Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

“Vấn đề xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.48 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
TT

NỘI DUNG

Trang
2

1.1.1

MỞ ĐẦU
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ XÂY DỰNG
GIA ĐÌNH Ở NƯỚC TA TRONG THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về gia đình và xây
dựng gia đình
Gia đình và sự phát triển của gia đình trong lịch sử

1.1.2

Vị trí, vai trị của gia đình trong chủ nghĩa xã hội

5

1.1.3

Chức năng của gia đình trong chủ nghĩa xã hội
Quan điểm của Đảng về xây dựng gia
đình ở Việt Nam
Thực trạng, nguyên nhân chất lượng xây dựng ở Việt
Nam hiện nay


Thực trạng chất lượng xây dựng gia đình ở Việt Nam

6

Nguyên nhân của những kết quả và hạn chế
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG VÀ GIẢI
PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG XÂY
DỰNG GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Những nhân tố tác động và phương hướng nâng cao
chất lượng xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay
Những nhân tố tác động
Những phương hướng nâng cao chất lượng xây dựng
gia đình ở Việt Nam
Một số giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng gia đình
ở Việt Nam
KẾT LUẬN

12

TÀI LIỆU THAM KHẢO

22

Chương 1
1.1

1.2
1.3
1.3.1
1.3.2

Chương 2
2.1
2.1.1
2.1.2
2.2

3
3
3

8
9
9

14
14
14
15
15
21

MỞ ĐẦU
1


Trải qua nhiều thế hệ, gia đình Việt Nam được hình thành và phát triển với
những chuẩn mực đạo đức có giá trị tốt đẹp. Những truyền thống quý báu như lịng
u nước, u q hương, kính già, u trẻ, tình nghĩa, thuỷ chung, cần cù và sáng
tạo trong lao động, bất khuất kiên cường vượt qua mọi khó khăn thử thách đã được
gia đình Việt Nam gìn giữ, vun đắp và phát huy trong suốt quá trình lịch sử dựng

nước và giữ nước. Qua các thời kỳ, cấu trúc và quan hệ trong gia đình có thay đổi,
nhưng những chức năng cơ bản của gia đình vẫn được gìn giữ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Quan tâm đến gia đình là đúng, vì
nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt
thì gia đình càng tốt hơn, hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì vậy muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội phải chú ý hạt nhân cho tốt”. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã
được Đảng và Nhà nước quán triệt trong Nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng và
trong các bộ luật liên quan, với các nội dung hướng tới việc củng cố vị trí, vai trị
và chức năng của gia đình.
Một gia đình hạnh phúc, hồ thuận sẽ tác động tới cộng đồng, thúc đẩy xã
hội vận động tạo ra sự biến đổi và phát triển. Gia đình hạnh phúc bền vững
khơng chỉ có sự "no ấm, bình đẳng, tiến bộ" mà còn là nơi hội tụ tổng thể những
nét đẹp văn hố của mỗi gia đình, cộng đồng và xã hội. Nó được thể hiện qua
thái độ, hành vi, cách cư xử trong gia đình, trong đó phải đảm bảo các ngun
tắc: Đối với người trên phải tơn kính, lễ độ, khiêm tốn và quan tâm, chăm sóc;
đối với người dưới phải biểu lộ thái độ thông cảm, nhường nhịn, giúp đỡ, vị tha;
đối với người cùng thế hệ phải hết sức tôn trọng, chân thành, bác ái; trong quan
hệ vợ chồng phải hồ thuận trên cơ sở tình u thương chung thuỷ và sự hiểu
biết lẫn nhau.
Để nâng cao nhận thức, quán triệt sâu sắc các quan điểm, chủ trương của
Đảng, Nhà nước về gia đình, xây dựng gia đình hạnh phúc góp phần xây dựng
và phát triển đất nước ta hiện nay; tôi lựa chọn chủ đề tiểu luận: “Vấn đề xây
dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”
Nội dung nghiên cứu gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng gia đình ở nước ta
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Chương 2: Những nhân tố tác động và giải pháp chủ yếu nâng cao
chất lượng xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay.

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

2


VỀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH Ở NƯỚC TA TRONG THỜI KỲ
QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về gia đình và xây dựng gia đình
1.1.1. Gia đình và sự phát triển của gia đình trong lịch sử
Gia đình là một hình thức tổ chức đời sống cộng đồng của con người, một
thiết chế văn hóa – xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ
sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục
giữa các thành viên.
Gia đình hình thành từ rất sớm và phát triển gắn liền với trình độ phát triển
kinh tế xã hội. Trong lịch sử loài người đã trải qua 3 hình thức gia đình cơ bản là: Gia
đình quần hơn, gia đình đối ngẫu, gia đình một vợ - một chồng. Các hình thức gia
đình là một giá trị văn hoá của lịch sử nhân loại phản ánh nhu cầu của con người
và trình độ phát triển của lịch sử xã hội lồi người:
Gia đình quần hơn: Ra đời trong chế độ công xã nguyên thuỷ, khi mà
trình độ lực lượng sản xuất cịn rất thấp, cá nhân không tách rời tập thể trong chế
mọi hoạt động: lao động sản xuất, tổ chức bảo đảm cuộc sống hơn nhân và sinh
con đẻ cái của mình. Chế độ chồng chung, chồng tập thể, vợ chung, vợ tập thể
như vậy rất khó thực hiện điều ngăn cấm trong quan hệ tình dục giữa cha mẹ với
con cái và các anh chị em trong gia đình. Con cái sinh ra khó phân biệt được đâu
là cha đẻ của chúng. Chỉ có sự phát triển của kinh tế - xã hội thì tất cả những vấn
đề đó mới dần dần được thực hiện chặt chẽ hơn.
Gia đình đối ngẫu (cặp đơi): xuất hiện ở giai đoạn cuối chế độ công xã
nguyên thuỷ và đầu chế độ chiếm hữu nô lệ. Trong gia đình đối ngẫu, việc kết
hơn đã thành từng cặp những đó mới chỉ là sự sàng lọc tự nhiên, nên cịn lỏng
lẻo, bởi vì ngồi những người chồng chính và vợ chính ra, họ cịn vơ số những
người chồng và vợ khác nữa. Theo đó, con cái sinh ra mang dòng họ của người
mẹ, hay còn gọi là chế độ mẫu hệ. Thực chất gia đình đối ngẫu chỉ là hình thức

q độ từ gia đình quần hơn chuyển sang gia đình một vợ một chồng.
Gia đình một vợ một chồng: Ra đời dưới chế độ tư hữu và tồn tại đến nay.
Dưới chế độ tư hữu, công cụ sản xuất ngày càng phát triển, của cải dư thừa ngày
càng nhiều và tập trung vào tay một số người, thậm chí một người. Do đó, việc
kế thừa tài sản đặt ra trực tiếp. Mặt khác, do sản xuất phát triển nên chỉ có người
đàn ơng mới có đủ khả năng thuận lợi để tổ chức quản lý, điều hành sản xuất.
Cả hai việc đó đều được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ, đồng thời là nguyên
nhân ra đời gia đình một vợ một chồng. Gia đình một vợ một chồng trải qua các
chế độ xã hội khác nhau, ở từng giai cấp khác nhau lại có những nét riêng đặc
thù. Sự ra đời của gia đình một vợ một chồng là một tất yếu lịch sử. Nó xuất phát
từ sự phát triển của lực lượng sản xuất mà trước tiên là chăn nuôi tách khỏi trồng
3


trọt, đàn ơng giữ vai trị chính trong gia đình; của cải xã hội tăng dẫn đến xuất hiện
của dư thừa, xuất hiện nhu cầu kế thừa của cải và xuất hiện chế độ phụ hệ.
Đây là sự tiến bộ của lịch sử nhưng lại nảy sinh mâu thuẫn mới trong xã hội đó
là mâu thuẫn giữa đàn ơng và đàn bà, vai trị của nữ giảm, thậm chí phụ thuộc vào
nam giới.
Gia đình hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân,
quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục giữa các thành viên.
Hôn nhân và quan hệ hôn nhân là một quan hệ cơ bản của sự hình thành,
tồn tại và phát triển gia đình. Đây là đặc trưng cơ bản nhất của quan hệ gia đình,
là tiền đề của các quan hệ khác. Bởi vì, có gia đình mới có quan hệ gia đình và có
quan hệ gia đình mới có quan hệ khác ở xã hội. Hơn nhân là một hình thức quan
hệ tính giao giữa nam và nữ nhằm thoả mãn các nhu cầu tâm, sinh lý, tình cảm
đảm bảo tái sản xuất ra con người, nhằm duy trì, phát triển nịi giống. Hơn nhân
là quan hệ giữ nam và nữ được xã hội thừa nhận và được pháp lý bảo vệ dưới
những hình thức khác nhau tuỳ vào điều kiện kinh tế xã hội. Cùng với sự phát
triển của lịch sử, hơn nhân cũng có những biến đổi sâu sắc về hình thức, tính

chất, sắc thái của nó như: Hơn nhân một vợ một chồng, hơn nhân đa thê, hơn
nhân tạm, hơn nhân đồng tính, tảo hôn...)
Huyết thống và quan hệ huyết thống là quan hệ có cơ bản đặc trưng của
gia đình. Quan hệ huyết thống là quan hệ dòng máu giữa cha mẹ và con cái,
anh chị em ruột thịt với nhau. Đây là quan hệ cơ bản, đặc trưng của gia đình.
Do nhu cầu tự nhiên, con người đã sáng tạo ra gia đình với tính cach một thiết
chế XH, trong gia đình cùng với quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống được
coi là quan cơ bản nhất, quan hệ này có những thay đổi theo tiến trình lịch sử,
chịu sự chi phối, quy định bởi các quan hệ kinh tế - xã hội và chính trị - xã
hội của mỗi thời đại. Quan hệ huyết thống của gia đình trong lịch sử đã trải qua
2 loại hình: gia đình huyết thống mẫu hệ và gia đình huyết thống phụ hệ.
Trong thời đại công xã nguyên thuỷ, huyết thống thuộc về đằng mẹ được
coi như một chuẩn mực để tính quan hệ thân tộc. Khi ấy, gia đình được xây dựng
trên cơ sở huyết thống mẫu hệ, trong khi gia đình theo huyết thống thuộc về đằng
cha (gia đình phụ hệ) được coi như một sự phủ định đối với gia đình mẫu hệ,
được hình thành và phát triển cùng với sự xuất hiện chế độ tư hữu.
Những biểu hiện của bất bình đẳng trong quan hệ nam nữ dù ở mức độ
thấp (gia đình mẫu hệ) đến mức cao hơn và ngày càng gay gắt (gia đình phụ hệ,
gia đình chủ nơ, gia đình phong kiến gia trưởng, gia đình tư sản) chỉ có thể khắc
phục khi mà chế độ tư hữu bị xố bỏ, chế độ cơng hữu đối với các tư liệu sả xuất
được xác lập.
4


Ni dưỡng là nghĩa vụ, trách nhiệm đồng thời cịn là một quyền lợi thiêng
liêng của gia đình, của các thành viên trong gia đình với nhau. Ni dưỡng khơng
đơn thuần chỉ là bậc cha mẹ, ông bà nuôi dưỡng con cháu mà cịn là hoạt động chăm
sóc ni dưỡng của con cháu đối với cha mẹ, ông bà.
Mặc dù xã hội phát triển, sự quan tâm của xã hội đối với gia đình ngày càng
tăng về nhiều mặt, nhưng ni dưỡng gia đình có những đặc thù mà xã hội hiện đại

đến đâu cũng không thể thay thế và càng khơng nên đặt vấn đề thay thế hồn tồn.
Quan hệ quần tụ trong cùng một không gian sinh tồn.Ngay từ đầu, xuất
phát từ yêu cầu được đặt ra trong quan hệ với tự nhiên và giữa con người với
nhau, cộng đồng gia đình đã ln cư trú, quần tụ trong một không gian sinh tồn.
Lúc đầu là trong một hang đá, hốc cây, sau là trong một mái nhà. Dù không gian
sinh tồn ấy ngày càng mở rộng và chịu sự chi phối của các quan hệ kinh tế - xã
hội nhưng nhu cầu quần tụ vẫn luôn được đặt ra, cho dù ngày nay, khái niệm
không gian sinh tồn của gia đình khơng cịn giữ ngun nghĩa như một giới hạn
địa lý thuần tuý mà ngày càng được mở rộng xu thế phát triển của xã hội.
Tóm lại, gia đình là một trong những hình thức tổ chức cơ bản trong đời
sống cộng đồng của con người, một thiết chế văn hoá - xã hội đặc thù, được hình
thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết
thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục, giữa các thành viên.
1.1.2. Vị trí, vai trị của gia đình trong chủ nghĩa xã hội
Gia đình là tế bào của xã hội
Có thể ví xã hội là một cơ thể sống hồn chỉnh và khơng ngừng biến đổi
được "sắp xếp, tổ chức" theo nhiều mối quan hệ trong đó gia đình được xem là
một tế bào, một thiết chế cơ sở đầu tiên. Mỗi một chế độ xã hội được sinh thành,
vận động và biến đổi trên cơ sở một phương thức sản xuất xác định và có vai trị
quy định đối với gia đình. Nhưng xã hội ấy lại tồn tại thông qua các hình thức
kết cấu và quy mơ gia đình. Mỗi gia đình hạnh phúc, hồ thuận thì cả cộng đồng
và xã hội tồn tại và vận động một cách êm thấm. Mục đích chung của sự vận
động biến đổi của xã hội trước hết vì lợi ích của mỗi cơng dân, mỗi thành viên
xã hội và mỗi gia đình - tổ chức và thiết chế xã hội đầu tiên, cơ sở nơi quần tụ
của mỗi công dân và thành viên của xã hội. Nhưng lợi ích của mỗi cơng dân,
mỗi thành viên xã hội lại chịu sự chi phối của lợi ích các tập đoàn giai cấp thống
trị trong xã hội, trong điều kiện xã hội phân chia thành giai cấp.
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội quyết định quy mơ, kết cấu, hình
thức tổ chức và tính chất của gia đình
Quan điểm duy vật về lịch sử đã chỉ ra rằng, gia đình là những hình thức

phản ánh đặc thù của trình độ sản xuất, của trình độ phát triển kinh tế. Trong
tiến trình lịch sử nhân loại, các phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ,
5


chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa đã lần lượt
thay thế nhau, kéo theo và dẫn đến sự biến đổi về hình thức tổ chức, quy mơ và
kết cấu cũng như tính chất của gia đình. Từ gia đình tập thể - quần hơn với các
hình thức huyết thống, đối ngẫu, gia đình cặp đơi bước sang hình thức gia đình
cá thể, một vợ một chồng; từ gia đình một vợ, một chồng bất bình đẳng, chỉ về
phía người phụ nữ, người vợ sang gia đình một vợ, một chồng ngày càng bình
đẳng giữa nam - nữ, giữa các thành viên trong gia đình. Tất cả những bước tiến
đó của gia đình phụ thuộc chủ yếu và trước hết vào những bước tiến trong sản
xuất, trong trình độ phát triển kinh tế của mỗi thời đại.
Gia đình là một thiết chế cơ sở, đặc thù của xã hội, là cầu nối giữa cá
nhân với xã hội
Trong hệ thống cơ cấu tổ chức của xã hội, gia đình được coi là thiết chế
cơ sở, đầu tiên, nhỏ nhất. Sự vận động biến đổi của thiết chế tuân theo những
quy luật chung của cả hệ thống. Nhưng thiết chế ấy vận động biến đổi còn trên
cơ sở kế thừa các giá trị văn hoá truyền thống của mỗi nền văn hoá, mỗi vùng và
địa phương khác nhau và còn được bộc lộ, thể hiện ở mỗi thành viên và thế hệ
thành viên trong sự "giao thoa" của mỗi cá nhân và mỗi gia đình. Thơng qua các
hoạt động tổ chức đời sống trong gia đình và của gia đình, mỗi cá nhân, mỗi gia
đình tiếp nhận, chịu sự tác động và "phản ứng " lại đối với những tác động của
xã hội, thông qua các tổ chức, các thiết chế, chính sách... của xã hội. Sự đồng
thuận hay không đồng thuận của những tác động từ xã hội, nhà nước với những
hình thức tổ chức, sinh hoạt trong thiết chế gia đình sẽ tạo ra kết quả tốt hay xấu
của mỗi chế độ xã hội, mỗi thời đại.
Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hoà trong đời
sống cá nhân của mỗi thành viên, mỗi công dân của xã hội

Từ thuở lọt lòng cho đến suốt cuộc đời, mỗi thành viên được ni dưỡng,
chăm sóc để trở thành cơng dân của xã hội, lao động cống hiến và hưởng thụ,
đóng góp cho xã hội trước hết và chủ yếu là thơng qua gia đình và với gia đình.
Sự n ổn, hạnh phúc mỗi gia đình là tiền đề, điều kiện quan trọng cho sự hình
thành, phát triển nhân cách, bảo đảm đạt hiệu quả cho các hoạt động lao động
của xã hội. Rõ ràng là, muốn xây dựng xã hội phải chú ý xây dựng gia đình. Xây
dựng gia đình là trách nhiệm, là một bộ phận cấu thành trong chỉnh thể các mục
tiêu phấn đấu của xã hội, vì sự ổn định và phát triển của chính xã hội.
1.1.3. Chức năng của gia đình trong chủ nghĩa xã hội
Chức năng tái sản xuất ra con người
Tái sản xuất ra chính bản thân con người là một chức năng cơ bản và riêng
có của gia đình. Chức năng này bao gồm các nội dung cơ bản: tái sản xuất,
6


duy trì nịi giống... bảo đảm tái sản xuất nguồn lao động và sức lao động
cho xã hội.
Hoạt động sinh con đẻ cái của con người trước hết xuất phát từ nhu cầu
tồn tại của chính con người, của xã hội. Chức năng này đáp ứng một nhu cầu rất
tự nhiên, chính đáng của con người. Nhưng tốc độ gia tăng dân số, mật độ dân
cư... và nhiều yếu tố khác liên quan đến các vấn đề chiến lược và trình độ phát
triển kinh tế, xã hội... Vì vậy sinh đẻ của mỗi gia đình khơng chỉ là việc riêng
của gia đình mà cịn là một nội dung quan trọng của mỗi quốc gia và toàn nhân
loại. Chiến lược về dân số hợp lý sẽ trực tiếp tạo ra một cách có kế hoạch nguồn
nhân lực mới phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, là mục tiêu, động
lực quan trọng nhất của phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội.
Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình
Hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống vật chất là một chức năng cơ bản
của gia đình. Hoạt động kinh tế, hiểu theo nghĩa đầy đủ gồm có hoạt động
sản xuất kinh doanh và hoạt động tiêu dùng để thoả mãn các yêu cầu ăn

mặc, ở, đi lại của mỗi thành viên và của gia đình. Trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, nhiều gia đình có điều kiện (có sở hữu hoặc tham gia
sở hữu tư liệu sản xuất) đều có thể trở thành một đơn vị kinh tế tự chủ
trong sản xuất kinh doanh. Để có thể phát huy mọi tiềm năng sáng tạo
trong kinh tế, đảng và nhà nước đề ra và thực hiện các chính sách sao cho
mọi gia đình, mọi cá nhân có thể làm giàu chính đáng bằng hoạt động sản
xuất kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Cùng với sản xuất kinh
doanh, các gia đình và hộ gia đình cơng nhân viên chức, cán bộ hành
chính sự nghiệp, giáo viên, nhà khoa học, trí thức văn nghệ sỹ... cũng
được khuyến khích trong lao động sáng tạo, tăng thu nhập chính đáng từ
lao động sáng tạo của mình. Các loại gia đình này tuy khơng trực tiếp
thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh, nhưng cũng thực hiện một nội
dung quan trọng của hoạt động kinh tế: bảo đảm hoạt động tiêu dùng đáp
ứng các nhu cầu vật chất cơ bản của con người, qua đó kích thích sự phát
triển hoạt động kinh tế của xã hội.
Thực hiện tốt chức năng kinh tế sẽ tạo ra tiền đề và cơ sở vật chất vững
chắc cho tổ chức đời sống của gia đình. Đương nhiên, ngồi cơ sở kinh tế, thì cịn
nhiều yếu tố khác mới đảm bảo cho một gia đình trở nên văn minh, hạnh phúc.
Chức năng giáo dục của gia đình
Nội dung của giáo dục gia đình tương đối tồn diện, cả giáo dục tri thức
và kinh nghiệm, giáo dục đạo đức và lối sống, giáo dục nhân cách, thẩm
mỹ, ý thức cộng đồng. Phương pháp giáo dục của gia đình cũng rất đa
dạng, song chủ yếu là phương pháp nêu gương, thuyết phục, chịu ảnh
7


hưởng khơng ít của tư tưởng, lối sống, tâm lý, gia phong của gia đình
truyền thống. Dù giáo dục xã hội đóng vai trị ngày càng quan trọng, có ý
nghĩa quyết định, nhưng có những nội dung và phương pháp giáo dục gia
đình mang lại hiệu quả lớn khơng thể thay thế. Giáo dục gia đình cịn bao

hàm cả tự giáo dục. Do đó, chủ thể giáo dục gia đình cơ bản và chủ yếu
vẫn là thế hệ cha mẹ, ông bà đối với con cháu.
Giáo dục gia đình là một bộ phận và có quan hệ hỗ trợ, bổ sung hoàn
thiện thêm cho giáo dục nhà trường và xã hội. Do đó, dù giáo dục nhà trường và
giáo dục xã hội có phát triển lên trình độ nào, giáo dục gia đình vẫn được coi là
một thành tố của nền giáo dục xã hội nói chung. Giáo dục gia đình ln trở
thành bộ phận quan trọng, hợp thành giáo dục nói chung phục vụ các lợi ích cơ
bản của giai cấp thống trị trong bất cứ thời đại nào, khi xã hội còn giai cấp và
phân chia giai cấp.
Chức năng thoả mãn các nhu cầu tâm lý, sinh lý và tình cảm của các
thành viên trong gai đình gia đình
Nếu như trình độ sản xuất kinh doanh, hoạt động kinh tế và tổ chức đời
sống gia đình là điều kiện và tiền đề vật chất của xây dựng gia đình, thì
thoả mãn các nhu cầu tâm sinh lý được coi là một chức năng có tính văn
hố - xã hội của gia đình. Chức năng này có vị trí đặc biệt quan trọng,
cùng với các chức năng khác tạo ra khả năng thực tế cho xây dựng gia
đình hạnh phúc. Nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến giới tính và giới,
tâm lý lứa tuổi và thế hệ, những căng thẳng mệt mỏi về thể xác và tâm
hồn trong lao động và cơng tác... nhiều khi có thể được giải quyết trong
một mơi trường gia đình hồ thuận. Sự hiểu biết, cảm thông, chia sẻ và
đáp ứng các nhu cầu tâm sinh lý giữa vợ - chồng, cha mẹ - con cái... làm
cho mỗi thành viên có điều kiện sống lạc quan, khoẻ mạnh về thể chất và
tinh thần là những tiền đề cần thiết cho một thái độ, hành vi tích cực trong
cuộc sống gia đình và xã hội. Gia đình là một thiết chế đa chức năng. Mọi
thành viên gia đình, tuỳ thuộc vào vị thế, lứa tuổi... đều có quyền và nghĩa
vụ thực hiện các chức năng nói trên. Trong đó, người phụ nữ có vai trò
đặc biệt quan trọng, bởi họ là người do đặc thù tự nhiên - sinh học, đảm
nhận và thực hiện một số thiên chức không thể thay thế.
1.2. Quan điểm của Đảng về xây dựng gia đình ở Việt Nam
Ngày 21/02/2005, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 49-CT/TW về xây dựng gia

đình thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là lần đầu tiên Đảng ra
một Chỉ thị chuyên đề về gia đình, đánh dấu sự phát triển nhận thức cho tồn xã
hội về gia đình và cơng tác gia đình: Gia đình là tế bào của xã hội, là mơi trường
quan trọng hình thành, ni dưỡng và giáo dục nhân cách, bảo tồn và phát huy
8


văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực
phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội Đảng toàn quốc XI tháng 1 năm 2011, Đảng ta một lần nữa nhấn
mạnh: “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc thật sự là tế bào lành mạnh
của xã hội”. Quan điểm của Đảng cho thấy gia đình khơng chỉ giữ vai trò nền
tảng, tế bào của xã hội, mà cịn là mơi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp
sống, hình thành nên nhân cách con người. Góp phần chăm lo xây dựng con
người Việt Nam giàu lòng u nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm cơng dân,
có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có tinh thần
quốc tế chân chính.
Đảng ta nhận thức rõ rằng, con người Việt Nam chỉ có thể được trang bị
những phẩm chất tốt đẹp nếu có một mơi trường xã hội tốt. Mơi trường đó trước
hết là từ mỗi gia đình, mỗi tế bào của xã hội. Các gia đình chịu trách nhiệm
trước xã hội về sản phẩm của gia đình mình, phải có trách nhiệm nuôi dưỡng và
giáo dục con cái, cung cấp cho xã hội những cơng dân hữu ích. Cùng với nhà
trường, gia đình tham gia tích cực nhiệm vụ “dạy người, dạy chữ”, tạo ra lực
lượng lao động tương lai có chất lượng cao.
Đây là điểm mới trong tư duy Đại hội XI của Đảng ta về vai trị của gia
đình đối với phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao cho đất nước. Gia đình
chính là “đơn vị xã hội” đầu tiên cung cấp lực lượng lao động cho xã hội. Từ
những người lao động chân tay giản đơn đến những người lao động trí óc… đều
được sinh ra, được nuôi dưỡng và chịu sự giáo dục của gia đình.
Tới Đại hội XII, Đảng ta xác định “Thực hiện chiến lược phát triển gia

đình Việt Nam. Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm,
tiến bộ, hạnh phúc, văn minh.” Có thể thấy rằng, trong giai đoạn này, vai trị của
gia đình trong việc giáo dục đạo đức, lối sống hình thành nhân cách người Việt
Nam và việc gìn giữ phát huy văn hóa gia đình được nhấn mạnh hơn.
Tại Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục đưa ra vấn đề yêu cầu nghiên cứu, xác
định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực
con người Việt Nam gắn với gìn giữ, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam
trong thời kỳ mới.
Có thể thấy khẳng định rằng: Gia đình khơng chỉ giữ vai trò nền tảng, tế
bào của xã hội, mà còn là mơi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống,
hình thành nhân cách. Gia đình giữ vai trị đặc biệt quan trọng tới số lượng, chất
lượng dân số và cơ cấu dân cư của quốc gia. Theo đó, quan điểm của Đảng về
vai trị và vị trí của gia đình luôn được đề cao và là nhân tố quan trọng trong
tồn bộ chính sách xây dựng và phát triển đất nước. Gia đình no ấm, thuận hịa,
hạnh phúc là điều kiện, môi trường quan trọng, trực tiếp tạo nên các thế hệ sau
có chất lượng cả về thể chất lẫn tinh thần, góp phần vào chiến lược xây dựng,
phát triển nguồn lực con người có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước trong những giai đoạn tiếp theo.
1.3. Thực trạng, nguyên nhân chất lượng xây dựng ở Việt Nam hiện nay
1.3.1. Thực trạng chất lượng xây dựng gia đình ở Việt Nam
9


*Những ưu điểm cơ bản
Vào những năm đầu đổi mới, “mở cửa”, với sự tác động mạnh mẽ của cơ
chế thị hường và sự du nhập ồ ạt lối sống, phương thức sinh hoạt của xã hội
phương Tây vào nước ta, trên các phương tiện thông tin đại chúng và diễn đàn
khoa học, khơng ít người đã lên tiếng báo động về nguy cơ “khủng hoảng” của
gia đình Việt Nam. Sự lo ngại ở thời điếm ấy không phải không có cơ sở. Tuy
nhiên, cho đến nay, sau hơn 20 năm đổi mới, gia đình Việt Nam khơng những

khơng bị khủng hoảng mà ngày càng được củng cố và phát triển. Đó là một
thành tựu quan trọng của cơng cuộc đối mới do Đảng ta lãnh đạo.
Mặc dù chịu tác động nhiều chiều của cơ chế thị hường và toàn cầu hóa,
nhưng hiện tại, gia đình Việt Nam vẫn là một giá trị bền vững và có sức sống mạnh
mẽ. Nó vẫn là nền tảng, là tế bào của xã hội. Với tư cách là đơn vị kinh tế, đơn vị
tiêu dùng của xã hội, một mặt, gia đình trực tiếp tham gia thúc đẩy sự phát triển của
các quá trình sản xuất, phân phối, lưu thơng của đời sống kinh tế; mặt khác, là nơi
ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục, nương tựa của mỗi con người trong suốt cuộc đời.
Gia đình cũng là nơi lưu giữ, truyền thụ, chuyển giao và phát huy những giá trị văn
hóa huyền thống quý báu của dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Gia đình Việt Nam đang trong bước chuyển đổi từ truyền thống sang hiện
đại trên nhiều phương diện và xu hướng khác nhau, cả tích cực và tiêu cực. Đó
là sự biến đổi mang tính tồn diện cả về cơ cấu, các quan hệ, các chức năng và
vai trị của người phụ nữ trong gia đình.
Sự biến đổi của gia đình Việt Nam hiện nay, trước hết, được thể hiện
trong biến đối cơ cấu gia đình. Loại hình gia đình rất phong phú, nhưng gia đình
hạt nhân - loại hình gia đình tiên tiến, phù họp với xã hội hiện đại - mang tính
phố biến. Quy mơ của gia đình rất đa dạng, nhưng số gia đình hai thế hệ chiếm
tỷ lệ cao nhất với số người trong gia đình trung bình là trên dưới 4 người. Trong
các mối quan hệ gia đình, quan hệ hơn nhân về cơ bản do tình u của đơi nam nữ quyết định. Hôn nhân được sự đồng ý của cha mẹ, sự công nhận của pháp
luật và được tổ chức cưới theo nghi thức đời sống mới. Tuổi kết hôn của cả nam
và nữ đều có xu hướng tăng cao và sau khi kết hơn, đơi vợ chồng thường có nơi
ở riêng và số con của mỗi cặp vợ chồng đa số chỉ là trên dưới 2 con. Mặc dù
trong gia đình người đàn ơng vẫn thường được đề cao và cha mẹ vẫn có nhiều
quyền uy với con cái nhưng nhìn chung, các mối quan hệ trong gia đình hiện
nay đã mang tính chất tự do, dân chủ và bình đẳng.
Gia đình Việt Nam hiện nay, về cơ bản, vẫn là mơ hình gia đình truyền
thống đa chức năng. Các chức năng cơ bản của gia đình như: chức năng kinh tế;
chức năng tái sản xuất con người và sức lao động; chức năng giáo dục - xã hội
hóa; chức năng tâm - sinh lý, tình cảm... được phục hồi, có điều kiện thực hiện

10


tốt hơn và có vai hị đặc biệt quan trọng khơng chỉ đối với từng thành viên gia
đình mà cịn tác động mạnh mẽ đến sự phát triến của đời sống kinh tế - xã hội
đất nước. Chức năng của gia đình được đề cao cũng có nghĩa gia đình đang có
vai trị và vị thế quan họng trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước trong
giai đoạn hiện nay.
Bình đẳng giới trong gia đình là một nét mới trong biến đổi của gia đình
Việt Nam và đã thu hút sự quan tâm, đồng tình thực hiện của cả xã hội. Đó là
người phụ nữ ngày càng có vai trị quan trọng trong sản xuất, tái sản xuất, tiếp
cận các nguồn lực phát triển, các quyết định, các sinh hoạt cộng đồng và thụ
hưởng các lợi ích, phúc lợi gia đình; đồng thời, các thành viên gia đình và các
dịch vụ xã hội cũng từng bước chia sẻ gánh nặng cơng việc nội trợ gia đình đối
với người phụ nữ, góp phần thiết thực tạo điều kiện và cơ hội giúp phụ nữ phát
huy mọi tiềm năng của mình trong hội nhập và phát triến.
Trong bối cảnh đổi mới và tồn cầu hóa hiện nay, gia đình Việt Nam đã
biến đối một cách toàn diện và ngày càng trở thành một thực thế hoàn thiện năng động phù họp với những điều kiện kinh tế - xã hội có nhiều biến động. Sự
biến đổi ấy chính là một quá trình liên tục bảo tồn, truyền thụ, phát huy những
giá trị của gia đình truyền thống; đồng thời, tiếp thu có chọn lọc và cải biến
những giá trị tiên tiến, những tinh hóa của gia đình hiện đại.
Những giá trị truyền thống quý báu của gia đình Việt Nam truyền thống
vẫn được bảo tồn và phát huy. Đồng thời, gia đình Việt Nam cũng tiếp thu nhiều
tinh hoa, giá trị tiên tiến của gia đình hiện đại như: tôn trọng tự do cá nhân; tôn
họng quan niệm và sự lựa chọn của mỗi người; tơn trọng lợi ích cá nhân; dân
chủ trong mọi quan hệ; bình đẳng nam nữ; bình đẳng trong nghĩa vụ và trách
nhiệm; bình đẳng trong thừa kế; không phân biệt đối xử đẳng cấp, thứ bậc giữa
con trai và con gái, giữa anh và em...
*Những hạn chế, yếu kém
Cùng với những cơ hội và những điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự phát

triển tiến bộ, gia đình Việt Nam cũng đang đứng trước nhiều nguy cơ và thách
thức trong bối cảnh tồn cầu hóa nhiều biến động và bất trắc: đó là tình hạng ly
hơn có xu hướng tăng cao; sống chung khơng kết hơn; tình hạng trẻ em nghiện
hút; tệ nạn mại dâm; tình dục đồng giới; trẻ em lang thang; bn bán phụ nữ qua
biên giới; bạo lực trong gia đình; bất bình đẳng giới; ngoại tình; xu hướng đề
cao tiền bạc trong quan hệ giữa người và người... đang tấn công vào gia đình từ
nhiều phương diện khác nhau.
Song song đó, khi mà cơ chế thị trường vận hành xã hội thì khả năng thu
nhập và giá trị của đồng tiền được đề cao. Thực tế đó đã tác động mạnh mẽ đến
từng gia đình, thu hút các thành viên theo dòng chảy xã hội. Người ta bị hấp dẫn
11


theo chiều hướng cực đoan, say sưa làm ăn để kiếm ra thật nhiều tiền, giá trị gia
đình bị coi nhẹ, đạo đức huyền thống bị lung lay trước sức ép của cuộc sống tiêu
thụ đô thị. Việc giáo dục con cái, phụng dưỡng cha mẹ, chăm sóc giữa các thế hệ
bị xao lãng và đặt xuống dưới nhu cầu kinh tế. Sự thủy chung vợ chồng, lòng
hiếu thảo đã bị phủ nhận. Bên cạnh đó, cũng khơng tài nào tránh khỏi được
những tai họa vô cùng to lớn đang dần dần xâm phạm và kích thích một cách
tiêu cực nhất vào bản tính con người. Và đặc biệt nhất vẫn là tác động làm ảnh
hưởng đến sự lơi lỏng trong quan hệ “phạm vi gia đình” mà từ xưa nay vốn có
huyền thống yêu thương gần gũi, đùm bọc che chở nhau, là tính chất cơ động
chưa từng thấy trong đời sống hiện đại, là sự quan hệ của con người thuộc mọi
lứa tuổi.
Cha mẹ khơng có đủ thời gian cho con. Theo đánh giá của giới nghiên
cứu, sự thờ ơ của người lớn gây hậu quả xấu đối với sự phát triển về thể chất, trí
tuệ, tinh thần của trẻ em và không phải bao giờ, không phải ai cũng nhận thấy
ngay được hậu quả ấy. Các cuộc điều tra dẫn đến sự nhìn nhận về vai trị của
người phụ nữ đối với vấn đề chăm sóc những đứa con dưới 15 tuổi: họ dành
khoảng thời gian cho con nhiều gấp 6 lần so với các ông bố. Nỗi lo thường

xuyên của các ông bố, bà mẹ hiện nay là việc hẻ hỗn láo, bỏ học, cờ bạc, sử
dụng ma túy và đi chơi qua đêm nhưng có đến 8,8% trong số họ làm ngơ trước
lỗi lầm của con mình và 0,5% cảm thấy hồn tồn bất lực.
1.3.2. Nguyên nhân của những kết quả và hạn chế
*Nguyên nhân của ưu điểm
Đảng và Nhà nước ta ln có các chủ trương, chính sách và sự quan tâm
đúng đắn, thường xuyên đối với vấn đề xây dựng gia đình.
Bên cạnh đó, các bậc cha mẹ đã thường xuyên quan tâm xây dựng một gia
đình đầy đủ tồn vẹn, trong đó mọi thành viên có nghĩa vụ và trách nhiệm với
nhau. Xây dựng một phong cách sinh hoạt có nề nếp, phù hợp nhu cầu hứng thú
nhằm phát huy những mặt tích cực của các thành viên trong gia đình. Đặc biệt
cha mẹ, người lớn đã giữ uy tín vai trị gương mẫu của mình trong gia đình và
ngồi xã hội. Thường xuyên liên hệ chặt chẽ với nhà trường, đoàn thể để nắm
được mục đích giáo dục, có sự phối hợp chặt chẽ.
*Nguyên nhân của hạn chế
Về mặt xã hội, nhiều văn bản luật và chính sách của Đảng, Nhà nước
chưa được người dân nhận thức đầy đủ. Cơ chế phối hợp triển khai thực hiện
chính sách gia đình chưa đồng bộ. Ðội ngũ cán bộ chuyên trách về công tác gia
đình ở cấp cơ sở cịn thiếu các kỹ năng cần thiết và gặp nhiều khó khăn trong
việc xử lý các vấn đề về gia đình.
12


Về phía các gia đình, sự thiếu quan tâm đến việc giáo dục gia đình là một
nguyên nhân quan trọng khiến cho gia đình chưa phát huy được vai trị của nó với tư
cách là mơi trường tạo nguồn nhân lực có chất lượng tốt cho xã hội.
Nhiều gia đình vẫn khoán trắng cho xã hội và nhà trường việc giáo dục trẻ em.
Một số khơng ít các bậc cha mẹ chưa dành được thời gian thích đáng để quan
tâm tới con cái. Ngồi ra, nhiều bậc cha mẹ cịn thiếu kỹ năng và phương pháp
giáo dục con cái một cách khoa học.

Ảnh hưởng, tác động của kinh tế thị trường, các tệ nạn xã hội, văn hóa
xấu, độc du nhập mà khơng có sự chọn lọc vào gia đình, tập trung chủ yếu vào
giới trẻ có hiểu biết, nhận thức chưa đầy đủ. Đặc biệt là sự phát triển của
internet, mạng xã hội là một trong những nguyên nhân chính tiếp tay cho việc du
nhập các tệ nạn xã hội đó.
Một vấn đề cần đặc biệt lưu tâm là nâng cao mức sống của các gia đình ở
nhiều vùng khó khăn cũng là một yêu cầu được đặt ra để các gia đình có điều
kiện để quan tâm, chăm sóc và giáo dục con cái một cách tốt hơn.

13


Chương 2: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Những nhân tố tác động và phương hướng nâng cao chất lượng
xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Những nhân tố tác động
Tình hình thế giới hiện nay đang có sự thay đổi lớn. Với tác động của
khoa học công nghệ, thế giới như dần được phẳng ra, những khoảng cách
về không gian đang thu hẹp lại bởi giao thông đa phương tiện hết sức
nhanh chóng, thuận lợi và thơng tin liên lạc ngày càng dễ dàng, thơng
suốt. Các sản phẩm hàng hóa tiêu dùng cho con người ngày càng thông
minh hơn, đi trước và hướng dẫn cảm thụ tiêu dùng của con người. Ở
trong nước, ngoài những thành tựu đã đạt được, bên cạnh đó vẫn cịn tồn
tại tình trạng lạc hậu, đói nghèo, những hủ tục xưa cũ... ở một số nơi, đặc
biệt là ở các vùng miền núi, điều này tác động khơng hề nhỏ đến xây dựng
gia đình ở Việt Nam.
Sự tác động của tồn cầu hóa. Trong bối cảnh đất nước tham gia vào q
trình tồn cầu hố và hội nhập quốc tế, mối quan hệ cá nhân – gia đình ở Việt

Nam đang có những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc, cả tích cực lẫn tiêu cực. Điều
này thể hiện ở sự thay đổi mơ hình gia đình truyền thống, ở sự thay đổi trong các
mối quan hệ truyền thống giữa các thành viên của gia đình cũng như sự xuất
hiện những vấn đề gia đình và xã hội khác.
Nền kinh tế thị trường đã và đang tác động tiêu cực đến đạo đức xã hội,
nhiều tệ nạn xã hội "tấn cơng" vào các gia đình, ảnh hưởng lớn đến lối sống, đến
việc hình thành nhân cách của con người và các mối quan hệ trong gia đình;
quan hệ vợ chồng, anh em, họ hàng, làng xóm bị phai mờ, giá trị tinh thần bị
xem nhẹ; những thay đổi của xã hội đã kéo theo sự thay đổi của gia đình, khiến
cho các quan hệ trong gia đình trở nên lỏng lẻo; nhiều gia đình có điều kiện, cha
mẹ mải lo làm ăn, cơng tác, khơng có thời gian quan tâm giáo dục con cái dẫn
đến con cái hư hỏng, sa vào tệ nạn xã hội.
Hiện nay, các thế lực thù địch đang ra sức chống phá Đảng và Nhà nước
ta, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa. Chúng đã và đang sử dụng những
chiêu thức mới, tiếp cận theo hướng quan hệ “mềm dẻo”, thân thiện hơn, hợp
tác toàn diện, thâm nhập sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ đó tác
14


động, phá hoại nền tảng tư tưởng, bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta. Q trình đó có tác động rất lớn đến
diễn biễn tâm tư tình cảm, giác ngộ chính trị của các thành viên trong gia đình.
Nếu khơng kiên định bản lĩnh chính trị và sự hiểu biết thì rất dễ bị chúng lơi
kéo, làm tan vỡ gia đình.
2.1.2. Những phương hướng nâng cao chất lượng xây dựng gia đình ở
Việt Nam
Xây dựng nền kinh tế mới, chế độ xã hội mới, nền văn hóa mới và con
người mới xã hội chủ nghĩa là những tiền đề cơ bản quyết định hình thành và
phát triển gia đình mới xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, những điều kiện để hình
thành và phát triển gia đình mới khơng xuất hiện đầy đủ và ngay lập tức trong

thời kỳ đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Do vậy, gia đình mới cũng được hình thành và hồn thiện dần từng bước.
Gia đình phát triển bền vững không chỉ là niềm hạnh phúc cho mọi người,
mỗi nhà mà còn là nhân tố quan trọng góp phần giữ gìn sự phát triển lành mạnh,
an toàn của xã hội và sự ổn định dân số của mỗi quốc gia. Vì vậy, gia đình cũng
là một trong những vấn đề được Đảng ta đặc biệt quan tâm.
Từ khi thành lập và trải qua các thời kỳ lãnh đạo đất nước, Đảng ta có
nhiều chủ trương, chính sách để phát triển “các tế bào” của xã hội sao cho thật
mạnh khỏe, bền vững để tạo đà cho đất nước phát triển.
Cương lĩnh xây đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội của
Đảng ta xác định: “Các chính sách của nhà nước phải chú ý tới xây dựng gia
đình ấm no, hịa thuận, tiến bộ. Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với
mọi lớp người”,
Cương lĩnh xây dựng đất nước (sửa đổi, bổ sung 2011) xác định: “Xây dựng
gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi
trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách.”
Và những giá trị gia đình đã được định hình thơng suốt và thống nhất, thể
hiện trong các văn kiện của Đại hội Đảng XIII là: “ấm no”, “tiến bộ”, “hạnh
phúc”, “văn minh”, “bình đẳng”. Qua đó xây dựng một hệ giá trị gia đình Việt
Nam gồm tổng hịa giá trị kinh tế, văn hóa, xã hội kết hợp giữa truyền thống và
hiện đại trở thành nguồn lực mạnh mẽ thực hiện mục tiêu phát triển con người,
phát triển đất nước đang là phương hướng, mục tiêu, yêu cầu đặt ra.
Ngày gia đình Việt Nam, 28/6: Đây là dịp để mọi người trong xã hội
hướng về mái ấm gia đình, tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
chăm lo gia đình thủy chung, thương u, gắn bó,… xây dựng gia đình hạnh
phúc, góp phần xây dựng xã hội phồn vinh…
2.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng gia đình ở Việt Nam
15



- Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, Nhà nước về
vấn đề xây dựng gia đình.
Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể cần tiếp tục nghiên cứu, quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về cơng tác xây dựng gia đình; nhận thức đúng
về vai trị, tầm quan trọng của gia đình và cơng tác xây dựng gia đình trong
tình hình mới.
Xây dựng và nhân rộng các mơ hình gia đình văn hóa tiêu biểu, nền nếp,
ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, vợ chồng hịa thuận, anh chị em
đồn kết, thương u nhau. Đề cao vai trị của gia đình trong nuôi dưỡng, định
hướng giá trị, giáo dục thế hệ trẻ. Kiên quyết đấu tranh chống lối sống thực
dụng, tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình, xóa bỏ các hủ tục, tập quán lạc hậu trong
hôn nhân và gia đình. Khắc phục bệnh thành tích, hình thức trong cơng tác xây
dựng gia đình.
Hồn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về gia đình theo hướng lấy hoạt
động của gia đình làm trọng tâm, bảo đảm sự gắn kết xã hội và vai trị của gia
đình. Huy động các cá nhân, tổ chức xã hội, cộng đồng tham gia cung cấp dịch
vụ gia đình và chăm lo giúp đỡ, hỗ trợ các gia đình nghèo, khó khăn; bảo đảm
gia đình được tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản công bằng, bình đẳng, thuận lợi.
Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về cơng tác xây dựng gia đình. Xây
dựng dữ liệu số quốc gia về gia đình làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách,
chương trình kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Ưu tiên đầu tư cho nghiên cứu
khoa học về gia đình; hoạch định, tổ chức thực hiện và đánh giá chính sách về
gia đình; sáng tác các tác phẩm văn học-nghệ thuật về chủ đề gia đình.
Đẩy mạnh, đổi mới cơng tác phổ biến, tun truyền, giáo dục chính sách,
pháp luật về hơn nhân và gia đình; các chuẩn mực, giá trị văn hóa gia đình; kiến
thức, kỹ năng xây dựng gia đình; các rủi ro đối với gia đình, giúp người dân chủ
động phòng ngừa các ảnh hưởng tiêu cực đến gia đình. Tăng cường giáo dục đạo
đức, lối sống trong gia đình. Phát huy vai trị của gia đình, cộng đồng, xã hội
trong việc xây dựng mơi trường văn hóa, con người Việt Nam giàu lòng nhân ái,

khoan dung, chân thành, tín nghĩa, trọng đạo lý, cần cù, chăm chỉ, tiết kiệm,
sáng tạo, khát vọng, hiện đại.
- Xây dựng gia đình mới phải trên cơ sở kế thừa những giá trị truyền
thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam và tiếp thu những giá trị tiến bộ của gia
đình trên thế giới.
Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cùng
với sự biến đổi kinh tế, văn hóa, xã hội, các giá trị của gia đình cũng đang có
chuyển biến mạnh mẽ từ gia đình truyền thống sang gia đình hiện đại.
Gia đình truyền thống Việt Nam có các ưu điểm nổi trội như có sự gắn bó
cao về tình cảm theo huyết thống, bảo lưu được các truyền thống văn hóa, tập
tục, nghi lễ, phát huy tốt các gia phong, gia lễ, gia đạo. Các thành viên trong gia
đình có điều kiện giúp đỡ nhau về vật chất và tinh thần, chăm sóc người già và
16


giáo dưỡng thế hệ trẻ. Đó là những giá trị rất căn bản của văn hóa gia đình mà
chúng ta cần kế thừa và phát huy.
Song song với kế thừa và phát huy các giá trị, cần loại bỏ các yếu tố lỗi
thời lạc hậu của gia đình truyền thống như tính gia trưởng, bất bình đẳng về giới,
những nghi lễ rườm rà tốn kém trong ma chay, cưới hỏi; tính cục bộ theo dịng
họ, địa phương.
Bên cạnh đó, trong điều kiện hiện nay, sự chuyển đổi hệ giá trị từ gia đình
truyền thống sang gia đình hiện đại đang địi hỏi phải tiếp thu có chọn lọc các
giá trị văn hóa của nhân loại, đồng thời ngăn chặn sự xâm nhập, lây lan của hơn
nhân và già đình tư sản như thực dụng trong tình yêu, tình trạng “cặp bồ”, lối
sống bạo lực trong gia đình, coi nhẹ giáo dục gia đình...
- Thực hiện hơn nhân tự do, tiến bộ.
Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu để xây dựng gia đình ở nước ta hiện
nay. Hơn nhân là tiền đề của gia đình, nó hướng vào giải quyết mối quan hệ cơ
bản nhất của gia đình (quan hệ vợ chồng) làm cơ sở để giải quyết các mối quan

hệ khác cũng như việc thực hiện vai trò, chức năng của gia đình; đồng thời đây
cịn là cơ sở bảo đảm xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững. Hôn nhân tự do,
tiến bộ trước hết là hôn nhân dựa trên tình u chân chính của nam và nữ. Đó là
tình cảm nảy sinh giữa hai giới nam và nữ trong quá trình gặp gỡ, giao lưu và
tìm hiểu lẫn nhau.
Có như vậy, nam nữ mới có tình cảm và trách nhiệm đầy đủ với nhau,
tránh được những đau khổ cho cả hai người, nhất là đối với phụ nữ. Hơn nhân tự
do tiến bộ địi hỏi phải được bảo đảm về mặt pháp lý. Điều đó khơng chỉ thể
hiện trách nhiệm đối với việc kết hôn; với việc xây dựng gia đình tương lai của
mình và trách nhiệm trước xã hội, mà còn là yêu cầu cần thiết bảo đảm cho việc
xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững, ngăn chặn những kẻ xấu lợi dụng, làm
hại những người nhẹ dạ cả tin, phá vỡ hạnh phúc của người khác.
Hơn nhân tự do, tiến bộ cịn bao hàm cả quyền ly hơn khi có những lý do
chính đáng. Trong cuộc sống gia đình, khi tình yêu giữa vợ và chồng khơng cịn
nữa, cả hai đều nhận thấy khơng thể chung sống hạnh phúc và đều thuận tình ly
hơn; được pháp luật cho phép thì ly hơn là điều cần thiết cho hai người và xã
hội. Trong ly hôn cần có sự quan tâm hơn nữa của pháp lý, của đồn thể xã hội,
cộng đồng làng xóm, dân phố… đối với người phụ nữ.
Hôn nhân tự do, tiến bộ là thực hiện chế độ hôn nhân một vợ một chồng,
vợ chồng bình đẳng. Hơn nhân một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng phù hợp
với quy luật phát triển của tự nhiên, của xã hội, với tâm lý tình cảm và đạo đức
con người, đồng thời là cơ sở bảo đảm xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững.
17


Để thực hiện chế độ hôn nhân một vợ, một chồng bình đẳng, trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là ở thời kỳ quá độ, chúng ta cần phải kiên quyết
đấu tranh loại bỏ những tàn dự tư tưởng lạc hậu của chế độ hơn nhân và gia đình
phong kiến, ngăn chặn những biểu hiện thực dụng của hôn nhân và gia đình tư
sản cùng các hiện tượng tiêu cực khác trong đạo đức và lối sống.

- Xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp giữa các thành viên trong gia đình,
các thành viên trong gia đình thực sự bình đẳng, dân chủ.
Đây là một trong những giải pháp quan trọng để xây dựng gia đình trong
xây dựng hủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ, xây dựng các mối quan hệ trong gia đình thực
sự bình đẳng trực tiếp góp phần xây dựng gia đình văn hóa, bảo đảm cho việc
thực hiện tốt vai trị, chức năng của gia đình.
Trước tiên là quan hệ vợ - chồng: Đây là quan hệ cơ bản và có ý nghĩa
quyết định nhất đến hạnh phúc và chi phối các mối quan hệ khác của gia đình.
Trong gia đình, vợ - chồng phải thực sự bình đẳng, thương u, tơn trọng nhau;
có quyền và nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong đời sống gia đình;phải thống
nhất giải quyết những vấn đề chung như nơi ở, tổ chức đời sống, các mối quan
hệ của gia đình và giáo dục con cái trên cơ sở cùng nhau trao đổi bàn bạc và tổ
chức thực hiện; thương yêu chăm sóc và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ, thường
xuyên quan tâm đến đặc điểm giới tính của nhau để thông cảm tạo điều kiện cho
nhau cùng hồn thành nghĩa vụ đối với gia đình và xã hội; đặc biệt là phải chung
thủy vì điều này thể hiện bản chất của tình u sau hơn nhân và cũng là u cầu
của hình thức hơn nhân mới dưới chủ nghĩa xã hội.
Cùng với quan hệ vợ chồng là quan hệ cha mẹ với các con,quan hệ giữa
các con với nhau đều phải dựa trên cơ sở dân chủ, thương yêu, có trách nhiệm
cùng nhau chia sẻ, gánh vác công việc của các thành viên để thực hiện các chức
năng cơ bản của gia đình và nghĩa vụ xã hội.
Ngoài hai quan hệ cơ bản trên, ở một số gia đình cịn có mối quan hệ khác
như quan với ông, bà, cô,chú, bác... Các quan hệ này cũng phải được xây dựng
trên cơ sở của sự tôn trọng, hiếu thảo, thương yêu, giúp đỡ nhau trong cuộc sống
cũng như lúc gặp khó khăn, hoạn nạn.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, về cơ bản
các mối quan hệ của gia đình đang được duy trì theo những giá trị tốt đẹp của
gia đình truyền thống, kết hợp với những tiến bộ của gia đình hiện đại, bảo đảm
cho gia đình là tổ ấm của các thành viên. Bên cạnh đó, cịn tồn tại, nảy sinh
những biểu hiện thiếu lành mạnh các mối quan hệ của gia đình. Trong quan hệ

vợ chồng, ở một số gia đình có biểu hiện bất bình đẳng, bạo lực, sự thiếu chung
thủy... là nguyên nhân làm cho nhiều gia đình tan vỡ, con trẻ bơ vơ, tệ nạn xã
hội phát triển; trong quan hệ cha me, con cái, do nhiều nguyên nhân khác nhau
18


dẫn đến một bộ phận gia đình thiếu quan tâm nuôi dạy con cái, để cho các con
hành không đến nơi đến chốn, chạy theo lối sống gấp buông thả, rơi vào cạm
bẩy của tệ nạn xã hội, quan hệ giữa anh chị em ở một số gia đình trở nên lạnh
nhạt kèn cựa, ghen tị, thậm chí xơ xát nhau vì tranh giành của cải, đất đai, quan
hệ giữa ông, bà với con cháu ở một bộ phận gia đình xuất hiện tình trạng con
cháu thờ ơ, thiếu quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của ơng bà, thậm
chí cịn có hiện tượng bạo lực chống người già ở một số nơi.
Từ thực tiễn đó, trong việc xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp trong gia
đình là yêu cầu bức thiết. Bên cạnh sự nổ lực cố gắng của các thành viên gia
đình địi hỏi có sự quan tâm của các các cấp ủy đảng, chính quyền, đồn thể,
cộng đồng dân cư nơi gia đình sinh sống, bảo đảm cho gia đình thực sự là tổ ấm,
là nơi trú ngụ an toàn nhất của mọi thành viên.
- Không ngừng chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho các thành viên
trong gia đình.
Đây là giải pháp quan trọng, tạo cơ sở vật chất, tinh thần cho gia đình
phát triển lành mạnh. Bởi lẽ, với tư cách là tế bào của XH, gia đình chịu sự
ảnh hưởng, tác động của chính xã hội đã sản sinh ra nó, sự phát triển của gia
đình bao giờ cũng gắn liền với những điều kiện kinh tế - xã hội và do điều
kiện kinh tế xã hội quy định. Hơn nữa, sự no ấm về đời sống vật chất, lành
mạnh và phong phú về đời sống văn hóa tinh thần là những tiền đề vững chắc
bảo đảm cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ, đạo đức của các thành viên gia
đình. Đồng thời góp phần thiết thực vào việc chuẩn bị nguồn lực con người
cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần cho các thành viên trong gia đình có nội dung tồn diện. Cùng

với bảo đảm cho các gia đình có đời sống vật chất ngày càng no đủ phải xây
dựng đời sống tinh thần ngày càng phong phú dựa trên khả năng, thu nhập
của mỗi gia đình và trong điều kiện cho phép. Ở nước ta hiện nay, một bộ phận
gia đình thuộc các dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa, vùng căn cứ kháng chiến
cũ có khoảng cách khá lớn về thu nhập về đời sống so với tốc độ phát triển
chung của cả nước, nhất là vùng đô thị, các trung tâm kinh tế, chính trị. Vì vậy,
Đảng và Nhà nước cần có chính sách ưu tiên phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
nhằm nâng cao dần thu nhập, mức sống, chất lượng sống, xóa đói giảm nghèo
tiến tới xóa nghèo cho các gia đình ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu,
vùng xa. Cùng với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, phải giữ vững ổng định
chính trị, kiên quyết đấu tranh mọi biểu hiện gây chia rẽ, phá vỡ khối đại đoàn
kết toàn dân, đoàn kết cộng đồng gia đình các dân tộc Việt Nam, bảo đảm cho
các gia đình trên lãnh thổ Việt Nam đều có đời sống vật chất, tinh thần no đủ,
phong phú để thực hiện tốt vai trị, chức năng của mình.
19


- Xây dựng gia đình gắn chặt với xây dựng khu tập thể dân cư, làng,
bản văn hóa.
Cùng với các giải pháp trên, xây dựng gia đình gắn với xây dựng khu tập
thể dân cư, làng,bản văn hóa là giải pháp quan trọng nhằm tạo môi trường lành
mạnh cho sự phát triển của gia đình. Vốn là một nước nơng nghiệp, từ lâu, gia
đình truyền thống Việt Nam thường gắn liền với làng, với nước, hình thành nên
sự cố kết bền chặt trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Đoàn
kết, thương yêu,đùm bọc, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau là truyền thống tốt đẹp
của dân tộc Việt Nam, của con người Việt Nam, của truyền thống gia đình Việt
Nam. Để thực hiện giải pháp này trước hết, cần xây dựng khu tập thể dân cư,
làng, bản theo những tiêu chuẩn văn hóa mới; xây dựng các tổ chức CT-XH
vững mạnh; thực hiện tốt cơ chế dân chủ ở cơ sở làng, xã. Bên cạnh đó, cần
tích cực đấu tranh đẩy lùi các tệ nạn xã hội và hoạt động chống phá của các thế

lực thù địch.

20


KẾT LUẬN
Thực tiễn đã chứng minh, gia đình yên ấm hạnh phúc là điều kiện, tiền đề
quan trọng cho sự hình thành, phát triển nhân cách và bảo đảm cho lao động sáng tạo
đạt hiệu quả cao nhất. Mỗi thành viên đều có trách nhiệm vun đắp, tham gia xây
dựng tổ ấm gia đình, trong đó người vợ, người mẹ có vai trị rất quan trọng. Trong
giáo dục con cái phải kết hợp chặt chẽ giữa mơi trường "Gia đình - nhà trường - xã
hội " thì hiệu quả giáo dục sẽ cao hơn. Tuy nhiên, chúng ta không nên "tuyệt đối
hố" giáo dục trong gia đình mà xem nhẹ giáo dục ở nhà trường và xã hội, hoặc "phó
mặc" sự giáo dục con cái cho nhà trường và xã hội...
Cùng với những thành tựu chung của đất nước, sau khi có đường lối đổi
mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, trên lĩnh vực hôn nhân và gia đình cũng
có nhiều tiến bộ tích cực như: ý thức xây dựng gia đình được nâng cao, các chức
năng gia đình từng bước thực hiện đầy đủ; lợi ích gia đình dần được đảm bảo.
Hoạt động kinh tế gia đình từng bước được phát triển, đời sống vật chất và tinh
thần gia đình được cải thiện rõ rệt, tạo điều kiện cho việc giáo dục con cái được
tốt hơn. Các mối quan hệ trong gia đình ngày càng được tơn trọng, bình đẳng và
dân chủ. Quyền trẻ em, quyền tự do và bình đẳng trong hơn nhân của các thành
viên được khẳng định và tơn trọng.
Để từng gia đình là hạt nhân tốt của xã hội, thiết nghĩ bên cạnh sự chăm lo
của Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội thì vai trị của từng gia đình và các
thành viên trong gia đình là hết sức quan trọng và có tính quyết định. Tồn xã
hội quan tâm đến cơng tác xây dựng gia đình, nhưng từng gia đình và các thành
viên biết quan tâm đến nhau, sống có trách nhiệm mới là xây dựng gia đình hạnh
phúc bền vững.
Mỗi cơng dân là một thành viên của gia đình mình phải nhận thức đúng

đắn và đầy đủ về vị trí, vai trị, chức năng của gia đình, qn triệt sâu sắc quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, từ đó nâng cao ý
thức trách nhiệm trong việc xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, văn
minh, bình đẳng, góp phần quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển
đất nước hướng tới xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội./.

21


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI; Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
XII; Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII; Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021
4. Chỉ thị số 49-CT/TW của Ban Bí thư về xây dựng gia đình thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
5. C.Mác và Ph.Ăngghen. Tồn tập nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1995
6. Hồ Chí Minh tồn tập nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011
7. Báo cáo Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam, Ban chỉ đạo Tổng
điều tra dân số và nhà ở Trung ương, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2009
8. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2006

22




×