Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Phân tích đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ download vn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (689.9 KB, 65 trang )

Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Dàn ý phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Dàn ý số 1
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Đặng Trần Côn và dịch giả Đoàn thị Điểm: tên tuổi, con người, sự
nghiệp văn chương
- Giới thiệu tác phẩm Chinh phụ ngâm (hoàn cảnh sáng tác) và đoạn trích tình cảnh lẻ
loi của người chinh phụ (vị trí, nội dung đoạn trích).
II. Thân bài
1. 16 câu đầu: Tình cảm cơ đơn, lẻ loi của người chinh phụ.
a. Hành động lặp đi lặp lại một cách nhàm chán, vô vị.
- “Thầm reo từng bước”: Bước chân lặng lẽ dạo trên hiên vắng.
- “Rủ thác địi phen”: Vào trong phịng cuốn rèm, bng rèm
→ Hành động lặp lại đi lặp lại một cách vô thức, thể hiện sự bần thần, bất định của
người chinh phụ
- Chữ “vắng, thưa”: Không chỉ gợi sự vắng lặng của khơng gian mà cịn cho thấy nỗi
trống vắng trong lịng người người chinh phụ
b. Thao thức ngóng trơng tin chồng
- Ban ngày:
+ Người chinh phụ gửi niềm hi vọng vào tiếng chim thước – loài chim khách báo tin
lành.
+ Nhưng thực tế “thước chẳng mách tin”: Tin tức chồng vẫn bặt vơ âm tín.


Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
- Ban đêm:
+ Người chinh phụ thao thức cùng ngọn đèn hi vọng đèn biết tin tức về chồng, san sẻ
nỗi lòng cùng nàng.
+ Thực tế: “Đèn chẳng biết” “lòng thiếp riêng bi thiết” Câu thơ có hình thức đặc biệt
khẳng định rồi lại phủ định, ngọn đèn có biết cũng như khơng vì nó chỉ là vật vơ tri


khơng thể san sẻ nỗi lịng cùng người chinh phụ.
+ So sánh với bài ca dao “khăn thương nhớ ai”, bài ca dao cũng có xuất hiện hình ảnh
ngọn đèn. Nếu “đèn” trong bài ca dao là tri âm tri kỉ với người phụ nữ thì ở đây ngọn
“đèn” lay lắt lại cứa sâu thêm nỗi đau trong lịng người.
- Hình ảnh so sánh “hoa đèn” và “bóng người”.
+ “Hoa đèn” dầu bấc ngọn đèn, thực tế là than. Cũng giống như ngọn đèn cháy hết
mình để rồi chỉ con hoa đèn tàn lụi, người phụ nữ đau đáu hết lòng chờ chồng nhưng
cuối cùng nhận lại sự cô đơn, trống trải.
+ Liên hệ với nỗi cô đơn của Thúy Kiều sau khi từ biệt Thúc Sinh trở về với chiếc
bóng năm canh:
“Người về chiếc bóng năm canh/Kẻ đi mn dặm một mình xa xơi”
c. Cảm nhận khác thường của người chinh phụ về ngoại cảnh.
- “Gà gáy”, “sương”, “hịe”: Là những hình ảnh gắn với cuộc sống thơn q bình dị,
n ả
- Từ láy “eo óc, phất phơ”: Cực tả vẻ hoang vu, ớn lạnh đến ghê rợn của cảnh vật.
→ Dưới con mắt trống trải cô đơn cả người chinh phụ, những cảnh vật vốn gắn với
cuộc sống yên bình, êm ả nay trở nên khác thường, hoang vu, ớn lạnh. Đó là cách nói
tả cảnh để ngụ tình.
d. Cảm nhận khác thường của người chinh phụ về thời gian.


Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
- “Khắc giờ đằng đẵng”, “mối sầu dằng dặc”: Thể hiện sự dàn trải của nỗi nhớ miên
man không dứt.
- Biện pháp so sánh kết hợp với các từ láy giàu giá trị gợi hình gợi cảm “dằng dặc,
đằng đẵng” cho thấy sự cảm nhận khác thường về thời gian, mỗi phút mỗi giờ ngắn
ngủi trôi qua mà nặng nề như một năm dài, thời gian càng dài mối sầu càng nặng nề
hơn.
→ Câu thơ cực tả nỗi cô đơn tột cùng tột độ trong lịng người chinh phụ
e. Hoạt động gắng gượng duy trì nếp sống hằng ngày.

- Điệp từ “gượng”: nhấn mạnh sự cố gắng gị ép mình của người chinh phụ
- Mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm:
+ Đốt hương tìm sự thanh thản nhưng tình cảm lại mê man theo những suy nghĩ viển
vông, khắc khoải, những dự cảm chẳng lành
+ Soi gương nhưng chỉ thấy hiện lên đó gương mặt đau khổ đầm đìa nước mắt.
+ Gượng gảy đàn sắt đàn cầm để ôn lại kỉ niệm vợ chồng nhưng lại lo lắng có điềm gở.
Sự lo lắng khơng chỉ cho thấy nỗi cơ đơn mà cịn cho thấy niềm khát khao hạnh phúc
lứa đôi của người phụ nữ.
⇒ Tiểu kết:
- Nội dung: Khắc họa tâm trạng cô đơn, lẻ loi, trống vắng của người phụ nữ, ẩn sau đó
thái độ cảm thơng, chia sẻ của tác giả đối với nỗi đau khổ của con người.
- Nghệ thuật:
+ Giọng thơ trầm buồn, khắc khoải, da diết, trầm lắng
+ Khắc họa nội tâm nhân vật tài tình, tinh tế thơng qua hành động nhân vật, yếu tố
ngoại cảnh, độc thoại nội tâm


Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
+ Các biện pháp tu từ: So sánh, điệp từ, từ láy.
2. Nỗi nhớ nhung của người chinh phụ.
a. Ước muốn của người chinh phụ.
- “Gió đơng”: Gió mùa xn mang theo hơi ấm và sự sống
- “Non Yên”: Điển tích chỉ nơi biên ải xa xơi
- “Nghìn vàng”: Hình ảnh ẩn dụ cho tấm lịng của người chinh phụ (buồn tủi, cơ đơn,
lo lắng, trống vắng, hi vọng rồi lại thất vọng)
→ Với các hình ảnh ẩn dụ và điển tích đã cho thấy ước muốn của người chinh phụ gửi
gắm niềm hi vọng, thương nhớ vào ngọn gió xuân mang đến nơi chiến trường xa xôi
để người chinh phu thấu hiểu và trở về cùng nàng.
b. Nỗi nhớ của người chinh phụ
- Thủ pháp điệp liên hoàn “Non yên – non yên, trời – trời”: Nhấn mạnh khoảng cách

xa xôi, trắc trở không gì có thể khỏa lấp, đồng thời cực tả nỗi nhớ vời vợi , đau đáu
trong lòng người chinh phụ
- Từ láy “thăm thẳm, đau đáu”: Cực tả cung bậc của nỗi nhớ, thăm thẳm là nỗi nhớ sâu,
dai dẳng, triền miên, đáu đáu là nỗi nhớ gắn với nỗi đau, nỗi sầu.
→ Câu thơ ghi lại một cách tinh tế, cảm động sắc thái nỗi nhớ, nỗi nhớ mỗi lúc một
tăng tiến, dồn nén trở thành nỗi đau xót xa.
→ Sự tinh tế, nhạy cảm, đồng điệu của tác giả.
c. Mối quan hệ giữa ngoại cảnh và tâm cảnh.
- “Cảnh buồn”, “người thiết tha lòng”: Cảnh và người đều gặp nhau ở nỗi buồn và
niềm đau
- Cảnh vốn là vật vô tri nhưng tâm trạng của con người đã nhuốm sầu cảnh vật.


Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
→ Thủ pháp tả cảnh ngụ tình, người chinh phụ đã hướng nỗi buồn ra ngồi cảnh vật
khiến nó cũng trở nên não nề.
⇒ Tiểu kết.
- Nội dung: Khắc họa nỗi buồn, nỗi đau, nỗi nhớ của người chinh phụ, ẩn sau đó là sự
đồng cảm, trân trọng của tác giả đối với số phận và phẩm hạnh người phụ nữ
- Nghệ thuật:
+ Sử dụng các biện pháp tu từ ẩn dụ, điệp liên hoàn, từ láy
+ Thủ pháp tả cảnh ngụ tình
+ Giọng điệu da diết, buồn thương
III. Kết bài
- Khái quát nội dung và nghệ thuật của đoạn trích
- Liên hệ với số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải xa chồng
vì chiến tranh phi nghĩa: Vũ Nương. Qua đó, phê phán chiến tranh phi nghĩa tước đi
hạnh phúc người phụ nữ.
Dàn ý số 2
1. Mở bài

Giới thiệu tác phẩm Chinh phụ ngâm và trích đoạn Tình cảnh lẻ loi của người chinh
phụ.
2. Thân bài
a. Phân tích nỗi cô đơn, sầu tủi của người chinh phụ
- “Dạo hiên vắng”: Trước hiên nhà, những bước đi chậm rãi, nặng nề.


Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
- “Ngồi rèm thưa rủ thác địi phen” Hành động bng rèm xuống, kéo rèm lên lặp lại
trong vô thức diễn tả nỗi chán chường, tơ đậm thêm nỗi cơ đơn trong kh các.
- “Ngồi rèm thước chẳng mách tin”: Trông chờ một tiếng lành từ chim thước từ xa
nhưng chẳng có, nàng đành ngậm ngùi bên chiếc đèn khuya.
- “Trong rèm dường đã có đèn biết chăng” Tìm đến đèn để tâm giao cho vơi nỗi ưu sầu,
mà đèn nào có biết, nào có thấu được tâm can kẻ cô đơn.
- Người chinh phụ buồn bã trong khuê phòng với ánh đèn dầu hiu hắt mà xót thương
cho số phận mình, tủi hổ cho cảnh lẻ loi, đơn chiếc vì chia ly của mình.
- Nỗi bi thiết của lòng nàng cất lên trong từng tiếng thơ ai ốn, vừa như trách móc, vừa
như xót xa cho thân phận.
- Đèn dần tàn, thời gian vẫn vậy cứ trơi đi, một mình, một bóng, gặm nhấm nỗi cơ độc,
sầu tủi, nỗi chán chường vì lẻ loi tận cùng “Lịng thiếp riêng bi thiết mà thơi”.
- Lịng người buồn tủi, nỗi sầu thương nhuốm lên cả vị thời gian, màu khơng gian:


Tiếng gà "eo óc" đếm thời gian trong đêm lạnh.



Bóng hịe "phất phơ rủ bóng" ngẩn ngơ bốn bề.




Thiên nhiên có thanh, có sắc mà chẳng có lấy chút niềm vui dù là nhỏ bé

- Mỗi khắc thời gian trơi qua đều nặng nề, khó khăn tựa như một năm dài.
- Trong nỗi buồn tủi, sầu muộn, cô độc đến cùng cực ấy, người chinh phụ cố vực dậy
tinh thần mình bằng việc tìm đến những thú vui đời thường. Nhưng trớ trêu thay, mọi
thứ dường như đều trở nên gượng gạo, bất lực trước tâm trạng chinh phụ.
b. Phân tích nỗi nhớ thương chồng tha thiết của người chinh phụ.
- Càng cô đơn, tuyệt vọng, nỗi nhung nhớ lại càng dâng trào, mãnh liệt.


Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
- Người chinh phụ nhớ thương chồng tha thiết nhưng đành bất lực vì khoảng cách q
xa xơi.
- "Non n" một hình ảnh ẩn dụ cho sự xa xôi, cách trở của người chinh phụ và kẻ
chinh phụ.
- Vì nỗi nhớ thương da diết, khơng biết làm gì hơn, nàng đành gửi nỗi nhớ theo gió
đơng đến "Non n".
- Từ láy "thăm thẳm", "đau đáu" kết hợp với cụm danh từ "đường lên bằng trời" đã đặc
tả nỗi nhớ khôn nguôi, mênh mông và cao rộng đến tận cùng trong người chinh phụ.
3. Kết bài
Khẳng định lại vẻ đẹp và giá trị của đoạn trích.
Phân tích Chinh phụ ngâm
Trong văn học trung đại, để lên án sự suy tàn của xã hội phong kiến cũng như ngợi ca
những khát khao niềm hạnh phúc của con người, nhiều thi nhân đã gửi gắm tâm sự,
nỗi bất bình của mình vào các bài thơ, khúc ngâm. Thời Đường ở Trung Quốc, Vương
Xương Linh oán ghét cuộc chiến tranh phi nghĩa, mà viết Khuê oán. Thời Lê ở nước ta,
Đặng Trần Côn cảm thông thâm thúy trước số phận những người dân phụ nữ có chồng
đi lính mà làm ra tuyệt tác Chinh phụ ngâm. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người
chinh phụ thuộc tác phẩm trên đã chạm đến trái tim người đọc khi tái hiện hồn cảnh

cơ độc, nỗi nhớ thương da diết của người phụ nữ ước mơ niềm hạnh phúc đoàn tụ.
Chinh phụ ngâm ra đời vào tầm khoảng thế kỷ XVIII, đầu đời Lê Hiển Tông, trào lưu
khởi nghĩa nông dân diễn ra liên miên, triều đình điều binh lính đi dẹp loạn. Từ đấy
nhiều gia đình chịu cảnh chia lìa, kẻ ở người đi, không hẹn ngày tái ngộ. Số phận và
thảm kịch của những con người nhỏ bé trong cái xã hội phong kiến đang đứng bên bờ
vực thẳm ấy đã lay động trái tim của Đặng Trần Côn.


Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Trong khúc ngâm viết bằng chữ Hán của ơng có 476 câu thơ, tn theo thể trường
đoản cú. Khi Đoàn Thị Điểm dịch sang chữ Nôm đã chuyển tác phẩm về thể thơ song
thất lục bát, dùng âm điệu réo rắt, thiết tha của thể thơ dân tộc bản địa góp phần thể
hiện tình cảnh và tâm trạng của người phụ nữ có chồng đi lính. Sở dĩ Hồng Hà nữ sĩ
trung thành với chủ với nguyên tác và có nhiều sáng tạo trong quá trình dịch bởi dịch
giả đã ở cùng một hồn cảnh với nhân vật trữ tình: sau lúc cưới khơng lâu, chồng bà là
Nguyễn Kiều phải đi sứ Trung Quốc, chính vì thế, bà thấu hiểu cảnh sống cơ đơn, tẻ
nhạt với những buồn lo, nhung nhớ của người chinh phụ.
Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ viết về tình cảnh và tâm trạng người
chinh phụ phải sống cô đơn, buồn khổ trong thời gian dài người chống đi đánh trận,
khơng có tin tức, khơng rõ ngày quay trở về.
Tình cảnh lẻ loi, nỗi cơ đơn bủa vây của người chinh phụ, nỗi thương nhớ người chồng
phương xa, sự khao khát niềm hạnh phúc lứa đôi… là những ý chính khi phân tích
Chinh phụ ngâm.
Sau thời điểm tiễn chồng ra trận, người chinh phụ bơ vơ chốn khuê phòng vắng lặng,
lạnh lẽo, nỗi khổ tâm của nàng được bộc lộ qua hành động và ngoại cảnh:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác địi phen.
Ngồi rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?”
Người chinh phụ rải bước trong hiên vắng, vừa đi vừa thầm đếm bước tiến mình, như

đếm từng ngày chồng đi. Những bước tiến lặng lẽ của nàng nặng trĩu u sầu, đong đầy
thương nhớ, như bước tiến người cung nữ trong Cung oán ngâm của Nguyễn Gia
Thiều: “Ngán trăm chiều bước lại ngẩn ngơ”.
Trong những buổi đi dạo của nàng khơng cịn vẻ ung dung, an nhàn mà thay vào đó là
sự việc ngán ngẩm, buồn chán – tâm trạng khác hẳn với Thúy Kiều khi bước đi tìm
người yêu: “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Nàng Kiều đi tìm tình quân


Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
trong thú vui sướng, niềm hạnh phúc ngập tràn, còn người chinh phụ vừa đi vừa gặm
nhấm nỗi cô đơn, lo lắng cho việc an nguy của người thân chốn biên ải xa xôi.
Nàng hết dạo hiên, lại ngồi buồn, cuốn rèm, buông rèm. Những hành động vô nghĩa ấy
được lặp đi tái diễn trong vơ thức, nàng chẳng cịn bận tâm mình đang làm gì bởi tâm
trí nàng giờ dồn hết vào người chồng đang tòng quân. Thẩm mỹ và làm đẹp sử dụng từ
ngữ “vắng”, “thưa” vẽ ra không gian trống trải, thưa thớt tình thương u, càng tơ đậm
sự lẻ loi, buồn bã, bồn chồn của nhân vật trữ tình.
Người chinh phụ khơng chỉ buồn nhớ, lo lắng cho chồng mà cịn trơng ngóng tin
chàng. Nàng đợi tin lành của chim thước sẽ xoa dịu nỗi không an tâm, nhưng chim
thước không tới. Nàng lại trở bóng đèn, hỏi đèn mà hỏi lịng. Phân tích Chinh phụ
ngâm sẽ thấy nàng nhận ra rằng càng hi vọng, mịn mỏi trơng chờ thì sẽ càng hụt hẫng,
tuyệt vọng.
Khát khao sum vầy đoàn tụ, khát khao hơi ấm gia đình của nàng càng khiến nàng đau
đớn, thất vọng. Vướng mắc tu từ và điệp từ “rèm” tái diễn ba càng đẩy nàng vào bế tắc,
cái bế tắc của xã hội phong kiến suy tàn, của triều đình loạn lạc khiến niềm tin của con
người về tình u, niềm hạnh phúc khơng cịn giá trị. Chao ôi, người chinh phụ mới
đáng thương làm thế nào!
Phân tích Chinh phụ ngâm sẽ thấy người chinh phụ hết mong ngày, lại mong đêm, khi
bóng tối cơ đơn tịch mịch kéo xuống bao trùm lấy nàng, nàng chỉ có thể làm bạn với
bóng đèn:
“Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?

Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lịng thiếp riêng bi thiết mà thơi.
Rầu rĩ nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”


Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Điệp ngữ bắc cầu “đèn biết chăng”, “đèn có biết” khiến nỗi buồn đau, thương nhớ của
người chinh phụ thêm da diết, day dứt. Trong tâm trạng đó, nàng đối diện với ngọn
đèn dầu, mong muốn được thấu hiểu, được chia sẻ tâm tư…
Khi phân tích Chinh phụ ngâm, ta thấy hình ảnh cây đèn dầu cũng xuất hiện trong
những tác phẩm văn học dân gian và văn học trung đại khác. Ca dao có câu “đèn
thương nhớ ai/ mà đèn không tắt”, thể hiện nỗi nhớ nhung tha thiết của người con gái
với những người mình yêu. Trong Chuyện người con gái Nam Xương, Vũ Nương
cũng lấy ngọn đèn dầu để xóa giải nỗi cơ đơn khi Trương Sinh đi lính.
Nhưng đến Chinh phụ ngâm, ý nghĩa biểu tượng của ánh đèn dầu không chỉ tạm dừng
ở đó. Đặng Trần Cơn mượn cây đèn đang tàn mà ẩn dụ sự trơi đi nhanh chóng của thời
gian, sự tàn lụi, héo hon của kiếp người. Nhà thơ như đang muốn nói: cuộc đời chỉ là
kiếp hoa đèn mong manh dang dở. Chính vì vậy, vật vô tri vô giác là cây đèn cháy đỏ
khắc khoải, cháy đến tàn bấc dầu kia không những không thể đồng cảm với nỗi đau
buồn, tình cảnh cơ đơn, lẻ loi người chinh phụ mà càng khiến nàng vô vọng khơn cùng.
Tâm trạng của nhân vật trữ tình được khắc họa bằng những tính từ chỉ cảm xúc: “bi
thiết”, “rầu rĩ”, “thương”. “Bi thiết” được hiểu là sự việc bi thương, thảm thiết. Từ
“thiết” theo nghĩa Hán Việt còn tồn tại nghĩa là cắt, mài. Những suy tư muộn phiền
của người chinh phụ khao khát được bộc lộ, được thấu hiểu.
Nhưng trong tình cảnh cơ độc vắng tẻ của nàng biết lấy ai để trút bầu tâm sự. Nàng chỉ
biết dồn nén những cảm xúc ấy, cảm nhận nỗi đau như thể trái tim bị cứa, mài. Qua
việc cảm nhận tâm sự của người chinh phụ khi đối diện với ngọn đèn, người đọc trầm
trồ ngợi ca tài năng nghệ thuật và thẩm mỹ trong miêu tả tâm trạng của tác giả!
Ngọn đèn tắt, bỏ lại người chinh phụ cô quạnh trong đêm dài tịch mịch u sầu:

“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hịe phất phơ rủ bóng bốn bên.”


Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Một đêm dài năm canh, người chinh phụ vì trơng ngóng người chinh phụ, thức trọn
năm canh, nghe tiếng gà gáy mà sợ hãi, rầu rĩ. Cái âm thanh “eo óc” ấy thưa thớt, ghê
rợn, tang tóc, khó chịu, từng tiếng từng tiếng vang lên rõ mồn một, đối lập với việc
tĩnh lặng, trầm lắng trong tâm nàng. Tiếng gà gáy trong đêm gợi ra khoảng trống
không gian mênh mông, hiu quạnh, khiến người phụ nữ cô đơn, lẻ loi trở nên nhỏ bé,
đáng thương. Thẩm mỹ và làm đẹp lấy động tả tĩnh đẩy tâm trạng người chinh phụ lên
một nấc thang mới, khiến nó đau đớn hơn, cơ độc hơn, dày vị nàng hơn.
Khơng chỉ có tiếng gà gáy khiến nàng trằn trọc, bóng “hịe phất phơ” cũng khiến
người chinh phụ suy tư, lo nghĩ. Vây quanh người chinh phụ là những bóng vía mập
mờ lay động trong đêm, như ẩn như hiện, như có như khơng. Từ láy gợi hình “phất
phơ” càng tăng thêm tính mơ hồ, hư ảo của cảnh vật, của tin tức về người chồng ngoài
biên ải, của những buổi đồn tụ, sum họp gia đình trong mơ ước ấy, nàng càng mong
chờ, càng cảm thấy xa xơi.
Phân tích Chinh phụ ngâm, ta thấy hình ảnh cây hịe trong câu thơ trên gợi nhắc về bài
thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi: “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”. Cây hòe của
Nguyễn Trãi đẹp, căng tràn nhựa sống, gợi nên sự vui tươi của buổi chiều mùa hạ,
khác hẳn với vẻ buồn bã, u sầu của cây hòe đặt trong đêm khuya thanh vắng trong
khúc ngâm của Đặng Trần Cơn. Từ đó ta thấy nghệ thuật và thẩm mỹ dùng từ của tác
giả, từ tính từ “phất phơ” đến động từ “rủ”, tất cả mang sắc thái chán chường, ủ rũ.
Trong không gian vắng lặng, thời gian đã đi qua màn đêm, người chinh phụ ôm nỗi
nhung nhớ, thấm thía về thảm kịch đời mình:
“Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”
Vắng chồng, cuộc sống của người chinh phụ thật tẻ nhạt, buồn chán và nặng nề với
những thương nhớ đong đầy từng khắc, cô đơn bủa vây từng giờ. Những ngày tháng

này, thời gian trôi đi thật chậm chạp, như muốn gặm nhấm chuỗi ngày sầu bi của nàng.


Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Một ngày khơng cịn được đo bằng vài canh, mấy khắc, mà được tính đếm bằng cả
năm dài “đằng đẵng”.
Từ láy “đằng đẵng” kéo dãn dài thời gian, kéo dãn dài nỗi buồn và tình cảnh lẻ loi của
người phụ nữ có chồng ra trận. Nàng giờ ở vào hoàn cảnh của Kim Trọng khi thương
nhớ Thúy Kiều: “Sầu đong càng lắc càng đầy/ Ba thu dọn lại một ngày dài ghê!”
Trong những ngày tháng khó khăn này, người chinh phụ ngẫm về cuộc hơn nhân gia
đình dang dở, về cuộc đời khơng được hưởng niềm hạnh phúc trọn vẹn, khiến nàng đã
sầu lại càng sầu thêm. Quả đúng là “sầu đong càng lắc càng đầy”, nỗi buồn của người
chinh phụ càng triền miên, không có kết quả cuối cùng.
Phân tích Chinh phụ ngâm sẽ thấy tác giả đã so sánh tâm tư của nàng với hình ảnh ước
lệ “miền biển xa”, những lo lắng, buồn thương, đau xót của người chinh phụ vượt ra
ngồi giới hạn về không gian và thời gian. So sánh với bản chữ hán của Đặng Trần
Côn “Sầu tự hải/ Khắc như niên”, ta thấy Đồn Thị Điểm khơng chỉ trung thành với
chủ với nguyên tác mà còn tồn tại những sáng tạo riêng trong quá trình dịch, giúp
người đọc đơn giản và giản dị hiểu, đơn giản và giản dị đồng cảm hơn với nhân vật trữ
tình.
Người chinh phụ chán ghét thời gian trơi chậm chạp, cố vùng thốt khỏi chuỗi ngày cô
đơn, lẻ loi dai dẳng:
“Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây un kinh đứt, phím loan ngại chùng.”
Mong muốn xóa tan ưu phiền, người chinh phụ đốt hương nhưng lại khơng kìm lấy
được lịng mà mê man trong quá khứ. Trong đoạn trích Thề nguyền trong Truyện Kiều
của Nguyễn Du, Kim Trọng cũng đốt hương “Đài sen nối sáp, lò đào thêm hương” để
mùi hương trầm ấm áp làm chứng cho thời khắc quan trọng – hai người cất hẹn ước

trăm năm.


Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Người chinh phụ cũng bổi hổi nhớ lại lời hẹn thề năm nào. Mùi hương trầm đã vơ tình
đưa nàng trở về những tháng ngày niềm hạnh phúc trước kia, để tâm hồn nàng lạc đi
tìm những kí ức đẹp q xa vời. Nhưng càng tiếc nuối quá khứ tươi đẹp, nhân vật trữ
tình càng thấm thía thảm kịch hiện tại. Nàng trơ trọi, bơ vơ trong sự thật hiển nhiên:
những mặn nồng xưa kia khơng thể lấy lại được.
Có thể thấy, việc đốt hương vốn để tìm lại niềm thanh thản trong tâm hồn lại khiến
người phụ nữ bé nhỏ, đáng thương và bơ vơ thêm thống khổ. Người chinh phụ đành
tìm cách khác để giải tỏa tâm sự: nàng soi gương. Trong chuỗi ngày đợi chờ người
chinh phu, người chinh phụ chẳng buồn đối hồi đến phấn son hoa lệ: “Vắng chàng
điểm phấn trang hồng với ai?”.
Nhưng đêm nay, mong muốn thoát khỏi nỗi cô đơn bủa vây, nàng gượng gạo cầm
gương soi. Nàng giật mình xót xa cho dung nhan võ vàng của người phụ nữ trong
gương kia. Nàng thương hai con mắt buồn chứa chan u sầu, nàng thương đôi môi
chẳng thể nở một nụ cười nhạt, nàng khóc cho tuổi xuân héo tàn, cho dung mạo đang
độ tươi thắm bị nỗi đau âm ỉ tàn phá. Nhưng những giọt lệ nào có thể giúp nàng cứu
vãn được tình cảnh bi đát này.
Phân tích Chinh phụ ngâm sẽ thấy, khi cảm thấy việc đốt hương hay soi gương không
thể giúp quên đi chuyện buồn, người chinh phụ tìm về tiếng đàn. Tác giả sử dụng một
loạt hình ảnh ước lệ như “sắt cầm”, “dây un”, “phím loan” tượng trưng cho tình u
đơi lứa, cho vợ chồng hịa hợp. Người chinh phụ lo sợ dây đàn đứt, báo điều chẳng
lành về cuộc hơn nhân gia đình hiện nay đang bị chia cắt, về người chồng ngồi chiến
trường bặt vơ âm tín.
Điệp từ “gượng” cho thấy sự cố gắng nỗ lực gượng gạo, chán nản ở người chinh phụ,
nàng vùng vẫy trong nỗi cơ đơn nhưng lại bị chính nỗi cơ đơn bóp chặt. Những thú vui
của tầng lớp quý tộc kia giờ đây lại không thể đem lại cho nàng thú vui. Hơn thế nữa
chúng lại như liều thuốc kích thích khối u sầu khổ trong tâm nàng. Nàng chỉ muốn

được sum vầy mà thơi, những buổi đồn tụ trong tưởng tượng của nàng lại quá đỗi xa
xỉ trong hoàn cảnh này.


Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Góp phần truyền tải nội dung và giá trị nhân đạo của Chinh phụ ngâm là tài năng nghệ
thuật và thẩm mỹ và sáng tạo tài tình của tác giả và dịch giả. Xuyên thấu mười tám câu
thơ trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ là các biện pháp nghệ thuật
và thẩm mỹ như điệp ngữ, thắc mắc tu từ, ẩn dụ,… và các văn pháp ước lệ tượng trưng,
tả cảnh ngụ tình.
Khi phân tích Chinh phụ ngâm cũng như đoạn trích sẽ thấy tác giả có sự chọn lọc tinh
tế các từ ngữ gợi hình, gợi cảm để miêu tả rõ ràng và cụ thể và chân thực, cảm động
từng cung bậc cảm xúc của nhân vật trữ tình. Thêm vào đó, thể thơ song thất lục bát
với âm điệu réo rắt, thiết tha, giàu tính nhạc cũng góp phần quan trọng thể hiện nội
tâm người chinh phụ. Sát gần đó, Đồn Thị Điểm rất trung thành với chủ với nguyên
tắc khi dịch nên nhiều ý thơ giàu cảm xúc được truyền tải đến người đọc một cách trọn
vẹn.
Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trích Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn đã để
lại trong tâm người đọc nhiều dư âm thâm thúy về nỗi buồn đau, thương nhớ da diết,
tình cảnh cơ độc, lẻ loi của người phụ nữ có chồng đi lính. Thơng qua đó, người đọc
hiểu những tâm tư tình cảm và suy nghĩ của tác giả về con người, xã hội đương thời.
Ông lên án cơ chế phong kiến mục nát với những trận đấu tranh phi nghĩa kéo dãn dài
và ngợi ca tình u cao đẹp, khát khao u thương đơi lứa.
Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ phân tích
Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn lấy bối cảnh những cuộc chiến tranh
phi nghĩa diễn ra vào cuối thế kỉ XVIII. Bằng việc khắc họa hình ảnh nhớ thương, nỗi
khổ đau của người chinh phụ khi chồng ra trận ở miền biên ải xa xôi, tác giả đã bày cất
tiếng nói đồng cảm của mình với những người phụ nữ trong xã hội cũ đồng thời lên án,
tố cáo chiến tranh phi nghĩa. Tác phẩm được nhiều dịch giả nổi tiếng yêu quý dịch
sang bản diễn Nôm nhưng bản dịch hay nhất có lẽ là bản dịch của Đồn Thị Điểm.

Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ được trích trong tác phẩm gồm 25 câu
thơ từ câu 193 đến câu 216 đã diễn tả nỗi cô đơn lẻ loi của người vợ trong những năm
tháng chồng đi chiến trận.


Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
"Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác địi phen
Ngồi rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng
Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Hạnh phúc là điều lớn lao mà ai cũng ao ước có được. Đặc biệt là đối với những người
phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa thì hạnh phúc đến khơng phải là dễ dàng, bởi vậy
mà họ càng trân quý. Người chinh phụ trong tác phẩm phải chấp nhận xa chồng, càng
xa chồng nàng càng cô đơn, buồn tẻ. Nỗi cô đơn ngập tràn cả kh phịng, căn gác,
tràn ngập cả khơng gian, thời gian. Trước hiên nhà, những bước đi chậm rãi, nặng nề
và nhàm chán của người chinh phụ càng lột tả nỗi cô đơn, chán chường hơn bao giờ
hết. Hành động buông rèm xuống, kéo rèm lên như lặp lại tô đậm thêm nỗi cô đơn
trong khuê các. Càng cô đơn, càng thương nhớ, trông chờ một tiếng lành từ chim
thước từ xa nhưng chẳng có, nàng đành ngậm ngùi bên chiếc đèn khuya.
"Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lịng thiếp riêng bi thiết mà thơi"
Tìm đến đèn để tâm giao cho vơi bớt nỗi ưu sầu, mà đèn nào có biết. Cuối cùng, ánh
đèn dẫu có sáng tỏa đấy thôi nhưng nào soi rọi được tâm hồn người chinh phụ, nào
thấu được tâm can kẻ cô đơn. Ánh đèn, dẫu sau nó cũng là một vật vơ tri, vơ giác, nào
có thể lặng nghe người chinh phụ giãi bày, thở than. Ánh đèn nào có thể thay được
người chồng nơi biên ải, có thể cùng nàng chia sẻ nỗi ngọt bùi, đắng cay. Có chăng,
ánh đèn ngày một hiu hắt như chính lịng người chinh phụ ngày một nặng nề, trĩu
những nỗi u hồi khơn thấu. Nàng buồn bã trong kh phịng với ánh đèn dầu hiu hắt
mà xót thương cho số phận mình, tủi hổ cho cảnh lẻ loi, đơn chiếc vì chia ly của mình.

Nỗi bi thiết của lòng nàng cất lên trong từng tiếng thơ ai oán, vừa như trách móc, vừa
như xót xa cho thân phận chính mình:
“Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lịng thiếp riêng bi thiết mà thôi


Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Buồn rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương"
Nỗi uất ức trong nàng như trỗi dậy, lòng người chinh phụ buồn tủi, đớn đau, nỗi lịng
mình nàng "riêng bi thiết", mình nàng chịu đựng. Hoa đèn in bóng người con gái cô
độc trên khuê các càng tô đậm nỗi sầu trong đêm thâu. Đèn dần tàn, thời gian vẫn vậy
cứ trôi đi, một mình, một bóng, gặm nhấm nỗi cơ độc, sầu tủi, nỗi chán chường vì lẻ
loi tận cùng.
“Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”
Tiếng thở dài trong đêm thâu bởi hạnh phúc ấm êm bị chiến tranh phi nghĩa tước đoạt
thật xót xa. Phải chăng lịng người buồn tủi, nỗi sầu thương nhuốm lên cả vị thời gian,
màu không gian. Tiếng gà "eo óc" đếm thời gian trong đêm lạnh, bóng hịe "phất phơ
rủ bóng" ngẩn ngơ bốn bề, tất cả đều đượm buồn thương. Thiên nhiên có thanh, có sắc
mà chẳng có lấy chút niềm vui dù là nhỏ bé, như chính trái tim người thiếu phụ đang
độ tuổi xuân thì, khát khao hạnh phúc lứa đơi lại chịu cảnh cô đơn khôn thấu. Ngồi
buồn đếm vị thời gian trôi, mỗi khắc thời gian tựa như một năm dài. Hình ảnh so sánh
kết hợp với từ láy gợi hình" khắc giờ đằng đẵng như niên" càng tô đậm nỗi nhớ
thương, đợi chờ.
"Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn

Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng”
Trong nỗi buồn tủi, sầu muộn, cô độc đến cùng cực ấy, người chinh phụ cố vực dậy
tinh thần mình bằng việc tìm đến những thú vui đời thường. Nhưng trớ trêu thay, mọi
thứ dường như đều trở nên gượng gạo, bất lực trước tâm trạng chinh phụ. Hướng


Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
gượng đốt thì hương mê mải, gượng soi ngắm dung nhan thì khơng ngăn được dịng lệ
nhớ thương. Tay gõ lên phím đàn mà lịng quặn thắt, sợ dây đứt, phím chùng lại lắng
lo về những điều xảy ra sắp đến. Mọi thứ dường như đều trở nên vô nghĩa, người
chinh phụ càng làm, nỗi đau càng xoáy sâu trong tâm khảm, nỗi buồn càng day dứt
chẳng ngi ngoai.
"Lịng này gửi gió đơng có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Càng cô đơn, tuyệt vọng, nỗi nhung nhớ lại càng dâng trào, mãnh liệt. Người chinh
phụ nhớ thương chồng tha thiết nhưng đành bất lực vì khoảng cách q xa xơi. "Non
n" một hình ảnh ẩn dụ cho sự xa xơi, cách trở của người chinh phụ và kẻ chinh phụ.
Vì nỗi nhớ thương da diết, khơng biết làm gì hơn, nàng đành gửi nỗi nhớ theo gió
đơng đến "Non n". Mong rằng, những nhớ thương ấy có thể là niềm động viên, ủi
an cũng là nỗi mong mỏi cho chồng nơi xa được an toàn, đợi ngày trở về đoàn thủ. Từ
láy "thăm thẳm", "đau đáu" kết hợp với cụm danh từ "đường lên bằng trời" đã đặc tả
nỗi nhớ khôn nguôi, mênh mông và cao rộng đến tận cùng trong người chinh phụ. Qua
đó bộc lộ được tình u tha thiết, thủy chung son sắt của người con gái khi yêu.
“Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun"
Đúng như ai đó đã từng viết:
"Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ"

Trong những dịng thơ cuối, bút pháp tả cảnh ngụ tình một lần nữa được tác giả sử
dụng đầy tinh tế. Cảnh buồn với sương đượm cành, thanh âm của tiếng cơn trùng réo
rắt, mưa phùn mênh mang như chính lịng người thiếu phụ lúc này: buồn ưu, cay đắng,
đơn côi giữa dòng đời.


Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ đã chạm đến trái tim bao người đọc
bởi những rung động tình cảm đời thường nhất. Đó là sự đồng cảm với tâm trạng của
người chinh phụ, là sự trân trọng vẻ đẹp một tâm hồn của người phụ nữ khi yêu và sự
căm phẫn trước chiến tranh tàn ác đã đẩy bao con người phải chịu khổ đau, chìa lìa
như người chinh phụ.
Phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ hay nhất
Nếu như Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều khẳng định những giá trị nhân
văn và phản ánh số phận người phụ nữ, vận dụng nhuần nhuyễn thể loại ngâm khúc và
thể thơ song thất lục bát thì diễn Nơm Chinh phụ ngâm hướng nhiều hơn tới cuộc sống
đời thường. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cho thấy niềm thương và
nỗi nhớ đau đáu nào nguôi của người vợ nhớ chồng ra trận và nghệ thuật diễn Nơm
đặc biệt xuất sắc của nữ sĩ Đồn Thị Điểm.
Mở đầu bài thơ là nhận thức của nhân vật về hồn cảnh của mình chiêu ứng với thời
gian hóa thành vơ vị, mất hết sinh khí. Nhân vật chủ thể trữ tình – người chinh phụ
xuất hiện:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”.
“tấm rèm” và “bóng đèn” là hai hình ảnh tưởng như vô tri nhưng lại như khơi nguồn
cảm xúc. Trong một không gian chật hẹp, tù đọng, câu thơ chuyển tiếp Trong rèm
dường đã có đèn biết chăng càng tơ thêm vẻ vắng lặng, đơn cơi, khi hoa đèn kia với
bóng người khá thương… Rõ ràng cuộc đời người chinh phụ hầu như đã mất hết sức
sống, con người đã bị “vật hoá” tựa như tàn đèn cháy đỏ kết lại đầu sợi bấc, vừa đối
xứng đồng dạng và là hiện thân của chính kiếp hoa đèn tàn lụi đến cảnh sống cũng hiu

vắng lẻ loi “gà eo óc gáy sương”, “hoè phất phơ rủ bóng”…
“Khắc chờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”.


Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Dòng thời gian xoay vần mà dài như cả năm trường, mối sầu trào dâng như biển lớn
mênh mang, ngân xa như tiếng thở dài của người thiếu phụ đăm đắm chờ chồng. Rút
cuộc, hình bóng người chinh phụ có xuất hiện trở lại cũng khơng thốt khỏi nỗi nhớ
nỗi sầu đã nhuộm màu nước mắt để “Hương gượng đốt”, “Gương gượng soi”, “Sắt
cầm gượng gảy”.
Mọi cố gắng đều khơng thốt được nỗi cơ đơn của thực tại. Thời gian có trơi bao nhiêu
thì khoảng cách địa lý càng xa bấy nhiêu đến tận “non Yên”, “đường lên bằng trời”,
“xa vời khôn thấu”…. Sắc thái nỗi nhớ tăng tiến, rộng mở từ những suy tưởng dõi theo
người chồng nơi phương xa đến sự dồn nén cảm xúc thành nỗi xót xa “thăm thẳm
đường lên bằng trời” và “đau đáu nào xong”. Nó gợi nhớ ta về nàng Kiều: “Cảnh nào
cảnh chẳng đeo sầu – Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Lịng người đang nặng trĩu,
cảnh vật thì nhuốm sầu nhưng vẫn như thơi thúc cho người ta tỉnh táo:
“Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.
Sương như búa, bổ mịn gốc liễu,
Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngơ”.
Hình ảnh so sánh “sương như búa”, “tuyết dường cưa” là sự cực tả và bột phát thành
những ám ảnh dị thường. Trong bản chất, chính tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
đã tạo nên những xung đột tình cảm khác biệt nhau và thổi vào cả không gian để nó
như nhuốm màu đau đớn, để trong cảnh có tình, trong tình có cảnh, để niềm tin hịa
với thất vọng, để hy vọng mong manh như không thể nguôi khuây.
Bước vào đoạn cuối, người chinh phụ vươn tới không gian thống rộng hơn mà cảnh
vật như chết lặng, như chìm sâu trong cái giá băng của lòng người. Tất cả chỉ đơn
thuần là cảnh vật và vì thế hình ảnh người chinh phụ như khuất lấp đi:

“Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.


Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu!”
Đến đây, tâm trạng được đẩy lên tận cùng. Thiên nhiên đang căng tràn sao con người ủ
rũ, nhựa sống đang trỗi dậy sao hồn người héo úa. Dường như nó cũng là hồi chuông,
là sự đánh thức cho nhận thức trỗi dậy để giành, giữ và bảo vệ cho hạnh phúc giữa cõi
ta đang sống.
Trên phương diện nghệ thuật, thể thơ song thất lục bát tạo nên nhịp thơ buồn thương
man mác, nối dài khơng dứt. Quan sát kỹ có thể thấy từng bốn câu thơ đi liền nhau tạo
thành một tiết đoạn, trong đó hai câu thất ngơn đóng vai trị khơi dẫn ý tứ như những
ngọn sóng cảm xúc đang trào dâng hô ứng, đăng đối, tạo ấn tượng và sự nhấn mạnh.
Trạng thái tình cảm của người chinh phụ một mặt có ý nghĩa tố cáo những cuộc chiến
tranh phi nghĩa đã đẩy bao nhiêu người trai ra trận và hệ quả là những nỗi đau kéo dài,
là chia ly đôi ngả. Chúng ta sống không chỉ để tồn tại như một hạt cát vơ danh mà cịn
để sẻ chia và hạnh phúc và ghi dấu trong trái tim người khác. Ở đây, một lần nữa tính
nhân văn của tác phẩm được đề cao và có lẽ nó sẽ tạo tiền đề cho những khai thác về
giá trị nhân đạo để mở rộng đề tài về tính nhân văn trong văn học.
“Vì ai gây dựng cho nên nỗi này” là tiếng thơ mang đầy nỗi đau, tiếng khóc thương ai
ốn nặng nề đầy uất ức. Nhưng khơng dừng ở đó, tác phẩm là sự tiếp nối xuất sắc cảm
hứng nhân đạo của nền văn học dân tộc và khẳng định vai trị của con người trong
hành trình sống và đi đến hạnh phúc.
Phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ ngắn gọn
Bài văn mẫu 1
Đặng Trần Côn (chưa rõ năm sinh, năm mất) người làng Nhân Mục, tên nơm là làng
Mộc, huyện Thanh Trì, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xn, Hà Nội.
Ơng sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. về sáng tác, ngoài tác phẩm chính là

Chinh phụ ngâm, ơng cịn làm thơ chữ Hán và viết một số bài phú chữ Hán. Theo các
tài liệu lịch sử, đầu đời Lê Hiển Tơng, có nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra quanh


Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
kinh thành Thăng Long. Triều đình cất quân đánh dẹp, nhiều trai tráng phải từ giã
người thân ra trận. Đặng Trần Côn cảm động trước nỗi khổ đau mất mát của con người,
nhất là những người vợ lính trong chiến tranh, đã viết Chinh phụ ngâm. Khúc ngâm
này gồm 476 câu thơ làm theo thể trường đoản cú (câu thơ dài ngắn không đều nhau).
Tác phẩm đã được dịch ra chữ Nôm, và chưa biết ai là tác giả bản dịch hiện hành. Có
người cho rằng đó là bản dịch của Đồn Thị Điểm. Lại có người cho rằng Phan Huy
Ích chính là dịch giả của Chinh phụ ngâm. Đoạn trích dưới đây thuộc bản dịch hiện
hành, viết về tình cảm và tâm trạng người chinh phụ phải sống cơ đơn, mịn mỏi trong
thời gian dài người chồng đi đánh trận, khơng có tin tức, không rõ ngày trở về. Kể từ
lúc tiễn chồng vào “cõi xa mưa gió” người chinh phụ trở về sống trong tình cảm đơn
chiếc, lẻ loi. Ngày cũng như đêm, sau khi công việc đã yên mọi bề, người chinh phụ
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác địi phen.
Ngồi rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Bốn câu thơ song thất lục bát với vần điệu chặt chẽ, thăng trầm như những nốt nhạc
buồn càng làm đậm thêm tình cảnh đơn chiếc, lẻ loi kia. Người trước có lúc sóng đơi
vợ chồng thì nay “thầm gieo từng bước" dưới mái hiên vắng vẻ. Ngày nào bàn chuyện
làm ăn cùng chồng bên cửa sổ thì nay bng xuống kéo lên nhiều lần mong ngóng
nhưng chẳng thấy chim thước báo tin lành. Ngày thì như thế, cịn đêm thì khơng ngủ
được, một mình đối diện với ngọn đèn khuya. Tình cảnh của người chinh phụ quá lẻ
loi, đơn chiếc. Ngày thì khắc khoải chờ mong. Đêm dài câm lặng, biết riêng lịng mình,
Hoa đèn kia dẫu sao cịn lửa. Riêng lịng này với bóng lạnh lùng.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.



Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Hai câu lục bát, một câu miêu tả thời gian, một câu miêu tả nỗi buồn. Cả hai câu đều
mang nghệ thuật so sánh. Trong tình cảnh lẻ loi ấy thì một giờ là đợi dài tựa một năm,
như người xưa thường ví “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề", ngày sau này Xuân
Quỳnh tâm sự “Một ngày không gặp nhau / Biển bạc đầu thương nhớ”. Thời gian chờ
đợi càng dài thì nỗi sầu càng lớn "tựa miền biển xa”. Tình cảnh đã bước qua tâm trạng.
Đấy là tâm trạng nhớ thương của người chinh phụ gửi tới chồng ở miền xa. Nỗi nhớ
thương thật tha thiết.
Lịng này gửi gió đơng có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Bốn câu thơ trên là lời tâm sự của vợ gửi đến chồng. Nhưng chim thước khơng có để
nhờ mang thư đi. Vậy thì gửi lời nhớ thương theo gió. Nhưng gửi theo gió đơng thì gió
có mang lời thủ thỉ đến được tai chàng? Biết chàng đang ở nơi nào ngoài mặt trận?
Thơi thì lịng thương q chàng xin được gửi đến nơi xa nhất mà chàng tới như Đậu
Hiến đời Hậu Hán đánh đuổi giặc Bắc Thiền Vu đến núi Yên Nhiên, bởi vì:
“Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua. ”
Đời chiến binh là như thế, là “ôm yên, gối trống đã chôn, / Năm vùng cát trắng ngủ
cồn rêu xanh”, chưa kể đời chiến binh mấy người đi trở lại. Tình thương, nỗi nhớ của
nàng là như thế. Nhưng:
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Cảnh buồn người thiết tha lòng,


Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.
Dù là “Trời” thì Trời cũng khó mà hiểu thấu tình thương và nỗi nhớ da diết của người
chinh phụ. Các từ láy “thăm thẳm, đau đáu” càng làm tăng thêm sự không hiểu biết,
không thấy được của Trời, và chỉ có người trong cuộc (người chinh phụ) mới cảm
nhận rõ lịng mình. Cảnh thì buồn, đến cả cây cỏ và tiếng cơn trùng cũng não ruột. Cịn
tình thì da diết thiết tha. Thể thơ song thất lục bát vốn thích hợp với tự sự, trong đoạn
trích, bản dịch lại dùng phép so sánh, từ lặp và từ láy một cách tự nhiên càng làm tăng
thêm giá trị nội dung.
Đọc đoạn trích người đọc cứ ngỡ ngàng rằng chỉ để miêu tả tình cảnh lẻ loi, thể hiện
tâm trạng khát khao tình yêu của người chinh phụ. Nhưng nếu nghĩ sâu xa hơn thì
đoạn trích bày tỏ sự oán ghét chiến tranh. Chiến tranh đã chia rẽ tình yêu, ngăn cách
hạnh phúc lứa đôi của nhiều thế hệ, nhất là thế hệ trẻ, có lẽ vì thế mà tác phẩm đã được
độc giả cùng thời hết sức tán thưởng. Nhiều người cịn dịch Chinh phụ ngâm sang thơ
Nơm (tức thơ tiếng Việt) để khúc ngâm được truyền bá rộng rãi hơn. Bản diễn Nôm
hiện hành là bản dịch thành công nhất.
Bài văn mẫu 2
Văn học thế kỉ XVIII là văn học của những tiếng nói cảm thương, cảm thơng cho số
phận bất hạnh của người phụ nữ. Ngồi kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du ta cũng
không thể không nhắc đến tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Cơn. Tác phẩm
là tiếng lịng thiết tha, thổn thức của người phụ nữ khi có chồng phải ra chiến trận.
Tâm trạng của nhân vật được thể hiện rõ nhất qua đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của
người chinh phụ.
Theo các cứ liệu lịch sử, vào đầu đời vua Lê Hiển Tơng, có nhiều cuộc khởi nghĩa
nơng dân nổ ra quanh kinh thành Thăng Long. Triều đình phải cất quân ra trận, nhiều
trai tráng phải từ giã gia đình, người thân ra trận. Có bao nhiêu những chàng trai lên
đường thì có bấy nhiêu người phụ nữ, người vợ ở nhà trong nhớ thương, buồn tủi. Tác
giả Đặng Trần Côn đồng cảm với nỗi niềm của người phụ nữ để nói lên nỗi lịng của
họ. Trích đoạn được trích từ câu 193 đến câu 216 diễn tả tâm trạng của người chinh



Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
phụ khi phải xa chồng, thế giới tâm trạng đó được thể hiện qua rất nhiều cung bậc cảm
xúc, tình cảm khác nhau.
Trước hết tâm trạng bồn chồn lo lắng, nhớ thương của nhân vật được thể hiện trong
các hành động lặp đi lặp lại nhiều lần: Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước. Bước chân
chậm chạp, nặng trĩu tâm trạng, trong đó chất chứa biết bao nỗi niềm chán ngán của
người chinh phụ. Bước chân này khác với bước chân của nàng Kiều khi tìm đến tình
yêu: Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình. Người chinh phụ hết đứng lên lại ngồi
xuống, tâm trạng nàng thấp thỏm, bất an bởi lo lắng cho sinh mệnh của chồng ở nơi
chiến trường đầy nguy hiểm. Tâm trạng bất an ấy còn thể hiện qua hành động: Ngồi
rèm thưa rủ thác địi phe, nàng hết bng rèm xuống nàng lại cuốn rèm lên, dường như
đó là hành động vô thức, nàng làm không chủ động làm mà trong vô thức thực hiện
hành động để vơi bớt nỗi âu lo. Hết ngắm ra ngoài bức rèm để mong chờ tin tức tốt
lành lại thẫn thờ quay vào đối diện với ngọn đèn đơn độc.
Trong nỗi bồn chồn ấy cịn là cả nỗi nhớ, thao thức, mong ngóng chồng quay trở về.
Trong văn học, ngọn đèn thường được sử dụng để nói về nỗi nhớ mong, thao thức, ta
đã biết đến qua bài ca dao: Đèn thương nhớ ai/ Mà đèn không tắt. Hay trong Chuyện
người con gái Nam Xương, người vợ nhớ chồng nên đêm đêm chỉ bóng mình trên
tường nói với con đó là bố. Hành động đó cũng thể hiện nỗi nhớ thương. Đây là hình
ảnh xuất hiện nhiều trong văn học, và trong tác phẩm người chinh phụ cũng lấy ngọn
đèn để thể hiện nỗi nhớ thương. Trong căn phòng trống vắng, quạnh hiu, chỉ có cây
đèn là người bạn để chia sẻ mỗi nỗi lịng với người chinh phụ. Vì vơ tri vơ giác nên
chinh phụ rất đau khổ nhận ra rằng “Đèn có biết dường bằng chẳng biết”.
Nàng càng thấm thía hơn nỗi cơ đơn cùng cực của chính mình. Để nhấn mạnh hơn nữa
vào tình cảnh tội nghiệp của mình, hình ảnh Hoa đèn kia với bóng người khá thương,
hoa đèn là tàn kết lại đầu sợi bấc đèn cháy đỏ như hoa đèn, là dấu hiệu khi dầu hao,
bấc hỏng. Chứng tỏ người chinh phụ đã thao thức rất nhiều đêm, triền miên, khắc
khoải, mong nhớ về chồng. Không gian bên ngồi làm cho nỗi cơ đơn của người chinh
phụ được khắc họa rõ nét hơn, tiếng gà eo óc cho thấy âm thanh thê lương, khắc khoải.
Kết hợp với từ láy phất phơ cho thấy nhịp điệu buồn tẻ, chậm rãi, cho thấy tâm trạng



Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
ngao ngán của người chinh phụ. Hai hình ảnh tương hỗ để diễn tả sự thao thức triền
miên, khắc khoải của chinh phụ trong cô đơn, lê loi. Từ đó người chinh phụ cảm nhận
thấm thía nỗi cơ đơn hơn bao giờ hết: Khắc giờ đằng đẵng như niên/ Mối sầu dằng dặc
tựa miền biển xa, thời gian trôi qua rất nặng nề, vô vị. Cách đo đếm thời gian trong
tâm trạng buồn chán cũng được Nguyễn Du nói đến: Sầu đong càng lắc càng đầy/ Ba
thu dọn lại một ngày dài ghê. Mối sầu trải dài mênh mông đến không cùng. Dùng biện
pháp so sánh để diễn tả cụ thể tâm trạng của chinh phụ để thấy nỗi buồn mênh mông.
Nỗi cô đơn bủa vây, người chinh phụ gắng gượng, tìm mọi cách để trốn chạy nỗi cơ
đơn. Nàng đốt hương để tìm lại sự thanh thản trong tâm hồn, nhưng hồn đà mê mải,
người chinh phụ càng chìm đắm hơn trong nỗi phiền muộn. Nàng lấy gương soi, để
tìm thú vui trong việc chỉnh trang nhan sắc, nhưng khi soi gương lại phải đối mặt với
sự cô đơn, lẻ loi, hơn nữa nàng lại nhận ra sự tàn phai của tuổi thanh xuân. Khiến nước
mắt ngày càng chan chứa, nỗi đau khổ lại càng ngập đầy hơn, nàng thấm thía nỗi cơ
đơn, tuổi thanh xuân tàn phai trong cô đơn sầu muộn. Nàng gượng đánh đàn nhưng khi
chạm đến nàng lại tự ý thức về tình cảnh của mình, nàng thấy tủi thân trước những
biểu tượng đôi lứa, ẩn chứa trong các nhạc cụ : Đàn sắt, đàn cầm: gảy hòa âm với nhau
được ví cảnh vợ chồng hịa thuận. Dây un: dây đàn un ương – biểu tượng cho lứa
đơi gắn bó, hịa hợp. Phím đàn loan phượng – biểu tượng của lứa đơi gắn bó. Tất cả
các nhạc cụ để có đơi có lứa, chỉ có mình mình cơ đơn, lẻ bóng. Thậm chí nỗi cơ đơn
đã khiến nàng lo lắng, sợ hãi chơi đàn dây sẽ bị đứt, phím đàn bị chùng, đó là những
biểu hiện khơng may mắn của đơi lứa. Nàng tìm đến những nhạc cụ nhưng lại không
chạy trốn được nỗi cô đơn. Chinh phụ cố gắng tìm quên bằng cách tìm đến những thú
vui nhưng càng tìm quên lại càng đối diện với bi kịch của mình, càng đau khổ hơn bao
giờ hết.
Nàng tìm đến thiên nhiên, nhưng thiên nhiên lại cho thấy khoảng cách vời vợi giữa
nàng và chồng. Non Yên – nơi chiến trận ngồi biên ải xa xơi, khoảng cách xa vời
khơn thấu. Nàng tìm cách để vượt qua khoảng cách, gửi lại tất cả những nhớ nhung

cho chồng bằng ngọn gió đơng, nhưng đây chỉ là giải pháp tưởng tượng, không thể
thực hiện. Nàng lại phải đối mặt với thực tại, thấm thía với bi kịch của mình: cảnh


×