Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

trách nhiệm bồi thường thiệt hại và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.97 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................ Error: Reference source not found
NỘI DUNG .............................................. Error: Reference source not found
I. Một số vấn đề lí luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại và trách n h iệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ........ Error: Reference source not found
1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ......... Error: Reference source not found
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng .......... Error: Reference
source not found
II. Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ............ Error:
Reference source not found
1. Khái niệm về lỗi và ý nghĩa của yếu tố lỗi trong việc xác định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ...... Error: Reference source not
found
2. Hành vi có lỗi và phân biệt hai hình thức lỗi cố ý và lỗi vô ý ......... Error:
Reference source not found
2.1 Về lỗi cố ý .......................................... Error: Reference source not found
2.2 Về lỗi vô ý .......................................... Error: Reference source not found
III. Thực tiễn và việc áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành về lỗi
trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và nhận xét ... Error:
Reference source not found
1. Một số vụ việc thực tế áp dụng quy định của pháp luật về việc xác định
lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Error: Reference
source not found
1.1 Vụ việc thứ nhất ................................. Error: Reference source not found
1.2 Vụ việc thứ hai ................................... Error: Reference source not found
1.3 Vụ việc thứ ba .................................... Error: Reference source not found
1
2. Nhận xét về những quy định hiện hành của pháp luật về lỗi trong trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ...... Error: Reference source not
found
KẾT LUẬN .............................................. Error: Reference source not found


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO . Error: Reference source not found
MỞ ĐẦU
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một chế định quan trọng
trong luật dân sự được ra đời từ rất sớm ở mỗi quốc gia. Trải qua từng thời
kì lịch sử khác nhau việc quy định về người phải bồi thường, cách thức
bồi thường, thiệt hại phải bồi thường cũng như mức độ bồi thường…có sự
khác biệt. Vấn đề này phụ thuộc vào quan điểm giai cấp, điều kiện kinh tế
- xã hội của mỗi quốc gia. Do sự phát triển của xã hội, các chế định pháp
luật cũng dần thay đổi, trách nhiệm bồi thường thiệt hại không còn được
coi là hình phạt mà là nghĩa vụ bổn phận của người gây thiệt hại nhằm
phục hồi tình trạng tài sản của người bị thiệt hại. Trong lịch sử pháp luật
của nước ta nói riêng, dù dưới hình thức nào thì cũng có thể nhận định chế
định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng xuất hiện từ rất sớm.
Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường dân sự nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng nói riêng. Xuất phát từ ý nghĩa quan trọng của chế định bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng trong lý luận cũng như trong thực tiễn, nên em
chon đề tài nghiên cứu về “Yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hơp đồng- một số vấn đề lí luận và thực tiễn".
2
NỘI DUNG
I. Một số vấn đề lí luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại và trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung được quy định tại Điều
307 BLDS 2005 như sau:
“1. trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách niệm bồi thường thiệt
hại về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp về tổn thất tính thần.
2. trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn
thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm

tổn thất về tài sản, chi phí hợp lí để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiêt
hại, thu nhập thực tế bị mát hoặc bị giảm sút.
3. Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm, uy tín của người đó thì việc chấm
dứt hành vi vi phạm, xin lỗi cải chính công khai còn phải bồi thường một
khoản tiền để bù đắp tổn thất về tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt
hại”.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì trách nhiệm
BTTH được BLDS 2005 quy định tại Điều 307 về trách nhiệm BTTH nói
chung và chương XXI về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Tuy nhiên,
trong cả hai phần này đều không nêu rõ khái niệm trách nhiệm BTTH mà
chỉ nêu lên căn cứ phát sinh trách nhiệm, nguyên tắc bồi thường, năng lực
chịu trách nhiệm, thời hạn hưởng bồi thường…
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định tại
chương XXI BLDS 2005. Tiếp cận dưới góc độ khoa học pháp lý chúng
ta thấy rằng, mỗi người sống trong xã hội đều phải tôn trọng quy tắc
chung của xã hội, không thể vì lợi ích của mình mà xâm phạm đến quyền
và lợi ích hợp pháp của người khác. Khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp
3
lý của mình gây tổn hại cho người khác thì chính người đó phải chịu bất
lợi do hành vi của mình gây ra. Sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng
việc bù đắp tổn thất cho người khác được hiểu là bồi thường thiệt hại.
Như vậy, có thể hiểu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại
trách nhiệm Dân sự mà theo đó thì khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp
lý của mình gây tổn hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất
mà mình gây ra.
Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh, trách nhiệm bồi thường thiệt hại
được phân thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Phạm vi bài viết này chỉ đề
cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Theo quy định tại Điều 604, BLDS 2005: “Căn cứ phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại:
“1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá
nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác
mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi
thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.”
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là một
loại trách nhiệm dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do
pháp luật quy định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra.
Nếu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng bao giờ cũng
được phát sinh trên cơ sở một hợp đồng có trước thì trách nhiệm BTTH
ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý do pháp luật quy định đối
với người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác. Hiện nay, pháp luật Việt Nam quy định chủ yếu về
4
trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng đối với hành vi xâm phạm đến tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của các cá nhân và tổ
chức khác.
Theo Khoản 1 Điều 604 BLDS quy định về căn cứ phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại và Nghị quyết số 03/2006 / HDTP – TANDTC
ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát
sinh khi có các điều kiện: có thiệt hại xảy ra; có hành vi trái pháp luật gây
thiệt hại; có mỗi quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại
xảy ra; có lỗi của người gây thiệt hại. Như vậy, theo quy định của pháp
luật dân sự thì lỗi được coi là một trong những điều kiện phát sinh trách

nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Có thiệt hại xảy ra: Thiệt hại là điều kiện quan trọng trong trách
nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng nói riêng bởi mục đích của trách nhiệm bồi thường thiệt
hại là nhằm bù đắp, khắc phục những tổn thất đã xảy ra cho người bị thiệt
hại, do đó nếu không có thiệt hại thì cũng không phát sinh trách nhiệm bồi
thường. Theo đó, khoản 1 Điều 307 BLDS quy định: “Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất,
trách nhiệm bồi thường bù đắp tổ thất về tình thần” Như vậy, thiệt hại
được xác định bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần.
Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật: Hành vi trái pháp
luật gây thiệt hại để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được hiểu
là những hành vi mà pháp luật cấm, không cho phép thực hiện. Cơ sở để
xác định hành vi trái pháp luật là căn cứ vào các quy định của pháp luật
trong từng trường hợp cụ thể.
Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật:
Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì hành vi trái
5
pháp luật được coi là nguyên nhân và thiệt hại được coi là hậu quả. Về
mặt nguyên tắc, hành vi trái pháp luật phải có trước và thiệt hại có sau.
II. Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
1. Khái niệm về lỗi và ý nghĩa của yếu tố lỗi trong việc xác định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Lỗi hiểu theo góc độ luật học, từ xưa đến nay có nhiều học giả,
trong đó có các luật gia đã quan tâm nhận xét rất khác nhau trong việc xác
định yếu tố lỗi trong trách nhiệm dân sự nói chung và trách nhiệm BTTH
ngoài hợp đồng nói riêng.
Trong phạm vi bài viết này, lỗi được thống nhất hiểu là là trạng thái
tâm lý của con người có thể làm chủ, nhận thức được hành vi của mình và
hậu quả do hành vi đó mang lại. Việc đánh giá hình thức, mức độ lỗi trong

trách nhiệm dân sự nói chung, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng nói riêng khác với trách nhiệm hình sự. Trong trách nhiệm hình sự,
hình thức và mức độ lỗi có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định tội danh
và quyết định hình phạt. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định
kẻ phạm tội có lỗi trong việc thực hiện hành vi phạm tội. Trong khi đó,
đối với trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại vấn đề hình thức lỗi và mức độ
lỗi ảnh hưởng rất ít đến việc xác định trách nhiệm. Về nguyên tắc, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi người gây thiệt hại có lỗi, bất kể
lỗi đó là lỗi cố ý hay lỗi vô ý.
Xung quanh vấn đề lỗi, một câu hỏi thường được đặt ra đó là: Mọi
trường hợp trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng đều tiên niệm có sự thiệt
hại, nhưng có phải mọi sự thiệt hại có đều phát sinh trách nhiệm không?
Hay sự thiệt hại đó còn cần phải do một lỗi gây ra? Về vấn đề này có hai
quan điểm: một quan điểm cố điển cho rằng phải có lỗi mới có trách
nhiệm, một quan điểm khác lại chủ trương trách nhiệm khách quan không
cần điều kiện lỗi.
6
Khuynh hướng cổ điển đặt căn bản của trách nhiệm dân sự ngoài
hợp đồng trên ý niệm lỗi của người gây ra thiệt hại cho người khác. Theo
đó, lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường.
Chỉ khi nào một người do lỗi của mình mà gây thiệt hại, xâm phạm đến
quyền lợi hợp pháp của người khác thì mới phải bồi thường. Cơ sở để
người bị thiệt hại yêu cầu bồi thường là họ phải chứng minh lỗi của người
gây thiệt hại.
Đây cũng là quan điểm của Điều 604 BLDS: “Người nào do lỗi cố
ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh
dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì
phải bồi thường”
Giá trị của khuynh hướng cổ điển khi đặt trách nhiệm trên nền tảng

lỗi là đã xác định phạm vi của tự do cá nhân: mọi người trong xã hội đều
được tự do hoạt động, sự tự do ấy chỉ bị giới hạn bởi quyền lợi của người
khác; vậy chỉ khi nào một người do lỗi của mình mà xâm phạm đến
quyền, lợi ích hợp pháp của người khác thì mới phải bồi thường. Song
trong tình trạng kinh tế xã hội ngày nay, khuynh hướng cổ điển nhiều khi
tỏ ra chật hẹp và không che chở được một cách có hiệu quả quyền lợi cho
nạn nhân trong khi việc bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại là một
đòi hỏi cấp thiết và chính đáng. Thực vậy, trong trường hợp thiệt hại xảy
ra mà không có ai chứng kiến, hoặc xảy ra mà không do lỗi của ai cả, nếu
buộc nạn nhân phải dẫn chứng lỗi, tức là gián tiếp bác bỏ quyền đòi bồi
thường của nạn nhân. Ngoài ra khuynh hướng cổ điển cũng không giải
thích được trách nhiệm của người chưa thành niên và người mất năng lực
hành vi về các thiệt hại do họ gây ra.
Khuynh hướng thứ hai đó là khuynh hướng chủ trương trách nhiệm
khách quan, không cần điều kiện lỗi. Khuynh hướng này đặt ra trách
nhiệm khách quan cho người gây ra thiệt hại, do đó, trong mọi trường hợp,
7
người này đều phải chịu trách nhiệm bồi thường. Khuynh hướng này cũng
không thỏa đáng vì bảo đảm sự bồi thường cho nạn nhân trong mọi trường
hợp không hẳn là một giải pháp ích lợi cho xã hội. Trên lập trường lợi ích
công cộng còn phải quan tâm đến quyền tự do hoạt động của cá nhân, nếu
thừa nhận sự bồi thường mà không đòi hỏi lỗi, mọi sự hoạt động của cá
nhận sẽ bị tê liệt vì ai nấy đều không khỏi e sợ gây thiệt hại phải bồi
thường mặc dầu không phạm lỗi.
Từ những lập luận trên, cùng với thực tế cho thấy các tai nạn mang
tính khách quan nhiều khi nằm ngoài sự chi phối, điều khiển của con
người ngày càng gia tăng cùng với sự phát triển của công nghiệp hóa, cơ
giới hóa, đe dọa tới sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của con
người, để bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ nạn nhân Bộ luật dân sự Việt
Nam được xây dựng trên cơ sở dung hòa cả hai khuynh hướng trên. Bên

cạnh những điều khoản quy định yếu tố lỗi là một trong những điều kiện
bắt buộc làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
BLDS Việt Nam cũng áp dụng chế độ trách nhiệm khách quan đối với các
thiệt hại do tác động của các phương tiện cơ giới, của súc vật và vật vô tri
thức khác. Theo đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong một số trường
hợp có thể phát sinh mà không cần điều kiện lỗi. Ví dụ tại Khoản 3 Điều
627 quy định là: “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử
dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại ngay cả khi không
có lỗi”. Hoặc Điều 624 quy định: “Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể
khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy
định của pháp luật, kể cả trường hợp người gây ô nhiễm môi trường không
có lỗi.”
Khi xác định lỗi trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cần phải
phân biệt với những hành vi gây thiệt hại khác, không thuộc hành vi do lỗi
cố ý hoặc vô ý gây ra. Đó là hành vi gây thiệt hại được xác định là sự kiện
bất ngờ. Sự kiện bất ngờ được qui định tại Điều 11 Bộ luật Hình sự của
8

×