Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI kỳ QUÁ độ lên CHỦ CHỦ NGHĨA xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.98 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ ĐỊA CHẤT
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN HỌC PHẦN: CHỦ NGHĨA
KHOA HỌC XÃ HỘI
MÃ HỌC PHẦN;
:
ĐỀ BÀI: XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ
QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Sinh viên thực hiện:
Mã số sinh viên:
Nhóm mơn học:

Hà Nội, 2021


MỤC LỤC


Tiểu luận Chủ nghĩa khoa học xã hội

LỜI MỞ ĐẦU
Bảo hiểm xã hội ở nước ta là một trong những chính sách lớn của Đảng
và Nhà nước đối với người lao động. Vì vậy ngay từ những ngày đầu khi mới
thành lập Nước, chế độ chính sách bảo hiểm xã hội đã được ban hành và do
điều kiện đấu tranh giải phóng dân tộc, điều kiện kinh tế, xã hội đã từng
bước được thực hiện đối với công nhân viên chức khu vực Nhà nước. Trong
quá trình thực hiện, chế độ chính sách về bảo hiểm xã hội khơng ngừng được
bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước nhằm
đảm bảo quyền lợi đối với người lao động tham gia bảo hiểm xã hội. Từ sau


Đại hội Đảng lần thứ VI, nền kinh tế nước ta bắt đầu chuyển sang hoạt động
theo cơ chế kinh tế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước, với cơ chế này,
nhiều vấn đề về chế độ chính sách bảo hiểm xã hội trước đây khơng cịn phù
hợp. Bộ Luật lao động được Quốc hội thơng qua năm 1994 có hiệu lực thi
hành từ 1/1/1995, trong đó chế độ chính sách bảo hiểm xã hội cũng được quy
định trong Chương XII bộ Luật này và có liên quan đến một số điều ở các
chương khác. Để thể chế các quy định trong Bộ Luật lao động, năm 1995
Chính phủ đã ban hành Điều lệ Bảo hiểm xã hội kèm theo Nghị định số
12/CP, Nghị định số 45/CP quy định cụ thể về đối tượng tham gia, mức đóng
góp, điều kiện để được hưởng, mức hưởng đối với từng chế độ, đồng thời
quy định hình thành Quỹ bảo hiểm xã hội và giao cho Bảo hiểm xã hội Việt
Nam thống nhất quản lý. Để tìm hiểu them về bảo hiểm xã hội, em đã làm đề
tài “ Bảo hiểm xã họi Việt Nam hiện nay có bao nhiêu chế độ, hãy phân tích
một chế độ mà em thích” và tìm câu trả lờ cho câu hỏi “ tại sao lại có bảo
hiểm bắt buộc và đó là những loại nào”
2. MỤC ĐÍCH
-

Mục đích: Nhằm góp phần làm rõ hơn về một số vấn đề của gia đình
Việt Nam hiện đại, đánh giá tác động nhiều mặt của q trình cơng
nghiệp hóa hiện đại hóa tới nó. Từ đó đề ra một số giải pháp cụ thể
nhằm phát huy những mặt tích cực trong mối quan hệ nói trên

SVTH: Phạm Thị Thu Hằng

3


Tiểu luận Chủ nghĩa khoa học xã hội


3: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
- Tiểu luận nghiên cứu vấn đề trên dựa vào những quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm chủ trương
Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước
- Cơ sở thực tiễn: thực tiễn q trình cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa và
những số liệu, tài liệu phản ánh thực trạng gia đình Việt Nam hiện đại
4: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phân tích, tổng hợp, so sánh, logic,…
5: KẾT CẤU ĐỀ TÀI
- Gồm

SVTH: Phạm Thị Thu Hằng

4


Tiểu luận Chủ nghĩa khoa học xã hội

NỘI DUNG ĐỀ TÀI
CHƯƠNG 1. QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LENIN VỀ
GIA ĐÌNH VÀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRONG THỜI KÌ ĐI
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về gia đình và vai trị của gia
đình là sự kế thừa có bổ sung những tư tưởng trước đó, vì vậy cái nhìn về vai
trị của gia đình ở đây trở nên khách quan, toàn diện hơn, phản ánh chân thực
về sự vận động, biến đổi cũng như vai trị của gia đình trong xã hội.
Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, khi nói về tiến trình phát triển của
lịch sử nhân loại, C.Mác và Ph.Ăngghen đã coi gia đình là một trong ba mối
quan hệ của con người đã được hình thành trong lịch sử nhân loại: Quan hệ

thứ nhất là giữa con người với tự nhiên; Quan hệ thứ hai là giữa con người
với con người trong quá trình sản xuất; và Quan hệ thứ ba là gia đình. Theo
các ơng, quan hệ gia đình “tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển của
lịch sử: hằng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người bắt đầu
tạo ra những người khác, sinh sơi nẩy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ,
cha mẹ và con cái”. Ba quan hệ này tồn tại đan xen với nhau, hòa vào nhau,
cùng tồn tại bên nhau.
Gia đình là một phạm trù lịch sử, mỗi thời đại lịch sử cũng như mỗi chế
độ xã hội đều sản sinh ra loại gia đình tương ứng, do đó, vai trị và chức năng
của gia đình ở mỗi thời đại cũng có sự thay đổi. Ở thời tiền sử, gia đình “là
quan hệ xã hội duy nhất”. Khi đó, gia đình có vai trị vừa là cộng đồng lao
động, vừa là cộng đồng sinh hoạt, là khuôn khổ tồn tại của xã hội; chức năng
của gia đình cũng đồng thời là chức năng của xã hội (gia đình - xã hội sơ
khai), thực hiện chức năng gia đình cũng là thực hiện chức năng xã hội và
ngược lại. Chức năng gia đình khơng thể khác hơn là kiếm sống và duy trì
nịi giống. Về sau, khi dân số tăng lên, nhiều nhu cầu mới xuất hiện. Khi nhu
cầu của con người phát triển lại xuất hiện những quan hệ xã hội mới làm cho
SVTH: Phạm Thị Thu Hằng

5


Tiểu luận Chủ nghĩa khoa học xã hội

gia đình từ chỗ “là quan hệ duy nhất” trở thành “quan hệ phụ thuộc” (9). Sự
chuyển biến này gắn liền với quá trình phân cơng lao động xã hội, với q
trình phát triển xã hội, dẫn đến có sự độc lập tương đối của gia đình đối với
xã hội, thậm chí có sự đối lập giữa gia đình và xã hội.
Trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước, Ph.Ăngghen phân tích rõ vai trị “tế bào xã hội” của gia đình; mối

quan hệ biện chứng giữa gia đình và xã hội. Ơng khẳng định, một mặt,
những điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định có tác
dụng quyết định đến hình thức tổ chức và kết cấu của gia đình. Mặt khác, gia
đình và trình độ phát triển của gia đình cũng có tác động rất quan trọng đối
với sự tồn tại và phát triển của xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến việc tái tạo ra
bản thân con người, bảo vệ nòi giống cũng như tái tạo ra sức lao động cho
nền sản xuất xã hội.
Khẳng định vai trị của gia đình trong mối quan hệ với xã hội,
Ph.Ănghen viết: “nhân tố quyết định trong lịch sử, quy đến cùng là sản xuất
và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân sự sản xuất đó lại có hai
loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực phẩm, quần áo, nhà ở và
những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác là sự sản xuất
ra bản thân con người, là sự truyền nịi giống”. Như vậy, trình độ phát triển
của xã hội “một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là do
trình độ phát triển của gia đình”. Nhận định này cho thấy rõ vai trị rất to lớn
của gia đình đối với sự phát triển cá nhân cũng như xã hội.
Nhấn mạnh vai trị của gia đình đối với sự phát triển của lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, thực ra, gia đình
là “quan hệ xã hội duy nhất” trong buổi đầu của lịch sử xã hội. Nhờ quan hệ
thứ ba này, với chức năng sinh con đẻ cái, quan hệ gia đình đã sản sinh ra và
duy trì các quan hệ xã hội khác. Và, theo ý nghĩa đó, gia đình là một xã hội
thu nhỏ: gia đình sản sinh ra các cá thể người, gắn kết các cá thể người thành
xã hội và khi xã hội lồi người được hình thành thì những hoạt động của nó
SVTH: Phạm Thị Thu Hằng

6


Tiểu luận Chủ nghĩa khoa học xã hội


thường xuyên tác động tới gia đình làm cho gia đình biến đổi về cả hình
thức, cấu trúc cũng như vai trị của nó đối với xã hội.
Ph.Ăngghen tán thành quan điểm của L.Mc gan cho rằng, gia đình là
một yếu tố năng động không bao giờ đứng yên một chỗ mà chuyển từ hình
thức thấp lên hình thức cao hơn cùng với sự phát triển của xã hội. Những
điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định có tác dụng
quyết định đến hình thức tổ chức và kết cấu của gia đình. Ơng viết: “chế độ
gia đình hồn tồn bị quan hệ sở hữu chi phối”(12).
Dưới chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, chức năng quan
trọng của gia đình là tích luỹ tài sản và sinh ra người thừa kế tài sản của
người chủ sở hữu (người chồng, người cha). Do vậy, nét nổi bật trong quan
hệ gia đình trong các chế độ xã hội ấy là sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng,
giữa cha mẹ và các con, giữa anh em với nhau. Điều đó đã dẫn đến sự rạn
nứt những mối quan hệ trong gia đình. Cũng vì vậy mà nảy sinh mâu thuẫn
giữa gia đình và xã hội, làm hạn chế vai trị của gia đình đối với sự phát triển
của xã hội.
Dưới chế độ XHCN, gia đình và các mối quan hệ trong gia đình đã có
sự thay đổi căn bản: gia đình thực sự là tế bào của xã hội và gắn bó mật thiết
với xã hội: mọi người trong gia đình đều bình đẳng, tơn trọng và thương yêu
nhau. Xã hội thừa nhận và bảo vệ những quyền bình đẳng đó nhằm bảo đảm
cho mỗi người tự do và phát triển toàn diện. Trong chế độ này, xã hội, lợi ích
của mỗi người, mỗi gia đình và xã hội là thống nhất về cơ bản. CNXH còn
tạo ra những điều kiện thuận lợi để mỗi gia đình hồn thành những nhiệm vụ
đối với xã hội, do vậy đã phát huy được vai trị tích cực của gia đình đối với
sự phát triển của xã hội.
Đề cập đến vai trị của gia đình, C.Mác và Ph.Ăngghen không dừng lại
ở chức năng tái sản sinh con người, mà các ơng rất lưu tâm đến vai trị kinh
tế trong gia đình, có khi ví như một địn bẩy góp phần thúc đẩy xã hội phát
triển. Chức năng kinh tế vốn là chức năng khởi thủy của gia đình và nó giữ
SVTH: Phạm Thị Thu Hằng


7


Tiểu luận Chủ nghĩa khoa học xã hội

vai trò quan trọng lâu dài trong lịch sử. Bên cạnh đó, chức năng văn hóa của
gia đình có tác động đến việc bảo tồn và phát triển các di sản văn hóa, các hệ
giá trị và bản sắc dân tộc. Bản chất của gia đình đã chứa đựng sẵn những
nhân tố văn hóa nội sinh. Gia đình ln giữ vai trị chuyển tải các giá trị văn
hóa của xã hội. Và hơn nữa, bản thân sự tồn tại của gia đình là một biểu hiện
văn hóa…
Như vậy, trong quan niệm của các ông, gia đình là tế bào của xã hội, gia đình
tham gia vào mọi quá trình sản xuất, từ sản xuất hàng hóa đến tiêu thụ sản
phẩm; từ việc tái tạo ra con người đến việc đào tạo, bồi dưỡng con người; từ
chỗ tạo ra sự khác biệt về sở hữu đến chỗ giải quyết vấn đề sở hữu. Và,
ngược lại, các quá trình sản xuất, tiêu dùng, cải tiến và sử dụng công cụ lao
động, giáo dục và đào tạo, v.v. đều tác động trở lại gia đình, củng cố hoặc
làm biến đổi hình thức và kết cấu gia đình.
Kế thừa và phát triển những quan điểm của các nhà tư tưởng đi trước,
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta rất quan tâm đến vấn đề gia đình và xây
dựng gia đình trong xã hội mới, coi gia đình là tế bào của xã hội, là nhân tố
quan trọng quyết định sự phát triển bền vững của xã hội Việt Nam. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991)
khẳng định: “Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả
đời người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân
cách. Các chính sách của Nhà nước phải chú ý tới xây dựng gia đình no ấm,
hịa thuận, tiến bộ. Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi lớp
người”. Tinh thần này tiếp tục được khẳng định trong Cương lĩnh năm 2011:
“Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh

của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình
thành nhân cách”(13).
Như vậy, có thể thấy, vai trò đặc biệt quan trọng của gia đình khơng chỉ
đối với xã hội, đất nước, mà với mỗi bản thân con người. Phát huy vai trị
tích cực của gia đình, khắc phục những hạn chế cịn tồn tại trong mỗi gia
SVTH: Phạm Thị Thu Hằng

8


Tiểu luận Chủ nghĩa khoa học xã hội

đình hiện nay, xây dựnggia đình văn hóa là góp phần quyết định xây dựng xã
hội mới ổn định, dân chủ, văn minh.
1.1. Vị trí, chức năng của Gia đình trong xã hội
1.1.1. Quan niệm về gia đình
a) Định nghĩa gia đình
Với tư cách một hình thức cộng đồng tổ chức đời sống xã hội, gia đình
được hình thành từ rất sớm và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài.
Xuất phát nhu cầu bảo tồn và duy trì nịi giống, từ sự cần thiết phải nương
tựa vào nhau để sinh tồn, các hình thức quần tụ giữa nam giới và nữ giới,
những hình thức cộng đồng tổ chức đời sống gia đình đã xuất hiện. Lịch sử
nhân loại đã trải qua nhiều hình thức gia đình: gia đình đối ngẫu, gia đình
một vợ một chồng...
Trên cơ sở của sự phát triển kinh tế - xã hội, các kiểu, dạng tổ chức
cộng đồng mang tính "tự nhiên" ngay từ đầu đã chịu sự quy định của những
biến đổi trong sản xuất, trong đời sống kinh tế - xã hội. Để quan hệ với thiên
nhiên, tác động vào thiên nhiên, con người cần phải quần tụ thành các nhóm
cộng đồng. Ban đầu, các quan hệ chi phối trong những nhóm cộng đồng ấy
còn mang sắc thái tự nhiên, sinh học. Trước những yêu cầu của sản xuất và

sinh hoạt, những đòi hỏi của đời sống kinh tế, các quan hệ ấy dần trở nên
chặt chẽ, giữa các thành viên trong cộng đồng ấy xuất hiện những cơ chế
ràng buộc lẫn nhau phù hợp và thích ứng với những điều kiện sản xuất, sinh
hoạt của mỗi một nền sản xuất. Gia đình dần trở thành một thiết chế xã hội,
một hình ảnh "xã hội thu nhỏ", nhưng không phải là sự thu nhỏ một cách đơn
giản các quan hệ xã hội. Như vậy, gia đình được coi là một 147 thiết chế xã
hội đặc thù, nhỏ nhất, cơ bản nhất.
Nếu như văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra, nhằm thoả mãn, đáp ứng các nhu cầu của chính mình, thì
gia đình khơng chỉ là một hình thức tổ chức cộng đồng, một thiết chế xã hội
mà điều quan trọng gia đình cịn là một giá trị văn hố xã hội. Tính chất, bản
SVTH: Phạm Thị Thu Hằng

9


Tiểu luận Chủ nghĩa khoa học xã hội

sắc của gia đình lại được duy trì, bảo tồn, được sáng tạo và phát triển nhằm
thoả mãn những nhu cầu của mỗi thành viên gia đình trong sự tương tác, gắn
bó với văn hoá cộng đồng dân tộc, cộng đồng giai cấp và tầng lớp của mỗi
giai đoạn lịch sử, mỗi quốc gia, dân tộc xác định.
Tóm lại, gia đình là một trong những hình thức tổ chức cơ bản trong
đời sống cộng đồng của con người, một thiết chế văn hoá - xã hội đặc thù,
được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan
hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục... giữa các thành viên.
b) Đặc trưng các mối quan hệ cơ bản của gia đình
- Hơn nhân và quan hệ hôn nhân là một quan hệ cơ bản của sự hình thành,
tồn tại và phát triển gia đình:
Hơn nhân là một hình thức quan hệ tính giao giữa nam và nữ nhằm thoả

mãn các nhu cầu tâm sinh lý, tình cảm và đảm bảo tái sản xuất ra con người,
nhằm duy trì, phát triển nịi giống. Cùng với sự phát triển của lịch sử, hơn
nhân cũng có những biến đổi sâu sắc về hình thức, tính chất, sắc thái của nó.
Nếu như trong chế độ cộng sản ngun thuỷ, hình thức hôn nhân chủ yếu là
quần hôn, trong các chế độ tư hữu, hơn nhân được hình thành, xây dựng và
thực hiện trên cơ sở bảo đảm lợi ích của những người chủ sở hữu (ví dụ:
trong chế độ phong kiến hơn nhân một vợ một chồng nhưng điều đó chỉ ràng
buộc đối với người vợ...). Hơn nhân là hình thức quan hệ tính giao của con
người, chỉ có ở con người, nên ngay từ đầu, hôn nhân đã mang bản chất
người, nhân văn và nhân đạo. Sự phù hợp về tâm lý, sức khoẻ và nhất là
trạng thái tình cảm, ngay từ đầu đã là cơ sở trực tiếp của hôn nhân, mang lại
bản sắc đặc thù của quan hệ hôn nhân. Tuy nhiên, như mọi quan hệ xã hội
khác, hôn nhân luôn chịu sự chi phối của các quan hệ kinh tế và bản chất chế
độ xã hội mà trên đó nó được hình thành và phát triển. Vì vậy, hơn nhân
trong bất cứ thời đại nào cũng có thể và cần phải được xã hội thừa nhận, ở
những mức độ, trình độ khác nhau. Trong chế độ tư hữu và các xã hội có sự
phân chia giai cấp, sự thừa nhận đó được thể hiện về mặt pháp luật, bên cạnh
SVTH: Phạm Thị Thu Hằng

10


Tiểu luận Chủ nghĩa khoa học xã hội

sự thừa nhận của cộng đồng, của các chuẩn mực văn hoá và lối sống của
truyền thống trong cộng đồng. Sự phù hợp về trạng thái tâm lý, tình cảm, lối
sống giữa đơi nam nữ trước khi đi đến hôn 148 nhân và là cơ sở trực tiếp cho
hôn nhân được gọi là tình u. Cũng như hơn nhân, tình u của mỗi thời
đại, mỗi giai cấp và tầng lớp, mỗi dân tộc và cộng đồng tâm lý văn hố cũng
có những giá trị và chuẩn mực riêng, với những biểu hiện riêng, cụ thể và

sinh động.
- Huyết thống, quan hệ huyết thống là quan hệ cơ bản đặc trưng của gia
đình:
Do nhu cầu hết sức tự nhiên cần duy trì và phát triển nịi giống, con
người đã sáng tạo ra gia đình với tính cách một thiết chế xã hội. Trong gia
đình, cùng với quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống được coi là một quan
hệ cơ bản nhất. Tuy nhiên, ngay cả quan niệm về quan hệ này cũng có những
thay đổi theo tiến trình lịch sử. Những sự thay đổi ấy được quy định, chịu sự
chi phối của các điều kiện kinh tế, văn hố, chính trị của xã hội. Mặt khác,
quan hệ huyết thống ấy cũng gia nhập, đan xen vào các quan hệ kinh tế - xã
hội và chính trị xã hội của mỗi thời đại. Trong chế độ công xã nguyên thuỷ,
huyết thống về đằng mẹ được coi như chuẩn mực để tính quan hệ thân tộc
gần xa. Khi ấy, gia đình được xây dựng trên cơ sở huyết thống mẫu hệ. Gia
đình theo huyết thống về đằng cha (gia đình phụ hệ) được coi như một sự
phủ định đối với gia đình mẫu hệ được hình thành và phát triển cùng với sự
xuất hiện chế độ tư hữu. Những biểu hiện của bất bình đẳng trong quan hệ
nam nữ dù ở mức độ thấp (gia đình mẫu hệ) đến mức độ cao hơn và ngày
càng gay gắt hơn (gia đình phụ hệ: gia đình chủ nơ, gia đình phong kiến gia
trưởng, gia đình tư sản) chỉ có thể được khắc phục trong điều kiện khi mà
chế độ tư hữu bị xoá bỏ, chế độ sở hữu công cộng (công hữu) đối với các tư
liệu sản xuất được xác lập.
- Quan hệ quần tụ trong cùng một không gian sinh tồn:

SVTH: Phạm Thị Thu Hằng

11


Tiểu luận Chủ nghĩa khoa học xã hội


Ngay từ đầu, xuất phát từ yêu cầu được đặt ra trong quan hệ với tự
nhiên và giữa con người với nhau, cộng đồng gia đình đã ln cư trú, quần tụ
trong một không gian sinh tồn. Lúc đầu là trong một hang đá, hốc cây... sau
là trong một mái nhà... Dù không gian sinh tồn ấy ngày càng mở rộng và
chịu sự chi phối của các quan hệ kinh tế - xã hội, nhưng nhu cầu quần tụ vẫn
luôn được đặt ra, cho dù ngày nay, khái niệm không gian sinh tồn của gia
đình khơng cịn giữ ngun nghĩa như một giới hạn địa lý thuần tuý. Cho dù
sự can thiệp, mức độ quan tâm giữa các thành viên gia đình đã được xã hội
thay thế, đảm nhận ở mức độ đáng kể, sự quan tâm, chăm sóc giữa các thành
viên, các thế hệ trong mỗi gia đình khơng vì thế mà mất đi. Trái lại nó được
củng cố, được thực hiện nhờ những thiết bị, phương tiện và tiện nghi ngày
càng hiện đại, đầy đủ hơn.
- Quan hệ nuôi dưỡng giữa các thành viên và thế hệ thành viên trong gia
đình:
Ni dưỡng là một nghĩa vụ, một trách nhiệm, đồng thời cịn là một
quyền lợi thiêng liêng của gia đình, của các thành viên gia đình đối với nhau.
Ni dưỡng khơng đơn thuần chỉ là các bậc cha mẹ, ông bà ni dưỡng con
cháu, mà cịn là hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng của con cháu đối với cha
mẹ, ông bà, giữa các thành viên khoẻ mạnh có thuận lợi trong làm ăn sinh
sống đối với các thành viên gặp những khó khăn, những rủi ro về sức khoẻ,
về làm ăn sinh sống. Mặc dù xã hội phát triển, sự quan tâm của xã hội đối
với gia đình và các thành viên gia đình qua các chính sách bảo hiểm, chăm
sóc y tế, dưỡng lão... nhưng ni dưỡng của gia đình có những đặc thù mà xã
hội dù hiện đại đến đâu cũng không thể thay thế và càng không nên đặt vấn
đề thay thế hồn tồn.
1.1.2. Vị trí gia đình trong xã hội
a) Gia đình là tế bào của xã hội
Có thể ví xã hội là một cơ thể sống hồn chỉnh và khơng ngừng biến đổi
được "sắp xếp, tổ chức" theo nhiều mối quan hệ trong đó gia đình được xem
SVTH: Phạm Thị Thu Hằng


12


Tiểu luận Chủ nghĩa khoa học xã hội

là một tế bào, một thiết chế cơ sở đầu tiên. Mỗi một chế độ xã hội được sinh
thành, vận động và biến đổi trên cơ sở một phương thức sản xuất xác định và
có vai trị quy định đối với gia đình. Nhưng xã hội ấy lại tồn tại thơng qua
các hình thức kết cấu và quy mơ gia đình. Mỗi gia đình hạnh phúc, hồ thuận
thì cả cộng đồng và xã hội tồn tại và vận động một cách êm thấm. Mục đích
chung của sự vận động biến đổi của xã hội trước hết vì lợi ích của mỗi cơng
dân, mỗi thành viên xã hội và mỗi gia đình - tổ chức và thiết chế xã hội đầu
tiên, cơ sở nơi quần tụ của mỗi công dân và thành viên của xã hội. Nhưng lợi
ích của mỗi cơng dân, mỗi thành viên xã hội lại chịu sự chi phối của lợi ích
các tập đoàn giai cấp thống trị trong xã hội, trong điều kiện xã hội phân chia
thành giai cấp.
b) Trình độ phát triển kinh tế - xã hội quyết định quy mơ, kết cấu, hình
thức tổ chức và tính chất của gia đình
Quan điểm duy vật về lịch sử đã chỉ ra rằng, gia đình là những hình
thức phản ánh đặc thù của trình độ sản xuất, của trình độ phát triển kinh tế.
Trong tiến trình lịch sử nhân loại, các phương thức sản xuất cộng sản nguyên
thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa đã lần
lượt thay thế nhau, kéo theo và dẫn đến sự biến đổi về hình thức tổ chức, quy
mơ và kết cấu cũng như tính chất của gia đình. Từ gia đình tập thể - quần hơn
với các hình thức huyết thống, đối ngẫu, gia đình cặp đơi bước sang hình
thức gia đình cá thể, một vợ một chồng; từ gia đình một vợ, một chồng bất
bình đẳng, chỉ về phía người phụ nữ, người vợ sang gia đình một vợ, một
chồng ngày càng bình đẳng giữa nam - nữ, giữa các thành viên trong gia
đình. Tất cả những bước tiến đó của gia đình phụ thuộc chủ yếu và trước hết

vào những bước tiến trong sản xuất, trong trình độ phát triển kinh tế của mỗi
thời đại.
c) Gia đình là một thiết chế cơ sở, đặc thù của xã hội, là cầu nối giữa cá
nhân với xã hội

SVTH: Phạm Thị Thu Hằng

13


Tiểu luận Chủ nghĩa khoa học xã hội

Trong hệ thống cơ cấu tổ chức của xã hội, gia đình được coi là thiết chế
cơ sở, đầu tiên, nhỏ nhất. Sự vận động biến đổi của thiết chế tuân theo những
quy luật chung của cả hệ thống. Nhưng thiết chế ấy vận động biến đổi còn
trên cơ sở kế thừa các giá trị văn hoá truyền thống của mỗi nền văn hố, mỗi
vùng và địa phương khác nhau và cịn được bộc lộ, thể hiện ở mỗi thành viên
và thế hệ thành viên trong sự "giao thoa" của mỗi cá nhân và mỗi gia đình.
Thơng qua các hoạt động tổ chức đời sống trong gia đình và của gia đình,
mỗi cá nhân, mỗi gia đình tiếp nhận, chịu sự tác động và "phản ứng " lại đối
với những tác động của xã hội, thông qua các tổ chức, các thiết chế, chính
sách... của xã hội. Sự đồng thuận hay khơng đồng thuận của những tác động
từ xã hội, nhà nước với những hình thức tổ chức, sinh hoạt trong thiết chế gia
đình sẽ tạo ra kết quả tốt hay xấu của mỗi chế độ xã hội, mỗi thời đại
d) Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hoà trong
đời sống cá nhân của mỗi thành viên, mỗi cơng dân của xã hội
Từ thuở lọt lịng cho đến suốt cuộc đời, mỗi thành viên được nuôi
dưỡng, chăm sóc để trở thành cơng dân của xã hội, lao động cống hiến và
hưởng thụ, đóng góp cho xã hội trước hết và chủ yếu là thông qua gia đình
và với gia đình. Sự yên ổn, hạnh phúc mỗi gia đình là tiền đề, điều kiện quan

trọng cho sự hình thành, phát triển nhân cách, bảo đảm đạt hiệu quả cho các
hoạt động lao động của xã hội. Rõ ràng là, muốn xây dựng xã hội phải chú ý
xây dựng gia đình. Xây dựng gia đình là trách nhiệm, là một bộ phận cấu
thành trong chỉnh thể các mục tiêu phấn đấu của xã hội, vì sự ổn định và phát
triển của chính xã hội.
1.1.3. Các chức năng cơ bản của gia đình
a) Chức năng tái sản xuất ra con người
Tái sản xuất ra chính bản thân con người là một chức năng cơ bản và
riêng có của gia đình. Chức năng này bao gồm các nội dung cơ bản: tái sản
xuất, duy trì nịi giống, ni dưỡng nâng cao thể lực, trí lực bảo đảm tái sản
xuất nguồn lao động và sức lao động cho xã hội. Hoạt động sinh con đẻ cái
SVTH: Phạm Thị Thu Hằng

14


Tiểu luận Chủ nghĩa khoa học xã hội

của con người trước hết xuất phát từ nhu cầu tồn tại của chính con người, của
xã hội. Chức năng này đáp ứng một nhu cầu rất tự nhiên, chính đáng của con
người. Nhưng tốc độ gia tăng dân số, mật độ dân cư... và nhiều yếu tố khác
liên quan đến các vấn đề chiến lược và trình độ phát triển kinh tế, xã hội... Vì
vậy sinh đẻ của mỗi gia đình khơng chỉ là việc riêng của gia đình mà cịn là
một nội dung quan trọng của mỗi quốc gia và toàn nhân loại. Chiến lược về
dân số hợp lý sẽ trực tiếp tạo ra một cách có kế hoạch nguồn nhân lực mới
phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, là mục tiêu, động lực quan
trọng nhất của phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội.
b) Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình
Hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống vật chất là một chức năng cơ bản
của gia đình. Hoạt động kinh tế, hiểu theo nghĩa đầy đủ gồm có hoạt động

sản xuất kinh doanh và hoạt động tiêu dùng để thoả mãn các yêu cầu ăn mặc,
ở, đi lại của mỗi thành viên và của gia đình. Trong thời kỳ q độ lên chủ
nghĩa xã hội, nhiều gia đình có điều kiện (có sở hữu hoặc tham gia sở hữu tư
liệu sản xuất) đều có thể trở thành một đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất
kinh doanh. Để có thể phát huy mọi tiềm năng sáng tạo trong kinh tế, đảng
và nhà nước đề ra và thực hiện các chính sách sao cho mọi gia đình, mọi cá
nhân có thể làm giàu chính đáng bằng hoạt động sản xuất kinh doanh trong
khuôn khổ pháp luật. Cùng với sản xuất kinh doanh, các gia đình và hộ gia
đình cơng nhân viên chức, cán bộ hành chính sự nghiệp, giáo viên, nhà khoa
học, trí thức văn nghệ sỹ... cũng được khuyến khích trong lao động sáng tạo,
tăng thu nhập chính đáng từ lao động sáng tạo của mình. Các loại gia đình
này tuy khơng trực tiếp thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh, nhưng
cũng thực hiện một nội dung quan trọng của hoạt động kinh tế: bảo đảm hoạt
động tiêu dùng đáp ứng các nhu cầu vật chất cơ bản của con người, qua đó
kích thích sự phát triển hoạt động kinh tế của xã hội. Thực hiện tốt chức năng
kinh tế sẽ tạo ra tiền đề và cơ sở vật chất vững chắc cho tổ chức đời sống của

SVTH: Phạm Thị Thu Hằng

15


Tiểu luận Chủ nghĩa khoa học xã hội

gia đình. Đương nhiên, ngồi cơ sở kinh tế, thì cịn nhiều yếu tố khác mới
đảm bảo cho một gia đình trở nên văn minh, hạnh phúc.
c) Chức năng giáo dục của gia đình
Nội dung của giáo dục gia đình tương đối tồn diện, cả giáo dục tri
thức và kinh nghiệm, giáo dục đạo đức và lối sống, giáo dục nhân cách, thẩm
mỹ, ý thức cộng đồng. Phương pháp giáo dục của gia đình cũng rất đa dạng,

song chủ yếu là phương pháp nêu gương, thuyết phục, chịu ảnh hưởng khơng
ít của tư tưởng, lối sống, tâm lý, gia phong của gia đình truyền thống. Dù
giáo dục xã hội đóng vai trị ngày càng quan trọng, có ý nghĩa quyết định,
nhưng có những nội dung và phương pháp giáo dục gia đình mang lại hiệu
quả lớn không thể thay thế. Giáo dục gia đình cịn bao hàm cả tự giáo dục.
Do đó, chủ thể giáo dục gia đình cơ bản và chủ yếu vẫn là thế hệ cha mẹ, ông
bà đối với con cháu. Giáo dục gia đình là một bộ phận và có quan hệ hỗ trợ,
bổ sung hồn thiện thêm cho giáo dục nhà trường và xã hội. Do đó, dù giáo
dục nhà trường và giáo dục xã hội có phát triển lên trình độ nào, giáo dục gia
đình vẫn được coi là một thành tố của nền giáo dục xã hội nói chung. Giáo
dục gia đình ln trở thành bộ phận quan trọng, hợp thành giáo dục nói
chung phục vụ các lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị trong bất cứ thời đại
nào, khi xã hội còn giai cấp và phân chia giai cấp.
d) Chức năng thoả mãn các nhu cầu tâm - sinh lý, tình cảm của gia đình
Nếu như trình độ sản xuất kinh doanh, hoạt động kinh tế và tổ chức đời
sống gia đình là điều kiện và tiền đề vật chất của xây dựng gia đình, thì thoả
mãn các nhu cầu tâm sinh lý được coi là một chức năng có tính văn hố - xã
hội của gia đình. Chức năng này có vị trí đặc biệt quan trọng, cùng với các
chức năng khác tạo ra khả năng thực tế cho xây dựng gia đình hạnh phúc.
Nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến giới tính và giới, tâm lý lứa tuổi và thế
hệ, những căng thẳng mệt mỏi về thể xác và tâm hồn trong lao động và cơng
tác... nhiều khi có thể được giải quyết trong một mơi trường gia đình hồ
thuận. Sự hiểu biết, cảm thông, chia sẻ và đáp ứng các nhu cầu tâm sinh lý
SVTH: Phạm Thị Thu Hằng

16


Tiểu luận Chủ nghĩa khoa học xã hội


giữa vợ - chồng, cha mẹ - con cái... làm cho mỗi thành viên có điều kiện
sống lạc quan, khoẻ mạnh về thể chất và tinh thần là những tiền đề cần thiết
cho một thái độ, hành vi tích cực trong cuộc sống gia đình và xã hội. Gia
đình là một thiết chế đa chức năng. Mọi thành viên gia đình, tuỳ thuộc vào vị
thế, lứa tuổi... đều có quyền và nghĩa vụ thực hiện các chức năng nói trên.
Trong đó, người phụ nữ có vai trị đặc biệt quan trọng, bởi họ là người do
đặc thù tự nhiên - sinh học, đảm nhận và thực hiện một số thiên chức không
thể thay thế. Tuy nhiên, trong quá trình lịch sử, phụ nữ là những người vất
vả, cực nhọc và chịu nhiều thiệt thòi nhất cả trong quan hệ xã hội lẫn trong
quan hệ gia đình. Do đó, giải phóng phụ nữ được coi là một mục tiêu quan
trọng của cách mạng xã hội chủ nghĩa, cần phải được bắt đầu từ gia đình. Gia
đình, thơng qua thực hiện các chức năng khách quan vốn có của mình, có vai
trị rất quan trọng đối với sự phát triển xã hội, nhưng chỉ với tư cách là của
cái bộ phận đối với cái toàn thể. Mọi quan điểm tuyệt đối hoá, đề cao quá
mức hay phủ nhận, hạ thấp vai trị của gia đình đều là sai lầm.

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRONG
THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Trải qua nhiều thế hệ, gia đình Việt Nam được hình thành và phát triển với
những chuẩn mực đạo đức có giá trị tốt đẹp. Những truyền thống quý báu
như lòng u nước, u q hương, kính già, u trẻ, tình nghĩa, thuỷ chung,
cần cù và sáng tạo trong lao động, bất khuất kiên cường vượt qua mọi khó
khăn thử thách đã được gia đình Việt Nam gìn giữ, vun đắp và phát huy
trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước. Qua các thời kỳ, cấu trúc
và quan hệ trong gia đình có thay đổi, nhưng những chức năng cơ bản của
gia đình vẫn được gìn giữ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Nhiều gia đình cộng lại mới
thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt.
Hạt nhân của xã hội là gia đình". Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng và
SVTH: Phạm Thị Thu Hằng


17


Tiểu luận Chủ nghĩa khoa học xã hội

Nhà nước quán triệt trong Nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng và trong các
bộ luật liên quan, với các nội dung hướng tới việc củng cố vị trí, vai trị và
chức năng của gia đình.
Một gia đình hạnh phúc, hồ thuận sẽ tác động tới cộng đồng, thúc đẩy
xã hội vận động tạo ra sự biến đổi và phát triển. Gia đình hạnh phúc bền
vững khơng chỉ có sự "no ấm, bình đẳng, tiến bộ" mà cịn là nơi hội tụ tổng
thể những nét đẹp văn hố của mỗi gia đình, cộng đồng và xã hội. Nó được
thể hiện qua thái độ, hành vi, cách cư xử trong gia đình, trong đó phải đảm
bảo các nguyên tắc: Đối với người trên phải tơn kính, lễ độ, khiêm tốn và
quan tâm, chăm sóc; đối với người dưới phải biểu lộ thái độ thông cảm,
nhường nhịn, giúp đỡ, vị tha; đối với người cùng thế hệ phải hết sức tôn
trọng, chân thành, bác ái; trong quan hệ vợ chồng phải hoà thuận trên cơ sở
tình yêu thương chung thuỷ và sự hiểu biết lẫn nhau.
Thực tiễn đã chứng minh, gia đình yên ấm hạnh phúc là điều kiện, tiền đề
quan trọng cho sự hình thành, phát triển nhân cách và bảo đảm cho lao động
sáng tạo đạt hiệu quả cao nhất. Mỗi thành viên đều có trách nhiệm vun đắp,
tham gia xây dựng tổ ấm gia đình, trong đó người vợ, người mẹ có vai trị rất
quan trọng. Trong giáo dục con cái phải kết hợp chặt chẽ giữa mơi trường
"Gia đình - nhà trường - xã hội " thì hiệu quả giáo dục sẽ cao hơn. Tuy nhiên,
chúng ta không nên "tuyệt đối hố" giáo dục trong gia đình mà xem nhẹ giáo
dục ở nhà trường và xã hội, hoặc "phó mặc" sự giáo dục con cái cho nhà
trường và xã hội...
Cùng với những thành tựu chung của đất nước, sau khi có đường lối đổi mới
do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, trên lĩnh vực hơn nhân và gia đình cũng

có nhiều tiến bộ tích cực như: ý thức xây dựng gia đình được nâng cao, các
chức năng gia đình từng bước thực hiện đầy đủ; lợi ích gia đình dần được
đảm bảo. Hoạt động kinh tế gia đình từng bước được phát triển, đời sống vật
chất và tinh thần gia đình được cải thiện rõ rệt, trong đó có một bộ phận gia
đình trở nên giàu có. Các mối quan hệ trong gia đình ngày càng được tơn
SVTH: Phạm Thị Thu Hằng

18


Tiểu luận Chủ nghĩa khoa học xã hội

trọng, bình đẳng và dân chủ. Quyền trẻ em, quyền tự do và bình đẳng trong
hơn nhân của các thành viên được khẳng định và tơn trọng. Kết cấu và quy
mơ gia đình ngày càng thu hẹp để hình thành các gia đình "hạt nhân" và sinh
đẻ ít con hơn, tạo cơ hội chăm sóc và ni dạy con tốt hơn...
Xây dựng gia đình mới XHCN trên cơ sở kế thừa những giá trị tốt đẹp
nhất của gia đình truyền thống, đồng thời tiếp thu những tiến bộ của thời đại
về gia đình đó là, phải biết "gạn đục khơi trong" gạt bỏ và hạn chế những yếu
tố tiêu cực nhằm tạo sự phát triển của từng gia đình và xã hội, phải dựa trên
cơ sở "Hơn nhân tiến bộ" coi tình u chân chính là cơ sở tinh thần chủ yếu.
Hơn nhân "một vợ một chồng" đồng thời phải xây dựng mối quan hệ bình
đẳng, thương u, có trách nhiệm giữa các thành viên trong gia đình. Xây
dựng mối quan hệ giữa gia đình và cộng đồng với các tổ chức chính trị, xã
hội khác, đảm bảo các quyền lợi cho phụ nữ và bảo đảm sự tôn trọng lẫn
nhau giữa các thành viên trong gia đình.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực nêu trên, gia đình ở nước ta hiện
nay còn bộc lộ một số hạn chế cần được khắc phục như: mặt trái của cơ chế
thị trường đã và đang tác động tiêu cực đến đạo đức xã hội, nhiều tệ nạn xã
hội "tấn cơng" vào các gia đình, ảnh hưởng lớn đến lối sống, đến việc hình

thành nhân cách của con người và các mối quan hệ trong gia đình; quan hệ
vợ chồng, anh em, họ hàng, làng xóm bị phai mờ, giá trị tinh thần bị xem
nhẹ; những thay đổi của xã hội đã kéo theo sự thay đổi của gia đình, khiến
cho các quan hệ trong gia đình trở nên lỏng lẻo; nhiều gia đình có điều kiện,
cha mẹ mải lo làm ăn, công tác, không có thời gian quan tâm giáo dục con
cái dẫn đến con cái hư hỏng, sa vào tệ nạn xã hội.
Tình trạng ly hôn, ly thân ngày càng gia tăng kéo theo những hệ lụy khơng
nhỏ đối với từng gia đình và toàn xã hội: trẻ em hư hỏng, tiếp thu văn hóa
phẩm tiêu cực, bỏ học lang thang kiếm sống, vi phạm pháp luật… Bạo lực
gia đình có xu hướng tăng do nhiều nguyên nhân khác nhau mà nạn nhân chủ
yếu là phụ nữ, người già, trẻ em. Một trong những nguyên nhân đó là: do sự
SVTH: Phạm Thị Thu Hằng

19


Tiểu luận Chủ nghĩa khoa học xã hội

tác động của mặt trái xu thế tồn cầu hố, nhận thức về vị trí, vai trị của gia
đình chưa đầy đủ vì thế mà những giá trị của gia đình truyền thống chưa thật
sự được quan tâm, chưa thấy hết và khai thác tốt tiềm lực kinh tế gia đình.

CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN GIA ĐÌNH
HIỆN ĐẠI TRONG QUÁ TRÌNH Q ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI
Xây dựng gia đình hạnh phúc bền vững là trách nhiệm chung của mỗi cá
nhân, của các gia đình và của tồn xã hội. Trong đó cần chú ý một số giải
pháp sau:
Thứ nhất: Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng và sự chỉ đạo của
chính quyền các cấp đối với cơng tác gia đình.

Cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp cần xác định cơng tác gia đình là
một trong những nội dung quan trọng trong các kế hoạch và chương trình
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; xem đây là nhiệm vụ thường
xuyên; xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể giải quyết những thách thức
khó khăn về gia đình và cơng tác gia đình; xố bỏ các hủ tục, tập quán lạc
hậu trong hôn nhân và gia đình; phịng chống các tệ nạn xã hội, bạo lực trong
SVTH: Phạm Thị Thu Hằng

20


Tiểu luận Chủ nghĩa khoa học xã hội

gia đình; đấu tranh chống lối sống thực dụng, vị kỷ, đồi truỵ; tăng cường
cơng tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nói chung, nhất là trẻ em có
hồn cảnh đặc biệt. Nhà nước và xã hội có trách nhiệm bảo vệ sự ổn định và
phát triển của gia đình. Quan tâm một cách thiết thực và toàn diện hơn nữa
đối với phụ nữ, nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần,
thực hiện bình đẳng giới, tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trị người
cơng dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người để
xây dựng gia đình "No ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc bền vững".
Thứ hai: Đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục, vận động nhằm
nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, cộng đồng và các thành viên gia
đình về vị trí, vai trị của gia đình trong thời kỳ cơng nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước; thực hiện chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước về
hôn nhân và gia đình; giúp các gia đình có kiến thức và kỹ năng sống, chủ
động phòng chống sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội vào gia đình, kế thừa
và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp
thu có chọn lọc những giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển.
Thứ ba: Quan tâm đến phát triển kinh tế gia đình, xây dựng và hồn

thiện hệ thống dịch vụ có liên quan để góp phần củng cố, ổn định và phát
triển kinh tế gia đình; có chính sách ưu tiên hỗ trợ phát triển kinh tế gia đình
cho các gia đình chính sách, gia đình các dân tộc thiểu số, gia đình nghèo,
gia đình đang sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
Thứ tư: Xây dựng, củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống dịch vụ gia
đình và cộng đồng; tạo điều kiện cho mọi gia đình tiếp cận được kiến thức
pháp luật, văn hố, y tế, giáo dục, khoa học kỹ thuật và phúc lợi xã hội....
Để từng gia đình là hạt nhân tốt của xã hội, thiết nghĩ bên cạnh sự chăm
lo của Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội thì vai trị của từng gia đình và
các thành viên trong gia đình là hết sức quan trọng và có tính quyết định.
Tồn xã hội quan tâm đến cơng tác xây dựng gia đình, nhưng từng gia đình

SVTH: Phạm Thị Thu Hằng

21


Tiểu luận Chủ nghĩa khoa học xã hội

và các thành viên biết quan tâm đến nhau, sống có trách nhiệm mới là xây
dựng gia đình hạnh phúc bền vững.

KẾT LUẬN
Gia đình là tế bafoo của xã hội, điều này chứng tỏ gia đình và xã hội có
sự tương tác, thống nhất hữu cơ. Gia đình là sự sống của xã hội, là tế bào
hạnh phúc góp phần phát triển hài hịa xã hội. xã hội tạo điều kiện cho gia
đình phát triển sự sống. gia đình là sản phẩm của lịch sử nhưng với tư cách là
tế bào của xã hội. xã hội phát triển được là do hai loại sản xuất quyết định,
một mặt là do trình độ phát triển của sản xuất, mặt khác là do trình độ phát
triển của gia đình

Hiện nay có rất nhiều vấn đềmà ở ngồi xã hội khơng giải quyết được hoặc
giải quyết khơng hiệu quả nhưng nếu đưa vào gia đình lại giải quyết hiệu quả
cho nên khi nào yên ấm gia đình hữu ái trong xã hội thì cá nhân mới thực sự
n tâm và sáng tạo… chính vì những lẽ ấy, việc xây dựng gia đình mới là
SVTH: Phạm Thị Thu Hằng

22


Tiểu luận Chủ nghĩa khoa học xã hội

một trong những sự nghiệp quan trọng trong sự nghiệp Cách mạng Xã hội
Chủ nghĩa ở nước ta, đặc biệt là trong quá trình cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa
ở nước ta hiện nay

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Giáo trình Triết học Mác - Lênin (Dùng cho các trường cao đẳng và đại
học), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 74.
2- Đại cương lịch sử triết học phương Tây, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí
Minh, 2006, tr.108-109.
3- Lịch sử triết học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 450-451.
4- Nghiên cứu gia đình lý thuyết nữ quyền, quan điểm giới, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2006, tr.9.
5- C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995, tr.41,41.

SVTH: Phạm Thị Thu Hằng

23




×