1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong hệ thống giáo dục quốc dân tất cả các cấp, các bậc học, ngành học
đều luôn quan tâm nghiên cứu để tìm ra những đổi mới, phương pháp, hình
thức hay để nâng cao chất lượng dạy và học tốt hơn. Tất cả các cấp ngành học
đều góp phần quan trọng đối với sự nghiệp trồng người của đất nước, đặc biệt
là bậc học mầm non. Ở bậc học mầm non các cháu là những đứa trẻ nhỏ còn
non nớt, dễ nhạy cảm với các tác động bên ngoài, đồng thời cũng là lúc phát
triển rất nhanh về mọi mặt. Đây cũng là giai đoạn khởi đầu của việc hình thành
và phát triển nhân cách của trẻ, đặc biệt trong quá trình hình thành và phát triển
nhân cách ngôn ngữ có vai trò rất lớn. Ngôn ngữ là phương tiện giúp cho trẻ
phát triển nhận thức về thế giới xung quanh, ngôn ngữ còn là phương tiện để
phát triển tình cảm đạo đức cho trẻ. “ Ví dụ như những câu hát ru ngọt ngào
của người mẹ hay những lời nói âu yếm của người lớn làm cho trẻ có cảm giác
được yêu thương, che chở ...”[1]. Ngôn ngữ là phương tiện để giao lưu, học hỏi
và lĩnh hội được những tinh hoa văn hóa nhân loại.
Trong quá trình phát triển ngôn ngữ trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ 24 – 36 tháng tuổi
là thời kỳ phát triển mạnh nhất về ngôn ngữ, trẻ lứa tuổi này số lượng vốn từ
của trẻ hàng ngày tăng rất nhanh vì thế chúng ta cần cho trẻ được học nói và
nói nhiều bằng các hình thức khác nhau.
Là giáo viên mầm non với công việc vừa chăm sóc, nuôi dưỡng vừa giáo
dục trẻ, thông qua mọi hoạt động và trên từng tiết dạy tôi nhận ra việc giúp trẻ
phát triển ngôn ngữ là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết. Vì vậy, bước
đầu cho trẻ làm quen với môn học người giáo viên mầm non mang trách nhiệm
của người đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách con người
ở lứa tuổi mầm non.
Trong quá trình hình thành và phát triển ngôn ngữ cho trẻ thì việc hướng
dẫn, giúp đỡ trẻ là trách nhiệm của người lớn, của những người giáo viên, đặc
biệt là giáo viên mầm non. Song tôi nhận thấy bản thân tôi còn lúng túng trong
việc sáng tạo lập kế hoạch giảng dạy cũng như việc lấy trẻ làm trung tâm nên
chưa phát huy được tính tích cực của trẻ trong các hoạt động, hình thức tổ chức
còn cứng nhắc, dập khuôn, tác phong sư phạm thể hiện chưa tốt, cách sử dụng
đồ dùng trực quan còn lúng túng chưa khoa học.
Bên cạnh đó tôi thấy đa số trẻ đến lớp còn rất bỡ ngỡ nhiều trẻ còn nhút nhát
hạn chế về ngôn ngữ, thiếu tự tin, sử dụng câu, từ chưa đúng nghĩa…không
những thế trẻ còn nói tiếng địa phương.
Vì thế mà trẻ cần được dạy nói và nói nhiều thì mới có khả năng nói rõ ràng
mạch lạc, nói đủ câu, đủ từ để trẻ tự tin tham gia các hoạt động của các bậc học
sau. Chính vì vậy mà tôi mạnh dạn đưa ra đề tài “ Một số giải pháp nâng cao
chất lượng dạy trẻ 24 – 36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ ở trường mầm
non Thiệu Duy – Thiệu Hóa ” làm đề tài sáng kiến của mình trong năm học
2016 - 2017.
1.2. Mục đích nghiên cứu
1
- Nhằm đưa ra các giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng
tuổi ở trường mầm non Thiệu Duy.
- Thông qua các hoạt động giúp trẻ hình thành và phát triển tích lũy và mở
rộng vốn từ phong phú, đa dạng giúp trẻ phát âm đúng, tạo cho trẻ một môi
trường ngôn ngữ lành mạnh, từ đó gióp trÎ diễn đạt rõ ràng, mạch lạc, là điều
kiện và chuẩn bị cho trẻ một hành trang ngôn ngữ tốt sau này.
- Tìm ra những khó khăn trong khi tổ chức các hoạt động dạy trẻ 24 – 36
tháng tuổi phát triển ngôn ngữ.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng của đề tài: Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy trẻ 24 –
36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ.
- Nhằm giúp trẻ nhà trẻ 24 – 36 tháng tuổi trường mầm non Thiệu DuyThiệu Hóa phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê toán học: Dùng phương pháp này để xử lý số
liệu thu được.
- Phương pháp nêu gương, nhận xét đánh giá.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2. 1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non nói chung và trẻ nhà trẻ độ tuổi 24 –
36 tháng tuổi nói riêng được xem là một trong các nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu trong việc giáo dục phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ mầm non.
Đối với trẻ mầm non nhờ có ngôn ngữ trẻ nhận biết ngày càng nhiều các
sự vật, hiện tượng mà hàng ngày trẻ được tiếp xúc. Ngôn ngữ của trẻ phát triển
hàng ngày theo các độ tuổi khác nhau.
Thông qua ngôn ngữ sự hiểu biết của trẻ về thế giới xung quanh trẻ ngày
càng rộng lớn hơn, qua các hoạt động hàng ngày giáo viên giúp trẻ phát triển
ngôn ngữ một cách phong phú, phát âm rõ ràng, mạch lạc mang ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong việc phát triển toàn diện nhân cách trẻ vì vậy việc dạy
trẻ học nói, để trẻ được nói thông qua các hoạt động hàng ngày có vai trò vô
cùng quan trọng, góp phần giúp trẻ hình thành và phát triển ngôn ngữ
cho trẻ một cách có hiệu quả cao nhất. “ Hoạt động tổ chức phát triển ngôn
ngữ cho trẻ góp phần hình thành ở trẻ những tình cảm đạo đức tốt đẹp, những
cảm xúc thẩm mĩ, phát triển trí tưởng tượng như: Tình yêu thiên nhiên, yêu quê
hương đất nước, lòng kính trọng, thương yêu những người thân xung quanh trẻ
như: Ông, bà, bố, mẹ, cô giáo, anh chị em...” [2]
2. 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
* Thuận lợi
- Trong năm học tôi được phân công phụ trách nhóm trẻ 24 – 36 tháng tuổi
bản thân đã nhận được sự quan tâm, tạo điều kiện về mọi mặt của ban
2
giám hiệu nhà trường, công đoàn. Sự đoàn kết nhất trí cũng như sự
giúp đỡ nhiệt tình của đồng nghiệp trong nhà trường.
Chuyên môn nhà trường thường xuyên tổ chức các buổi bồi dưỡng chuyên
môn, triển khai các chuyên đề để giáo viên nắm vững kiến thức chuyên môn,
đồng thời nhận được sự ủng hộ quan tâm giúp đỡ của các bậc phụ huynh trong
công tác chăm sóc – giáo dục trẻ.
- Phòng học có diện tích đủ theo quy định có đủ đồ dùng, đồ chơi,
máy tính, máy chiếu ... phục vụ các hoạt động phát triển ngôn ngữ
cho trẻ.
- Giáo viên nhiệt tình trong phong trào làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo phục
vụ quá trình hình thành và phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Các cháu khỏe mạnh, nhanh nhẹn, hoạt bát, được học theo
đúng lứa tuổi và đều rất thích hoạt động vui chơi. Trẻ rất thích
nghe cô kể chuyện, đọc thơ, đọc các bài đồng dao, các câu ca
dao, tục ngữ …
- Bản thân tôi, là một giáo viên trẻ, tâm huyết với nghề, luôn yêu nghề mến
trẻ, coi trẻ như con em mình, bên cạnh đó bản thân còn thường xuyên bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ qua các kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên trong
năm.
- Học sinh học chia theo độ tuổi nên việc thu nhận kiến thức khá đồng đều.
* Khó khăn
- Thiệu Duy là một xã có địa bàn rộng và đa phần phụ huynh làm nông
nghiệp nên kinh tế các hộ gia đình còn gặp nhiều khó khăn vì vậy hoàn cảnh
sống của trẻ, của các gia đình cũng không đồng đều, nên việc quan tâm đến trẻ
đang còn hạn chế.
- Cơ sở vật chất của trường đang còn gặp nhiều khó khăn như phòng học
đang còn thiếu một số nhóm lớp còn học nhờ, học tạm, lớp quá tải.
- Đội ngũ giáo viên chưa đủ định biên trên lớp.
- Các cháu nhỏ mới bắt đầu đến lớp nên còn hay khóc nhiều và chưa thích
nghi với các điều kiện sinh hoạt của trẻ.
- Khả năng chú ý có chủ định của trẻ còn không đồng đều, trẻ hứng thú
nhanh nhưng cũng nhanh chán, nhanh quên ngay.
- Đa số trẻ là con em nông thôn nên còn nhút nhát, chưa tự tin trong giao
tiếp, một số trẻ còn chậm nói, hay nói ngọng, nói lắp...
- Nhiều trẻ chưa biết sử dụng và xắp xếp các từ thành câu khi nói nên khi nói
còn bỏ bớt âm, bớt từ.
- Bên cạnh những phụ huynh quan tâm phối kết hợp tốt với giáo viên nhưng
cũng còn rất nhiều phụ huynh vẫn chưa chú ý đến việc chăm sóc giáo dục trẻ
và phối kết hợp tốt với giáo viên.
* KÕt qu¶ cña thùc tr¹ng trªn
Để đề ra được các giải pháp nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho
trẻ 24 – 36 tháng tuổi ngay từ đầu năm học mới tôi đã đánh giá phân loại khả
3
năng phát triển ngôn ngữ của trẻ trong lớp tôi phụ trách để từ đó có những giải
pháp tốt hơn trong quá trình phát triển ngôn ngữ của trẻ.
* Kết quả điều tra của đầu năm như sau
Kết quả
T
Kỹ năng
T
1 Khả năng nghe,
hiểu ngôn ngữ
2 Khả năng phát
âm chuẩn
3 Khả năng nói
mạch lạc
4 Khả năng nói
đúng ngữ pháp
Tổng số
Đạt
Số lượng Tỉ lệ %
Chưa đạt
Số lượng Tỉ lệ %
25
17
68
8
32
25
15
60
10
40
25
16
64
9
36
25
13
52
12
48
Qua quá trình khảo sát sự phát triển ngôn ngữ ở trên đối với trẻ 24 – 36
tháng tuổi, tôi nhận thấy phần đa số trẻ còn hạn chế về ngôn ngữ, nên bản thân
tôi đã học hỏi, nghiên cứu, tìm tòi để tìm ra những giải pháp hay, hấp dẫn để
giúp trẻ phát huy hết khả năng ngôn ngữ của mình.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
* Giải pháp 1: Nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lý trẻ 24- 36 tháng tuổi
- Khi trẻ bắt đầu đến trường trẻ còn nhút nhát, chưa tự tin nên trẻ không
thích chơi với bạn, trẻ nói còn ít. Nên giáo viên cần phải hiểu được đặc điểm
này để có biện pháp thu hút trẻ vào các hoạt động phát triển ngôn ngữ bằng
cách gần gũi và chủ động giao tiếp với trẻ.
Ví dụ : Trong giờ dạy trẻ xâu vòng tôi phát hiện ra một vài trẻ không chịu
xâu vòng mà chỉ ngồi nghịch hạt vòng, tôi lại một trong số trẻ đấy và hỏi trẻ
Lợi ơi! Tại sao con không xâu vòng. Ban đầu trẻ không nói gì chỉ nhìn tôi rồi
lại nghịch hạt vòng, khi thấy như vậy tôi lại sẽ đàm thoại cùng Lợi, tôi nói: “
Cô đố bạn Lợi giỏi trả lời cho cô câu hỏi hôm nay cô đang cho các con học bài
gì nào? ”, “ Xâu vòng!”. “Bạn Lợi rất giỏi trả lời đúng rồi nhưng con phải trả
lời đủ câu: Thưa cô xâu vòng ạ”, tôi sửa luôn cho trẻ. Sau đó tôi lại hỏi: “ Thế
bạn Lợi có yêu mẹ của mình không?”, Lợi trả lời là có và tôi đã động viên và
khuyến khích Lợi, đúng rồi đấy vậy bây giờ con sẽ xâu vòng tặng mẹ cho cô và
các bạn xem con xâu vòng có đẹp không nhé. Vậy là được sự khuyến khích của
tôi cháu đã tham gia xâu vòng rất hăng say còn luôn miệng nói xâu vòng để
tặng cho mẹ.
- Trẻ 24 – 36 tháng tuổi là giai đoạn bắt đầu làm quen với các hoạt động
nên trẻ chưa quen khả năng chú ý, trẻ chưa thật tự tin, chưa tích cực trong các
hoạt động, khả năng phát âm chưa rõ ràng, chưa diễn đạt thành thạo, câu từ của
trẻ chưa chính xác vì vậy giáo viên phải hiểu rõ được đặc điểm này.
4
Ví dụ: Đầu năm rất nhiều trẻ vào giờ chơi thao tác vai chưa biết chơi như
thế nào? tôi rất quan tâm chú ý đến những trẻ này và tôi đã đến góc chơi để
hướng dẫn trẻ để trẻ phản ánh đúng vai chơi và giao lưu giữa các nhóm chơi
với nhau, tôi đã đến góc thao tác vai và hỏi trẻ cháu đang làm gì đấy? Trẻ trả
lời là bế em khi nghe vậy tôi đã sửa cho trẻ con phải nói là “ Bác ơi! Tôi đang
bế em” và để cho trẻ nói lại.
- Trẻ 24 -36 tháng tuổi khả năng diễn đạt còn hạn chế trẻ hay nói ngược,
chưa biết sắp xếp câu để diễn đạt cho hay, cho đúng diễn đạt còn ngắt quãng
câu có hai từ ngắt nghỉ không đúng lúc đúng chỗ.
Ví dụ: Khi tôi đưa cho trẻ một thứ gì bảo trẻ xin sẽ có trẻ nói: Cô xin con! ,
nhưng có trẻ lại chỉ nói: “ Xin cô”. Khi tôi hỏi trẻ hôm nay ai đưa con đi học?
Trẻ thường trả lời trống không “Bố” và trong những lúc đấy tôi sẽ hướng dẫn
trẻ trả lời đủ câu và sắp xếp câu cho phù hợp.
* Giải pháp 2: Nắm vững phương pháp dạy học
Chuyên môn là yêu tố quan trọng nhất của bất kỳ ngành nghề nào, đặc
biệt là giáo viên người đóng vai trò cốt lõi trong việc ươm mầm một thế hệ
mới.
Là một giáo viên mầm non khi dạy một bộ môn nào đó thì phải hiểu
được phương pháp của bộ môn đó và yêu cầu của từng hoạt động với trình độ
nhận thức cũng như khả năng của trẻ tại nhóm lớp của mình. Bên cạnh đó ta
thấy hoạt động học là hoạt động có trình tự, có phương pháp và các hướng dẫn
riêng biệt. Chính vì vậy người giáo viên khi tổ chức bất kỳ một hoạt động nào
để đạt được kết quả mong muốn cần phải nắm vững phương pháp của hoạt
động và linh hoạt trong các hình thức tổ chức.
Do đặc điểm của lứa tuổi 24 - 36 tháng nên khi tổ chức hoạt động phát
triển ngôn ngữ cho trẻ tôi luôn tìm tòi, khám phá phối hợp các phương pháp và
hình thức dạy học theo phương châm “Linh hoạt, sáng tạo”. Dựa trên đặc
điểm hoạt động của trẻ là “Học mà chơi, chơi mà học” [3] nhằm đạt được hiệu
quả cao nhất.
Trong các hoạt động tôi luôn chú ý đặt câu hỏi mang tính chất gợi mở dễ
hiểu để trẻ trả lời, không đưa ra câu hỏi mang tính chất áp đặt chung chung.
Tôi thường đặt ra những câu hỏi dễ mang tính kích thích từ đó giúp trẻ phát
triển tư duy sáng tạo và cũng thông qua các câu trả lời và thảo luận đó phát
triển ngôn ngữ cho trẻ, mặt khác qua câu trả lời của trẻ cô chú ý nhắc trẻ trả lời
đủ câu, phất âm to, rõ ràng, mạch lạc và sửa sai luôn cho trẻ và giáo viên đóng
vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn từ cho trẻ, tôi luôn khuyến khích trẻ
mạnh dạn giao lưu, thảo luận với cô hoặc với các bạn về các nhân vật trong tác
phẩm để kích thích tính tìm tòi và phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Thông qua các giờ đọc thơ hay kể chuyện tôi tích hợp lồng ghép các trò chơi
nhằm khuyến khích trẻ bắt chước tiếng kêu của các nhân vật trong thơ, trong
chuyện từ đó góp phần phát triển vốn từ của trẻ phong phú hơn.
Ví dụ: Trong chủ đề: “Những con vật đáng yêu” thì tôi cho trẻ làm quen
với câu chuyện: “Thỏ con không vâng lời”.[4]
5
Khi tôi kể cho trẻ nghe câu chuyện đến phần đàm thoại về nhận vật Thỏ con tôi
sẽ đưa ra 2 hình ảnh sau:
Vâng ạ ! Con ở nhà con không đi chơi xa.
Thỏ con liền chạy theo bươm bướm đi chơi mãi xa, thật xa.
6
và đặt ra cho trẻ câu hỏi: Bạn thỏ con có vâng lời mẹ không? thì sẽ có rất nhiều
ý kiến thảo luận khác nhau chắc chắn sẽ có trẻ trả lời là Thỏ con không vâng
lời mẹ. Nhưng cũng có trẻ sẽ trả lời là bạn thỏ con vâng lời mẹ, biết xin lỗi mẹ,
chỉ qua một câu hỏi trẻ sẽ đưa ra ý kiến khác nhau và sẽ kích thích rất nhiều trẻ
tham gia các câu thảo luận và trả lời qua đó phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Khi trẻ
trả lời xong cô sẽ giải thích và giải đáp những thắc và những tranh luận của trẻ
trong từng tình huống.
- Qua kinh nghiệm dạy trẻ, tôi nhận thấy: Muốn phát triển ngôn ngữ cho trẻ
tốt nhất thông qua các bài thơ, câu chuyện cần thu hút sự chú ý hứng thú cho
trẻ mặt khác giúp trẻ cảm thụ tốt âm điệu, nhịp điệu, giọng điệu của các lời
thoại trong tác phẩm. Muốn vậy giáo viên phải là người cảm thụ tốt tác phẩm
đầu tiên và phải đầu tư, nghiên cứu kỹ tác phẩm, tập thể hiện giọng điệu, ngữ
điệu của các nhận vật hay vần điệu, nhịp điệu của bài thơ khi đọc, kể tác phẩm.
- Khi đọc thơ cho trẻ nghe, cô nên đọc thật êm dịu, nhẹ nhàng chú ý ngắt
nhịp, đọc nhấn mạnh vào các từ mang tính nhịp điệu hoặc khi kể chuyện cho
trẻ nghe, cô phải kể diễn cảm, thể hiện giọng nói, điệu bộ cử chỉ từng nhân vật
trong chuyện, cử chỉ nét mặt của cô phải thể hiện làm sao để thu hút được sự
chú ý của trẻ và khi trẻ chú ý vào cử chỉ điệu bộ nét mặt của cô thì trẻ mới hiểu
được tích cách của các nhân vật và khi muốn trẻ tái hiện lại nhân vật đó thì trẻ
dễ dàng nắm bắt và thể hiện tốt hơn và như vậy cũng sẽ khắc sâu cho trẻ hơn
về câu chuyện, bài thơ.
Ví dụ: Trong chủ đề gia đình khi đọc cho trẻ nghe bài thơ “Yêu mẹ”[5] cô
cần chú ý ngắt giọng đúng nhịp: Mẹ đi làm / Từ sáng sớm / Dậy thổi cơm /
Mua thịt cá … Để trẻ chú ý và khi trẻ đọc sẽ biết ngắt giọng đúng chỗ nhằm
mục đích phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ.
* Giải pháp 3: Luyện phát âm đúng cho trẻ
- Rèn luyện khả năng nghe
Khả năng phản ứng và nghe các âm thanh tự nhiên xuất hiện khá sớm từ
lúc trẻ mới lọt lòng mẹ nhưng mức độ phản ứng ở mỗi trẻ khác nhau. Để trẻ
nghe, hiểu chính xác lời nói của người lớn, trước hết chúng ta cần phải rèn
luyện khả năng nghe để từ đó trẻ có khả năng nói tốt hơn.
Ví dụ: Trong giờ học nhận biết tập nói: Nhận biết tên gọi ô tô, xe đạp, tàu
hỏa để tạo sự chú ý cho trẻ vào giờ học tôi chuẩn bị một khu bến xe có rất
nhiều mô hình các loại xe khác nhau và tổ chức cho trẻ làm người lái xe để đi
tham quan bến xe. Đến bến tôi cho trẻ quan sát tất cả các loại xe có ở bến và
cho trẻ trò truyện về các loại xe, cho trẻ nói tên xe. Nếu trẻ chưa biết thì tôi nói
tên cho trẻ nhắc lại. Cứ như vậy dần dần tôi đã luyện được khả năng nghe cho
trẻ và giúp trẻ hiểu được lời nói của người khác.
- Rèn luyện khả năng phát âm
Để rèn luyện khả năng phát âm cho trẻ giúp trẻ được nói và nói chính xác
hơn thì giáo viên trước hết phải có kỹ năng nói chính xác, nói chuẩn tiếng
việt, người giáo viên phải tạo cơ hội cho trẻ được nói.
7
Ví dụ: Trong giờ học cho trẻ nhận biết “Con gà” khi đưa ra bức tranh con gà
tôi sẽ đưa ra các câu hỏi theo nội dung bức tranh để trẻ quan sát và trả lời câu
hỏi như: Trên đầu gà có gì? Mào gà có màu gì? Gà trống gáy thế nào? Và cho
trẻ cùng bắt chước tiếng gà trống gáy “ò…ó…o…”. Nhiều trẻ còn hay nói
ngọng, nói lắp, nói chưa đủ câu vì vậy khi luyện phát âm cho trẻ cô giáo cần
chú ý nhiều đến những trẻ này để giúp trẻ nói đúng ngữ pháp và nói đủ câu.
Ví dụ: Khi cho trẻ quan sát bức tranh “Xe đạp” trẻ thường hay nói “Xe chạp”
khi trẻ mắc phải lỗi như thế tôi không nhắc lại câu nói của trẻ mà tôi sẽ nói lại
từ “ Ô tô” cho trẻ nói theo nhiều lần cho đến khi trẻ nói chính xác hơn.
* Giải pháp 4: Dạy trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua sử dụng đồ dùng
trực quan
Việc nghiên cứu và sử dụng đồ dùng trực quan được diễn ra song song
trong suốt quá trình thực hiện đề tài, đồ dùng trực quan sử dụng trong quá trình
phát triển ngôn ngữ cho trẻ là cách thức giáo viên cho trẻ tri giác bằng các giác
quan của mình đối với đối tượng nhằm mục đích giúp trẻ mở rộng vốn từ. Đồ
dùng trực quan góp phần rất quan trọng vào sự tích cực hoạt động của trẻ và
đem lại hiệu quả cao cho giờ học, vì vậy trước khi vào giờ học tôi đã nghiên
cứu kỹ và đã chuẩn bị đồ dùng trực quan đầy đủ phù hợp với đặc điểm tâm
sinh lý của trẻ và phải có tính thẩm mỹ, hấp dẫn gắn với chủ đề và phù hợp với
thực tế, quan trọng nhất là thu hút được tính tích cực của trẻ vì khi sử dụng đồ
dùng trực quan trẻ được tiếp xúc trực tiếp như: Quan sát, cầm nắm đưa ra nhận
xét của mình từ đó giúp trẻ hình thành và phát triển vốn từ.
Tuy nhiên tùy vào từng hoạt động mà giáo viên chuẩn bị và sử dụng các
đồ dùng trực quan khác nhau, không nhất thiết phải chọn tranh ảnh, mô hình
hay vật thật.
Ví dụ: Khi cho trẻ nhận biết “quả cam, quả xoài” tôi chọn đồ dùng trực quan
bằng vật thật đó là quả cam và quả xoài để cho trẻ quan sát và tìm hiểu, tôi đặt
ra các câu hỏi như: Quả cam có màu gì? Bên trong quả cam có gì? Ăn quả cam
có vị gì? (cho trẻ được sờ tay vào quả cam. Sau đó tôi sẽ bóc vỏ quả cam và
gợi ý để trẻ nêu nhận xét “ bên trong vỏ có múi cam”). Khi sử dụng vật thật
theo hình thức này tôi nhận ra trẻ rất hứng thú trong giờ học, khi trẻ suy nghĩ
tìm ra đáp án và trả lời các câu hỏi của cô là trẻ đã phát triển thêm khả năng
suy nghĩ và phát triển được ngôn ngữ ở trẻ.
* Giải pháp 5: Dạy trẻ phát triển ngôn ngữ ở mọi lúc, mọi nơi và lồng ghép
các hoạt động
Trẻ càng nhỏ thì nhu cầu giao tiếp của trẻ với người lớn, với mọi người
xung quanh ngày càng cao, trẻ thích khám phá, tìm hiểu những điều mới lạ của
thế giới xung quanh trẻ. Tuy nhiên vốn từ của trẻ còn rất hạn chế. Để phát triển
ngôn ngữ cho trẻ tôi đã tận dụng mọi thời điểm thích hợp mọi lúc, mọi nơi, mọi
hoạt động trong ngày của trẻ.
+ Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua giờ đón trẻ, trò chuyện buổi sáng
Khi đón trẻ vào lớp và trò chuyện với trẻ buổi sáng tôi có thể hỏi trẻ:
8
Hôm nay bố mẹ đưa con đến trường bằng xe gì? Trẻ sẽ trả lời: Mẹ đưa con
bằng xe đạp! qua đó trẻ sẽ nhớ ngay đến bài thơ “ Xe đạp” và nếu trẻ hứng thú
trẻ có thể thể hiện luôn bài thơ sau đó cô trò chuyện về chủ đề và cho trẻ thể
hiện bài thơ trong chủ đề. Hàng ngày khi trò chuyện với trẻ tôi sẽ gợi ý, hướng
dẫn để trẻ đưa ra những nhận xét, những câu trả lời của mình với hình thức này
đã góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ, tuy nhiên vẫn phải luôn nhớ nhắc trẻ
nói đủ câu, nói rõ ràng. Tôi nhận thấy khi trò chuyện thoải mái, tự nhiên với có
tác dụng rất lớn trong việc cung cấp vốn từ cho trẻ, giúp trẻ hiểu nghĩa của câu,
nói trọn vẹn, diễn đạt mạch lạc.
+ Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động chơi tập có chủ định
Hoạt động học có chủ định là hoạt động được tiến hành theo trình tự lô
gíc nhất định. Hoạt động này là quan trọng nhất trong thời gian biểu một ngày
đến trường của trẻ, đặc biệt nó góp phần tích cực trong quá trình hình thành và
phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Vì vậy mà trong giờ hoạt động phát triển ngôn ngữ
cho trẻ, cô giáo cần phải chuẩn bị nội dung thật kỹ và chuẩn bị các bước hoạt
động cơ bản theo một trật tự nhất định.
Ví dụ: Trong giờ dạy thơ “ Xe đạp” [5] khi ổn định tổ chức và gây hứng thú
cho trẻ, tôi sẽ cho trẻ quan sát hình ảnh xe đạp đã chuẩn bị sẵn ở góc chủ đề và
hỏi trẻ “ Xe đạp dùng để làm gì?” sau đó hướng trẻ vào nội dung bài thơ và cho
trẻ giả làm người lái xe đạp để đi về chỗ mà cô chuẩn bị hướng trẻ vào nội
dung chính.
Hình ảnh cô tổ chức hoạt động học cho trẻ
Khi đọc thơ cho trẻ nghe xong thì cô đưa ra các câu hỏi đàm thoại trẻ sẽ suy
nghĩ, khi trẻ suy nghĩ và tìm ra đáp án rồi trả lời câu hỏi của cô có nghĩa là đã
9
phát triển khả năng tư duy và ngôn ngữ cho trẻ. Khi cho trẻ đọc thơ là thời
điểm mà ngôn ngữ của trẻ phát triển nhiều nhất bởi ở đây tất cả mọi trẻ đều
được hoạt động vì thế mà cô giáo cần chú ý nhiều đến trẻ hơn để sửa sai lỗi khi
đọc, phát âm của trẻ, chú ý nhiều đến những trẻ còn nói ngọng, nói chưa đủ
câu, chưa rõ ràng.
+ Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động ngoài trời
Khi cho trẻ tham gia vào hoạt động ngoài trời là thời điểm mà trẻ được
khám phá, trải nghiệm một thế giới thu nhỏ xung quanh trẻ. Cho trẻ trò chuyện,
tìm hiểu, quan sát một sự vật hiện tượng nào đó ngoài thiên nhiên cô có thể
dùng các câu thơ, đoạn chuyện, các bài đồng dao, ca dao … để gây hứng thú và
gợi ý để đưa trẻ đến nội dung chính mà cô sẽ cho trẻ quan sát, tìm hiểu.
Ví dụ: Trong giờ hoạt động ngoài trời với nội dung “ Quan sát cây rau bắp
cải” cô có thể cho trẻ đọc bài thơ “ Bắp cải xanh” khi trẻ đọc thơ là cô đã góp
phần vào việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ hoặc cô đưa ra câu hỏi: Lá bắp cải
có màu gì? Trẻ sẽ quan sát đưa ra nhận xét “Màu xanh ạ!” như vậy là đã phát
triển khả năng tri giác và ngôn ngữ cho trẻ.
+ Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động vui chơi
Khi tham gia hoạt động thao tác vai hoặc hoạt động với đồ vật trẻ được
trải nghiệm và bước đầu tái tạo lại những công việc hàng ngày của người lớn,
trẻ sẽ thể hiện những nội dung mà trẻ yêu thích, trong khi chơi trẻ sẽ được giao
lưu với các bạn trong nhóm chơi, chính vì vậy khi cho trẻ tham gia chơi hoạt
động trong lớp cô giáo cần hướng dẫn gợi mở cho trẻ để trẻ tham gia chơi một
cách có hiệu quả theo nội dung chủ đề chơi. Trẻ tham gia chơi, giao lưu với
nhau sẽ góp phần làm cho vốn từ của trẻ ngày càng phong phú hơn.
Ví dụ: Trong góc hoạt động với đồ vật chủ đề “ Gia đình”[5], tôi chuẩn bị
một số khối gỗ hình vuông, hình tam giác sau đó yêu cầu trẻ quan sát cô xếp
hình ngôi nhà và yêu cầu trẻ cầm các khối gỗ và xếp thành hình ngôi nhà, cô
quan sát và hướng dẫn, cô hỏi trẻ:
- Con đang làm gì vậy? (Trẻ trả lời: Con đang xếp ngôi nhà ạ!)
- Muốn xếp được ngôi nhà con phải xếp gì trước? ( xếp tường nhà ạ!)
- Tường nhà con xếp bằng hình gì? ( hình vuông ạ! )
- Đâu là hình vuông? ( Trẻ chỉ vào hình vuông – Đây là hình vuông)
Khi quan sát trẻ thực hiện và đưa ra các câu hỏi gợi ý, yêu cầu trẻ trả lời, trẻ
sẽ chú ý để tìm ra đáp án, như vậy là đã góp phần vào việc phát triển ngôn ngữ
cho trẻ.
+ Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động vệ sinh, giờ ăn, giờ
ngủ
Thông qua hoạt động vệ sinh, ăn ngủ hàng ngày cùng với sự hướng dẫn
giúp đỡ của giáo viên trẻ sẽ được hoạt động độc lập, hoạt động theo nhóm hoặc
cả lớp nhưng cô dù sao cô cũng cần cố gắng để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ
bằng các cách khác nhau.
Ví dụ 1: Trước giờ ăn cơm cho trẻ đọc thơ: “Giờ ăn”[5] sau đấy hỏi trẻ:
- Trước giờ ăn cơm chúng mình phải làm gì?
10
- Trong khi ăn các con phải như thế nào?
Ví dụ 2: Trước khi đi ngủ cô chuẩn bị giường gối cho trẻ và hỏi trẻ:
- Trước khi đi ngủ các con phải làm gì? ( Con phải đi vệ sinh ạ!)
- Khi ngủ các con phải như thế nào? ( Nằm ngay ngắn, không nghịch ạ!)
những câu nói của trẻ đã góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Cô chú ý nhắc
nhở trẻ nói rõ ràng, nói đủ câu.
Giờ ngủ của các bé ở trường
+ Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua giờ trả trẻ
Hàng ngày trước khi ra về tôi thường dặn dò trẻ một số công việc như:
Khi bố mẹ đến đón các con phải làm gì?
Khi gặp người lớn con phải làm gì?... Để trẻ trả lời câu hỏi của cô.
Lúc ông bà, bố mẹ đến đón trẻ tôi hướng dẫn cho trẻ chào các bạn, chào ông
bà, bố mẹ rồi mới ra về.
Ví dụ: - Con chào các bạn để về nào!
- Con chào mẹ đi nào!
+ Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua ngày lễ, ngày hội
Qua các buổi hoạt động ngoại khóa, ngày hội, ngày lễ như ngày khai
giảng, tết trung thu... cô giáo có thể cho trẻ lên đọc thơ, kể chuyện hay nhận xét
về nhân vật chú Cuội, chị Hằng trong cổ tích. Đây là biện pháp hay để phát
triển ngôn ngữ vì thông qua đó rèn luyện khả năng diễn đạt mạch lạc, tự tin
trước đám đông cho trẻ.
* Giải pháp 6: Trao đổi, phối kết hợp với phụ huynh
Quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ đồng thời diễn ra song song giữa gia
đình và nhà trường nên để cho quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ được thường
11
xuyên, liên tục và đạt hiệu quả cao. Bên cạnh đó, đối với trẻ lứa tuổi 24 – 36
tháng là giai đoạn tiền ngôn ngữ, khả năng ngôn ngữ của trẻ đang phát triển rất
nhanh, trẻ cần được nghe nói, được nói nhiều và nói ở mọi lúc, mọi nơi nên gia
đình ngoài việc đưa trẻ hàng ngày đến trường mầm non thì gia đình cũng có
trách nhiệm lớn trong quá trình giáo dục trẻ.
Vì vậy để đạt được hiệu quả tốt cho việc phát triển ngôn ngữ của trẻ thì
không những dạy trẻ học nói ở trường mà gia đình góp phần hết sức quan trọng
trong việc phát triển ngôn ngữ, vì vậy mà cô giáo cần kết hợp chặt chẽ với phụ
huynh để tuyên truyền cho phụ huynh biết về những đặc điểm này của trẻ để từ
đó phụ huynh góp phần vào việc dạy trẻ học nói ở nhà, học nói ở mọi lúc, mọi
nơi, động viên phụ huynh dành nhiều thời gian quan tâm chăm sóc con cái của
mình hơn.
Chỉ có việc phối kết hợp với phụ huynh thì giáo viên mới có thể nắm bắt
được đặc điểm tâm sinh lí của trẻ, biết được đặc điểm về ngôn ngữ của trẻ để
từ đó có biện pháp giáo dục trẻ phù hợp, đặc biệt là đối với những trẻ cá biệt về
ngôn ngữ của từng cháu để có thể dễ dàng hơn trong quá trình chăm sóc và
giáo dục trẻ.
Để làm tốt công tác trao đổi phối kết hợp với phụ huynh tôi đã đưa ra rất
nhiều cách khác nhau để tuyên truyền tại các buổi họp phụ huynh, trao đổi với
phụ huynh trong các giờ đón, trả trẻ như nhắc phụ huynh về nhà hỏi con xem
hôm nay cô giáo dạy bài thơ gì và phụ huynh nhắc cho trẻ đọc lại bài thơ đó để
giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, tuy nhiên vẫn phải nhớ nhắc phụ huynh là hướng
dẫn để trẻ đọc chính xác, rõ lời. Cô giáo gợi ý cho phụ huynh sưu tầm các loại
tranh thơ, truyện phù hợp với lứa tuổi để hướng dẫn cho con học đọc, học nói
thêm ở nhà.
Hình ảnh cô giáo trao đổi với phụ huynh tình hình học tập của trẻ
12
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
* Đối với hoạt động giáo dục
Góp phần hình thành và phát triển ngôn ngữ của trẻ thông qua giao tiếp với cô,
với các bạn và với sự vật, hiện tượng xung quanh. Qua việc áp dụng những
phương pháp trên tôi thấy ngôn ngữ của trẻ phát triển phong phú hơn, trẻ nói
mạch lạc hơn.
* Đối với bản thân
Qua nghiên cứu đề tài này bản thân tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm
trong quá trình phát triển ngôn ngữ cho trẻ cũng như tất cả các hoạt động khác
đó là:
- Giáo viên đã hiểu được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho
trẻ để từ đó có kế hoạch cụ thể về việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Cần nắm vững những kiến thức của từng chủ đề, chủ điểm, phải nghiên
cứu kỹ từng đề tài để lựa chọn phương pháp, hình thức hướng dẫn phù hợp
đem lại kết quả tốt nhất.
- Tích cực sáng tạo nghiên cứu để tìm ra giáo cụ trực quan thích hợp trong
khi tổ chức các hoạt động.
- Luôn rèn luyện cho mình có giọng nói hay, hấp dẫn, kỹ năng phát âm đúng
rõ ràng để giúp trẻ trong hoạt động phát triển ngôn ngữ.
- Luôn tạo ra sự sáng tạo linh hoạt mềm dẻo thoải mái trong các hoạt động.
- Lựa chọn các nội dung hoạt động gần gũi, phù hợp với trẻ để cho trẻ dễ
hiểu, dễ nhớ, gần gũi và phù hợp với khả năng ngôn ngữ của trẻ.
- Quan tâm đặc biệt đến những trẻ cá biệt mọi lúc mọi nơi để trẻ tự tin trong
các hoạt động.
* Đối với đồng nghiệp và nhà trường
Khi áp dụng các biện pháp này vào trong hoạt động giáo dục phát triển ngôn
ngữ cho trẻ tôi đã được nhiều đồng nghiệp góp ý để phát huy tối ưu biện pháp
và từ đó nhân ra các lớp để áp dụng trong toàn trường. Vì vậy phong trào giáo
dục trong nhà trường cũng được cải thiện đáng kể.
KÕt qu¶ sau khi thực hiện các giải pháp
Kết quả
Tổng
TT Kỹ năng
Đạt
Chưa đạt
số
Số lượng Tỉ lệ %
Số lượng Tỉ lệ %
1 Khả năng nghe,
25
23
92
2
8
hiểu ngôn ngữ
2 Khả năng phát
25
24
96
1
4
âm chuẩn
3 Khả năng nói
25
23
92
2
8
mạch lạc
13
4
Khả năng nói
25
24
96
1
4
đúng ngữ pháp
Qua kết quả trên cho thấy sau khi đưa ra phương pháp trên thì kết quả đạt
được tốt hơn rõ rệt, cụ thể:
- Đa số trẻ đã mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp với cô và các bạn trong
lớp, với mọi người xung quanh.
- Vốn từ của trẻ đã phong phú hơn rất nhiều so với đầu năm học. Trẻ đã có
thể tự đề nghị với cô điều trẻ muốn, đã có trẻ tự kể lại được với cô một sự việc,
hiện tượng vừa xảy ra, có trẻ đã kể lại được một câu chuyện ngắn với sự giúp
đỡ của cô cho cô và các bạn nghe.
- Trẻ đã biết cách sắp xếp trật tự các từ trong câu nên khi trẻ nói trẻ không
bớt từ, trẻ đã phát âm được cả câu trọn vẹn.
- Khả năng nghe, hiểu, trả lời câu hỏi của cô đã tốt hơn rất nhiều. Trẻ ở lớp
tôi hàng ngày tham gia các hoạt động hay trò chuyện cùng cô, trẻ đã nói rõ
ràng hơn, từ chỗ trẻ nói ngọng nói lắp qua các hoạt động cô sửa sai và hướng
dẫn cho trẻ, trẻ nói ngày càng tốt hơn.
- Trong các hoạt động trẻ đã rất hứng thú để tham gia thể hiện tài năng kể
chuyện cùng cô, đọc thơ của mình, trẻ đã biết đọc thơ, kể chuyện hay hơn, nhịp
nhàng, diễn cảm hơn.
- Trong giao tiếp với cô, với các bạn, trẻ đã biết đưa ra câu hỏi và câu trả lời
đầy đủ, rõ ràng hơn.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
* Kết luận
- Trẻ 24 - 36 tháng tuổi là thời kỳ ngôn ngữ phát triển mạnh nên vấn đề
phát triển ngôn ngữ cho trẻ là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết. Để phát
triển ngôn ngữ cho trẻ được tốt đòi hỏi người giáo viên cần có những giải pháp
hay, hấp dẫn nhằm thu hút trẻ vào các hoạt động, nhằm mục đích dạy cho trẻ
nói chính xác, nói chuẩn tiếng việt, câu nói có nghĩa.
- Thông qua các hoạt động giáo viên sẽ giúp trẻ luyện cách phát âm rõ ràng
mạch lạc nhận biết từ, câu chính xác hơn, từ đó ngôn ngữ của trẻ ngày càng
phong phú tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển ngôn ngữ ở trẻ.
- Giáo viên cần hiểu rõ tầm quan trọng của ngôn ngữ trong quá trình phát
triển của trẻ.
- Tích cực làm đồ dùng đồ chơi phục vụ các hoạt động của trẻ ở lớp.
- Giáo viên cần nghiên cứu kỹ các đề tài để áp dụng vào hoạt động phát triển
ngôn ngữ cho trẻ, tích cực suy nghĩ tìm tòi các phương pháp hay, hình thức mới
lạ để giáo dục trẻ, góp phần vào công tác giáo dục trẻ.
- Giáo viên cần tổ chức nhiều các hoạt động khuyến khích trẻ tích cực tham
gia nhằm tạo điều kiện để trẻ được trải nghiệm, để trẻ được nói.
- Cần phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh trong công tác chăm sóc, giáo
dục trẻ.
14
- Biết lắng nghe ý kiến đóng góp xây dựng của đồng nghiệp để rút ra những
bài học, biết sửa chữa khuyết điểm và phát huy ưu điểm của bản thân.
- Thực hiện tốt công tác tuyên truyền với phụ huynh nhằm thực hiện tốt
công tác xã hội hóa giáo dục để tăng cường cơ sở vật chất.
- Người giáo viên phải yêu nghề, mến trẻ, thương yêu trẻ như con em mình.
- Nắm bắt và hiểu được tâm sinh lý của trẻ để từ đó đưa ra các phương
pháp, hình thức giáo dục phù hợp nhằm giúp trẻ tích cực, hứng thú và tự tin
hơn trong các hoạt động, từ đó phát triển toàn diện về Đức –Trí –Thể - Mỹ.
* Kiến nghị
- Đề nghị với ban giám hiệu tham mưu với lãnh đạo các cấp cùng với nhà
trường quan tâm nhiều hơn nữa trong việc bổ sung thêm thiết bị, đồ dùng, đồ
chơi phục vụ cho các hoạt động của trẻ nói chung và của nhóm trẻ 24 – 36
tháng tuổi nói riêng.
- Ban giám hiệu tiếp tục bồi dưỡng nâng cao trình độ cho giáo viên bằng
các hoạt động như: Tổ chức cho giáo viên dự giờ, đi tham quan các trường
điểm để học hỏi những giáo viên dạy giỏi, chuyên đề hay, cho giáo viên đi dự
những tiết thi giáo viên giỏi cấp huyện...
- Ban giám hiệu nhà trường cần tham mưu để đầu tư xây dựng khuôn viên
nhà trường sạch đẹp và an toàn hơn để trẻ có môi trường hoạt động tốt hơn.
Trên đây là " Mét sè giải pháp nâng cao chất lượng dạy trẻ 24 – 36
tháng tuổi phát triển ngôn ngữ ở trường mầm non Thiệu Duy – Huyện
Thiệu Hóa” thực hiện tại trường mầm non Thiệu Duy mà tôi thấy có hiệu quả.
Do bản thân năng lực còn hạn chế, thời gian thực hiện có hạn nên khi viết sáng
kiến kinh nghiệm vẫn không sao tránh khỏi những thiếu sót.
Bản thân rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của Hội đồng khoa học
các cấp và các chị em đồng nghiệp để giúp sáng kiến kinh nghiệm của tôi hoàn
thiện hơn và giúp bản thân tôi có thêm kiến thức chăm sóc giáo dục trẻ đạt kết
quả tốt hơn .
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Hiệu trưởng
Trần Thị Thúy
Thanh Hóa, ngày 15 tháng 03 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN do tôi
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết sáng kiến
Lê Thị Hải Yến
15
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THIỆU HÓA
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY TRẺ
24 – 36 THÁNG TUỔI PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ Ở
TRƯỜNG MẦM NON THIỆU DUY – HUYỆN THIỆU HÓA
Người thực hiện: Lê Thị Hải Yến
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường mầm non Thiệu Duy
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn
THANH HÓA, NĂM 2017
16
MỤC LỤC
NỘI DUNG
1. MỞ ĐẦU
Trang
1
1.1. Lý do chọn đề tài
1
1.2. Mục đích nghiên cứu
1
1.3. Đối tượng nghiên cứu
2
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
2
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng của sáng kiến kinh
nghiệm
2
2.3. Các giải pháp để sử dụng để giải quyết ván đề
4
Giải pháp1: Nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lý trẻ 24-36 tháng tuổi
4
Giải pháp 2: Nắm vững phương pháp dạy học
5
Giải pháp 3: Luyện phát âm đúng cho trẻ
7
Giải pháp 4: Dạy trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua sử dụng đồ
dùng trực quan
8
Giải pháp 5: Dạy trẻ phát triển ngôn ngữ ở mọi lúc, mọi nơi và
lồng ghép các hoạt động
8
Giải pháp 6: Trao đổi, phối kết hợp với phụ huynh
11
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục
13
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
14
* Kết luận
14
* Kiến nghị
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Tâm lý học trẻ em lứa tuổi Mầm non ( Nhà xuất bản giáo dục Việt
Nam)
[2]. Đổi mới hướng dẫn giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ Mầm non (Nhà
xuất bản sở giáo dục & Đào tạo Thành Phố Hồ Chí Minh)
[3]. Phương pháp tổ chức hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ
( Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam).
[4]. Hướng dẫn xây dựng và thục hiện kế hoạch giáo dục theo chủ đề trẻ 2436 tháng tuổi ( Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam)
[5]. Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục Mầm non nhà
trẻ(3- 36 tháng tuổi) – (Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam).
18
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lê Thị Hải Yến
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - Trường mầm non Thiệu Duy
TT
1.
Tên đề tài SKKN
“Một số giải pháp trong việc
tổ chức các trò chơi dân gian
Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
Năm học
giá xếp loại
xếp loại đánh giá xếp
(Phòng, Sở,
(A, B,
loại
Tỉnh...)
hoặc C)
Phòng
C
2015-2016
GD&ĐT
Thiệu Hóa
cho trẻ lứa tuổi mẫu giáo
nhỡ”
19