Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Nhân vật nguyễn trãi và những đóng góp trong lịch sử việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.39 MB, 20 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN
---***---

TIỂU LUẬN
TÌM HIỂU VỀ NHÂN VẬT NGUYỄN TRÃI VÀ NHỮNG
ĐÓNG GÓP TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM

Thành Phố Hồ Chí Minh, ngày 14 tháng 1 năm 2022.

1


Mc lc
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………………4
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI…………………………………………………………………..4
Chương 1. VÀI NÉT VỀ THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CỦA NHÂN VẬT NGUYỄN
TRÃI……………………………………………………………………………………..6
1.1, Hồn cảnh q hương, gia đình…………………………………………………...6
1.2, Tiểu sử nhân vật Nguyễn Trãi…………………………………………………….7
1.3, Sự nghiệp làm quan của Nguyễn Trãi……………………………………………8
Chương 2. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA NHÂN VẬT NGUYỄN TRÃI TRONG LỊCH
SỬ VIỆT NAM…………………………………………………………………………11
Vị tướng có cơng lớn trong khởi nghĩa Lam Sơn
2.1, Nhà chính trị, quân sự tài ba……………………………………………………..11
2.2, Nhà văn hóa lớn với nhiều sáng tác có giá trị…………………………………...15
2.3, Anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới…………………………………17
KẾT LUẬN…………………………………………………………………………….19
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………………21


3


MỞ ĐẦU
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Việt Nam là một quốc gia có vị trí đắc địa lẫn mang trong mình sự phong phú của tài
ngun thiên nhiên, chính vì thế xuyên suốt thời kì lịch sử, rất nhiều lần các nước phương
Tây và phương Bắc nhăm nhe, thơn tính đất nước ta, khiến ta rơi vào cảnh “nướng dân đen
trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống hầm tai vạ”. Khi bọn ngoại xâm đô hộ thành công
nước ta, chúng đã dùng những thủ đoạn tàn độc nhất để bốc lột, áp bức nhân dân ta. Chính
những điều đó đã tạo nên lịch sử của một dân tộc với truyền thống đấu tranh giữ nước lâu
đời, phải luôn chống chọi với những cuộc chiến tranh xâm lược ác liệt của những đế chế
hùng mạnh tàn bạo. Nền tảng ấy là gốc rễ, cội nguồn kết tinh tính dân tộc và tính nhân dân
sâu sắc đậm chất riêng thuộc nền văn hóa Việt Nam. Những đóng góp mang tính quyết định
nhân dân, sức mạnh của sự đoàn kết dân tộc đã đẩy lùi mọi sức mạnh hiếu chiến như mạch
nguồn không ngừng chảy trong mỗi người con Đại Việt. Lịch sử Việt Nam đã chứng minh
“tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có”, các anh hùng nghĩa sĩ
căm phẫn trước những hành động không có tình người ấy nên đã đứng lên khởi nghĩa,
chống lại bọn ách đô hộ và bọn bán nước cầu vinh.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, Nguyễn Trãi là một
nhân vật kiệt xuất. Với trí tuệ, tài năng và phẩm chất của ơng chính là ánh sao Kh khơng
bao giờ li tắt, soi sáng tới tận mn đời sau. Ơng là “khí phách của dân tộc, là tinh hoa của
dân tộc. Sự nghiệp và tác phẩm của ông là bài ca yêu nước, tự hào dân tộc”. Nguyễn Trãi là
người đa tài trên nhiều lĩnh vực, ơng khơng những là nhà chính trị, nhà qn sự, nhà ngoại
giao thiên tài đã góp cơng rất lớn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mà còn là một tác giả xuất
sắc với nhiều tác phẩm sống mãi với thời gian.
Suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, từ thời vua Hùng dựng nước cho đến thời ông cha
ta giữ nước, truyền thống chống giặc ngoại xâm bảo vệ lãnh thổ đã trở thành một niềm tự
hào vẻ vang mà “con Rồng cháu Tiên” đời đời khắc ghi trong tâm trí. Trong những năm thế
kỉ XIV, nước ta bị xâm lược, nhà Hồ lật đổ nhà Trần, quân Minh xâm lược nước ta và từ đó

xuất hiện một nhân vật lịch sử vĩ đại – Nguyễn Trãi. Sau một thời gian, ơng đã thốt khỏi sự
giam lỏng của giặc Minh, Nguyễn Trãi đã tìm vào Lam Sơn. Theo Lê Lợi khởi nghĩa và trở
thành quân sư số một, giúp Lê Lợi vạch chiến lược tiêu diệt kẻ thù xâm lược, giữ trọng trách

4


chính trị, ngoại giao. Năm 1427, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn tồn thắng, ơng thừa lệnh viết
Bình Ngơ Đại Cáo, hăm hở vào công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ Quốc.
Lý do nhóm chúng tơi chọn đề tài “Nhân vật Nguyễn Trãi và những đóng góp trong
lịch sử Việt Nam” là để tìm hiểu và nắm rõ được những tri thức về nhân vật Nguyễn Trãi
cũng như những công lao, đóng góp to lớn của ơng trong lịch sử nước nhà. Giúp ta hiểu
thêm về hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ, sự đồng lịng, đồn kết của tồn dân tộc, tinh thần
khơng chịu khuất phc của Nguyễn Trãi nói riêng và tồn thể anh hùng dân tộc Việt Nam
nói chung. Mặt khác, tìm hiểu và nắm rõ các chiến lược, kế sách đánh giặc của Nguyễn Trãi
đã mang lại thắng lợi vẻ vang cho nước nhà. Giờ đây, hòa bình đã lập lại nhưng những cuộc
chiến tranh tàn khốc đã gây ra sự hy sinh mất mát mà đất nước ta phải gánh chịu khơng thể
nào xóa mờ. Thế hệ đi trước đã nằm xuống vì độc lập, con cháu ta sau này luôn tự hào, biết
ơn và ra sức xây dựng đất nước, khắc ghi truyền thống yêu nước của dân tộc. Điều này đã
thể hiện rõ chân lý “đất nước Việt Nam tuy nhỏ bé nhưng con người, dân tộc Việt Nam luôn
kiên cường và kiêu hãnh”, khơng một đất nước, một cuộc chiến tranh nào có thể đánh bại sự
lãnh đạo, tài trí hơn người của anh hùng dân tộc ta và tinh thần yêu nước, sự đồng lịng,
đồn kết của tồn thể người con Đại Việt. Bên cạnh đó, là một sinh viên của trường Đại học
Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh nói chung và ngành Việt Nam Học nói riêng, khi lựa chọn
đề tài này đã bổ sung thêm kiến thức giúp chúng tôi nắm rõ về nhân vật anh hùng dân tộc
Nguyễn Trãi và những đóng góp vơ cùng lớn của ơng trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Đồng
thời, học hỏi được thêm nhiều điều bổ ích, kinh nghiệm quý giá cho quá trình nghiên cứu,
định hướng tương lai và con đường sự nghiệp bản thân đang theo đuổi.

5



Chương 1. VÀI NÉT VỀ THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CỦA NHÂN VẬT NGUYỄN
TRÃI
1.1, Hồn cảnh q hương, gia đình
Nguyễn Trãi sinh ra và lớn lên giữa lúc đất nước rối ren về chính trị và xã hội. Chính
quyền nhà Trần ở trong thời kỳ suy thoái, ngày một mc nát, nhân dân rơi vào cảnh lầm
than, khổ cực. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nô tỳ và nông dân nghèo nổ ra liên tiếp. Nhân
hồn cảnh đó, năm 1400 Hồ Quý Ly cướp ngôi vua, lật đổ nhà Trần và thành lập nhà Hồ,
đổi tên nước là Đại Ngu. Tuy nhiên, nhà Hồ cầm quyền chưa được bao lâu đã phải đương
đầu với họa xâm lăng của bọn phong kiến phương Bắc. Tháng 11 năm 1406, đội quân xâm
lược của nhà Minh ồ ạt kéo vào, dù đã có sự chuẩn bị đối phó và ý chí quyết tâm chống giặc
nhưng nhà Hồ lại khơng chiếm được lịng dân, khơng huy động được sức mạnh toàn dân
chống giặc nên chỉ sau nửa năm, cuộc kháng chiến nhà Hồ đã rơi vào thất bại. Cha con Hồ
Quý Ly cùng nhiều quan chức trong triều bị rơi vào tay địch, Nguyễn Phi Khanh cũng bị
giặc bắt và lưu đày sang Trung Quốc.
Nguồn gốc gia đình của Nguyễn Trãi có một ảnh hưởng sâu xa tới cuộc đời và sự
nghiệp của ông sau này. Thành phần gia đình ơng cũng khá phức tạp. Cha ông xuất thân là
một hàn sĩ phải đi dạy học để trang trải cuộc sống, cịn mẹ ơng là dịng dõi đại q tộc, con
nhà hồng phái.
Sử sách đều ghi tổ tiên của Nguyễn Trãi vốn quê ở xã Chi Ngại, huyện Phương Sơn
(tức Phượng Nhãn, trấn Bắc Kinh) nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Vào thời
Trần, họ Nguyễn chuyển đến sinh sống ở làng Nhị Khê, thuộc tổng Cổ Hiền, huyện Thưởng
Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam thượng (nay thuộc xã Nhị Khê, huyện Thường Tín,
Hà Nội). Cha của ơng là Nguyễn Ứng Long (1345 – 1418) nổi tiếng là người thông minh,
học giỏi, hiểu biết rộng, là một người có đức độ, đã được quan tư đồ Trần Nguyên Đán (ông
ngoại của Nguyễn Trãi) tin tưởng gả con gái là Trần Thị Thái. Sau khi hai người kết duyên
vợ chồng có tất cả 5 người con trai, trong đó Nguyễn Trãi là con trai đầu (1380). Năm 1374,
Nguyễn Ứng Long đỗ bảng nhãn nhưng ông lại không được nhà Trần mời ra làm quan. Ông
đành hồi hương mở trường dạy học.

Năm 1385, Trần Nguyên Đán cáo quan về hưu tại động Thanh Hưu trên núi Cơn Sơn
(thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương), Nguyễn Trãi lúc này lên 5 tuổi cũng theo ông
ngoại và mẹ về đó. Sau khi ơng ngoại và mẹ mất, Nguyễn Trãi trở về sống với cha ở làng
6


Nhị Khê. Vào thời điểm này, tuy ông phải sống một cuộc sống nghèo khổ, thiếu thốn nhưng
luôn được sự rèn luyện, giáo dc của cha nên ông ra sức học hành. Nguyễn Trãi đã thừa
hưởng những truyền thống, tư tưởng hết sức tốt đẹp của hai bên gia đình nội ngoại. Dòng họ
ngoại của Nguyễn Trãi được sử sách ghi chép lại, là một dịng họ có cơng trong sự nghiệp
dựng nước và giữ nước. Ông ngoại của Nguyễn Trãi là Trần Nguyên Đán – hiệu là Băng Hồ
tử, là một vị tôn thất nhà Trần, vốn là cháu bốn đời của Trần Quang Khải – người anh hùng
đã cùng Trần Quốc Tuấn đánh bại quân Nguyên, Trần Nguyên Đán cũng có cơng giúp Trần
Nghệ Tơng khơi phc an ninh tổ quốc, bên trong chống bọn gian thần lạm quyền Dương
Nhật Lệ, bên ngoài chống bọn phong kiến Chiêm Thành xâm lược.
Trần Ngun Đán vốn tính tình thâm trầm và giàu lịng ưu ái. Tuy ở ngơi Tể tướng,
sống trong dinh thự nguy nga tráng lệ nhưng ông vẫn luôn nghĩ tới cuộc sống lầm than, cơ
cực của dân đen, con đỏ. Đến đời Nghệ Tông, Trần Nguyên Đán thấy triều đình đổ nát
khơng có cách nào có thể cứu vãn nên sinh ra tư tưởng chán nản và dưng sớ xin cáo quan về
hưu nhưng không được nhà vua chuẩn y. Ông đành ở lại tiếp tc làm việc nhưng khơng cịn
lịng tin đối với triều đình.
Gia đình Nguyễn Trãi là một gia đình hiếu học, cả cha và ông ngoại đều là những
nhà tri thức uyên bác. Cả hai người đều nhìn thấy được ở Nguyễn Trãi có tài năng tiềm ẩn,
nên đã dày cơng dạy dỗ Nguyễn Trãi từ khi cịn rất nhỏ. Chính sự xuất phát từ hồn cảnh
gia đình hiếu học, có cơng với đất nước nên từ thuở nhỏ Nguyễn Trãi sớm tiếp thu truyền
thống yêu nước thương dân của cha và ông ngoại. Truyền thống oanh liệt của nhà Trần và
của cả dân tộc đã sớm nuôi dưỡng ở ông niềm tự hào vô biên đối với Tổ Quốc.
1.2, Tiểu sử nhân vật Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi – tên hiệu là Ức Trai – ra đời năm Canh Thân (1380), niên hiệu Xương
Phù thứ 4 đời Đế Nghiễn nhà Trần, giữa kinh đô Thăng Long trong dinh quan Tư đồ Trần

Nguyên Đán là gia đình nhà mẹ ơng. Ngay từ nhỏ, ơng đã được ông ngoại là Trần Nguyên
Đán và cha là Nguyễn Ứng Long dạy dỗ, chỉ bảo, truyền ngọn lửa tình yêu quê hương, đất
nước, yêu nhân dân lao động, gieo vào tuổi thơ ông vào truyền thống dân tộc và đạo lý làm
người, dạy cho ông những tri thức về nhân nghĩa trong Nho giáo. Khi trở về sinh sống cùng
cha ở làng Nhị Khê, ông đã cùng với cha và ba người em của mình lao động để giúp cha bảo
đảm cuộc sống của gia đình. Chính cuộc sống nghèo khổ như bao gia đình lao động bình
7


thường khác đã giúp Nguyễn Trãi có dịp được hiểu sâu sắc hơn về nỗi cơ cực, nghèo khổ
của những người dân hằng ngày đem lại cơm áo cho xã hội. Ông càng cảm thấy yêu quý và
mang ơn họ “ Ăn lộc nhờ ơn kẻ cấy cày”. Đồng thời, những điều này cịn giúp ơng hiểu rõ
hơn về tâm tư, nguyện vọng và thấy rõ được sức mạnh của những người dân đen, con đỏ.
Lòng yêu nước thương dân của ơng từ đó đã dần dần trở thành động cơ chi phối toàn bộ tư
tưởng và hành động của ông sau này.
1.3, Sự nghiệp làm quan của Nguyễn Trãi
Lúc bấy giờ triều đại nhà Trần suy yếu, vua Chiêm là Chế Bồng Nga nhiều lần đem
quân đánh chiếm, có lần đánh đến tận kinh thành Thăng Long. Năm 1400 ph chính Thái sư
Hồ Quý Ly đã phế bỏ vua Trần Thiếu Đế, tự phong làm vua, lập ra triều Hồ. Trước đó, năm
1397 Hồ Quý Ly đã cho lập trường học và đặt chức giáo th ở các địa phương nhằm đề cao
công việc đào tạo nhân tài. Do đó, ngay khi lập nước, nhà Hồ đã tổ chức ngay khoa thi Thái
học sinh. Nguyễn Trãi, lúc này vừa trịn hai mươi tuổi, ơng đã ứng thí và đỗ cùng nhiều tài
danh khác như Lưu Thúc Kiệm, Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên, Nguyễn Mộng Tuân… Mặc
dù còn rất trẻ nhưng Nguyễn Trãi đã được nhà Hồ tin cậy giao chức Ngự sử đài chánh chưởng,
chức quan như Đô ngự sử đài, một trong những chức quan đại thần đầu triều. Lúc này thân
ph ông đổi tên là Nguyễn Phi Khanh cũng ra làm quan, được cử giữ chức Học sĩ Viện hàn
lâm kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám, một chức quan chuyên về giáo dc nhưng cũng là đại
thần, thường do Thượng thư bộ Lễ đảm nhận.
Thời gian làm quan dưới triều Hồ khơng lâu, vì năm 1407 quân Minh sang xâm lược
đã bắt được toàn bộ triều Hồ giải về nước, trong đó có Nguyễn Phi Khanh. Theo yêu cầu của

cha, Nguyễn Trãi ra hàng và chịu làm mơn khách của thượng thư Hồng Phúc nhà Minh, một
hình thức giam lỏng. Trong thời gian này, Nguyễn Trãi đọc nhiều sách và tìm hiểu kỹ điểm
mạnh, điểm yếu của nhà Minh để đề ra sách lược cứu nước Bình Ngơ sách.
Sau khi thốt khỏi sự giam lỏng của quân Minh, Nguyễn Trãi tìm đến với nghĩa quân
Lam Sơn, nơi quy t sức mạnh dân tộc chủ yếu lúc bấy giờ. Sau khi dâng Bình Ngơ sách,
Nguyễn Trãi được chủ soái Lê Lợi giao cho chức Tuyên phng đại phu, Học sĩ Hàn lâm viện
thừa chỉ. Tuy không gọi là quân sư nhưng chức quan này lại bao hàm công việc của quân sư.
Nguyễn Trãi là người thay mặt Lê Lợi viết các loại văn kiện chỉ đạo quân đội và giao thiệp
8


với bên ngoài, đồng thời lại là người tuyên đọc các văn kiện đó. Kế sách bình Ngơ từng bước
được thực hiện trong thực tế chỉ đạo kháng chiến. Theo văn bản cịn lại thì năm Nguyễn Trãi
đến Lam Sơn là năm 1423 khi nghĩa qn tạm hịa hỗn với quân Minh do Lê Lợi chịu nhận
chức quan và được phép trở về Lam Sơn chứ khơng đóng ở vùng núi Chí Linh nữa. Khi nghĩa
qn đóng ở vùng núi tây Thanh Hóa hiểm trở này để tránh sự truy diệt của qn Minh thì
Nguyễn Trãi khó có thể tìm thấy. Việc Lê Lợi chịu nhận chức quan của nhà Minh là điều kiện
thuận lợi để Nguyễn Trãi tìm đến hợp pháp. Mặt khác, có thể chính Nguyễn Trãi tìm đến cịn
để khuyến khích chủ sối và nghĩa qn khơng từ bỏ mc tiêu cứu nước bằng kế sách bình
Ngơ của mình. Thư tố oan Nguyễn Trãi viết gửi cho các tướng giặc chủ chốt là Sơn Thọ, Mã
Kỳ, chính là lời thanh minh khéo léo để giữ thế hòa hỗn tạm thời, cho nghĩa qn bàn tính
kế hoạch tác chiến giai đoạn mới. Đó là kế sách tiến quân vào nam. Bí mật di chuyển thốt
khỏi sự bao vây của các cánh quân Sơn Thọ, Mã Kỳ, tiến vào đánh chiếm Nghệ An và các
vùng đất phía nam quân Minh không mạnh. Chiến dịch này đã thắng lợi rực rỡ. Nghĩa qn
làm chủ Nghệ An đến Thuận Hóa, cơ lập quân Minh trong một số thành trì. Từ đây nghĩa
quân đủ mạnh tiến ra Bắc giải phóng đất nước.
Tháng 11.1426 nghĩa quân Lam Sơn làm chủ hầu hết đất nước, quân Minh bị cô lập ở
Đông Quan và một số thành trì khác. Để thu hút được ý chí toàn dân tộc, nhất là tầng lớp quý
tộc cũ, nghĩa quân Lam Sơn thực hiện sách lược lập Trần Cảo, một tôn thất nhà Trần làm vua,
lấy niên hiệu là Thiên Khánh. Nguyễn Trãi được phong chức Thượng thư bộ Lại, triều liệt đại

phu, Nhập nội hành khiển kiêm Xu mật viện sự. Đây là chức quan như tể tướng đầu triều, một
chức quan hư hàm của triều đình Thiên Khánh cũng hư hàm. Cơng việc chính của Nguyễn
Trãi vẫn như trước kia. Tại dinh Bồ Đề, ông ngồi ở lầu thứ hai nhận, xử lý và soạn thảo các
văn kiện đối nội, đối ngoại, nhất là việc viết thư d hàng các thành nhỏ, thúc gic Vương
Thơng giảng hịa để tập trung cho việc diệt viện binh đang kéo sang.
Tháng 9.1427 nghĩa quân Lam Sơn tiêu diệt toàn bộ hai đạo viện binh của giặc do Liễu
Thăng và Mộc Thạnh chỉ huy thì Vương Thơng đã phải chấp nhận giảng hòa. Nguyễn Trãi là
người soạn Văn hội thề buộc Vương Thông rút hết quân về nước. Tháng giêng 1428 Lê Lợi
lên ngơi hồng đế, luận cơng ban thưởng Nguyễn Trãi được phong Quan Phc hầu, dự hàng
quốc tính (được đổi theo họ của vua). Nhưng sau đó xảy ra v án Trần Nguyên Hãn, Nguyễn
Trãi bị liên can chịu cảnh ngc tù xét tội. Sau khi Trần Nguyên Hãn tự tử, Nguyễn Trãi được
9


tha, tuy vẫn làm công việc soạn thảo văn kiện quan trọng thay vua nhưng Nguyễn Trãi khơng
cịn mang chức v chính thức như cũ.
Năm 1434, vua Lê Thái Tơng kế vị mới phc chức Hành khiển và Thừa chỉ cho Nguyễn
Trãi. Được phc chức nhưng Nguyễn Trãi lại không được làm công việc cũ mà nhận mệnh
vua viết sách Dư địa chí. Năm 1435 thì được nhận thêm chức Nhập thị kinh diên để hàng
ngày giảng kinh nghĩa cho vua. Tuy vẫn là đại thần dự thiết triều nhưng vai trò của Nguyễn
Trãi bị lu mờ bởi sự lộng quyền của các đại thần Lê Sát, Lê Vấn, Lê Ngân.
Năm 1439 Nguyễn Trãi cáo quan về nghỉ ở Côn Sơn. Vua Lê Thái Tông không muốn
cho ông nghỉ nên vẫn giao chức cũ và gia thêm chức Đông đài Môn hạ sảnh tả ti Gián nghị
đại phu kiêm Tri tam quán sự Đề cử Tư Phúc tự. Nguyễn Trãi dâng Biểu tạ ơn. Chức quan thì
to nhưng thực tế Nguyễn Trãi chỉ làm việc quan rất nhỏ là trông coi chùa Tư Phúc, ngôi chùa
ở Côn Sơn nơi ông đang ở.
Năm 1442 vua Lê Thái Tông đã trưởng thành và chủ trương mở rộng nền văn trị, đặt
nhà học rộng rãi ở các phủ huyện, đặt lệ thi cử với nhiều ân điển hậu đãi kẻ sĩ. Tháng tư năm
này mở khoa thi tiến sĩ đầu tiên, lấy đỗ 23 người đủ tam khôi tam giáp. Nền văn trị mới mở
rất cần Nguyễn Trãi giúp. Lúc này các lộng thần Lê Sát, Lê Ngân đã bị nhà vua trừ bỏ.

Ngày 27/7 vua thân đi xem duyệt thủy trận ở Hải Đơng, xong rẽ vào Cơn Sơn thăm Nguyễn
Trãi. Ơng bằng lòng trở về kinh làm việc nên cho vợ là Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ theo
vua về trước. Trong bài thơ Quan duyệt thủy trận Nguyễn Trãi viết: “Thánh tâm dục dữ dân
hưu túc/ Văn tự chung tu trí thái bình” thể hiện rõ nguyện vọng tiếp tc gánh vác việc nước
giúp vua của ông. Ngày 3/8 thuyền vua rời bến nhưng mới về đến Lệ Chi Viên thì vua mắc
bạo bệnh phải dừng lại nghỉ và qua đời tại đây. Triều đình kết tội Nguyễn Trãi ngầm sai vợ
giết vua nên bị tru di tam tộc. Thảm án Lệ Chi Viên làm hỏng kế sách văn trị của triều vua Lê
Thái Tông. Phải hai chc năm sau vị vua sáng Lê Thánh Tông mới lại tiếp tc đường lối văn
trị này.
Dưới thời vua Lê Thánh Tông phần lớn các bậc công thần khai quốc đều được gia
phong tước vị quốc công. Riêng Nguyễn Trãi lại chỉ được phong tước Tán Trù bá, kém các
công thần khai quốc khác hai bậc. Năm 1512 vua Lê Tương Dực mới gia phong đến tước hầu
là Tế Văn hầu.

10


Cho đến thời đại ngày nay, vị công thần đa tài Nguyễn Trãi mới được tôn vinh xứng
đáng cả ở trong nước lẫn nước ngồi. Năm 2002 ơng được UNESCO vinh danh là danh nhân
văn hóa thế giới.

Chương 2. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA NHÂN VẬT NGUYỄN TRÃI TRONG LỊCH
SỬ VIỆT NAM
Nguyễn Trãi là vị tướng có cơng lớn trong khởi nghĩa Lam Sơn
2.1, Nhà chính trị, quân sự tài ba
Nguyễn Trãi là một trong số ít những vị quân sư kiệt xuất nhất trong lịch sử Việt, vai
trị của ơng khơng khác gì Khổng Minh Gia Cát Lượng ở Trung Quốc, Đào Duy Từ của
Chúa Nguyễn. Mặc dù không trực tiếp cầm quân ra trận, nhưng những tư tưởng về mặt qn
sự của ơng có tác động rất lớn đến kết cc của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi chỉ huy.
Khi tới Lỗi Giang, Nguyễn Trãi đã làm lễ ra mắt lãnh t nghĩa quân Lam Sơn bằng

bản Bình Ngơ sách - đó là những kế sách rất quan trọng, những đường lối sáng suốt và tài
giỏi để đẩy mạnh cuộc chiến tranh giải phóng nhanh tới thắng lợi hồn tồn. Chính vì thế,
tuy chỉ vừa gặp gỡ nhưng Nguyễn Trãi đã được Lê Lợi và nghĩa quân rất tôn quý, trọng
dng. Nguyễn Trãi được xem là công thần đầu tiên trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, ông đã
có nhiều cống hiến quan trọng vào sự hoạt động của phong trào để hoàn thành tốt đẹp sự
nghiệp đánh giặc cứu nước của dân tộc ta thời đó. Tuy ông không làm tướng trực tiếp cầm
quân ra trận nhưng ông đã có những đóng góp vô cùng quý báu về đường lối đấu tranh,
phương thức tiến hành chiến tranh, về phương châm chiến lược, chiến thuật cơ bản cho từng
giai đoạn của chiến tranh và trên mỗi mặt trận, trên mỗi chiến trường c thể.
Trong năm năm chiến đấu ở miền Tây Thanh Hóa, đường lối đấu tranh của phong
trào Lam Sơn là đường lối đấu tranh bước đầu, tuy nhiên cịn hạn chế trên mặt trận qn sự.
Vì vậy mới dẫn đến sự hạn chế phát triển của phong trào, các mặt lực lượng vũ trang, trình
độ tổ chức, địa bàn hoạt động…nên khơng thể hồn tồn tiến tới đánh thắng giặc Minh. Tới
đầu năm 1423, phong trào Lam Sơn vẫn mang tính chất phong trào khởi nghĩa địa phương,
hoạt động trên một địa bàn nhỏ hẹp ở miền Tây Thanh Hóa. Trong năm năm chiến đấu đã
qua, nghĩa quân chưa kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự, chưa chú trọng việc
thu đất giành dân, phá vỡ chính quyền địch và chưa xây dựng được chính quyền mới làm
chỗ dựa vững chắc cho phong trào. Khơng có chính quyền thì khơng tổ chức được dân cùng
11


đánh giặc. Tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc giành chủ quyền đất nước mà khơng
xây dựng chính quyền của mình thay chính quyền địch, từng bước giành chủ quyền lãnh thổ
ở từng bộ phận thì chiến tranh giải phóng khó thành cơng, phong trào khơng thể phát triển
và tồn tại như một phong trào cứu nước toàn dân. Phong trào cứu nước chỉ có thể phát triển
mạnh trên cơ sở ngày càng giành được nhiều dân, nhiều đất, ngày càng có một chính quyền
vững mạnh làm chỗ dựa và phải đánh địch bằng nhiều cách, đánh địch trên nhiều mặt trận.
Thấy rõ được điều này, Nguyễn Trãi đã đề ra một đường lối đấu tranh trên một quy mô lớn,
đẩy mạnh sự phát triển của phong trào sang một giai đoạn mới. Từ khi nghĩa quân về núi
Chí Linh lần thứ ba trở đi, tất cả những ý kiến, đường lối, phương châm đánh giặc của

Nguyễn Trãi đều được vận dng triệt để vào sự hoạt động của phong trào. Từ đó, nghĩa
quân Lam Sơn bắt đầu thực hiện một đường lối đấu tranh tổng hợp, toàn diện, kết hợp hoàn
hảo các mặt: đánh bằng quân sự, đánh bằng sức mạnh của quần chúng nổi dậy, thu đất giành
dân, lập chính quyền ta, phá chính quyền địch và đánh vào lòng quân địch.
Nguyễn Trãi là bậc thầy trong việc “Mưu phạt tâm cơng”, tức binh pháp “đánh vào
lịng người”. Binh pháp Tôn Tử Trung Quốc từng chép: “Cách dùng binh trên hết là đánh
bằng mưu, thứ đến là đánh bằng ngoại giao, thứ đến là dùng binh đao, cuối cùng là đánh
thành. Dùng đến cách đánh thành chỉ là bất đắc dĩ”.
Thuở đó, lịng dân cịn phân tán, muốn làm cho mọi người tin tưởng vào nghĩa quân
Lam Sơn, Nguyễn Trãi bèn sai người lấy mỡ viết vào lá cây trên rừng tám chữ: “Lê Lợi vi
quân, Nguyễn Trãi vi thần” (Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm thần). Kiến, sâu ăn mỡ khoét
lá rỗng thành chữ, lá rng trơi theo dịng nước đến khắp mọi nơi. Nhân dân cho là “ý Trời”
thương dân mượn tay Lê Lợi, Nguyễn Trãi khử bạo trừ hung nên rủ nhau nườm nượp về
Lam Sơn t nghĩa và dốc hết lòng vào cuộc kháng chiến thần thánh. Kết quả “nhân dân bốn
cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới/Tướng sĩ một lịng phụ tử, hịa nước sơng
chén rượu ngọt ngào” (Bình Ngơ Đại Cáo). Nguyễn Trãi cịn giúp Lê Lợi thu phc lòng dân
bằng những mưu lược khác. Ngày 25 tháng Giêng năm Ất Tỵ (1425), khi nghĩa quân tiến
vào Nghệ An, các chỉ huy khởi nghĩa Lam Sơn đã ra lệnh cho tướng sĩ: “Dân ta khốn khổ vì
giặc đã lâu, phàm đến châu huyện nào mảy may không được xâm phạm”. Nhân nghĩa là cội
nguồn của cuộc sống, có nhân nghĩa thì thành cơng, khơng nhân nghĩa thì thất bại. Bọn giặc
Minh xâm lược đã: “Dối trời, lừa dân đủ mn nghìn kế/Gây binh, kết ốn trải hai mươi
năm/Bại nhân nghĩa, nát cả đất trời” (Bình Ngơ Đại Cáo). Vì vậy, “Lam Sơn Thực lc”
12


cho biết, sau khi lệnh trên được thi hành “nhân dân chẳng ai là không vui mừng, tranh nhau
đem trâu, rượu ra đón khao dùng vào quân dụng”. “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/Quân
điếu phạt trước lo trừ bạo” (Bình Ngơ Đại Cáo) – khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi là nhờ đội
quân lấy nhân nghĩa làm đầu. Có nhân nghĩa sẽ tạo ra được một đội quân không có kẻ thù
nào có thể địch được. Đó chính là đỉnh cao của binh pháp “đánh vào lòng người” của

Nguyễn Trãi.
Trong lãnh đạo nghĩa quân Lam Sơn chống giặc Minh, Lê Lợi và Nguyễn Trãi là
những nhà chiến lược tài ba – văn võ song toàn, đặc biệt là chiến lược “mưu phạt tâm
cơng” (đánh vào lịng người). Đó là một chiến lược cơ bản trong Bình Ngơ sách mà Nguyễn
Trãi trình lên Lê Lợi lúc khởi nghĩa Lam Sơn còn ở trong thời kỳ trứng nước. “Đánh vào
lòng người” là sự khởi đầu cho chủ trương kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao
của Nguyễn Trãi. Khi lãnh đạo khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi và Nguyễn Trãi “đánh vào lòng
địch” với hai phương thức chủ yếu là d hàng các tướng lĩnh, binh sĩ địch và ngy qn,
thực hiện hịa đàm, khi thì để hịa hỗn tạm thời với địch để bảo toàn lực lượng; khi ưu thế
thuộc về nghĩa quân thì dùng lý lẽ để buộc địch chấm dứt chiến tranh, rút quân về nước.
Trong suốt mười năm khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi triệt để thực hiện tấn công ngoại
giao, kết hợp với đấu tranh quân sự, chính trị. Khi quân địch bị dồn vào thế bất lợi, Nguyễn
Trãi không vội dùng sức mạnh qn sự để tiến cơng tiêu diệt địch mà bình tĩnh thực hiện
bao vây uy hiếp kết hợp với tiến cơng chính trị d hàng. Nguyễn Trãi đã tốn nhiều tâm lực
để suy xét được mọi lẽ hưng vong của các triều đại, phân tích “thời” và “thế” trong cc diện
cuộc chiến. Ông kịch liệt phê phán phép dùng binh theo lối phòng ngự thủ hiểm tiêu cực của
cha con Hồ Q Ly đã làm: xích sắt khóa chặt các cửa sông, lớp cọc dài giăng một cách th
động. Trước Lê Lợi trên lĩnh vực quân sự đã xuất hiện nhiều cuộc khởi nghĩa chống quân
Minh, nhưng không mang lại kết quả như mong muốn. Với sự cố vấn của Nguyễn Trãi, Lê
Lợi đã mở đầu cuộc kháng chiến bằng lối đánh du kích trong vùng rừng núi. Trên cơ sở
“Dựng gậy làm cờ, tập hợp bốn phương manh lệ” mà tổ chức một cuộc khởi nghĩa và chiến
tranh toàn dân. Phương thức cơ bản là tiến công, liên tc công địch, tiến công của chủ lực
kết hợp với nổi dậy của quần chúng; vây hãm địch trong các thành trì với kết hợp tấn cơng
tiêu diệt các đạo viện binh; tiến công bằng quân sự, kết hợp với đánh vào lòng địch. Nguyễn
Trãi đòi hỏi tướng lĩnh trong chiến dịch phải luôn “biết địch biết ta”, nắm vững điều kiện,
hồn cảnh, hiểu thơng thời thế… Ơng nhấn mạnh: “Xét biết thời cơ và biết lựa sức mình là
13


người tướng có tri thức” và “cái điều đáng quý của người tuấn kiệt là biết thời thế, hiểu sự

biến đổi mà thôi”, “người dùng binh giỏi là biết lường thế giặc mới đánh, nắm phần thắng
rồi mới hành động”. Người tướng cầm quân phải biết tạo lập được những thế trận lợi hại,
phải đánh bằng mưu và đánh bất ngờ, buộc địch sa vào thế “thịt lên thớt”, “cá trong nồi” để
mà diệt, như vậy ta mới có thể lấy ít thắng nhiều. Để đạt tới mc đích đập tan lực lượng
quân sự to lớn của địch, đánh bại các thủ đoạn tác chiến nham hiểm của chúng, phá phép
dng binh sở trường, đánh theo lối trận địa bằng những đội hình dày đặc, Nguyễn Trãi và
Bộ thống sối Lam Sơn đã chỉ huy quân đội thực hiện lối đánh sở trường của mình là “đặt
quân phc, dùng kỳ binh, tránh chỗ chắc, đánh chỗ mềm, lấy ít địch nhiều, lấy ít đánh
mạnh”. Với nghệ thuật và phương thức tác chiến ấy, nghĩa quân Lam Sơn đã liên tiếp tạo
nên những trận đánh lớn tiêu diệt quân địch như các trận: “Bồ Đằng sấm vang chớp giật”,
trận “Trà Lân trúc chẻ tro bay”, trận “Lạng Sơn, Lạng Giang xác chất đầy đường”, trận
“Ninh Kiều máu chảy thành sông, hôi tanh vạn dặm”, trận “Xương Giang, Bình Than máu
trơi đỏ nước”.
Trận Chi Lăng – Xương Giang (8/10/1472 – 3/11/1472) đã thể hiện rõ nét tư tưởng
“làm một được hai” trong nghệ thuật đánh tiêu diệt của nghĩa quân Lam Sơn. Đây là trận
quyết chiến chiến lược đã đưa cuộc kháng chiến chống Minh của nhân dân ta đến thắng lợi
hoàn toàn. Tư tưởng chiến lược đặc sắc của Nguyễn Trãi được quán triệt trong hàng ngũ các
tướng Lam Sơn: tư tưởng “làm một được hai” nhằm tiêu diệt quân địch đến mức cao nhất
nhưng đồng thời giảm tổn thất về phía ta đến mức thấp nhất. Chỉ có như vậy, nghĩa qn
Lam Sơn mới có thể “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” để theo năm tháng cuộc kháng
chiến trường kỳ ngày càng phát triển. Tư tưởng này của Nguyễn Trãi là nền tảng cho kế
hoạch tác chiến của nghĩa quân Lam Sơn trong trận chiến Chi Lăng – Xương Giang. Trước
hết, Nguyễn Trãi đã cho nghĩa quân dàn một thế trận chạy dài theo trc đường từ các ải địa
đầu trên vùng biên giới như cửa Pha Lũy đến Chi Lăng, Cầu Trạm và Xương Giang. Thực
tế, Nguyễn Trãi đã sử dng tài tình khơng gian của Tổ Quốc và thời gian trên đất nước để
làm “chảy máu” liên tc đạo quân giặc hùng mạnh, đánh cho chúng “mềm xương”, dẫn dắt
chúng dần dần đi đến địa điểm mà ta chuẩn bị sẵn. Về chiến dịch, Nguyễn Trãi, Lê Lợi chủ
trương: đánh thắng từng bước trong chiến dịch, tiết kiệm lực lượng, đánh đúng lúc, đúng
nơi, đúng đối tượng, tất cả đều xuất phát từ tư tưởng chiến lược “làm một mà được hai” để
dẫn đến kết quả tiêu diệt được toàn bộ quân địch mà vẫn bảo tồn được lực lượng chủ yếu

14


của ta. Chính vì thế, sau trận quyết chiến chiến lược Xương Giang, đạo quân chủ lực của
nghĩa quân Lam Sơn đã chứng tỏ khơng những có đủ sức để đánh chiếm nhanh chống thành
Đơng Quan mà cịn đủ sức để tiêu diệt những đạo quân xâm lược mới của triều Minh khi
chúng trở lại một lần nữa.
Có thể thấy, Nguyễn Trãi là một nhà chính trị, quân sự tài ba, dù ông không trực tiếp
cầm binh ra trận đánh giặc nhưng những mưu lược, nghệ thuật đánh giặc của ông đã giúp
nghĩa quân Lam Sơn chiến thắng hoàn toàn. Nguyễn Trãi đã kết hợp chặt chẽ hành động tác
chiến của nghĩa quân chủ lực, quân địa phương và quân dân làng, xã trong thế trận chiến
tranh nhân dân, căng địch ra để giáng đòn quyết định sấm sét vào đúng khâu then chốt, đúng
lúc, đúng nơi. Quả là cách đánh tiêu diệt tài tình nằm trong “mưu kế sâu xa” của nhà quân
sự Nguyễn Trãi. Cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược dài 20 năm kết thúc tốt đẹp
là nhờ hiệu quả của cách đánh tổng hợp do Nguyễn Trãi đề ra: quân sự, chính trị, ngoại
giao, bằng sức mạnh của vũ khí và tài ba, ý thức của con người u nước, bằng chính nghĩa,
đạo lý, lịng nhân và ý chí hịa bình của dân tộc ta. Nguyễn Trãi mãi mãi là ánh sao Khuê
lấp lánh, in dấu trong lịch sử dân tộc. Ơng chính là nhà chính trị, quân sự tài ba, anh hùng
dân tộc của Việt Nam. Nghệ thuật quân sự của ông là bài học quý giá cho thế hệ mai sau
học tập, phát huy trong việc xây dựng quân đội, bảo vệ vùng biên giới, hải đảo và độc lập
chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam.
2.2, Nhà văn hóa lớn với nhiều sáng tác có giá trị
Nguyễn Trãi khơng những được người người khâm phc ở tài năng quân sự mà cịn
khâm phc ơng là một người tận trung ái quốc, yêu mến quê hương đất nước tha thiết. Văn
võ song tồn, cống hiến suốt đời và đóng góp to lớn cho sự nghiệp cứu và dựng nước, đáng
là bậc anh hùng nước ta. Với những chiến lược quân sự tài ba, lời lẽ chau chuốt của một nhà
ngoại giao chính trị, lời văn mượt mà tha thiết của một nhà văn hóa lớn, Nguyễn Trãi đáng
là một đại văn hào của dân tộc.
Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận kiệt xuất của nước ta. Đóng góp của ơng đối với
sự phát triển của văn học dân tộc trong đó có thành tựu của văn chính luận là vơ cùng to lớn

và có ý nghĩa thời đại. Nguyễn Trãi là nhà văn đầu tiên có ý thức dùng văn chương là vũ khí
chiến đấu có hiệu quả nhất cho cuộc đấu tranh giành lại độc lập dân tộc. Văn chính luận của
15


ông có giá trị mẫu mực, cổ điển, là cột mốc đánh dấu sự phát triển của văn chính luận ở
nước ta.
Một số tác phẩm tiêu biểu:
“Quân Trung Từ Mệnh Tập” là tập sách đầu tiên gồm hơn 70 văn thư chiêu hàng do
Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi gửi tới các tướng lĩnh nhà Minh trong cuộc khởi nghĩa Lam
Sơn từ năm 1423 đến năm 1427. Đây là tập văn vừa mang tính luận chiến, nhằm cổ vũ tình
thần quân sĩ và làm lung lay ý chí quân giặc, vừa mang tính thuyết phc, giảng giải cho kẻ
địch thấy rõ lẽ tất yếu phải rút quân và thừa nhận chủ quyền độc lập của Đại Việt. Lập luận
sắc bén, văn phong sáng gọn, gợi cảm, có lí có tình. Tài hùng biện của Nguyễn Trãi quả
thực hiếm thấy, đã góp phần làm cho giặc dao động và cầu hịa, đưa đến thắng lợi năm
1428. Sau này, Lê Quý Đôn đã nhận xét “Nguyễn Trãi là người viết thư, thảo hịch tài giỏi
hơn hết mọi thời”. Với lập luận sắc bén, lí lẽ mạnh như “sức mạnh hơn mười vạn binh”
Nguyễn Trãi đã góp cơng lớn trong chiến thắng của nghĩa qn Lam Sơn.
“Bình Ngơ Đại Cáo” được thảo ra vào ngày 15/4/1428, đây là bản tuyên ngôn độc lập do
Nguyễn Trãi thay mặt Lê Thái Tổ viết ra để tuyên bố cho nhân dân cả nước biết rằng nghĩa
quân Lam Sơn đã đánh bại quân Minh, đem lại độc lập cho dân tộc. “Bình Ngơ Đại Cáo”
được đánh giá là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước ta (sau bài thơ Nam Quốc Sơn
Hà), là tác phẩm phản ánh vắn tắt lịch sử mười năm chiến đấu oai hùng của nghĩa quân Lam
Sơn đánh đuổi giặc Minh ra khỏi bờ cõi nước ta. Tác phẩm là cuộc tổng kết kinh nghiệm
của cuộc đấu tranh chống giặc Minh và từ đó rút ra những bài học về đường lối đánh giặc
cứu nước. Bên cạnh đó, “Bình Ngơ Đại Cáo” còn đề cập đến việc xác định chủ quyền, ranh
giới lãnh thổ nước ta, đồng thời Nguyễn Trãi đã tố cáo tội ác của giặc Minh khi tới xâm
lược nước ta.
Về lịch sử: “Lam Sơn Thực Lục” là quyển lịch sử ký sự ghi chép về công cuộc 10
năm khởi nghĩa Lam Sơn, do vua Lê Thái Tổ sai soạn vào năm 1432. Vấn đề tác giả của

trước tác này vẫn còn chưa rõ ràng, dù cho đến nay nhiều người khẳng định rằng Lam Sơn
Thực Lc là tác phẩm do Nguyễn Trãi biên soạn nhưng điều đó vẫn chỉ mang tính phỏng
đốn; “Vĩnh Lăng Thần Đạo Bi” là bài văn bia do Nguyễn Trãi viết ở Vĩnh Lăng – lăng của
vua Lê Thái Tổ, kể lại thân thế và sự nghiệp của Vua Lê Thái Tổ.
16


“Dư Địa Chí” của Nguyễn Trãi là bộ sách về địa lý học cổ nhất còn lại của Việt
Nam trong đó ghi chép lại những sản vật và con người nước ta trong thế kỷ XV.
Về thơ phú: “Ức Trai Thi Tập” là tập thơ bằng chữ Hán của Nguyễn Trãi gồm 105
bài thơ, trong đó có bài Cơn Sơn ca nổi tiếng; “Quốc Âm Thi Tập” là tập thơ viết bằng chữ
Nôm của Nguyễn Trãi gồm 254 bài thơ, chia làm bốn mc: Vô đề (192 bài), Thời lệnh môn
(21 bài), Hoa mộc môn (34 bài), Cầm thú môn (7 bài). Đây là tập thơ Nôm xưa nhất của
Việt Nam còn lại đến nay. Bằng tập thơ này, Nguyễn Trãi đã đặt nền móng cho văn học chữ
Nơm của dân tộc Việt Nam. Ngồi ra, “ Chí Linh Sơn Phú” là bài phú bằng chữ Hán, kể lại
sự kiện nghĩa quân Lam Sơn rút lên núi Chí Linh lần thứ ba vào năm 1422…
Nguyễn Trãi là một trong những nhà văn hóa lớn, ưu tú nhất của lịch sử văn học dân
tộc, người kết thúc chặng đường phát triển trên năm thế kỉ văn học viết đầu tiên mà tinh
thần chủ đạo là khẳng định dân tộc. Nguyễn Trãi với tư cách là nhà văn nhà thơ đã đem văn
học phc v cho cuộc sống và qua bản thân mình, đã chứng minh hùng hồn và thuyết phc
rằng chỉ có bắt nguồn từ cuộc đấu tranh vì lợi ích của nhân dân thì văn nghệ mới có thể phát
huy tác dng mạnh mẽ và lớn lao, ông hi vọng viết được những sáng tác ngang tầm nhân
dân và thời đại. Nguyễn Trãi đã có một khối lượng tác phẩm lớn có chất lượng cao chưa
từng thấy trong đó thành tựu của ông về hùng văn và thơ ca quốc âm đều có ý nghĩa cử mốc
trên con đường phát triển của các loại văn này. Nguyễn Trãi đã đem đến cho văn học một
chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng; chủ nghĩa nhân đạo với sự chiếu rọi và lóa sáng
của tư tưởng tiên tiến nhất thời đại: tư tưởng dân chủ – nhân đạo, tư tưởng nhân nghĩa – hồ
bình, trước hết là tư tưởng thân dân và tư tưởng nhân nghĩa. Đồng thời ở đây, Nguyễn Trãi
cũng để lại một tài thơ trác tuyệt với một tâm hồn rất mực trong sáng, ưu ái, với “tiếng thơ
kêu xé lòng” bao thế hệ! Thơ văn Nguyễn Trãi đã đúc kết được truyền thống tốt đẹp nhất

của dân tộc và đã phát huy những truyền thống tốt đẹp ấy của quá khứ lên một tầm cao cả
nhất mà điều kiện lịch sử bấy giờ cho phép. Đúng như đồng chí Phạm Văn Đồng đã chỉ rõ:
Nguyễn Trãi là khí phách của dân tộc, là tinh hoa của dân tộc. sự nghiệp và tác phẩm của
Nguyễn Trãi là một bài ca yêu nước và tự hào dân tộc.

2.3, Anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới
17


Những đóng góp của Nguyễn Trãi vơ cùng lớn lao trong lịch sử dân tộc. Ông là vị
anh hùng, một nhà qn sự, chính trị và nhà văn hóa kiệt xuất của dân tộc. Tài năng của ông
trải đều trên các lĩnh vực và được hậu thế kính phc.
Trước hết là sự nghiệp đánh giặc cứu nước vô cùng vẻ vang. Tư tưởng chính trị qn
sự vơ cùng ưu tú và tài ngoại giao kiệt xuất của ơng đã góp phần quan trọng giúp cho phong
trào khởi nghĩa Lam Sơn đi đến thắng lợi. Đồng thời, Nguyễn Trãi cũng được coi là một nhà
tư tưởng lớn của Việt Nam. Nét nổi bật trong tư tưởng của Nguyễn Trãi là sự hòa quyện,
chắt lọc giữa tư tưởng Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo (trong đó Nho giáo đóng vai trị chủ
yếu), có sự kết hợp chặt chẽ với hồn cảnh thực tiễn ở Việt Nam lúc bấy giờ, nhưng nổi bật
hơn cả là tư tưởng anh hùng, yêu nước, thương dân.
Mặc khác, Nguyễn Trãi cịn là một nhà văn hóa kiệt xuất. Ông để lại rất nhiều các tác
phẩm văn chương đồ sộ, cả bằng chữ Hán, chữ Nôm và phong phú về thể loại, bao gồm
nhiều lĩnh vực như: Văn học, lịch sử, địa lý, luật pháp, lễ nghi… Những tác phẩm của ơng
được đánh giá là có cách lập luận sắc sảo, khúc triết, thấu tình đạt lý, có nhu có cương của
một nghệ thuật viết chính luận bậc thầy. Ơng cũng là người đặt nền móng cho văn học chữ
Nôm của Việt Nam.
Với những công lao và đóng góp vơ cùng to lớn của ơng trong lịch sử nước nhà thì
Nguyễn Trãi được xem như nguồn tư liệu q cho các cơng trình nghiên cứu, các tác phẩm
hội họa, văn học và nghệ thuật…Ông là một trong 14 vị anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt
Nam và năm 1980, Nguyễn Trãi đã được tổ chức Giáo dc Khoa học và Văn hóa của Liên
Hợp Quốc UNESCO cơng nhận là danh nhân văn hóa thế giới.


18


KẾT LUẬN
Nguyễn Trãi đã gắn liền cuộc đời và sự nghiệp của ơng với lịch sử đấu tranh giải
phóng dân tộc Việt Nam, đã đóng góp cơng sức lớn lao vào trang sử hào hùng của dân tộc
trên con đường đấu tranh gian khổ để tìm lại quyền sống, quyền tồn tại, quyền bình đẳng
của dân tộc Việt Nam. Ơng là một con người biểu trưng cho tư tưởng, tinh thần, tài năng và
đạo đức của cả dân tộc ta trong một giai đoạn nhất định của lịch sử.Ông là một nhà chính trị
đại tài. Mặc dù được đào tạo trong cái nôi của đạo Khổng Mạnh nhưng ông không chịu lệ
thuộc vào tư tưởng kinh điển của ý thức phong kiến, trái lại với trí tuệ sáng ngời cùng tinh
thần yêu nước, thương dân, ông đã sáng tạo và vận dng những tư tưởng đó để đem lại cái
lợi cho nước nhà, cho những người dân nghèo đang ngày đêm phải chịu đựng cuộc sống
khổ cực, bị dày xéo dưới chiếc gơng của bọn phong kiến ngoại xâm. Chính sự thơng minh,
tài trí hơn người, Nguyễn Trãi đã đem lại thắng lợi vẻ vang trong cuộc đấu tranh chống giặc
Minh xâm lược. Đồng thời, ông đã đem lại cuộc sống thái bình cho nhưng người dân trên
lãnh thổ Việt Nam.
Tình yêu đối với đất nước, với nhân dân của Nguyễn Trãi luôn sáng ngời dù ở bất cứ
giai đoạn nào của nước nhà, ngay cả khi đất nước giành lại độc lập, dù trong triều đình chia
bè, kết phái, gian thần hồnh hồnh, những tệ nạn tham ơ, lười biếng, hưởng lạc, đc khoét
của dân xuất hiện đầy trong đám “triều quan” thì Nguyễn Trãi vẫn giữ được đời sống thanh
bạch, giản dị và vẫn tiếp tc thực hiện lý tưởng nhân nghĩa vì mc đích mưu cầu hạnh phúc
cho nhân dân. Tư tưởng và tình cảm của ơng luôn hướng về một xã hội tốt đẹp, một xã hội
vua sáng tôi hiền, người dân được ấm no, hạnh khúc. Trong bất cứ hồn cảnh nào ơng cũng
đặt quyền lợi của dân tộc, của nhân dân trên quyền lợi cá nhân.

19



Qua nhân vật anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi cùng với những đóng góp của ơng trong
lịch sử nước nhà, ta càng hiểu thêm những giá trị tinh thần – văn hóa mà dân tộc ta đã rèn
đúc nên, càng thêm tự hào, tình yêu đối với đất nước, con người Việt Nam. Những đóng
góp, cơng lao của Nguyễn Trãi khơng chỉ có giá trị trong xã hội đương thời mà cịn ảnh
hưởng sâu sắc trong tồn bộ lịch sử Việt Nam, nó đã bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm của dân
tộc ta và tiếp thêm nghị lực, quyết tâm để hoàn thành những nhiệm v lịch sử đang đặt ra
trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước hiện nay.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trương Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh, 2020. Đại cương Lịch Sử
Việt Nam. NXB Giáo dục Việt Nam
Trúc Khê Ngô Văn Triện, Nguyễn Trãi – Anh hùng giải phóng dân tộc Danh nhân văn
hóa thế giới. NXB Văn hóa văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh
Viện Sử Học, 1978. Nguyễn Trãi toàn tập. NXB Khoa Học Và Xã Hội
Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh, Phạm Công Trứ, Lê Hy, Nguyễn Quý Đức, 1697. Đại Việt Sử
ký toàn thư

21



×