1
UBND TỈNH HẢI DƯƠNG
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Tên sáng kiến: “Một số biện pháp dạy trẻ kỹ năng
tự phục vụ cho trẻ nhà trẻ 24 – 36 tháng tuổi”
Lĩnh vực: Tình cảm kỹ năng xã hội và thẩm mỹ
Năm học: 2021 - 2022
2
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nhà trẻ
24 - 36 tháng tuổi”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Phát triển tình cảm kỹ năng xã hội và thẩm
mỹ.
3. Tác giả
- Họ tên: Nguyễn Thị Nhàn
( Nữ )
- Ngày tháng/ năm sinh: 18/ 04/1982
- Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Mầm non
- Chức vụ: Giáo viên chủ nhiệm lớp NTA
- Đơn vị công tác: Trường Mầm non Thanh An
- Điện thoại: 0789747546
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường Mầm non Thanh An
5. Đơn vị áp dụng sáng kiên lần đầu: Lớp NTA- Trường mầm non Thanh An
6. Các điều kiện áp dụng sáng kiến:
- Về phía giáo viên: Có trình độ ch̉n trở lên, có năng lực, trình độ chun mơn.
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu
- Tại lớp NTA từ tháng 10 năm 2021 đến tháng 2 năm 2022
TÁC GIẢ
(Ký, ghi rõ họ tên)
XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
Nguyễn Thị Nhàn
XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GD&ĐT
TÓM TẮT SÁNG KIẾN
3
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Tâm hồn trẻ như tờ giấy trắng rất non nớt, rất trong sáng và rất dễ tiếp thu
những cái tốt cũng như những cái xấu từ bên ngồi. Do đó việc cung cấp và dạy
trẻ những kĩ năng tự phục vụ cho trẻ là vô cùng cần thiết. Kỹ năng tự phục vụ
giúp trẻ dễ dàng hòa nhập, chủ động sáng tạo tự tin để tham gia vào các hoạt
động. Tuy nhiên các cháu lại thiếu kỹ năng tự phục vụ, khả năng tự lập và thường
hay dựa dẫm vào người lớn, khi gặp khó khăn là chúng thường tìm ngay đến
người lớn mà không tự mình tìm cách giải quyết, ở lứa tuổi này nếu chúng ta
không biết uốn nắn và dạy dỗ sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển tình cảm của trẻ. Vì
thế để đạt được mục tiêu của ngành đưa ra thì bản thân là một người giáo viên
như tôi phải tìm cách hướng dẫn cho trẻ những kĩ năng tự phục vụ ngay từ khi trẻ
mới bước chân vào trường mầm non giúp trẻ cân bằng cuộc sống trên bốn lĩnh
vực tâm trạng, tâm hồn, trí tuệ và tinh thần làm cơ sở cho sự hình thành nhân cách
cho các con sau này.Chính vì vậy tơi chọn đề tài “Một số biện pháp dạy trẻ kĩ
năng tự phục vụ cho trẻ 24 – 36 tháng”.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến:
- Điều kiện: Giáo viên phải có trình độ chuẩn trở lên, có năng lực, trình độ
chuyên môn vững vàng, yêu nghề mến trẻ.
- Thời gian: được tiến hành từ tháng 10 năm 2021 đến tháng 2 năm 2022 tại nhóm
lớp NTA với 18 trẻ do tôi phụ trách.
- Đối tượng: Trẻ 24 – 36 tháng.
3. Nội dung sáng kiến:
* Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến: Từ thực trạng đó tơi đã đưa ra các
biện pháp dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 24 - 36 tháng, mong muốn giúp trẻ
có được những kỹ năng tự phục vụ cần thiết cho trẻ. Qua đó rút ra các bài học
kinh nghiệm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục chăm sóc giáo dục trẻ.
+ Biện 3pháp 1: Xác định nội dung giáo dục kỹ năng sống phù hợp độ tuổi để dạy
trẻ.
+ Biện pháp 2: Tạo môi trường hướng dẫn trẻ thực hành kỹ năng tự phục vụ.
+ Biện pháp 3: Tạo cơ hội cho trẻ tự phục vụ trong hoạt động học.
4
+ Biện pháp 4: Rèn cho trẻ tự phục vụ ở mọi lúc mọi nơi.
+ Biện pháp 5: Xây dựng bài giảng điện tử về kĩ năng tự phục vụ.
+ Biện pháp 6: Phối hợp với cha mẹ trẻ rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến:
1. Đối với trẻ:
Sau một thời gian thực hiện tôi nhận thấy sự tiến bộ rõ rệt của trẻ
Trẻ khơng những có được kĩ năng tự phục vụ mà nó tạo cho trẻ có những kĩ năng
sống cơ bản giúp trẻ phát triển một cách toàn diện.
2. Đối với phụ huynh.
- Các bậc phụ huynh có nhận thức sâu sắc về trường lớp mầm non, ln có sự
phối hợp với giáo viên trong cơng tác chăm sóc giáo dục trẻ.
- Tin tưởng vào trường, lớp quan tâm đến chương trình học của trẻ và có nhu cầu
học tập.
- Phụ huynh ln coi trọng trẻ và tích cực tham gia vào các hoạt động giáo dục trẻ
ở nhà trường, ở lớp.
- Các phụ huynh đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo, trao đổi
với giáo viên bằng nhiều hình thức thơng qua giờ đón trả trẻ.
3. Về giáo viên
- Nắm được mục đích hiểu rõ được sự cần thiết phải dạy kĩ năng tự phục vụ cho
trẻ.
- Nắm vững phương pháp dạy kĩ năng sống, kĩ năng tự phục vụ cho trẻ qua các
hoạt động cho trẻ.
- Có nhiều hình thức phong phú dạy trẻ kĩ năng tự phục vụ
- Mạnh dạn tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh, biết tự chuẩn bị, phối hợp
chặt chẽ, trao đổi thường xuyên với phụ huynh.
5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng sáng kiến:
- Nhà trường tiếp tục tham mưu với các cấp các ngành hỗ trợ kinh phí mua sắm
trang thiết bị đồ dùng đồ chơi phục vụ các tiết học và hoạt động vui chơi của trẻ.
- Tăng cường cho giáo viên được học tập trao đổi kinh nghiệm, tổ chức các buổi
chuyên đề, hội giảng. Phổ biến áp dụng sáng kiến tới tập thể giáo viên
5
MƠ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hồn cảnh nảy sinh sáng kiến
Trong xã hội hiện nay tình trạng trẻ em thụ động luôn ỷ lại người lớn chưa
biết làm một số công việc hoặc khơng có khả năng làm một số cơng việc nhẹ
nhàng vừa sức để giúp đỡ người lớn đang diễn ra khá phổ biến, điều đó xuất phát
từ chính tâm lý e ngại của cha mẹ với suy nghĩ trẻ còn nhỏ chưa làm được mọi
thứ và sợ trẻ làm sai, cha mẹ không đủ kiên nhẫn chờ đợi trẻ dẫn tới người lớn đã
làm hộ trẻ tất cả các hoạt động mà lẽ ra đó là của trẻ, vì lẽ đó tơi nhận thấy việc
giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ trong trường mầm non nói chung và trẻ ở độ
tuổi 24 - 36 tháng nói riêng là một việc làm hết sức cần thiết và vơ cùng ý nghĩa,
nếu khơng có kỹ năng tự phục vụ thì trẻ sẽ không thể chủ động tự lập trong cuộc
sống, trẻ sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc thích nghi với mơi trường trong trường
mầm non, đặc biệt trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh covid - 19, người lớn
càng phải trang bị những kỹ năng tự phục vụ cho bản thân, hãy làm tốt vai trò là
người hỗ trợ trẻ để trẻ hình thành kỹ năng tự phục vụmột cách hiệu quả nhất.
Với nội dung nghiên cứu thực trạng “Một số biện pháp dạy trẻ kỹ năng tự
phục vụ cho trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi” trong trường mầm non, với mục đích
đề xuất một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nhằm nâng cao chất
lượng chăm sóc giáo dục trẻ trong trường mầm non.
2. Cơ sở lý luận
Như chúng ta đã biết mục tiêu của chương trình giáo dục mầm non hiện
nay đóng vai trị quan trọng trong việc trong việc nâng cao chất lượng chăm sóc
giáo dục trẻ, việc tổ chức các hoạt động giáo dục theo quan điểm lấy trẻ làm trung
tâm là vô cùng đúng đắn bởi nó nhằm phát huy tính tích cực tính sáng tạo khả
năng năng lực vốn có của trẻ nhờ đó trẻ có thể làm được một số cơng việc mà
không phải dựa dẫm nhờ vả vào người khác, việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ tạo
tự tính tự lập cho trẻ không chỉ hướng dẫn trẻ tự lo cho bản thân mà còn giúp trẻ
quyết định một số vấn đề của chính bản thân trẻ đó chính là động lực để giúp trẻ
vận động suy nghĩ sáng tạo và tự tin ở mọi lúc mọi nơi.
2.1. Phạm vi áp dụng
6
Đề tài được tiến hành tại lớp Nhà trẻ A (24 - 36 tháng tuổi)
2.2. Mục đích nghiên cứu
- Rèn cho trẻ chủ động, mạnh dạn, tự tin và biết tự phục vụ cho bản thân.
3. Thực trạng của vấn đề
3.1. Thuận lợi
- Giáo dục Mầm non được xem là một trong những cấp học quan trọng có
vai trị đặt nền móng cho sự phát triển tồn diện của trẻ, nhiều năm qua cấp học
mầm non luôn nhận được sự quan tâm trong việc nâng cao chất lượng và thực
hiện đổi mới trong giáo dục trẻ.
- Trường được công nhận đạt chuẩn mức độ I. Nhà trường luôn nhận được
sự quan tâm của các cấp lãnh đạo Đảng Ủy- HĐND- UBND xã, sự chỉ đạo sâu
sát trực tiếp về chuyên môn của PGD & ĐT huyện.
- Được sự hỗ trợ của các ban ngành, đoàn thể, các nhà hảo tâm, sự ủng hộ
nhiệt tình cả vật chất tinh thần của các bậc phụ huynh tạo động lực thúc đẩy sự
phát triển phong trào giáo dục.
- Hàng năm nhà trường đã đầu tư kinh phí để tu sửa cơ sở vật chất, đẩy
mạnh cơng tác xã hội hóa giáo dục để mua sắm đồ dùng trang thiết bị tối thiếu
cho các nhóm lớp.
- Bản thân tơi là một giáo viên tâm huyết với nghề, yêu thương trẻ, tận tụy
với công việc, ln có ý thức phấn đấu vươn lên.
- Đa số cha mẹ mẹ trẻ đã nhiệt tình thường xuyên chia sẻ với giáo viên về
tình hình của trẻ ở nhà, luôn quan tâm đến trẻ, dành nhiều thời gian cùng với giáo
viên trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ.
3.2. Khó khăn
Năm học 2021 - 2022, tơi được nhà trường phân cơng chủ nhiệm nhóm trẻ
24-36 tháng tuổi, với sĩ số 18 trẻ trong quá trình thực hiện đề tài tơi đã gặp một
số khó khăn như sau:
- Trẻ mới đi học cịn quấy khóc, chưa có thói quen nề nếp ở trường, kỹ
năng phát âm của trẻ còn rất kém, trẻ cịn rụt rè trong giao tiếp, chưa có kỹ năng
tự phục vụ
7
- Trong tình hình dịch bệnh COVID – 19 diễn biến phức tạp hiện nay nên
cịn gặp khơng ít khó khăn về việc thực hiện chương trình giáo dục.
- Đa số phụ huynh nuông chiều con quá mức nên trẻ rất ương bướng khó bảo.
Điều đó cũng ảnh hưởng rất lớn đến công tác giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.
- Một số phụ huynh đi làm công ty lên hạn hẹp thời gian, do vậy chưa thực
sự quan tâm đến con cái, đến phong trào của nhà trường, việc phối hợp với cô
giáo trong công tác chăm sóc giáo dục đơi khi chưa thường xun.
- Nhận thức của phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ
còn hạn chế.
- Phụ huynh chưa tin tưởng vào khả năng của trẻ mà thường làm hộ trẻ tất
cả mọi công việc dẫn đến đứa trẻ không có kỹ năng tự lập.
3.3. Khảo sát thực trạng
Qua thực tế ở đơn vị trường tôi trong những năm qua và qua điều tra thực
tế về vốn kỹ năng sống tự lập của trẻ trong lớp tôi chưa cao. Vì vậy tôi đã tiến
hành khảo sát với những nội dung như sau:
Bảng 1: Khảo sát trẻ đầu năm (Tháng 10/2021)
Số trẻ
khảo sát
18
Nội dung khảo sát
Kỹ năng tự cất đồ dùng cá
nhân khi đến lớp.
Kỹ năng tự xúc cơm
Kỹ năng tự đi vệ sinh
Kỹ năng tự rót nước uống
Kỹ năng tự lấy, cất đồ dùng
học tập
Kỹ năng tự lấy gối để ngủ
Số trẻ đạt
Tỷ lệ
(%)
Số trẻ
chưa đạt
Tỷ lệ
(%)
5
28%
13
72%
8
5
5
5
44%
28%
28%
28%
10
13
13
13
56%
72%
72%
72%
5
28%
13
72%
Để giúp thực hiện tốt nhiệm vụ, nâng cao chất lượng giáo dục trẻ có tính
tự lập. Đồng thời góp một phần nhỏ bé của mình trong công tác giáo dục. Trước
những thuận lợi khó khăn trên tơi đề ra một số biện pháp sau:
4. Các giải pháp biện pháp thực hiện
8
4.1. Biện pháp 1:Xác định nội dung giáo dục kỹ năng sống phù hợp độ tuổi để
dạy trẻ.
Với mục tiêu giáo dục mầm non với độ tuổi 24 – 36 tháng tuổi trẻ cần có
các kỹ năng tự cất đồ dùng khi đến lớp, tập ngồi bơ khi có nhu cầu đi vệ sinh
đúng nơi quy định, tự xúc cơm, tự lấy nước uống, tự lấy gối đi ngủ...Xây dựng kế
hoạch ngay từ đầu năm học là kim chỉ nam cho sự phấn đấu để đạt được mục tiêu
và nhiệm vụ năm học vì nó gắn liền giữa khoa học với thực tiễn.
Căn cứ vào nhiệm vụ năm học của Phòng giáo dục và kế hoạch xây dựng
của nhà trường, căn cứ vào kết quả đạt được và những mặt tồn tại trong quá trình
chăm sóc, giáo dục trẻ, căn cứ vào tình hình thực tế trẻ ở lớp về nhận thức của trẻ,
về kỹ năng của từng trẻ và điều kiện cơ sở vật chất của lớp mình phụ trách để từ
đó xây dựng kỹ năng cần thiết để phục vụ trẻ khi xây dựng kế hoạch theo chủ đề
tôi đã nghiên cứu lựa chọn, xác định được các kỹ năng tự phục vụ cơ bản phù hợp
với lứa tuổi từ 24 - 36 tháng tuổi.
4.2. Biện pháp 2: Tạo môi trường hướng dẫn trẻ thực hành kỹ năng tự phục
vụ.
Như chúng ta đã biết trẻ mầm non nói chung và đặc biệt trẻ 24 – 36 tháng
nói riêng, mơi trường lớp học có vị trí to lớn trong việc nhận thức của trẻ vì môi
trường là nơi trẻ tiếp xúc hàng ngày.Việc tạo cho trẻ khoảng không gian nhất định
để trẻ được thỏa mãn nhu cầu được làm và khẳng định bản thân có vai trị quan
trọng đến việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ vì thế tôi đã cùng với giáo
viên trong lớp tận dụng mọi khơng gian trong và ngồi lớp để bố trí sắp xếp các
khu vực trải nghiệm thực hành các kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.
+ Môi trường bên ngồi lớp học
Đối với các góc rèn kỹ năng.Tơi sưu tầm bộ ảnh chụp được trang trí trên
mảng tường bổ sung thêm một số đồ dùng để dạy trẻ, xây dựng góc trải nghiệm
để trẻ được thực hành phong phú các hoạt động như buộc dây giày, cởi và đóng
cúc áo cho trẻ được trải nghiệm hay khu vực để ca cốc, bình uống nước để khi trẻ
muốn uống nước trẻ có thể tự lấy nước để uống, hay khu vực có thùng giác để trẻ
9
tự bỏ rác vào thùng khi có rác. Hay ở khu vực ngồi hiên cửa lớp tơi vẽ các bước
chân để cho trẻ có kỹ năng đi theo bước chân.
+ Mơi trường bên trong lớp học
Bên trong có khu vực nhà vệ sinh thì ln có đầy đủ các thiết bị đồ dùng
vệ sinh nước rửa tay, khăn lau tay để trẻ sử dụng, để trẻ thực hành vệ sinh cá nhân
rửa tay, rửa mặt.
Hay ở các góc chơi tơi đã chuẩn bị đầy đủ dụng cụ để trẻ chơi các góc theo
hình thức học bằng chơi, chơi mà học. Trẻ sẽ rèn luyện được tính độc lập biết tự
phục vụ bản thân và trở lên ngăn nắp gọn gàng hơn, để hình thành kỹ năng tự
phục vụ cho trẻ không phải là việc làm một sớm một chiều mà phải là cả một quá
trình đồng thời phải chọn đúng cách, đúng thời điểm phù hợp với khả năng của
trẻ thì mới đạt kết quả tốt nhất, tơi đã trị chuyện với trẻ để làm sao trẻ hiểu tất cả
các hoạt động của trẻ trở thành ý thức.
VD: Khi trẻ tay bẩn thì trẻ biết nói với cơ để đi rửa, khi chơi xong đồ chơi
biết thu dọn đồ chơi và cất vào chỗ cũ cùng với cô, tôi đã thực hiện một số
phương pháp dạy trẻ các kỹ năng tự phục vụ như phương pháp chỉ dẫn dạy trẻ
bằng lời, tơi giải thích cho trẻ hiểu những gì cần làm, làm như thế nào, lời giải
thích chỉ dẫn này có thể áp dụng mọi lúc mọi nơi trong sinh hoạt hàng ngày của
trẻ, khi chỉ dẫn tôi dùng lời nói ngắn gọn, rõ ràng dễ hiểu, điềm tĩnh sử dụng cử
chỉ để nhấn mạnh những điều khiến trẻ chú ý.
4.3. Biện pháp 3: Tạo cơ hội cho trẻ tự phục vụ trong hoạt động học.
Cũng như các hoạt động khác, hoạt động học cũng góp phần dạy trẻ kỹ
năng tự phục vụ hiệu quả, với mỗi hoạt động tôi quan sát, tìm tòi để lựa chọn hình
thức để giúp trẻ hình thành ý thức tự phục vụ một cách tốt nhất.
Ngày nay nội dung giáo dục kỹ năng tự phục vụ đã được chú trọng, tuy
nhiên việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ chưa trở thành một môn học với một giáo
trình chuẩn được áp dụng trong nhà trường.
Trong khi đó hoạt động học là hoạt động được tổ chức có sự định hướng và
hướng dẫn trực tiếp của cơ giáo. Nội dung dạy được tổ chức có hệ thống theo sát
mục đích kế hoạch đã được hoạch định trong giáo án nhằm cung cấp kiến thức,
10
kỹ năng cho trẻ giúp trẻ hiểu cảm nhận đầy đủ và sâu sắc nội dung bài học liên
quan đến giáo dục kỹ năng tự phục vụ do vậy trong các tiết học tôi tổ chức theo
quan điểm lấy trẻ làm trung tâm, cơ giáo chỉ đóng vai trị là người hỗ trợ trẻ phát
huy khả năng thế mạnh của mình từ đó phát triển các kỹ năng sống tốt hơn, ngồi
ra tơi cịn lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục kỹ năng tự phục vụ một cách nhẹ
nhàng, linh hoạt vào các hoạt động trong ngày.
Ví dụ: Đối với giờ phát triển thể chất thì ngoài việc dạy trẻ các kiến thức, kỹ năng
về vận động, thông qua đó tơi cịn giáo dục trẻ biết tự phục vụ như sau khi giờ
học kết thúc tôi nhắc trẻ lấy dép để đi thì trẻ biết tự ra giá dép để lấy dép đi vào
chân với sự bao quát của tôi nhắc nhở trẻ đi đúng chiều của dép hoặc trẻ muốn đi
vệ sinh sau giờ học thì trẻ tự vào trong nhà vệ sinh và lấy bô để ngồi.
Hay đối với hoạt động làm quen tác phẩm văn học tơi ln lựa chọn những
câu chuyện, bài thơ nói về việc tự phục vụ cho trẻ, ví dụ bài thơ: “Giờ chơi”
thông qua bài thơ giáo dục trẻ khi không chơi với đồ chơi nữa thì các con cất đồ
chơi vào đúng nơi quy định. Hay trong bài thơ “Giờ ăn” giáo dục trẻ khi đến giờ
ăn cơm các con lấy ghế ngồi vào bàn ăn và xúc cơm cho gọn gàng…
Trước đây, khi vào một hoạt động nào đó thì giáo viên là người chuẩn bị và
bày sẵn trước mặt trẻ, trẻ chỉ việc học, điều này dẫn đến trẻ thụ động. Nhưng với
tơi, để phát huy tính tích cực ở trẻ, khả năng trẻ có thể làm những công việc vừa
sức, trước khi cho trẻ tham gia vào hoạt động Ví dụ: Hoạt động nhận biết phương
tiện giao thơng “Ơ tơ, xe máy” tơi tổ chức hoạt động xen kẽ giữa động và tĩnh sao
cho phù hợp, cho trẻ nhận biết, gọi tên, đặc điểm nổi bật của từng phương tiện
giao thơng đó bằng hình ảnh thì đó là hoạt động tĩnh, sau đó đến phần luyện tập
tơi cho trẻ tự lên lấy tranh lô tô các phương tiện trên để chơi trò chơi chọn tranh
theo yêu cầu cô, tôi cho trẻ tự lấy đồ dùng học tập về thực hiện theo nhóm hoặc
khi học xong trẻ biết mang đồ dùng để cất vào nơi quy định cùng cô. (Hình ảnh 1:
Trẻ tự lấy đồ dùng khi cô yêu cầu)
4.4. Biện pháp 4: Rèn cho trẻ tự phục vụ ở mọi lúc mọi nơi.
Bản chất của trẻ ở trong độ tuổi này nhanh tiếp thu nhưng cũng rất nhanh
quên nên việc rèn việc rèn kỹ năng tự phục vụ ở mọi lúc mọi nơi thông qua mọi
11
hoạt động trong ngày không chỉ giúp trẻ được quan sát, thực hành trải nghiệm
những công việc đơn giản mà cịn giúp cho trẻ có những kỹ năng tự phục vụ bản
thân, ý thức tự phục vụ nó ẩn chứa trong từng hoạt động, mỗi một hành động nhỏ
trẻ cũng đều phải có ý thức thì mới hình thành thói quen tự phục vụ, với mỗi hoạt
động tôi thường tạo các tình huống khác nhau và hướng dẫn để trẻ có thể thực
hiện cơng việc một cách có chất lượng. Phương pháp làm mẫu dạy trẻ các kỹ
năng bằng hành động khi quan sát tôi làm trẻ sẽ biết phải làm gì, làm như thế nào.
* Hoạt động đón, trả trẻ và trò chuyện ở mọi lúc mọi nơi.
Khi trẻ tham gia vào các hoạt động tôi luôn quan sát để kịp thời nắm bắt
nhu cầu và khả năng của từng trẻ và dành cho trẻ khoảng thời gian để trẻ sửa sai
trong các hoạt động và công việc trẻ làm, khi trẻ cịn lúng túng, gặp khó khăn tơi
dùng lời đề nghị lịch thiệp để hỗ trợ trẻ bằng cách, cơ vẫn chưa thấy con làm hay
con có muốn cô làm lại cho con xem không.
VD: Buổi sáng khi trẻ đến lớp trẻ tự cất balô vào tủ cá nhân, khoanh tay
chào cô, chào bố mẹ. Việc dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ cho trẻ không chỉ giáo dục
trẻ tự phục vụ bản thân mà còn giáo dục trẻ ý thức cuộc sống bảo vệ môi trường,
biết làm một số công việc vừa sức để hình thành ở trẻ tình yêu lao động.
Dạy trẻ 24 - 36 tháng những kỹ năng tự phục vụ là kỹ năng mới trẻ chưa được
học, với những tiết dạy này tôi thường có kế hoạch tổ chức vào hoạt động chiều.
VD: Giờ hoạt động chơi tập buổi chiều tôi dạy cho trẻ kỹ năng “tập cài cúc
áo” thì trước hết cô phải chuẩn bị chiếc áo có cúc, rồi cho trẻ quan sát cô làm mẫu
tỉ mỉ kết hợp vừa làm vừa hướng dẫn trẻ cách làm, sau đó cho trẻ thực hiện cơ
bao qt động viên giúp đỡ trẻ cịn lung túng. Với những kỹ năng đã học tôi cho
trẻ củng cố qua các hoạt động khác và mọi lúc mọi nơi.
+Dạy trẻ kỹ năng cất ba lô vào tủ.
Ngay từ đầu năm học khi trẻ đến lớp tôi quan sát giờ đón, trả trẻ và thấy
hầu như trẻ khơng cất được ba lơ của mình hoặc có khi cất được lại nhầm tủ, hoặc
có những trẻ mang ba lơ thì thì để lên bàn hoặc có trẻ mới đến lớp cịn lạ lẫm cứ
ơm ba lơ khơng cất vào tủ, đối với trường hợp như vậy tôi đã lại gần trẻ nhắc nhở,
ví dụ như con để chưa đẹp rồi, con để lại đi, con để như thế nào…
12
Bằng kinh nghiệm của mình tôi thực hiện dạy trẻ kỹ năng cất ba lô vào tủ, tôi đưa
trẻ ra khu vực có tủ đựng đồ dùng cá nhân của trẻ sau đó dạy cho trẻ cách nhận tủ
tư trang của mình rồi lấy tay nhẹ nhàng mở cánh tủ ra sau đó dùng 2 tay cầm ba
lơ cất vào tủ, khi trẻ về tôi đi cùng trẻ và cũng hướng dẫn trẻ cách mở cánh tủ ra
và lấy đồ dùng của mình. Tôi dạy trẻ cất bao lô vào tủ, cô làm mẫu rồi cho trẻ lên
thực hiện theo các bước như sau:
Bước 1: Tay cầm nắm tủ mở cánh tủ nhẹ nhàng
Bước 2: Cởi ba lô
Bước 3: Cất ba lơ vào tủ
Bước 4: Đóng cánh tủ nhẹ nhàng.
Những việc tưởng chừng đơn giản này giúp trẻ rất nhiều trong ý thức thực
hiện nội quy cũng như ý thức gìn đồ dùng cá nhân của mình không ỷ lại hoặc phụ
thuộc vào cô giáo, bố mẹ nữa. Hay khi đón trẻ vào lớp tơi trị chuyện với trẻ về
những việc trẻ đã làm, tơi có thể đưa ra câu hỏi:
Ví dụ: Sáng nay ai đưa con đi học?
Con có mang ba lơ đi học khơng?
Con có ba lơ màu gì?
Ba lô của con cất ở đâu?
Hay với trẻ mới đến lớp chưa quen cịn ơm ba lơ khơng cho cơ cất vào tủ,
thì cơ sẽ đến bên trẻ trị chuyện với trẻ.
VD: Hùng ơi cô đố con, các bạn lớp mình cất ba lô ở đâu? Thế chỗ của Hùng đâu
nhỉ? Bạn Hùng cất ba lô vào tủ cho các bạn cùng xem nào? Hoặc Hùng cất ba lô
rồi đi chơi với cơ nhé. Bằng những câu nói nhẹ nhàng như vậy Hùng đã nhanh
nhẹn mang ba lô vào tủ cất.
Với những câu hỏi đó kết hợp những lời khen ngợi, động viên khuyến khích sẽ
kích thích trẻ tính tự lập được hình thành một cách dễ dàng và hiệu quả. (Hình
ảnh 2: Trẻ tự cất ba lô)
* Dạy trẻ kỹ năng tự lấy nước uống
Để tạo cho trẻ có thói quen tự lấy nước uống khi có nhu cầu uống thì trước
tiên cô giáo giới thiệu với trẻ về khu vực uống nước có bình nước và cốc nước
13
của lớp, sau đó cơ dạy trẻ lấy ca đúng theo kí hiệu của từng trẻ, tay cầm ca sao
cho ngay ngắn, chắc chắn, tay mở vòi nước một cách nhẹ nhàng và lấy lượng
nước vừa đủ uống, khi uống xong úp cốc lên giá để cốc cho đúng, khi lấy nước
không được tranh giành nhau mà phải đợi bạn uống xong rồi đến mình uống. Cứ
như vậy đến lần sau cô lại tiếp tục cho trẻ thực hiện và cơ quan sát, giúp đỡ trẻ
khi trẻ cịn lung túng và giúp đỡ trẻ đến khi trẻ tự làm được thì thơi. Từ đó trẻ có
khả năng tự mình lấy nước uống khi có nhu cầu muốn uống nước. (Hình ảnh 3:
Trẻ tự lấy nước uống)
* Dạy trẻ kỹ năng đi vệ sinh.
Kỹ năng đi vệ sinh khi có nhu cầu, đây là nội dung cần cô thực hiện ngay
từ đầu năm học, trẻ mới đi học còn nhút nhát chưa quen với các vị trí và hoạt
động sinh hoạt hang ngày. Để việc dạy trẻ đạt hiệu quả, thì giáo viên cần tìm hiểu
khả năng của từng trẻ, nắm bắt tâm lí của từng trẻ để biết lí do 1 số trẻ chưa biết
tự đi vệ sinh đúng nơi quy định bằng cách quan sát trẻ, hỏi trẻ và trao đổi trực tiếp
với phụ huynh cô giáo thường xuyên hỏi trẻ về nhu cầu vệ sinh hoặc cứ 2 tiếng lại
cho trẻ đi vệ sinh 1 lần, cũng như khi cho trẻ đi cơ vừa làm vừa nói cho trẻ cách
tụt quần, cách ngồi bô sao cho không bị ngã, đứng lên sao cho không bị đổ bô,
hướng dẫn tận tình, cởi mở..theo các bước sau:
Bước 1: Đặt bô cho ngay ngắn
Bước 2: Cách tụt quần
Bước 3: Cách ngồi bô cho cân đối để không bị ngã.
Bước 4: Cách đứng lên và kéo quần sao không đổ bô.
Với trẻ nhút nhát cô nên thường xuyên gần gũi trẻ để tạo tâm lí an tâm và
thoải mái cho trẻ, giúp trẻ sẵ sàng chia sẻ mong muốn và nguyện vọng của mình,
đàn dần cô hướng dẫn trẻ cách đi vệ sinh đúng nơi quy định. (Hình ảnh 4: Trẻ tự
đi vệ sinh)
* Hoạt động dạo chơi ngoài trời
Để hoạt động dạo chơi ngồi trời góp phần tích cực vào việc rèn kỹ năng tự
phục vụ cho trẻ. Tôi đã lựa chọn nội dung sao cho phù hợp nhằm phát huy hết khả
năng của trẻ như cô hướng dẫn trẻ nhặt rác bên trong và bên ngoài lớp học khi các
14
con nhìn thấy rác để giữ cho môi trường luôn sạch đẹp, đồng thời dạy cho trẻ ý
thức tự giữ gìn mơi trường sạch sẽ gần gũi xung quanh trẻ.
Ví dụ trong hoạt động dạo chơi ngoài trời “Chơi với lá cây, chơi với giấy”,
khi trẻ bắt đầu vào tiết học, hoặc khi trẻ học xong tiết học tôi nhắc nhở trẻ khi các
con không chơi với lá cây nữa, hoặc khơng chơi với giấy nữa các con nhìn thấy
có giấy hoặc lá rơi trên nền thì các con sẽ nhặt và bỏ vào thùng rác cho sạch sẽ.
Tôi dạy trẻ cách nhặt rác để vào thùng rác như sau:
Bước 1: Mở lắp thùng rác
Bước 2: Để rác vào thùng rác
Bước 3: Đạy nắp thùng rác
(Hình ảnh 5: Trẻ bỏ rác vào thùng rác)
*Hoạt động chơi tập các góc
Đối với trẻ mầm non hoạt động vui chơi chiếm vai trò chủ đạo trong hoạt
động của trẻ ở trường mầm non. Vui chơi nhất là trị chơi phân vai chính là một
một hoạt động phản ánh thực cuộc sống thu nhỏ. Khi tham gia chơi thì trẻ được
đứng ở vị trí chủ thể của hành động chơi, trẻ có thể được tự mình quyết định làm
những gì mà mình thích chứ không phải là người lớn ép buộc.Vì vậy trong khi
chơi xuất hiện ở trẻ sự tích cực tự nguyện. Hoạt động vui chơi đối với trẻ là để
phát triển về thể chất và tinh thần. Hơn bất cứ hoạt động nào trong trò chơi trẻ
được bộc lộ sự sáng tạo trong khi chơi. Ví dụ trong trị chơi bế em, cho em ăn, ru
em ngủ…Từ những hoạt động hàng ngày mà trẻ được nhìn thấy người lớn, cô
giáo làm mà trẻ đã vận dụng vào xã hội thu nhỏ thông qua hoạt động chơi tập các
góc.
Với hoạt động này tơi là người trò chuyện gợi ý cho trẻ về các nhóm chơi,
trẻ biết lấy đồ chơi ra chơi và khi không chơi nữa biết cất đồ chơi đúng nơi quy
định cùng cô. Ở hoạt động này cô luôn hướng dẫn, động viên khen ngợi kịp thời
trẻ sẽ phát huy được tính tự phục vụ hiệu quả.
Ví dụ khi cơ tổ chức cho trẻ chơi tập các góc, cơ sẽ tập trung trẻ lại, trị
chuyện với trẻ về các góc chơi, cho trẻ nhận góc chơi trẻ thích, sau đó cơ cho trẻ
về các góc chơi, cơ đến hướng dẫn trẻ cách lấy đồ dùng ra chơi một cách nhẹ
15
nhàng, cô tham gia cùng trẻ, quan sát trẻ làm, khi hết giờ chơi cô hướng dẫn trẻ
cách xếp đồ dùng vào các góc chơi gọn gàng, ngăn nắp. ( Hình ảnh 6: Trẻ tự cất
đồ chơi)
*Hoạt động giờ ăn, ngủ.
Ngoài các hoạt động giáo dục thì hoạt động chăm sóc ni dưỡng là cơ hội
khơng thể thiếu để rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Các hành vi ở thời điểm này
diễn ra thường xuyên tạo nên những kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Giờ ăn của trẻ
nhiều phụ huynh cho rằng làm sao cho trẻ ăn nhanh, ăn xong là được. Điều này
trái ngược với nội dung giáo dục trẻ mầm non và tôi rất coi trọng giờ ăn của trẻ
bởi giờ ăn là một trong những hoạt động tạo thói quen vệ sinh trong ăn uống đây
là lúc trẻ thực hiện hành vi trong ăn uống nhiều nhất. Tôi đã tạo tình huống để trẻ
tham gia vào các hoạt động cùng cơ một cách tích cực để rèn kỹ năng tự phục vụ
cho trẻ như: Trước giờ ăn cơm cho trẻ xếp hàng rửa tay, trẻ biết lấy ghế ngồi vào
bàn ăn, khi trẻ có những thói quen này đã giúp trẻ biết tự phục vụ và giữ gìn vệ
sinh cá nhân, trong khi ăn tôi dạy trẻ tay phải cầm thìa, tay trái giữ bát cơm và
xúc cơm gọn gàng không làm rơi cơm ra bàn, khi có cơm rơi thì nhặt để vào đĩa,
khi ăn xong biết cất bát thìa giúp cô. Việc tập cho trẻ tự xúc cơm ăn là rất cần
thiết bởi đa số trẻ ở gia đình đa số được ông bà, bố mẹ xúc cho trẻ nên trẻ chưa có
kĩ năng tự xúc ăn. Cơ cần bao qt tìm hiểu từng trẻ và có biện pháp riêng, với
những trẻ chưa biết xúc ăn, cô hướng dẫn trẻ cách cầm thìa, cách cầm bát khi xúc
ăn để cơm không rơi vãi, xúc thìa vơi, gọn miếng, khi trẻ ăn cô chú ý đặc điểm,
tâm lí và khả năng của trẻ để có biện pháp động viên khích lệ. Những cơng việc
nhỏ thường nhật này giúp trẻ không những học được thói quen văn minh, lịch sự
trong ăn uống. (Hình ảnh 7: Trẻ tự xúc cơm ăn)
Hay trong giờ ngủ cô dạy trẻ tự lấy và cất gối: Cô hướng dẫn trẻ lấy đúng
gối của mình từ tủ và cất gối đúng nơi quy định, xếp gọn gàng, nằm đúng vị trí,
khơng đùa nghịch nói chuyện khi ngủ.
Vai trị của cơ trong hoạt động này là rất quan trọng vì cô là người quan sát,
hướng dẫn, động viên, khuyến khích và giúp đỡ trẻ khi trẻ cịn lung túng. Ví dụ
đến giờ ngủ, cơ nói với trẻ đã đến giờ đi ngủ rồi các con hãy đi lấy gối, xem bạn
16
nào lấy đúng gối của mình nào, như vậy trẻ biết tự vào lấy gối của mình để nằm
lên giường. (Hình ảnh 8: Trẻ tự lấy gối đi ngủ)
Với cách làm trên đã mang lại hiệu quả rõ rệt trong việc dạy trẻ kỹ năng tự
phục vụ cho trẻ.Trẻ không những biết cách tự phục vụ mình mà nó cịn hình thành
nhân cách sống cho trẻ một cách hiệu quả.
+ Hoạt động chơi tập buổi chiều.
Vào hoạt động chơi tập buổi chiều tơi thường cho trẻ xem tranh, ảnh,
video, trị chuyện, dạy trẻ đọc những bài thơ, bài hát hay kể cho trẻ những câu
chuyện tôi đã sưu tầm mang tính giáo dục và rèn kỹ năng tự phục vụ như…..để
giáo dục ý thức tự phục vụ và trẻ được học các kỹ năng tự phục vụ tốt nhất. Với
những bài thơ, bài hát hoặc xem hình ảnh tôi cho trẻ thực hành trải nghiệm những
hành vi đó để trẻ vừa được chơi vừa được học một cách nhẹ nhàng kết hợp với
giáo dục trẻ…..đi vệ sinh đúng cách hay biết cất đồ dùng đồ chơi gọn gàng để trẻ
có thể hình thành và khắc sâu hơn kỹ năng tự phục vụ đồng thời cịn giáo dục tính
tự giác, tự ý thức cho trẻ trong cuộc sống.
4.5. Biện pháp 5: Xây dựng bài giảng điện tử về kĩ năng tự phục vụ.
Bài giảng điện tử là một hình thức tổ chức bài giảng nhằm thực thi giáo án
điện tử. Toàn bộ kế hoạch dạy học đều được chương trình hóa, được giáo viên
điều khiển trong môi trường đa phương tiện có sự giúp đỡ của cơng nghệ thơng
tin. Khác với bài giảng truyền thống, bài giảng điện tử là sự tương tác giữa người
dạy với người học nhờ các phương tiện dạy học có sự giúp đỡ của cơng nghệ
thơng tin. Mức độ giúp đỡ của công nghệ thông tin trong một bài giảng là khác
nhau do sự khác biệt về nguồn thiết bị của cơ sở giáo dục đó và thói quen, sở
thích của người dạy. Dựa vào bảng chia các kĩ năng vào các chủ đề bản thân tơi
nhận thấy để có thể đánh giá được chính xác thì việc xây dựng các bài giảng điện
tử và lựa chọn rất tốt. Chính vì vậy bản thân tơi ngay từ đầu năm học đã tìm tài
liệu, hình ảnh cùng với kĩ năng xây dựng bài giảng điện tử của bản thân để xây
dựng các bài giảng điện tử của bản thân để xây dựng các bài giảng điện tử đánh
giá về kĩ năng sống - kĩ năng tự phục vụ cho trẻ.
17
Cách làm: Tơi mở máy vi tính và lên mạng tìm các tranh ảnh, sống động
ngộ nghĩnh cần thiết rồi download về máy tính. Sau đó tơi sử dụng chương trình
Power Point để thiết kế bài giảng theo nội dung khám phá câu chuyện và tạo hiệu
ứng cho các hình ảnh.
Cách sử dụng: Khi cô dạy đến nội dụng nào, cô chỉ cần “nháy chuột” thì
các hình ảnh sẽ hiện ra theo ý muốn.
Ví dụ: Tơi dạy trẻ kỹ năng đeo khẩu trang đúng cách. Tôi sẽ hướng dẫn trẻ
cách đeo khẩu trang đúng quy trình như: Lấy khẩu trang xem mặt trái, mặt phải,
mặt trên, mặt dưới, cách đeo từng quai. Bên cạnh việc tự thiết kế bài giảng, tôi
cũng lên mạng sưu tầm các vi deo tự phục vụ cho trẻ 24 - 36 tháng.
4.6. Biện pháp 6: Phối hợp với cha mẹ trẻ rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.
Việc kết hợp giữa gia đình với giáo viên và nhà trường là việc làm hết sức
cần thiết để chăm sóc giáo dục trẻ nói chung và giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho
trẻ nói riêng, việc hướng dẫn trẻ các kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nếu chỉ có cơ
giáo và nhà trường thì khơng thể thành cơng mà phải có sự phối hợp của các
thành viên trong gia đình trẻ như: Cha, mẹ, ông, bà…Các thành viên trong gia
đình luôn tạo mọi cơ hội cho bé nhìn thấy các việc làm đồng thời giải thích cho
bé về việc đó dù bé hiểu hay không, vì thế tôi đã tuyên truyền để tất cả các cha
mẹ trẻ hiểu việc rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ cần được áp dụng càng sớm càng
tốt hãy để trẻ tự làm những công việc vừa sức dạy trẻ chăm sóc bản thân và giúp
đỡ những người xung quanh.
Chính vì vậy ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm học tôi đã trao đổi với
phụ huynh cần có kiến thức và hiểu biết trong vấn đề dạy trẻ những kỹ năng tự
phục vụ cho trẻ, tôi và phụ huynh đã kết hợp dạy trẻ khi đến trường phải biết cất
đồ dùng cá nhân như ba lô, dép vào nơi quy định, biết đi vệ sinh khi có nhu cầu,
biết cầm thìa xúc cơm ăn…Điều quan trọng tôi luôn nhắc phụ huynh nếu trẻ chưa
biết làm thì tuyệt đối không la mắng làm trẻ mặc cảm và phụ huynh nên đưa trẻ
vào khuôn khổ một cách nhẹ nhàng bằng cách cha mẹ làm cùng trẻ, hướng dẫn
trẻ thật cụ thể cách làm như vậy giúp trẻ cảm thấy thoải mái và hứng thú mỗi khi
trẻ tự phục vụ giúp trẻ tự tin hơn trong cuộc sống.
18
Ngồi ra hàng ngày vào giờ đón trẻ và trả trẻ tơi trị chuyện trao đổi với
phụ huynh về tình hình của trẻ và cho phụ huynh thấy được tầm quan trọng của
việc dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ để cùng kết hợp cho trẻ thực hiện các kỹ năng
như tự xúc cơm ăn, tự lấy nước uống và tự đi vệ sinh khi có nhu cầu…ở nhà sao
cho phù hợp, khơng gị bó mà đạt hiệu quả cao.
Trong bối cảnh dịch bệnh covid – 19 diễn biến phức tạp hơn lúc nào hết
việc phối hợp với cha mẹ trẻ dạy trẻ kỹ năng phòng chống dịch cũng như phịng
chống các dịch bệnh khác trở lên vơ cùng quan trọng. Tôi đăng tải tuyên truyền
về chế độ dinh dưỡng đảm bảo sức khỏe cho trẻ và một số biện pháp đảm bảo an
toàn cho trẻ trong mùa dịch trên nhóm zalo của lớp. Khi đến trường tơi tích cực
tun truyền với các bậc phụ huynh để thực hiện tốt trách nhiệm của cha mẹ trẻ
trong việc rèn kỹ năng tự phục vụ ở mọi lúc mọi nơi mặc dù đó là những kỹ năng
rất cơ bản mà nhiều trẻ đã có song rất cần nhấn mạnh lại và chỉnh sửa để thực
hiện tốt hơn, từ việc phối hợp với cha mẹ trẻ về chăm sóc giáo dục trẻ và giáo dục
kỹ năng tự phục vụ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi là mối quan hệ giữa bản thân tôi
cùng với các bậc cha mẹ trẻ ở lớp ngày càng gắn bó, các bậc cha mẹ trẻ đã quan
tâm tới tình hình của các bé và sẵn sàng chia sẻ tình hình của các bé ở nhà vì vậy
kỹ năng tự phục vụ cho trẻ ngày càng được nâng cao. Đồng thời nó cịn giúp giáo
viên có thêm sự hỗ trợ rất lớn trong việc dạy trẻ các kỹ năng tự phục vụ để hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao.
5. Kết quả đạt được:
Qua thời gian tiến hành và áp dụng đề tài “Một số biện pháp dạy trẻ kỹ năng
tự phục vụ cho trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi” trên đây tôi đã đạt được kết quả:
Bảng khảo sát trẻ cuối năm (tháng 02/2022).
Số trẻ
khảo sát
18
Nội dung khảo sát
Số trẻ Tỷ lệ
Số trẻ Tỷ lệ
đạt
(%) chưa đạt (%)
Kỹ năng tự cất đồ dùng cá nhân
18
100
0
0
khi đến lớp.
%
Kỹ năng tự xúc cơm
17
94%
1
6%
Kỹ năng tự đi vệ sinh
17
94%
1
6%
Kỹ năng tự rót nước uống
15
72%
3
28%
Kỹ năng lấy, cất đồ dùng học tập.
16
89%
2
11%
19
Kỹ năng tự lấy gối để ngủ
Bảng so sánh kết quả
Số trẻ
khảo
sát
18
Nội dung khảo sát
Kỹ năng tự cất đồ dùng cá
nhân khi đến lớp.
Kỹ năng tự xúc cơm
Kỹ năng tự đi vệ sinh
Kỹ năng tự rót nước uống
Kỹ năng lấy, cất đồ dùng
học tập.
Kỹ năng tự lấy gối để ngủ
17
94%
1
Đầu năm
Cuối năm
(tháng 10/2021) (tháng 02/2022)
Số trẻ Tỷ lệ Số trẻ Tỷ lệ
đạt
(%)
đạt
(%)
6%
So
sánh
Tỷ lệ
tăng
(%)
5
28%
18
8
5
5
5
44%
28%
28%
17
17
17
100
%
94%
94%
94%
28%
16
88%
60%
5
28%
15
72%
44%
72%
50%
66%
66%
Như vậy sau khi áp dụng “Một số biện pháp dạy trẻ 24 - 36 tháng kĩ năng
tự phục vụ” thì kết quả tăng lên đáng khích lệ.
Về phía trẻ:
-
Sau một thời gian thực hiện tơi nhận thấy sự tiến bộ rõ rệt của trẻ.
-
Trẻ không những được rèn kĩ năng tự phục vụ mà nó tạo cho trẻ có những kĩ năng
sống cơ bản giúp trẻ phát triển một cách tồn diện.
Về phía giáo viên:
-
Nắm được mục đích hiểu rõ được sự cần thiết phải dạy kĩ năng tự phục vụ cho
trẻ.
-
Nắm vững phương pháp dạy kĩ năng sống, kĩ năng tự phục vụ cho trẻ qua các
hoạt động cho trẻ.
-
Có nhiều hình thức phong phú dạy trẻ kĩ năng tự phục vụ.
-
Mạnh dạn tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh, biết tự chuẩn bị, phối hợp
chặt chẽ, trao đổi thường xuyên với phụ huynh.
6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng:
Từ thực tế khi tổ chức triển khai thực hiện đề tài để có được thành cơng
thì:
* Điều kiện về cơ sở vật chất:
20
- Các trang thiết bị cần thiết: để trẻ hoạt động trải nghiệm thực tế.
- Các tài liệu bồi dưỡng về cơng tác rèn tính tự lập cho trẻ.
- Đầu tư các đồ dùng, đồ chơi an toàn để giáo viên thực hiện công tác giáo dục
trẻ.
- Ban giám hiệu nhà trường tích cực tham mưu với lãnh đạo địa phương xây
dựng, sửa chữa cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu chăm sóc giáo dục của nhà
trường, của từng nhóm lớp.
* Điều kiện đối với giáo viên:
- Yêu nghề, mến trẻ, ln đối xử cơng bằng với trẻ, có tinh thần trách nhiệm cao.
- Tích cực học tự tìm tịi học hỏi để nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ đặc
biệt là cơng tác rèn tính tự lập cho trẻ. Xây dựng kế hoạch và thực hiện rèn cho
trẻ một cách thường xun có hiệu quả, khơng thực hiện hiện một cách qua loa
chiếu lệ.
- Mỗi giáo viên phải là người gương mẫu về mọi mặt để có sức thuyết phục đối
với phụ huynh, với trẻ, với đồng nghiệp.
- Đối với những trẻ chậm phát triển, trẻ còn nhút nhát, chưa mạnh dạn giáo viên
cần quan tâm chăm sóc trẻ, bồi dưỡng ơn luyện cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi, đối xử
công bằng và tôn trọng trẻ, bảo vệ quyền lợi chính đáng của trẻ.
- Làm tốt công tác tham mưu với ban giám hiệu nhà trường.
- Tích cực tham khảo tài liệu sách báo, khơng ngừng học tập nâng cao kiến thức
về dạy trẻ những kĩ năng tự phục vụ cơ bản.
* Điều kiện về trẻ:
- Trẻ ngoan ngoãn, đi học đầy đủ.
- Trẻ có sức khỏe tốt.
* Về khả năng áp dụng của sáng kiến :
Sáng kiến có khả năng áp dụng rộng rãi cho giáo viên thực hiện rèn tính tự lập
cho trẻ nhà trẻ trong trường Mầm non.
21
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Trường mầm non là ngôi nhà thứ hai của trẻ, nghĩa là trẻ vui khi đến trường
và khi về nhà thấy nhớ trường, nhớ lớp, yêu cô mếm bạn. Giáo dục mầm non đảm
bảo phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý của trẻ em; hài hịa giữa ni dưỡng,
chăm sóc, và giáo dục trẻ; phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm kỹ năng xã
hội, trí tuệ, thẩm mỹ. Chính vì vậy với đề tài“Một số biện pháp dạy trẻ kĩ năng tự
phục vụ cho trẻ 24 – 36 tháng”là một trong những nội dung quan trọng trong
chương trình giáo dục mầm non. Song cơng việc đó thật khơng đơn giản do trình
22
độ nhận thức, khả năng tiếp thu của từng trẻ khác nhau, điều kiện hoàn cảnh sống
của từng gia đình trẻ lại không đồng đều vì vậy tôi nhận thấy muốn thực hiện tốt
điều này bản thân mỗi giáo viên cần phải trau dồi năng lực phương pháp sư phạm,
đặc biệt các biện pháp tôi đưa ra giúp giáo viên có them kiến thức về việc dạy trẻ
những kĩ năng phục vụ cho trẻ, đồng thời cô giáo phải là người thực sự thương
yêu, quí mến trẻ, mẫu mực, chịu khó, khơng được cứng nhắc đối với trẻ và u
cầu trẻ phải kiên trì, tỉ mỉ trong công tác giảng dạy và chăm sóc giáo dục trẻ. Giáo
viên là người sát sao hướng dẫn, quan sát động viên khen ngợi kịp thời nhằm kích
thích tính tự tin, khả năng độc lập của trẻ vì nếu trẻ có kĩ năng tự phục vụ tốt sẽ
hình thành lên một nhân cách con người phát triển toàn diện, để trẻ vận dụng vào
cuộc sống thường nhật một cách linh hoạt. Với các biện pháp trên nhằm góp phần
giúp trẻ có kĩ năng tự phục vụ một cách nhẹn nhàng phù hợp với khả năng của
trẻ, ngoài ra nhận thức của phụ huynh về việc dạy trẻ kĩ năng tự phục vụ cho trẻ
được nâng lên rõ rệt. Bởi vì gia đình thật sự là mái ấm tình thương của trẻ bố mẹ
phải là tấm gương sáng để noi theo, phải quan tâm yêu thương có trách nhiệm
uốn nắn cho trẻ ngay từ khi mới chào đời đây chính là thơng điệp của tơi tới
những người làm cha mẹ và những người quan tâm tới trẻ em để trẻ có thể phát
triển một cách tồn diện nhất, tơi hi vọng những biện pháp mà tôi đưa ra không
chỉ áp dụng với lớp tôi mà cịn có thể áp dụng ở các lớp các trường khác với
mong muốn dạy trẻ những kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 24 – 36 tháng được tốt
nhất.
2.
Khuyến nghị.
+ Đối với giáo viên:
- Mỗi giáo viên phải tiếp tục lỗ lực phấn đấu, tự học và sáng tạo, đầu tư thời gian
tìm tòi những biện pháp hay, linh hoạt trong cơng tác rèn tính tự lập cho trẻ để
thực hiện có hiệu quả.
+ Đối với cấp trường:
- Xây dựng các hoạt động mẫu có lồng ghép, tích hợp những kĩ năng tự phục vụ
cho giáo viên bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ.
23
- Nhà trường quan tâm hơn nữa trong việc bồi dưỡng giáo viên làm bảng tuyên
truyền về rèn kỹ năng tự phục vụ cho học sinh và phụ huynh cùng tham khảo.
- Giáo viên xây dựng góc tuyên truyền để dạy những kỹ năng tự phục vụ cho trẻ ở
mọi lúc mọi nơi.
+ Đối với cấp phòng, sở:
- Phòng giáo dục tổ chức nhiều hơn nữa các buổi chuyên đề về dạy kỹ năng sống
cũng như kỹ năng tự phục vụ cho trẻ để nâng cao kinh nghiệm cho giáo viên.
- Cung cấp thêm tài liệu về dạy kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho
trẻ 24-36 tháng tuổi trong trường mầm non.Qua thời gian nghiên cứu và áp dụng
tôi đã thu được kết quả nêu trên. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện mặc dù có
rất nhiều cố gắng nhưng tơi chắc rằng vẫn cịn có nhiều biện pháp thiết thực và
hiệu quả hơn nữa mà tôi chưa đề ra được, việc trình bày nội dung đề tài chắc chắn
cịn có mặt hạn chế. Rất mong sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, cũng như
hội đồng xét duyệt sáng kiến góp ý, để giúp tơi vững vàng hơn trong cơng tác
chăm sóc ni dưỡng giáo dục trẻ và có thêm những biện phápmới để thực hiện
đạt hiệu quả cao hơn ở những năm học tiếp theo.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
HÌNH ẢNH MINH HỌA
24
Hình ảnh 1: Trẻ tự lấy đồ dùng khi cô yêu cầu)
Hình ảnh 2: Trẻ tự cất ba lô
25
Hình ảnh 3: Trẻ tự lấy nước uống
Hình ảnh 4: Trẻ tự đi vệ sinh