa mơ hình nhóm cơng ty cũng như để điều chỉnh
mối quan hệ giữa các thành viên trong nhóm cơng ty, đặc biệt là mối quan hệ giữa
công ty mẹ và công ty con.
Khái niệm “nhóm cơng ty” thường được các quốc gia nhắc đến nhất trong các
đạo luật về công ty hoặc các đạo luật về thuế. Một số quốc gia định nghĩa “nhóm
cơng ty” một cách vơ cùng đơn giản. Ví dụ như: Luật Cơng ty năm 2014 của Ai-len
định nghĩa “nhóm cơng ty là một công ty mẹ và một hoặc các cơng ty con của
nó”12. Hay theo Luật Cơng ty của Phần Lan thì “nhóm cơng ty hình thành khi có
một công

11


Ho, Virginia Harper (2012), Theories of corporate groups: corporate identity reconceived, Seton Hall
L. Rev. 42: page 879.
12
Khoản 3 Điều 8 Phần 1 của Luật Công ty năm 2014 của Ai-len. Bản điện tử xem tại website:
ngày truy cập: 15/11/2021


ty trách nhiệm hữu hạn có ảnh hưởng chi phối đối với một tổ chức trong nước
hoặc nước ngoài khác”Tại Cộng hịa Nam Phi, Luật Cơng ty sửa đổi năm 2011 thì
gọi “nhóm cơng ty là một cơng ty mẹ và tất cả các cơng ty con của nó”13
14

, kèm theo đó là định nghĩa các khái niệm “cơng ty mẹ” và “cơng ty con”. Trong khi đó, Luật
Thuế thu nhập năm 1962 cũng của quốc gia này lại có một định nghĩa đầy đủ hơn về nhóm cơng
ty. Theo đó, nhóm cơng ty có nghĩa là tập hợp của hai hay nhiều cơng ty trong đó một cơng ty
(“cơng ty kiểm soát”) trực tiếp hoặc gián tiếp nắm giữ cổ phần của ít nhất một cơng ty khác
(“cơng ty bị kiểm soát”); đồng thời tỷ lệ nắm giữ cổ phần kiểm soát được luật này quy định là
70% tổng số cổ phần của cơng ty bị kiểm sốt15.
Tại Việt Nam, khái niệm nhóm cơng ty xuất hiện lần đầu tiên trong Luật
Doanh nghiệp năm 2005. Cụ thể, khoản 1 Điều 146 Luật Doanh nghiệp năm 2005
định nghĩa “Nhóm cơng ty là tập hợp các cơng ty có mối quan hệ gắn bó lâu dài với
nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác”. Tuy
nhiên định nghĩa này cịn thiếu sót rất lớn khi chưa đề cập đến bản chất mối quan hệ
giữa các cơng ty trong nhóm cơng ty trước hết phải là mối quan hệ về sở hữu vốn và
tài sản của nhau. Từ đó mới có mối quan hệ về lợi ích kinh tế cũng như các mối
quan hệ khác trong nội bộ nhóm cơng ty.
Khi Luật Doanh nghiệp năm 2014 thay thế Luật Doanh nghiệp 2005, các nhà
làm luật của Việt Nam đã khắc phục được thiếu sót này bằng việc gọi các Tập đoàn
kinh tế và các Tổng cơng ty là “nhóm cơng ty có mối quan hệ với nhau thông qua
sở hữu cổ phần, phần vốn góp hoặc liên kết khác” 16. Khái niệm này đã phản ánh

đúng hơn về bản chất cũng như cơ sở hình thành các nhóm cơng ty và vì vậy đến
nay vẫn tiếp tục có giá trị, do đó tiếp tục được giữ lại trong Luật Doanh nghiệp năm
2020.

13

Seppo Penttilä (2009), Tax Aspects of Groups of Companies – Finnish Experiences, Stockholm Institute
for Scandianvian Law, trang 4
14
Luật Công ty năm 2008, sửa đổi năm 2011 của Cộng hòa Nam Phi (bản điện tử xem tại website:
ngày truy cập: 15/11/2021)
15
Sở thuế vụ Nam Phi (South African Revenue Service), 2020, Chú giải số 75 cho Luật thuế thu nhập số
58 năm 1962 (Bản điện tử xem tại website: />ngày truy cập: 15/11/2021)
16
Khoản 1 Điều 188 Luật Doanh nghiệp năm 2014.


Như vậy, xét về góc độ lý luận, có thể khái qt hóa khái niệm nhóm cơng ty
trong khoa học pháp lý như sau: nhóm cơng ty là sự tập hợp của các pháp nhân độc
.

.

.

.

lập về mặt địa vị pháp l ý, gồm ít nhất một cơng ty mẹ và một cơng ty con. Trong đó,
.


.

.

.

cơng ty mẹ là cơng ty có khả năng tác động hoặc chi phối hoạt động của cơng ty con
hay cịn gọi là khả năng kiểm sốt đối với cơng ty con.
1.2.2.2.

Đặc điểm

Thứ nhất, nhóm cơng ty khơng phải một pháp nhân và khơng phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật hay phải có nghĩa vụ với bất cứ bên nào khác với tư cách nhó
.

.

.

.

.

.

m. Thay vào đó, mỗi thành viên trong nhóm cơng ty sẽ là một pháp nhân độc lập, có
tài sản riêng, chịu trách nhiệm riêng về hoạt động kinh doanh của mình. Các cơng ty
nắm giữ vốn góp tại cơng ty khác chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn đã góp

vào cơng ty đó.
Thứ hai, các cơng ty trong nhóm cơng ty có mối quan hệ cơ hữu về vốn. Cụ
thể, cơng ty mẹ nắm giữ tồn bộ hoặc một phần vốn góp đủ để chi phối cơng ty con.
Tỷ lệ mà công ty mẹ nắm giữ vốn góp để có quyền chi phối cơng ty con do pháp
luật từng quốc gia quy định nhưng thông thường là trên 50% vốn góp của cơng ty
con. Trong nhóm cơng ty cũng tồn tại các cơng ty khơng có mối quan hệ trực tiếp về
vốn với nhau. Đó có thể là các công ty con của cùng một công ty mẹ hoặc trường
hợp công ty mẹ và công ty con của cơng ty con (cơng ty cháu).
Thứ ba, ngồi mối quan hệ về vốn, để đạt mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, các
cơng ty trong nhóm cơng ty ln có mối liên kết trong hoạt động sản xuất kinh
doanh. Đó có thể là mối liên kết theo chiều dọc nếu đầu ra của công ty này là đầu
vào của công ty khác, hoặc là mối liên kết theo chiều ngang nếu các công ty sản
xuất kinh doanh cùng một loại mặt hàng (trong trường hợp này, thường là các công
ty sẽ hoạt động ở những thị trường khác nhau) hoặc như trong nền kinh tế hiện đại
thì có thể là mối liên kết cả theo chiều dọc và theo chiều ngang khi mà sản phẩm
dịch vụ của các công ty trong nhóm cơng ty tạo thành một hệ sinh thái hoàn chỉnh
trong một lĩnh vực nhất định.


×