Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

đề cương triết học mác Lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.03 KB, 20 trang )

Đề cương_Triết_ML01020_14

Đề cương Triết học Mac-Lênin
HỌC VIỆN VNUA
1.Vấn đề cơ bản của triết học
1.1-Nội dung cơ bản của triết học
1.1.1-Khái niệm
- Trong tác phẩm:” Lút-vích phoi-ơ-bắc(Ludwig FeuerBach) và sự cáo chung
của triết học cổ điển Đức”, Ăngghen viết :”Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học,
nhất là triết học hiện đại là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại .”
1.1.2-Tại sao đây là vấn đề cơ bản của triết học?
- Giải quyết vấn đề quan hệ giữa tư duy (ý thức,tinh thần, nhận thức) và tồn tại
(vật chất,giới tự nhiên) là nền tảng cơ bản và điểm xuất phát để giải quyết các
vấn đề khác trong quan điểm, tư tưởng của các nhà triết học và các học thuyết
triết học.
- Căn cứ vào việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học để xác định lập trường,
thế giới quan của các nhà triết học và các học thuyết triết học.
1.1.3- Nội dung vấn đề cơ bản của triết học
- Có hai nội dung chính:
+) Mặt thứ nhất:Giữa vật chất (tồn tại)và ý thức (tư duy) thì cái nào có trước, cái
nào quyết định, cái nào là tính thứ nhất.
+) Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
1.2. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
* Việc giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà
triết học thành hai trường phải lớn là chủ nghĩa duy vật và chủ ngĩa duy tâm
1.2.1-Chủ nghĩa duy vật
* Nhà triết học duy vật là những nhà triết học cho rằng vật chất là cái có trước,
là tính thứ nhất và quyết định với ý thức(tư duy) của con người.
* Các hình thức của chủ nghĩa duy vật:
- Chủ nghĩa duy vật chất phác:
+) Xuất hiện thời cổ đại khoảng thế kỉ VI TCN đến thế kỉ thứ II TCN


+) Quan điểm: thừa nhận tính thứ nhất của vật chất, là cái có trước , là cái quyết
định.
+) Quan niệm về vật chất:
• Đồng nhất vật chất với một dạng cụ
thể: => Ví dụ:
- Ở Hy Lạp cổ đại có nhà triết học Đê-mơ-crit đã đồng nhất với nguyên
tử và coi nguyên tử là hạt vật chất nhỏ bé nhất không thể phân chia được nó là
cơ sở, nền tảng để cấu tạo nên tất cả các sự vật hiện tượng trên thế giới này
- Thales cho rằng vật chất là nước, toàn bộ thế giới của chúng ta được
khởi nguồn từ nước. Nước là bản chất chung của tất cả mọi vật , mọi hiện tượng
trong thế giới . Mọi cái trên thế gian đều khởi nguồn từ nước và khi bị phân huỷ
lại biến thành nước.
• Đồng nhất vật chất với một số dạng cụ thể của vật chất:


=>Ví dụ:
- Ở Trung Quốc trường phái ngũ hành cho rằng vật chất chính là 5 yếu tố:
kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ và 5 yếu tố này đồng dạng với nhau, tương sinh với nhau.
+) Đặc trưng: Quan niệm duy vật mang tính trực quan, ngây thơ, chất phác
+) Giá trị: Quan điểm duy vật chất phác về cơ bản là đúng, lấy giới tự nhiên để
giải thích thế giới, không viện đến thần linh, thượng đế hay các lực lượng siêu
nhiên.
-Chủ nghĩa duy vật siêu hình:
+Ra đời vào thế kỷ 15 đến thế kỷ 19 và điển hình là CNDV Anh, Pháp, triết học
cổ điển Đức.
+) Quan điểm duy vật: Tiếp tục khẳng định quan điểm duy vật thời cổ đại, đặc
biệt chứng minh được tồn tại của nguyên tử.
+) Quan điểm vật chất: Khoa học tự nhiên phát triển, đồng nhất với một thuộc
tính của vật chất.
=>CNDV siêu hình chịu sự tác động mạnh mẽ của khoa học tự nhiên, đặc biệt

cơ học và vật lý vĩ mô, với phương pháp phân tích tạo nên tư duy siêu hình, máy
móc.
+) Giá trị: CNDV siêu hình đã góp phần vào việc đẩy lùi thế giới quan duy tâm
và tôn giáo, đặc biệt là ở thời kì chuyển tiếp từ đêm trường Trung cổ sang thời
Phục hung.
-Chủ nghĩa duy vật biện chứng:
+) Do Các Mác và Ph. Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ 19 sau
đó được V.I.Lênin bảo vệ , phát triển vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
+) Với sự kế thừa tinh hoa của học thuyết triết học trước đó và khái quát thành
tựu khoa học đương thời, thực tiễn xã hội, CNDV biện chứng đã khắc phục được
những hạn chế của CNDV trước mình.
+) CNDV biện chứng khơng những phản ánh (nhận thức) đúng hiện thực (tồn tại
khách quan) mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong
cải tạo hiện thực, thế giới.
=>CNDV biện chứng là hình thức phát triển cao nhất của CNDV (thể hiện thực
chất bước ngoặt trong lịch sử triết học do Các Mác và Ăng- ghen thực hiện)
1.2.2. Chủ nghĩa duy tâm
- Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm:
+) Những nhà triết học cho rằng: ý thức (tinh thần, ý niệm, cảm giác, tư duy) là
cái có trước, cái quyết định tính thứ nhất đổi với vật chất (giới tự nhiên, tồn tại)
được gọi là nhà triết học duy tâm.
+Học thuyết của họ hợp thành chủ nghĩa duy tâm.
-Các hình thức của chủ nghĩa duy tâm:
+) Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng: ý thức con người là cái có trước, cái
quyết định, tính thứ nhất đối với vật chất. Chủ nghĩa duy tâm khẳng định mọi sự
vật hiện tượng chỉ là phức hợp của những cảm giác.
George Berkely khẳng định nguồn gốc hoàn toàn chủ quan của mọi sự vật trong
thế giới chúng ta, coi chúng chỉ là hiện thân của cảm giác con người. Nói cách
khác, tất cả các đặc tính của sự vật khơng tồn tại khách quan chỉ tồn tại trong ý



thức con người. Bản thân toàn bộ thế giới tự nhiên được Berkely coi là tổ hợp
của cảm giác con người.
+) Chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng: tinh thần khách quan là cái có trước,
cái quyết định, tính thứ nhất đổi với vật chất. Thực tế tinh thần khách quan này
thường đc gọi bằng những cái tên khác nhau như: ý niệm, tinh thần tuyệt đối, lý
tính thế giới.
Ví dụ: G.W.F.Hegel cho rằng khởi nguyên của thế giới không phải là vật chất
mà là “ý niệm tuyệt đối” hay “tinh thần thế giới “.Ông coi tinh thần là cái có
trước, vật chất với tính cách dường như là sự thể hiện , sự biểu hiện cụ thể của
tinh thần thế giới, là cái có sau, tinh thần là đấng sáng tạo ra vật chất. Tinh thần
phong phú đa dạng của thế giới hiện thực là kết quả của sự vận động và sáng tạo
của ý niệm tuyệt đối . Tinh thần thế giới – ý niệm tuyệt đối tồn tại vĩnh viễn và
chứa đựng dưới dạng tiền năng tất cả của mọi sự vật hiện tượng tự nhiên và xã
hội. Nó là nguồn gốc và động lực của moi hiện tượng tự nhiên và xã hội.
Hay trong quan niệm về thế giới, Platon theo lập trường duy tâm khách quan,
coi mọi sự vật chỉ là hiện thân của ý niệm, là cái bóng của ý niệm. Vật chất
khơng tồn tại với ý nghĩa là nó khơng tồn tại với chân thực chứ khơng phải là
khơng có. Sự vật cảm tính chỉ có thể có ý niệm tồn tại và vật chất khơng tồn tại,
nó nằm giữa tồn tại và khơng tồn tại.
1.3. Thuyết có thể biết và thuyết không thể biết
* Việc giải quyết mặt thứ hai trong những vấn đề cơ bản của triết học là căn cứ
để phân chia các học thuyết triết học thành thuyết có thể biết, thuyết khơng thể
biế, thuyết hồi nghi.
- Thuyết có thể biết là những học thuyết khẳng định khả năng nhận thức của con
người đồi với thế giới. Đa số các nhà triết học (cả duy vật và duy tâm) đều khẳng
định con người có khả năng nhận thức được bản chất của thế giới.
Ví dụ: Ludwig Feuerbach cho rằng con người hồn tồn có khả năng nhận thức
được giới tự nhiên. Một người thì khơng thể nhận thức đầy đủ, nhưng cả lồi
người qua các thế hệ có nhận thức đầy đủ và đúng đắn.

- Thuyết không thể biết: là những học thuyết phủ định khả năng nhận thức của
con người đối với thế giới. Theo học thuyết này, con người khơng có khả năng
nhận thức được bản chất của thế giới, nếu có chỉ nhận thức được cái hiện tượng
bề ngoài.
- Thuyết hoài nghi: là những học thuyết nghi ngờ khả năng nhận thức của con
người đối với thế giới hoặc nghi ngờ những tri thức mà con người đạt được.
Ví dụ: Rene Decacto cho rằng phải coi lý tính, trí tuệ con người là tồ án thẩm định
và đánh giá mọi tri thức, quan niệm mà nhân loại đã đạt được, nghi ngờ mọi cái mà
thường ngày ta vẫn cho là đúng. Nhưng ông nhấn mạnh, nghi ngờ là để tìm ra chân
lý, đó chỉ là tiền đề chứ khơng phải là kết luận. Nhưng có một điều mà Decacto
nhấn mạnh, không thể nghi ngờ được là chính bản thân chủ thể đang nghi ngờ, đó
là chính “tơi”. Decacto đang hồi nghi sự tồn tại của tất cả nhưng ơng khơng thể
hồi nghi sự tồn tại của chính mình, vì tơi đang nghi ngờ. Nếu tơi khơng tồn tại thì
làm sao tơi lại có thể đang nghi ngờ được. Nhưng mặt khác, chính vì tơi đang nghi
ngờ thì tơi mới biết rằng mình đang tồn tại. Bởi vậy, tôi đang tồn tại là nhờ việc tôi
nghi ngờ. Mà nghi ngờ cũng là suy nghĩ, là tư duy. Do


đó “Tơi suy nghĩ, vậy tơi tồn tại (Cogito , ergo sum) là mệnh đề đúng đắn đầu
tiên mà không ai có thể nghi ngờ và bác bỏ được . Vì vậy “Cogito , ergo sum “
là điểm xuất phát của triết học Decacto . Từ đó ơng xây dựng tồn bộ tồ nhà thế
giới quan của mình như một chỉnh thể.
2- Định nghĩa vật chất của Lênin
*Định nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta
chép lại, chụp lại, phản ánh , và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
* Nội dung định nghĩa:
-Phương pháp định nghĩa:
+ Vật chất là phạm trù rộng, khái quát không thể có phạm trù rộng hơn được.
+ V.I.Lênin đã định nghĩa vật chất theo phương pháp đặc biệt , đặt phạm trù vật

chất đối lập với phạm trù ý thức.
+ Vật chất là thực tại khách quan – cái tồn tại ngồi ý thức và khơng lệ thuộc
vào ý thức.
+ Vật chất khi tác động vào các giác quan con người thì đem lại cho con người
cảm giác. Bằng cách cảm giác chép lại, chụp lại, phản ánh.
+ Ý thức là sự phản ánh vật chất, chịu sự quyết định của vật chất.
*Ý nghĩa của phương pháp luận:
-Định nghĩa vật chất của Lênin đã giải quyết hai mặt trong vấn đề cơ bản của
triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
-Định hướng của nhà khoa học đi sâu tìm hiểu thế giới vật chất, khám phá ra
những thuộc tính mới, kết cấu của vật chất, khơng ngừng làm phong phú tri thức
của con người về thế giới.
-Định nghĩa vật chất của Lênin là cơ sở khoa học cho việc xác định những biểu
hiện của vật chất trong lĩnh vực xã hội-tồn tại xã hội.
3- Nguồn gốc của ý thức
3.1. Nguồn gốc tự nhiên
- Bộ óc con người là kết cấu vật chất, cơ quan tạo nên ý thức.
- Bộ óc con người là một dạng vật chất có trình độ tổ chức cao và tinh vi.
- Bộ óc con người là kết quả lịch sử phát triển thế giới vật chất, đạt đến trình độ
phản ánh cao nhất: trình độ phản ánh-ý thức.
- Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức. Ý thức là chức năng của bộ óc con
người, chức năng của bộ óc khác với chức năng cơ quan khác của con người. Ý
thức là thuộc tính bộ óc của con người.
* Sự tác động của thế giới khách quan lên bộ não con người.
- Phản ảnh là thuộc tính có ở mọi dạng vật chất.
- Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở một hệ
thống vật chất khác trong quá trình tác động lẫn nhau.
- Có 5 cấp độ phản ánh:
+ Phản ánh vật lý, hố học
->Mang tính thụ động, chưa có sự định hướng lựa chọn, trình độ phản ánh này có

ở giới tự nhiên vơ sinh có kết cấu vật chất đơn giản.
Ví dụ: khi con người dùng lực cầm cái búa đập vào viên gạch, viên gạch vỡ tan
ra=> phản ánh lực của con người tác động và đặc tính của cái búa


Hay các ngun tố hố học vơ cơ, hữu cơ khi cho phản ứng với nhau sẽ có phản
ứng hố học xảy ra.
+) Phản ánh sinh học:
->Phản ảnh sinh học trong các cơ thể sống có định hướng, lựa chọn, giúp cho cơ
thể sống thích nghi với mơi trường đã tồn tại.
->Trình dộ phản ánh này ở giới tự nhiên hữu sinh.
->Trình độ phản ánh sinh học bao gồm nhiều hình thức cụ thể cao thấp khác
nhau, tuỳ thuộc vào mức độ hoàn thiện. đặc điểm cấu trúc của các cơ quan
chuyên trách làm chức năng phản ánh
=> Ở giới thực vật là sự kích thích: ví dụ khi ta trồng cây, ta tưới nước và phân
bón cho cây, cây sẽ sinh trưởng và phát triển ->kích thích về mặt sinh trưởng.
=> Ở giới động vât chưa có hệ thần kinh trung ương là sự phản xạ: ví dụ
biết né tránh trước tác động tiêu cực của môi trường.
=> Ở giới động vật có hệ thần kinh trung ương phát triển là tâm lý:
+) Phản ánh tâm lý ở động vật có hệ thần kinh trung ương:
->Tâm lý động vật là trình độ phản ánh của các lồi động vật, bao gồm cả phản
xạ có điều kiện và khơng có điều kiện.
Ví dụ: con chuột đang đi thấy con mèo liền chạy trốn đó là một tâm lý phản xạ
hoặc khi nghe thấy tiếng gọi mình từ phía sau, ta sẽ quay đầu lại và đó là phản xạ.
->Tâm lý động vật chưa phải là ý thức, mà đó vẫn là trình độ phản ánh mang tính
bản năng của các loài động vật, xuất phát từ nhu cầu sinh lý tự nhiên, trực tiếp của
cơ thể động vật chi phối.
+) Phản ánh ý thức:
->Là hình thức phản ánh đặc trưng chỉ có ở con người và là hình thức phản ánh
cao nhất, phản ánh mang tính sáng tạo, năng động của thế giới vật chất.

->Phản ánh ý thức chỉ có ở kết cấu vật chất là bộ não con người, cùng các giác
quan và hệ thống thần kinh.
->Ý thức là sự phản ánh có tính định hướng và mục đích, ý thức là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan.
3.2. Nguồn gốc xã hội
* Lao động
-Khái niệm: Lao động là q trình con người sử dụng cơng cụ lao động tác động
vào giới tự nhiên, cái biện chứng theo nhu cầu và mục đích của con người. -Vai
trị:
->Trong q trình lao động con người đặt ra yêu cầu phải nhận thức về thế giới
khách quan, thế giới vật chất.
->Trong con người liên tục chế tạo và sử dụng công cụ lao động mới tác động
vào thế giới khách quan, buộc nó phải bộc lộ những thuộc tính, bản chất, kết
cấu,..-> ý thức phản ánh ngày càng đầy đủ toàn diện về thế giới khách quan.
->Trong lao động do yêu cầu của lao động con người xây dựng các phương
pháp, công cụ tư duy, giúp cho ý thức ngày càng phản ánh sâu sắc về thế giới.
->Lao động đã làm nảy sinh nhu cầu giao tiếp, trao đổi kinh nghiệm giữa các
thành viên trong xã hội, xuất hiện về nhu cầu ngôn ngữ. *Ngôn ngữ


-Khái niệm: Ngơn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức, là “vỏ
vật chất” của tư duy, là hình thức biểu đạt của tư duy, là phương thức để ý thức
tồn tại với tư cách là sản phẩm xã hội – lịch sử. - Vai trị:
->Ngơn ngữ vừa là cơng cụ tư duy, vừa là phương tiện giao tiếp
->Nhờ ngơn ngữ con người có thể phản ánh khái quát, trừu tượng hoá, tách khỏi
sự vật, hiện tượng cảm tính.
->Ngơn ngữ là phương tiện để con người lưu giữ, kế thừa, truyền bá những tri
thức, kinh nghiệm phong phú của xã hội để tích luỹ qua các thế hệ, thời kỳ lịch
sử.
4-Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.

4.1. Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức.
*Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức
-Vật chất “sinh” ra ý thức, ý thức chỉ xuất hiện khi loài người xuất hiện và bộ óc
người phát triển.
-Ý thức cịn là kết quả của quá trình phản ánh hiện thực khách quan, gắn liền với
hoạt động lao động và biểu hiện thông qua ngơn ngữ. Do đó, nếu khơng có vật
chất, cụ thể là các yếu tố như bộ óc người, sự tác động của thế giới khách quan
lên bộ óc người, quá trình phản ánh, lao động và ngơn ngữ thì ý thức không thể
được sinh ra, tồn tại và phát triển.
*Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức
-Ý thức là “hình ảnh” của thế giới khách quan cho nên nội dung của nó là kết
quả của sử phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực
tiễn. *Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức
-Trên cơ sở của hoạt động thực tiễn, ý thức con người là sự phản ánh một cách
tự giác, tích cực và sáng tạo của thế giới khách quan. Do đó, hoạt động thực tiễn,
cải biến thế giới của con người là cơ sở để hình thành, phát triển ý thức.
- Ví dụ: Tình hình kinh tế của Việt Nam và những nước trên thế giới đầy khó
khăn do tác động của dịch Covid 19, thái Lan phát triển kinh tế âm 12% vì kinh
tế Thái Lan chủ yếu dựa vào du lịch, kinh tế Mỹ và các nước châu Âu cũng bị
giảm nghiêm trọng, cho nên những đối tác chiến lược của Việt Nam về kinh tế
đều đang ở tron tình trạng rất khó khăn và nền kinh tế Việt Nam cũng rất khó
khan. Các năm trước mình đều tăng đến 5; 6; 7% nhưng năm nay chúng ta tăng
trưởng kinh tế chỉ đạt được hơn 2,9%, đó là một bước tiến rất dài của Việt Nam
so với thế giới, có nước âm tới 12%. Ở Việt Nam có nhiều doanh nghiệp phá
sản, có những doanh nghiệp hoạt động cầm chừng, có những doanh nghiệp hoạt
động không liên quan đến lĩnh vực y tế nhưng thông qua cái đại dịch này họ vẫn
ăn nên làm ra thậm chí cịn tăng so với các năm trước -> điều đó chứng tỏ rằng
khó khan là khó khăn chung, là thực tại khách quan ở bên ngoài, những điều
kiện khách quan ở bên ngoài tác động vào mỗi doanh nghiệp nhưng bản thân
mỗi doanh nghiệp, mỗi cá nhân, lãnh đạo trong doanh nghiệp đó phát huy được

tính năng động sáng tạo tìm ra một phương pháp làm, một con đường mới và
cuối cùng làm cho những doanh nghiệp khơng những khơng bị ảnh hưởng mà
cịn tìm ra được cơ hội phát triển, thậm chí cịn tăng so với những năm trước.
*Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.


-Khi vật chất biến đổi thì sớm hay muộn ý thức cũng sẽ biến đổi theo. Khi đời
sống vật chất thay đổi thì đời sống tinh thần, tư tưởng, tình cảm cũng thay đổi
theo. Do đó, muồn giải thích một cách đúng đắn các hiện tượng trong đời sống
chính trị, văn hoá phải xuất phát từ hiện thực sản xuất, từ đời sống kinh tế. -Ví
dụ:
+ Lồi người ngun thuỷ sống bầy đàn dựa vào sản vật của thiên nhiên thì tư duy
của họ cũng đơn sơ, giản dị như cuộc sống của họ. Cùng với mỗi bước phát triển
của sản xuất, tư duy, ý thức của con người cũng ngày càng mở rộng, đời sống tinh
thần của con người ngày càng phong phú. Con người không chỉ ý thức được hiện
tại, mà còn ý thức được cả những vấn đề trong quá khứ và dự kiến được cả trong
tương lai, trên cơ sở khái quát ngày càng sâu sắc bản chất, quy luật vận động, phát
triển của tự nhiên, xã hội và tư duy của họ. Sự vận động, biến đổi không ngừng của
thế giới vật chất, của thực tiễn là yếu tố quyết định sự vận động, biến đổi của tư
duy, ý thức của con người. Khi sản xuất xã hội xuất hiện chế độ tư hữu, ý thức
chính trị, pháp quyền cũng dần thay thế cho ý thức quần cư, cộng đồng thời nguyên
thuỷ. Trong nền sản xuất tư bản, tính chất xã hội hố của sản xuất phát triển là cơ
sở để ý thức xã hội chủ nghĩa ra đời, mà đỉnh cao của nó là sự hình thành và phát
triển khơng ngừng lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong đời sống xã hội, vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được biểu
hiện ở vai trò của kinh tế đối với chính trị, đời sống vật chất đối với đời sống
tinh thần, tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội. Trong xã hội, sự phát triển của
kinh tế xét đến cùng quy định sự phát triển của văn hóa; đời sống vật chất thay
đổi thì sớm muộn đời sống tinh thần cũng thay đổi theo.
+ Do các phương tiện hiện đại vui chơi giải trí, mạng xã hội, cơ sở vật chất nhà

trường chưa đáp ứng, môi trường xã hội,..(vật chất)=> một bộ phận không nhỏ
sinh viên chưa tích cực học tập, nghiên cứu(ý thức).
4.2.Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
*Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự phản ánh
thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi đã ra
đời thì ý thức có “đời sống riêng”, có quy luật vận động, phát triển riêng, khơng lệ
thuộc một cách máy móc vào vật chất. Ý thức một khi ra đời thì có tính độc lập
tương đối, tác động trở lại thế giới vật chất. Ý thức có thể thay đổi nhanh, chậm,
đi song hành so với hiện thực, nhưng nhìn chung nó thường thay đổi chậm so
với sự biến đổi của thế giới vật chất.
*Thứ hai, Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực
tiễn của con người. Nhờ họat đông thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những
điều kiện, hồn cảnh vật chất, thậm chí cịn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ cho
cuộc sống của con người. Còn tự bản thân ý thức thì khơng thể biến đổi được hiện
thực. Con người dựa trên những tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết những
quy luật khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí quyết
tâm để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Đặc biệt là ý thức tiến bộ, cách
mạng một khi thâm nhập vào quần chúng nhân dân – lực lượng vật chất xã hội, thì
có vai trị rất to lớn. "Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự
phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng


lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi
nó thâm nhập vào quần chúng".
*Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của
con người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai,
thành công hay thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức có thể dự báo, tiên
đốn một cách chính xác cho hiện thực, có thể hình thành nên những lý luận
định hướng đúng đắn và những lý luận này được đưa vào quần chúng sẽ góp
phần động viên, cổ vũ, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo, từ đó sức mạnh vật

chất được nhân lên gấp bội. Ngược lại, ý thức có thể tác động tiêu cực khi nó
phản ánh sai lạc, xuyên tạc hiện thực.
*Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là
trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong bối cảnh tồn cầu hóa, vai trị của tri
thức khoa học, của tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.
Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn, nhưng nó khơng thể vượt
quá tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều
kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động. Nếu quên điều
đó chúng ta sẽ lại rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa chủ quan, duy tâm, duy ý chí,
phiêu lưu và tất nhiên khơng tránh khỏi thất bại trong hoạt động thực tiễn.
4.3.Ý nghĩa phương pháp luận
-Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác - Lênin, rút ra
nguyên tắc phương pháp luận là tơn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính
năng động chủ quan. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương,
đường lối, kế hoạch, mục tiêu, chúng ta đều phải xuất phát từ thực tế khách
quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Phải tơn trọng và hành động
theo qui luật khách quan, nếu không làm như vậy, chúng ta sẽ phải gánh chịu
những hậu quả tai hại khôn lường. Nhận thức sự vật hiện tượng phải chân thực,
đúng đắn, trách tô hồng hoặc bôi đen đối tượng, không được gán cho đối tượng
cái mà nó khơng có. Văn kiện Đại hội XII chủ trương phải nhìn thẳng vào sự
thật, phản ánh đúng sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Nhận thức, cải
tạo sự vật hiện tượng, nhìn chung, phải xuất từ chính bản thân sự vật hiện tượng
đó với những thuộc tính, mối liên hệ bên trong vốn có của nó. Cần phải tránh
chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí; chủ nghĩa duy vật tầm thường,
chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khách quan.
-Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con
người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính
sáng tạo; phải coi trọng vai trị của ý thức, coi trọng công tác tư tưởng và giáo dục

tư tưởng, coi trọng giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đồng thời, phải giáo dục và nâng cao trình độ tri thức khoa học, củng cố, bồi
dưỡng nhiệt tình, ý chí cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nói chung,
nhất là trong điều kiện nền văn minh trí tuệ, kinh tế tri thức, tồn cầu hố hiện nay;
coi trọng việc giữ gìn, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên, bảo đảm
sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học.


-Để thực hiện ngun tắc tơn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng
động chủ quan, chúng ta còn phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các quan hệ
lợi ích, phải biết kết hợp hài hịa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội;
phải có động cơ trong sáng, thái độ thật sự khách quan, khoa học, không vụ lợi
trong nhận thức và hành động của mình.
5.Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
5.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
*Khái niệm về mối liên hệ:
- Khái niệm mối liên hệ: Là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc
tương hỗ, quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một đối
tượng hoặc giữa các đối tượng với nhau. Liên 104 hệ là quan hệ giữa hai đối tượng
nếu sự thay đổi của một trong số chúng nhất định làm đối tượng kia thay đổi.
Ngược lại, cô lập (tách rời) là trạng thái của các đối tượng, khi sự thay đổi của đối
tượng này khơng ảnh hưởng gì đến các đối tượng khác, khơng làm chúng thay
đổi.
+ Ví dụ: Mối liên hệ giữa các cơ quan trong cơ thể con người, giữa đồng hoá và
dị hoá trong cơ thể sinh vật, mối liên hệ giữa các lĩnh vực chính trị- kinh tế, văn
hoá….
- Khái niệm mối liên hệ phổ biến: dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ,
chỉ những mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới.
*Tính chất của mối liên hệ phổ biến:
- Tính khách quan: Mối liên hệ là cái vốn có của bản thân sự vật, hiện tượng

khơng phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Con người có thể nhận
thức và vận động các dạng mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
Mối liên hệ mang tính khách quan, con người khơng thể sáng tạo ra mối liên hệ
đó mà chỉ có thể nhận thức, tác động.
+ Ví dụ: Mối liên hệ giữa con mèo(cái riêng) với q trình đồng hố và dị hoá,
quy luật sinh học: sinh ra-lớn lên-già yếu-chết đi….(những cái chung)=>nếu
tách ra khỏi các mối liên hệ đó thì con vật sẽ chết đi hay một cái cây muốn sinh
trưởng và phát triển được nó phải liên hệ với các yếu tố khác như đất, nước,
khơng khí… đều mang tính khách quan mà con người đều khơng tạo ra được các
mối liên hệ đó.
- Tính phổ biến: Mối liên hệ không chỉ diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng trong tự
nhiên, xã hội, tư duy mà còn diễn ra giữa các mặt, các yếu tố, các quá trình của
một sự vật, hiện tượng.
+ Ví dụ: những sự vật, hiện tượng trong quá khứ có mối liên hệ chặt chẽ với nhau
ở hiện tại và tương lai
- Tính đa dạng, phong phú: Mỗi sự vật, hiện tượng khác nhau thì mối liên hệ khác
nhau, một sự vật, hiện tượng có nhiều mối liên hệ khác nhau(bên trong-bên ngồi,
chủ yếu-thứ yếu, cơ bản- khơng cơ bản..), chúng giữ vị trí, vai trò khác nhau đối
với sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng; một mối liên hệ trong những điều
kiện và hồn cảnh khác nhau thì tính chất, vai trị cũng khác nhau.
+ Ví dụ: Cây xanh có lồi cần nhiều nước, có lồi cần ít nước hay mối quan hệ
giữa thầy-trò, giữa các thế hệ trong gia đình ở phương Đơng và phương Tây
cũng khác nhau..=> mối liên hệ có tính đa dạng và phong phú.


*Ý nghĩa phương pháp luận: Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến rút ra nguyên
tắc toàn diện
-Thứ nhất, khi nghiên cứu, xem xét sự vật, hiện tượng cụ thể, cần đặt nó trong
chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính,
các mối liên hệ của chỉnh thể đó.

-Thứ hai, chủ thể phải rút ra được các mặt, các mối liên hệ mang tính cơ bản,
chủ yếu và nhận thức chúng trong sự thống nhất hữu cơ nội tại của bản thân sự
vật, hiện tượng. Chỉ có như vậy, trong q trình nhận thức, chúng ta mới có thể
phản ánh được đầy đủ sự tồn tại khách quan với nhiều thuộc tính, nhiều mối liên
hệ cũng như sự tác động qua lại của các sự vật, hiện tượng.
-Thứ ba, cần xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ với các sự vật, hiện
tượng khác, với môi trường xung quanh, kể cả các mối liên hệ trung gian, gian
tiếp trong không gian, thời gian nhất định, trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể, tức cần nghiên cứu cả những mối liên hệ của sự vật, hiện tượng trong quá
khứ, hiện tại và phán đốn cả tương lai của nó.
-Thứ tư, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, thuật nguỵ biện
và chủ nghĩa chiết trung.
5.2. Nguyên lý về sự phát triển
*Khái niệm: Phát triển là phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động từ
thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, từ chất cũ đến chất mới ở
trình độ cao hơn.
Phát triển là dạng của vận động, không phải mọi sự vận động đều là phát triển,
mà chỉ vận động theo xu hướng đi lên mới được gọi là phát triển. Do đó phát
triển chính là sự ra đời của cái mới, cái cách mạng và phù hợp thay thế cho cái
cũ, cái đã lỗi thời, lạc hậu, khơng cịn phù hợp.
Ví dụ: +) sự phát triển của cơng cụ lao động: đầu tiên là que củi – sau đó đến đồ
đá – đồ đồng và ngày nay là quá trình tự động hố, điều khiển hố ở nền sản
xuất hiện đại.
+) Hay sự phát triển của cơng nghiệp hố – hiện đại hố trong các lĩnh vực như:
trong nơng nghiệp, áp dụng công nghệ sinh học và công nghệ hiện đại vào các
khâu sản xuất nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản
phẩm trên thị trường…
*Tính chất của sự phát triển:
-Tính khách quan: Nguồn gốc của sự phát triển nằm trong chính bản thân sự vật,
hiện tượng, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Ví dụ: sự

phát triển về trọng lượng cơ thể của một con người
-Tính phổ biến: Sự phát triển diễn ra trong mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên,
xã hội và tư duy.
Ví dụ: Trong tự nhiên sự phát triển của thực vật-> động vật-> con người; hay sự
phát triển của các chế độ xã hội lồi người từ cộng sản ngun thuỷ-> chiếm hữu
nơ lệ-> phong kiến-> tư bản chủ nghĩa-> xã hội chủ nghĩa; sự phát triển về nhận
thức con người từ nhận thức đơn giản đến nhận thức phức tạp, trừu tượng…
-Tính kế thừa: Sự phát triển có tính kế thừa, sự vật, hiện tượng mới ra đời không
thể là sự phủ định tuyệt đối, phủ định sạch trơn, đoạn tuyệt một cách siêu hình đối
với sự vật, hiện tượng cũ. Sự vật, hiện tượng mới ra đời từ sự vật, hiện tượng cũ,


chứ khơng phải ra đời từ hư vơ, vì vậy trong sự vật, hiện tượng mới cịn giữ lại,
có chọn lọc và cải tạo các yếu tố còn tác dụng, cịn thích hợp với chúng, trong
khi vẫn gạt bỏ mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của sự vật, hiện tượng cũ đang gây
cản trở sự vật mới tiếp tục phát triển.
Ví dụ: Hồ Chí minh đã kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp cảu dận tộc,
tinh hoa văn hố nhân loại cả phương Đơng và phương Tây và chủ nghĩa MacLênin để hình thành nên tư tưởng của mình
Hay sự ra đời của học thuyết Mac là sự kế thừa của 3 tiền đề lý luận là triết học
cổ điển Đức, kinh tế chính trị học cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội khơng tưởng
Pháp
-Tính đa dạng, phong phú: Sự phát triển có tính đa dạng, phong phú; tuy sự phát
triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy, nhưng mỗi sự vật,
hiện tượng lại có q trình phát triển khơng giống nhau. Tính đa dạng và phong
phú của sự phát triển cịn phụ thuộc vào khơng gian và thời gian, vào các yếu tố,
điều kiện tác động lên sự phát triển đó...
Ví dụ: Sự phát triển của cây ưa bóng khác với sự phát triển của cây ưa sáng, sự
phát triển của các nước đang phát triển ở thế kỷ 21 khác với sự phát triển của
các nước đang phát triển ở thế kỷ trước…
*Ý nghĩa của phương pháp luận: Từ nguyên lý về sự phát triển rút ra nguyên tắc

phát triển
-Thứ nhất, luôn đặt sự vật, hiện tượng trong sự vận động, phát hiện xu hướng
vận động của nó để khơng chỉ nhận thức nó ở trạng thái hiện tại, mà còn dự báo
được khuynh hướng phát triển của nó trong tươn lai.
Ví dụ: Việc lựa chọn ngành để học đại học của học sinh không chỉ nhận thức về
xu hướng, cơ hội việc làm của ngành đó ở hiện tại mà cần dự đoán trước được
xu hướng, cơ hội việc làm của ngành đó trong tương lai.
-Thứ hai, cần nhận thức phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, mối giai
đoạn có đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm phương pháp tác
động phù hợp để hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển đó.
-Thứ ba, phải sớm phát hiện và ủng hộ cái mới, cái hợp quy luật, tạo điều kiện
cho nó phát triển, chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến.
-Thứ tư, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện cái mới phải biết kế thừa những
mặt, những yếu tố tích cực, phù hợp của cái cũ và phát triển sáng tạo chúng
trong những điều kiện mới.
6. Phạm trù cái riêng và cái chung
*Khái niệm:
-Cái riêng: Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện
tượng nhất định
-Cái chung: là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính
khơng những có ở một sự vật, hiện tượng mà cịn lặp lại trong nhiều sự vật, hiện
tượng khác nữa.
-Cái đơn nhất: là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, các thuộc tính, đặc
điểm chỉ có ở một sự vật, hiện tượng nào đó mà khơng lặp lại ở một sự vật, hiện
tượng nào khác.
*Mối liên hệ giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất


- Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn
tại của nó, nó khơng tồn tại biệt lập, tách rời cái riêng (tức là cái chung không

tách rời mỗi sự vật, hiện tượng riêng lẻ).
+) Ví dụ: Các bộ phận trong cơ thể động vật như hệ tuần hồn, hệ hơ
hấp,..(những cái chung) nhưng nó phải thơng qua những con vật cụ thể như con
mèo, con gà, con chó..(cái riêng) để biểu hiện sự tồn tại của nó.
- Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung; khơng có cái riêng tồn
tại độc lập tuyệt đối tách rời cái chung.
+) Ví dụ: Các chế dộ kinh tế - chính trị riêng biệt đều bị chi phối bởi các quy
luật chung của xã hội như quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản
xuất.
- Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú, đa dạng hơn cái chung; còn cái chung là
cái bộ phận nhưng sâu sắc, bản chất hơn cái riêng.
+) Ví dụ: Người nơng dân Việt Nam ngồi đặc điểm chung giống với những
người nơng dân trên thế giới là tư hữu nhỏ, sản xuất lẻ tẻ, sống ở nơng thơn cịn
có những đặc điểm riêng là chịu ảnh hưởng của làng xã, có tập quán lâu đời, mỗi
vùng miền lại có những đặc điểm khác nhau. Cái chung sâu sắc hơn vì dù ở đâu,
nơng dân Việt Nam cũng đều cần cù lao động, chịu thương chịu khó.
- Cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa lẫn nhau trong những điều kiện xác
định. Cái chung chuyển hóa thành cái đơn nhất khi nó là cái đã cũ, lỗi thời, lạc hậu
và khơng cịn phù hợp. Cái đơn nhất chuyển hóa thành cái chung khi nó là cái tiến
bộ, cách mạng và ngày càng trở nên phù hợp với quy luật khách quan.
+) Ví dụ: Một sáng kiến của một nhà khoa học nào đó lúc đầu là cái đơn nhất sau đó
được nhiều người học tập trở thành cái phổ biến. Hay vận động cơ chế thị trường ở
Việt Nam lúc đầu mới là tư tưởng chỉ đạo áp dụng ở một số ngành kinh tế sau đó áp
dụng chung cho tất cả các ngành kinh tế.

*Ý nghĩa phương pháp luận:
-Vì cái chung là chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng, thông qua cái riêng nên
khi xây dựng cái chung chúng ta phải xuất phát từ mỗi cái riêng, đồng thời cũng không
thể xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người. Tránh tuyệt đối hoá cái chung, xa rời
cái riêng.

Ví dụ: Khi chúng ta muốn xây dựng chính sách phát triển chung cho các công ty vừa
và nhỏ thì chúng ta cần khảo sát từng doanh nghiệp cụ thể thì mới có thể đưa ra được
cái chung, đưa ra chính sách đó nhằm thúc đẩy sự phát triển cho các doanh nghiệp vừa
và nhỏ.
-Vì cái riêng gắn bó chặt chẽ với chung, khơng tồn tại ở bên ngồi mối liên hệ dẫn đến
cái chung cho nên để giải quyết cái riêng cũng cần phải gắn với cái chung. Tránh tuyệt
đối hoá cái riêng coi thường cái chung, tránh chủ nghĩa cá nhân cực đoan, tư tưởng địa
phương, cục bộ.
Ví dụ: Việc lạm phát điểm ở Sơn La, Hà Giang, ..(cái riêng từng địa phương) nhưng
để giải quyết triệt để nó thì cịn phải gắn liền với hệ thống giáo dục ( cái chung) bởi vì
để nảy sinh ra cái tiêu cực ở địa phương đó, trường đó nó liên quan tới góc độ tổ chức,
tới sự giám sát kì thi THPTQG mà dẫn tới sự việc đó nên khi giải quyết là giải quyết
tứng cái riêng của trường đó của địa phương đó nhưng nó vẫn phải gắn với cái chung,
gaiir quyết bài toán chung của hệ thống giáo dục Việt Nam.
-Vì cái đơn nhất có thể chuyển hoá thanh cái chung và ngược lại nên cần phát hiện, tạo
điều kiện cho cái dơn nhất, cái mới, cái tiến bộ và tích cực phát triển, phổ biến thành


cái chung, đồng thời cần hạn chế, đấu tranh loại bỏ, thủ tiêu những cái chung đã
cũ, lạc hâu, không còn phù hợp.

7. Phạm trù nguyên nhân và kết quả
*Khái niệm:

- Nguyên nhân: Là phạm trù dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt
trong một sự vật, hiện tượng với nhau gây ra sự biến đổi nhất định
- Kết quả: Là phạm trù dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn
nhau giữa các mặt, các yếu tố trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật,
hiện tượng với nhau.
Ví dụ: Không học bài là nguyên nhân dẫn đến điểm

kém. *Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả.
- Thứ nhất, nguyên nhân sản sinh ra kết quả nên nguyên nhân bao giờ cũng có
trước kết quả, kết quả chỉ xuất hiện khi có nguyên nhân gây ra, kết quả bao giờ
cũng có sau.
Ví dụ:
+) câu tục ngữ: Khơng có lửa làm sao có khói.
+) Bão (xuất hiện trước) là nguyên nhân dẫn đến sự thiệt hại của hoa màu, mùa
màng(xuất hiện sau)
-Thứ hai, mối quan hệ nhân – quả là mối liên hệ mang tính phức tạp, thể hiện
một nguyên nhân có thể sinh ra một hoặc nhiều kết quả vì một kết quả có thể do
một hoặc nhiều ngun nhân sinh ra. Nguyên nhân có nhiều loại: nguyên nhân
cơ bản và nguyên nhân không cơ bản, bên trong và bên ngồi, chủ yếu và thứ
yếu,… Mỗi loại có vị trí và vai trị khác nhau đối với kết quả.
Ví dụ: Thầy(cô) giáo truyền đạt kiến thức cho học sinh. Cùng một nguyên nhân
như vậy nhưng lại dẫn đến nhiều kết quả khác nhau đối với từng học sinh, sinh
viên: có học sinh, sinh viên đạt kết quả tốt, có người đạt kết quả trung binh hay
cũng có học sinh, sinh viên đạt kết quả kém.
-Thứ ba, nguyên nhân và kết quả chuyển hoá lẫn nhau, trong mối liên hệ này sự
vật, hiện tượng đóng vai trị là ngun nhân nhưng trong mối liên hệ khác nó lại
là kết quả. Do đó, mối liên hệ nhân quả là một chuỗi vô cùng, vô tận, sẽ không
thể xác định được đâu là nguyên nhân đàu tiên và đâu là kết quả cuối cùng.
Ví dụ: Sự phát triển của vật chất là nguyên nhân sinh ra tinh thần, nhưng tinh
thần lại trở thành nguyên nhân làm biến đổi vật chất.
-Thứ tư, kết quả có thể tác động trở lại nguyên nhân. Kết quả sau khi ra đời
không phải là thụ động, trái lại nó có thể tác động trở lại nguyên nhân.
*Ý nghĩa phương pháp luận:
- Trong nhận thức và thực tiễn cần tơn trọng tính khách quan của mối liên hệ
nhân quả, không được lấy ý muốn chủ quant hay cho quan hệ nhân quả.
- Muốn tạo ra kết quả tốt cần phải tạo điều kiện cho những nguyên nhân tích
cực, phù hợp, đồng thời đấu tranh loại bỏ những nguyên nhân tiêu cực,

khơng phù hợp tác động đến q trình ra đời của kết quả.
- Vì một ngun nhân có thể dẫn đến nhiều kết quả và ngược lại, nên trong nhận
thức và thực tiễn cần phải có cái nhìn tồn diện và lịch sử - cụ thể trong phân
tích, gaiir quyết và vận dụng quan hệ nhân – quả, tập trung giải quyết những


nguyên nhân cơ bản, bên trong, chủ yếu tác động trực tiếp tới sự ra đời của kết
quả.
- Vì kết quả có thể tác động trở lại nguyên nhân nên cần làm tốt công tác tổng
kết, đánh giá, rút kinh nghiệm, phát huy những kết quả tích cực.
8. Phạm trù nội dung và hình thức
* Khái niệm:
- Phạm trù nội dung dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố,
những quá trình tao nên sự vật, hiện tượng.
- Phạm trù hình thức dùng để chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vật,
hiện tượng đó, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố
của nó.
* Quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
- Nội dung và hình thức là hai phương diện cấu thành nên mỗi sự vật, hiện
tượng, khơng có sự vật, hiện tuwongj nào tồn tại mà chỉ có nội dung mà khơng
có hình thức nhất định.
- Cùng một nội dung nhưng có thể có những phuwong thức kết hợp khác
nhau, ngược lại, các nội dung khác nhau nhưng có thể có sự đồng dạng về
phương thức kết hợp giữa chúng.
- Nội dung quyết điinhj hình thức nhưng hình thức có tính độc lập tương đối và
tác động trở lại nội dung. Hình thức ohuf hợp với nội dung thì sẽ thúc đẩy nội
dung phát triển và ngược lại.
* Ý nghĩa phương pháp luận
-Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, không được tách rời giữa nội dung và
hình thức, hoặc tuyệt đối hóa một trong hai mặt đó.

-Nội dung quyết định hình thức nên khi xem xét sự vật, hiện tượng thì trước hết
phải căn cứ vào nội dung. Muốn thay đổi sự vật, hiện tượng thì trước hết phải thay
đổi nội dung của nó.
-Trong thực tiễn cần phát huy tác động tích cực của hình thức đối với nội dung
trên cơ sở tạo ra tính phù hợp của hình thức với nội dung; mặt khác, cũng cần
phải thực hiện những thay đổi đối với những hình thức khơng cịn phù hợp với
nội dung, cản trở sự phát triển của nội dung.
9. Quy luật lượng – chất
*Vai trò: Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triên,
sự thay đổi về lượng đạt đến giới hạn nhất định sẽ dấn đến thay đổi về chất.
*Nội dung quy luật:
- Khái niệm về chất:
+ Chất là khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật,
hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, yếu tố tạo nên sự vật,
hiện tượng làm cho sự vật hiện tượng là nó mà khơng phải là sự vật, hiện tượng
khác.
Ví dụ: Nước khơng màu, không mùi, không vị. Hay con người được phân biệt
với con vật ở tính có ý thức.
+ Đặc điểm cơ bản của chất là nó thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật,
hiện tượng, nghĩa là khi nó chưa chuyển hố thành sự vật, hiện tượng khác thì
chất của nó vẫn chưa thay đổi gì. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có q trình tồn tại,


phát triển qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại có những biểu hiện về chất khác
nhau. Do đó, một sự vật, hiện tượng khơng chỉ có một chất mà có thể có nhiều
chất.
Ví dụ: khi đến trường chất của sinh viên là sinh viên, khi về nhà trong quan hệ
với cha mẹ, ông bà chất của sinh viên là con, là cháu
+ Chất của sự vật được biểu hiện qua những thuộc tính của nó. Trong đó có
thuộc tính cơ bản và thuộc tính khơng cơ bản nhưng chỉ những thuộc tính cơ bản

mới tạo thành chất của sự vật. Tuy nhiên sự phân chia thuộc tính thành cơ bản
và khơng cơ bản cũng chỉ mang tính tương đối.
+ Chất của sự vật, hiện tượng không những được quy định bởi những yếu tố
tạo thành mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là
bởi kết cấu của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: kim cương và than chì đều có cùng thành phần hóa học
do các nguyên tố các bon tạo nên nhưng do phương thức liên kết giữa
các nguyên tử các bon là khác nhau, vì thế chất của chúng hồn tồn
khác nhau. Kim cương rất cứng, cịn than chì lại mềm.
+ Chất cịn là thuộc tính giúp cho con người nhận diện, phân biệt được sự vật,
hiện tượng.
-Khái niệm về lượng:
+ Lượng là khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách qaun vốn có của sự vật,
hiện tượng được biểu hiện về mặt số lượng, kích thước, quy mơ, trình độ, nhịp
điệu, màu sắc..
+ Đặc điểm cơ bản của lượng là tính khách quan vì nó là một dạng biểu hiện của
vật chất, chiếm một vị trí nhất định trong khơng gian và tồn tại trong thời gian
nhất định. Trong sự vật, hiện tượng có nhiều loại lượng khác nhau; có lượng là
yếu tố quy định bên trong, có lượng chỉ thể hiện yếu tố bên ngoài của sự vật,
hiện tượng; sự vật, hiện tượng càng phức tạp thì lượng của chúng cũng phức tạp
theo. Trong tự nhiên và phần nhiều trong xã hội, lượng có thể đo, đếm được;
nhưng trong một số trường hợp của xã hội và nhất là trong tư duy lượng khó đo
được bằng số liệu cụ thể mà chỉ có thể nhận biết được bằng năng lực trừu tượng
hóa.
*Mối quan hệ giữa chất và lượng
- Từ những thay đổi về lượng dẫn đến những sự chuyển hoá về chất
Mọi sự vật hiện tượng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng. Trong
đó chất tương đối ổn định, lượng thường xuyên biến đổi.Mọi sự vận động,
phát triển luôn bắt đầu từ sự thay đổi về lượng dẫn đến chuyển hố về chất.
Q trình thay đổi của lượng diễn ra theo xu hướng hoặc tăng hoặc giảm nhưng

không lập tức dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng; chỉ khi nào
lượng thay đổi đến giới hạn nhất định (đến độ) mới dẫn đến sự thay đổi về chất.
+ Độ: Là khái niệm dùng để chỉ khoảng giới hạn mà ở đó sự thay đổi về lượng
chưa đủ để dẫn đến sự thay đổi căn bản về chất của sự vật, hiện tượng.
+ Điểm nút: là điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ để dẫn tới sự
thay đổi về chất tại thời điểm đó.


+ Bước nhảy: Là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa cơ bản về chất của
sự vật, hiện tượng do những thay đổi về lượng trước đó gây ra, là bước ngoặt cơ
bản trong sự biến đổi về lượng. Bước nhảy kết thúc một giai đoạn biến đổi về
lượng, là sự gián đoạn trong quá trình vận động liên tục của sự vật,
hiện tượng.
Ví dụ: Xét nước nguyên chất, trong điều kiện bình thường thì nước ở trạng thái
lỏng (chất) được quy định bởi lượng nhiệt độ từ 0 đến 100 độ C (độ). Khi
lượng biến thiên nằm ngoài khoảng giới hạn 0 độ C hoặc 100 độ C (điểm nút)
thì sẽ xảy ra quá trình biến đổi trạng thái của nước từ trạng thái lỏng sang trạng
thái rắn hoặc trạng thái khi (bước nhảy)
+ Căn cứ vào quy mơ và nhịp độ của bước nhảy, có bước nhảy toàn bộ và bước
nhảy cục bộ. Bước nhảy toàn bộ làm cho tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố...
của sự vật, hiện tượng thay đổi. Bước nhảy cục bộ chỉ làm thay đổi một số mặt,
một số yếu tố, một số bộ phận... của chúng. Sự phân biệt bước nhảy tồn bộ hay
cục bộ chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi chúng đều là kết quả của quá trình thay
đổi về lượng.
+ Căn cứ vào thời gian của sự thay đổi về chất và dựa trên cơ chế của sự thay
đổi đó, có bước nhảy tức thời và bước nhảy dần dần. Bước nhảy tức thời làm
chất của sự vật, hiện tượng biến đổi mau chóng ở tất cả các bộ phận của nó.
Bước nhảy dần dần là quá trình thay đổi về chất diễn ra bằng cách tích luỹ dần
những yếu tố của chất mới và loại bỏ dần các yếu tố của chất cũ, trong trường
hợp này sự vật, hiện tượng biến đổi chậm hơn.

-Khi chất mới ra đời quy định một lượng mới tương ứng với nó. Lượng mới này
vận động và biến đổi trong một khoảng giới hạn mới được gọi là độ mới. Khi
tích luỹ đủ về số lượng sẽ đạt tới điểm nút mới, đồng thời thực hiện bước nhảy
mới cho ra đời một chất mới hơn nữa. Quá trình này diễn ra có tính liên tục, vơ
cùng, vơ tận.
Ví dụ: Nước, sau khi sơi, bốc hơi, thì tốc độ vận động của phân tử hơi nước tăng
lên gấp bội so với tốc độ vận động cảu phân tử nước.
*Ý nghĩa phương pháp luận
- Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết tích luỹ
về lượng để có biến đổi về chất; khơng được nơn nóng cũng như khơng được
bảo thủ. Bước nhảy làm cho chất mới ra đời, thay thế chất cũ là hình thức tất
yếu của sự vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng; nhưng sự thay đổi
về chất do thực hiện bước nhảy gây nên chỉ xảy ra khi lượng đã thay đổi đến
giới hạn, tức là đến điểm nút, đến độ nên muốn tạo ra bước nhảy thì phải thực
hiện q trình tích luỹ về lượng.
Ví dụ: Xã hôi phong kiến – xã hội chủ nghĩa – cộng sản Việt Nam
- Thứ hai, khi lượng đã đạt đến điểm nút thì thực hiện bước nhảy là yêu cầu
khách quan của sự vận động của sự vật, hiện tượng; tư tưởng nơn nóng thường
biểu hiện ở chỗ khơng chú ý thỏa đáng đến sự tích luỹ về lượng mà cho rằng, sự
phát triển của sự vật, hiện tượng chỉ là những bước nhảy liên tục; ngược lại, tư
tưởng bảo thủ thường biểu hiện ở chỗ không dám thực hiện bước nhảy, coi sự
phát triển chỉ là những thay đổi về lượng. Do vậy, cần khắc phục cả hai biểu
hiện trên.


Ví dụ: tình bạn - tình u – hơn nhân
- Thứ ba, sự tác động của quy luật này đòi hỏi phải có thái độ khách quan, khoa
học và quyết tâm thực hiện bước nhảy; tuy đều có tính khách quan, nhưng quy
luật xã hội chỉ diễn ra thông qua hoạt động có ý thức của con người; do vậy, khi
thực hiện bước nhảy trong lĩnh vực xã hội, tuy vẫn phải tuân theo điều kiện

khách quan, nhưng cũng phải chú ý đến điều kiện chủ quan. Nói cách khác,
trong hoạt động thực tiễn, không những cần xác định quy mô và nhịp điệu bước
nhảy một cách khách quan, khoa học, chống giáo điều, rập khn, mà cịn phải
có quyết tâm và nghị lực để thực hiện bước nhảy khi điều kiện đã chín muồi,
chủ động nắm bắt thời cơ thực hiện kịp thời bước nhảy khi điều kiện cho phép,
chuyển thay đổi mang tính tiến hóa sang thay đổi mang tính cách mạng.
- Thứ tư, quy luật yêu cầu phải nhận thức được sự thay đổi về chất còn phụ
thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng; do
đó, phải biết lựa chọn phương pháp phù hợp để tác động vào phương thức liên
kết đó trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật của chúng.
Ví dụ: muốn duy trì nước ở thể lỏng cần để nước trong khoảng giới hạn là
010. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
*Vai trò: Quy luật thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập thể hiện bản chất, là
hạt nhân của phép biện chứng duy vật, bởi nó đề cập tới vấn đề cơ bản và quan
trọng nhất của phép biện chứng duy vật - vấn đề nguyên nhân, động lực của sự
vận động, phát triển.
* Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập

- Mâu thuẫn biện chứng là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ, tác động theo cách
vừa thống nhất, vừa đấu tranh; vừa đòi hỏi, vừa loại trừ, vừa chuyển hóa lẫn
nhau giữa các mặt đối lập. Yếu tố tạo thành mâu thuẫn biện chứng là các mặt
đối lập, các bộ phận, các thuộc tính... có khuynh hướng biến đổi trái ngược
nhau, nhưng cùng tồn tại khách quan trong mỗi sự vật, hiện tượng của tự nhiên,
xã hội và tư duy. Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với
nhau, vừa đấu tranh lẫn nhau tạo nên trạng thái ổn định tương đối của sự vật,
hiện tượng.
Ví dụ: Mối liên hệ thống nhất, đấu tranh và chuyển hoá giữa đồng hoá và dị hoá
trong cơ thể sinh vật. Đồng hố là q trình tổng hợp chất sống đặc trưng của cơ
thể từ những chất đơn giản, đồng thời tích luỹ năng lượng. Dị hố là quá trình

phân huỷ một phần các chất sống phức tạp trong cơ thể thành các sản phẩm đơn
giản đồng thời giải phóng năng lượng như q trình oxi hố, chuyển hoá của các
chất hữu cơ phức tạp để sinh ra năng lượng, cung cấp cho tất cả các hoạt động
sống của cơ thể.
+ Thống nhất giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ giữa các
mặt đối lập và được thể hiện:
• Thứ nhất, giữa các mặt đối lập cần đến nhau, nương tựa vào nhau, làm
tiền đề cho nhau tồn tại, khơng có mặt này thì khơng có mặt kia.
• Thứ hai, các mặt đối lập tác động ngang nhau, cân bằng nhau thể hiện sự
đấu tranh giữa cái mới đang hình thành với cái cũ chưa mất hẳn.


• Thứ ba, giữa các mặt đối lập có sự tương đồng, đồng nhất do trong các
mặt đối lập còn tồn tại những yếu tố giống nhau. Sự đồng nhất của các
mặt đối lập luôn bao hàm sự khác nhau, đối lập.
=>Ví dụ: trong cơ thể sinh vật có q trình đồng hố thì phải có q trình dị
hố nếu chỉ tồn tại q trình đồng hố thì sinh vật sẽ chết.
+ Đấu tranh giữa các mặt đối lập dùng để chỉ khuynh hướng tác động qua lại, bài
trừ, phủ định lẫn nhau giữa các mặt đối lập và sự tác động đó cũng khơng tách
rời sự khác nhau, thống nhất, đồng nhất giữa chúng trong một mâu thuẫn.
+ Sự thống nhất các mặt đối lập chỉ tồn tại trong trạng thái đứng im tương đối
của sự vật, hiện tượng; cịn đấu tranh có tính tuyệt đối, nghĩa là đấu tranh phá vỡ
sự ổn định tương đối của chúng dẫn đến sự chuyển hóa về chất của chúng. Tính
tuyệt đối của đấu tranh gắn với sự tự thân vận động, phát triển diễn ra không
ngừng của sự vật, hiện tượng.
+ Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi lĩnh vực của thế giới và vô cùng đa
dạng. Sự đa dạng đó phụ thuộc vào đặc điểm của các mặt đối lập, vào điều kiện
mà trong đó sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập triển khai, vào trình độ tổ
chức của sự vật, hiện tượng mà trong đó mâu thuẫn tồn tại. Mỗi loại mâu thuẫn
có đặc điểm riêng và có vai trị khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của sự

vật, hiện tượng.
*Phân loại
-Căn cứ vào sự phát triển và tồn tại của toàn bộ sự vật, hiện tượng: mâu thuẫn cơ
bản và mâu thuẫn khơng cơ bản
- Căn cứ vào vai trị của mẫu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật,
hiện tượng: mẫu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
- Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập trong một sự vật, hiện tượng hoặc
giữa các sự vật, hiện tượng với nhau: mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên
ngồi.
- Căn cứ vào tính chất đối lập nhau về lợi ích giữa các giai cấp trong xã hội
có đối kháng giai cấp: mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn khơng đối kháng.
*Vai trị của mâu thuẫn đối với sự vận động và phát triển, Ph.Ăngghen nhấn
mạnh, nguyên nhân chính cũng là nguyên nhân cuối cùng tạo nên nguồn gốc của
sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng là sự tác động (theo hướng phủ
định, thống nhất) lẫn nhau giữa chúng và giữa các mặt đối lập trong chúng. Có
hai loại tác động dẫn đến vận động là tác động lẫn nhau giữa các sự vật, hiện
tượng (bên ngoài) và sự tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập của cùng một sự
vật, hiện tượng (bên trong); nhưng chỉ có sự tác động lẫn nhau giữa các mặt đối
lập (bên trong) mới làm cho sự vật, hiện tượng phát triển.
*Mối quan hệ giữa các khái niệm của quy luật chỉ ra rằng, mâu thuẫn giữa các
mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng là nguyên nhân, giải quyết mâu thuẫn đó là
động lực của sự vận động, phát triển. Bởi vậy, sự vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng là tự thân. Khái quát lại, nội dung của quy luật thống nhất và đấu
tranh các mặt đối lập là: Mọi đối tượng đều bao gồm những mặt, những khuynh
hướng, lực lượng... đối lập nhau tạo thành những mâu thuẫn trong chính nó; sự
thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập này là nguyên nhân, động lực bên


trong của sự vận động và phát triển, làm cho cái cũ mất đi và cái mới ra đời.
*Ý nghĩa phương pháp luận

-Thứ nhất, thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng; từ
đó giải quyết mâu thuẫn phải tuân theo quy luật, điều kiện khách quan. Muốn
phát hiện mâu thuẫn, cần tìm ra thể thống nhất của các mặt đối lập trong sự vật,
hiện tượng; từ đó tìm ra phương hướng, giải pháp đúng cho hoạt động nhận thức
và thực tiễn.
Ví dụ: Giải thích nguyên nhân vận động cảu các hành tinh từ hai loại lực hút và
lực đẩy giữa chúng.
-Thứ hai, phân tích mâu thuẫn cần bắt đầu từ việc xem xét quá trình phát sinh,
phát triển của từng loại mâu thuẫn; xem xét vai trị, vị trí và mối quan hệ giữa
các mâu thuẫn và điều kiện chuyển hóa giữa chúng. Phải biết phân tích cụ thể
một mâu thuẫn cụ thể và đề ra được phương pháp giải quyết mâu thuẫn đó
Ví dụ: Khi giải quyết mâu thuẫn trong nhân dân khác với giải quyết mâu thuẫn
với kẻ thù tức là chúng ta cần phân biệt được đó là loại mâu thuẫn gì để chúng ta
có thể nhận thức và đưa ra giải pháp phù hợp.
-Thứ ba, phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh
giữa các mặt đối lập, khơng điều hồ mâu thuẫn cũng khơng nóng vội hay
bảo thủ, bởi giải quyết mâu thuẫn còn phụ thuộc vào điều kiện đã đủ và chín
muồi hay chưa.
11.Thực tiễn và vai trò của thực tiễn dối với nhận thức
* Phạm trù thực tiễn:
- Khái niệm: Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động về vật chất – cảm tính, có
mục đích, có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
- Đặc trưng của thực tiễn:
+ Thứ nhất, thực tiễn là những hoạt động vật chất – cảm tính, đó là những hoạt
động vật chất của con người cảm giác được, con người có thể quan sát được.
Những hoạt động mà con người phải sử dụng lực lượng vật chất, công cụ vật
chất tác động vào các đối tượng vật chất để làm biến đổi chúng.
+ Thứ hai, thực tiễn là những hoạt động mang tính lịch sử - xã hội. Thực tiễn là
hoạt động diễn ra với sự tham gia của đông đảo người trong xã hội. Thực tiễn
luôn bị giới hạn bởi những điều kiện lịch sử - xã hội, trải qua các giai đoạn lịch

sử phát triển cụ thể của nó.
+ Thứ ba, thực tiễn là hoạt động có tính mục đích nhằm cải tao tự nhiên và xã
hội, phục vụ con người. Thực tiễn là hoạt động có tính tự giác cao của con
người, khác với hoạt động bản năng, thụ động thích nghi của động vật.
-Các hình thức cơ bản của thực tiễn:
+ Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức thực tiễn đầu tiên, cơ bản và quan
trọng nhất. Con người và xã hội loài người khơng thể tồn tại và phát triển nếu
khơng có hoạt động sản xuất. Sản xuất vật chất là cơ sở để cho sự tịn tại của các
hình thức thực tiễn, các hoạt động sống khác của con người.
+ Hoạt động chính trị - xã hội là hình thức thực tiễn thể hiện tính tự giác cao của
con người nhằm biến đổi, cải tạo xã hội, phát triển các thiết chế xã hội, các quan
hệ xã hội… tạo ra môi trường xã hội thuận lợi cho con người phát triển.


+ Hoạt động thực nghiệm khoa học là hình thức đặc biệt của thưc tiễn. Trong
hoạt động thực nghiệm khoa học, con người chủ động tạo ra những điều kiện
không có sẵn trong tự nhiên cũng như trong xã hội để tiến hành thực nghiệm
khoa học theo mục đích đã đề ra, vận dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật,
công nghệ vào sản xuất vật chất, vào cải tạo xã hội.
*Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:



×