Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

HỌC THUYẾT KINH TẾ ADAM SMITH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (755.02 KB, 28 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH

BÀI TIỂU LUẬN
Mơn học: LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ

ĐỀ BÀI: HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA ADAM
SMITH.

Giảng viên hướng dẫn: LÊ KIÊN CƯỜNG

Sinh viên thực hiện
NGUYỄN THỊ DIỄM
Lớp: D02
TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2022.


MỤC LỤC
LỜI NĨI ĐẦU .............................................................................................................
Chương 1: ĐƠI NÉT VỀ ADAM SMITH ................................................................
1.1 Tiểu sử của Adam Smith ................................................................................. 1
1.2 Các tác phẩm của Adam ................................................................................... 2
1.3 Phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu kinh tế của Adam..............................
Chương 2: ADAM SMITH – CHA ĐẺ CỦA LÝ THUYẾT “BÀN TAY VƠ
HÌNH” VÀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ...................................................................... 3
2.1. Hoàn cảnh ra đời .............................................................................................. 5
2.2 Nội dung của lý thuyết...................................................................................... 6
2.2.1 Bàn tay vơ hình ....................................................................................... 7
2.2.2 Lợi thế tuyệt đối ...................................................................................... 9
2.3 Ví dụ ................................................................................................................. 9
2.4 Đánh giá ưu điểm và hạn chế của lý thuyết...................................................... 10


2.4.1 Ưu điểm................................................................................................... 10
2.4.2 Hạn chế ................................................................................................... 11
Chương 3: CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ KHÁC CỦA ADAM SMITH ..........
3.1 Phê phán chế độ phong kiến và luận chứng cương lĩnh kinh tế giai
cấp tư sản.......................................................................................................... 12


3.2 Phê phán chủ nghĩa trọng thương ..................................................................... 12
3.3 Phê phán chủ nghĩa trọng nông ........................................................................ 13
3.4 Lý luận về thuế khóa ........................................................................................ 13
3.5 Lý luận về kinh tế hàng hóa ............................................................................. 14
3.5.1 Lý luận về phân cơng lao động ............................................................... 14
3.5.2 Lý luận về tiền tệ ..................................................................................... 15
3.5.3 Lý luận về giá trị - lao động .................................................................... 15
3.5.4 Lý luận về tư bản .................................................................................... 17
3.5.5 Lý luận về thu nhập................................................................................. 18
3.5.6 Lý luận tái sản xuất tư bản ...................................................................... 19
3.6 Lý thuyết về lợi thế so sánh .............................................................................. 20
Chương 4: ĐÓNG GÓP CỦA CÁC HỌC THUYẾT .............................................. 21
KẾT LUẬN ..................................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................................


LỜI MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống xã hội ngày nay, nếu chúng ta muốn trở thành một nhà kinh tế tài
giỏi, chúng ta cần phải am hiểu những lý thuyết kinh tế. Bên cạnh đó chung ta cần phải
biết phân tích và vận dụng nó một cách phù hợp thì mới đem lại được hiểu quả cao
nhất mà chúng ta mong muốn.
Trong chương trình đại học, khơng chỉ có những mơn chuyên ngành về kinh tế để bổ
sung kiến thức mà trong đó cịn có một mơn học vơ cùng quan trọng là “Lịch sử các

học thuyết kinh tế”. Là một mơn học giúp cho chúng ta có nền tảng để có thể nghiên
cứu các mơn kinh tế khác. Bởi lẽ nó là một mơn khoa học xã hội nghiên cứu quá trình
ra đời, phát triển, đấu tranh và thay thế lẫn nhau của các hệ thống quan điểm kinh tế
của các giai cấp cơ bản dưới hình thái kinh tế - xã hội khác.
Với tầm quan trọng như vậy và đem lại nhiều lợi ích đối với những ai quan tâm về
vấn đề kinh tế. Vì vậy em xin trình bày về các học thuyết kinh tế của Adam Smith. Bởi
ông được mệnh danh là cha đẻ của các học thuyết thị trường. Bài trình bày của em gồm
có 4 chương:
Chương 1: Đôi nét về Adam Smith.
Chương 2: Adam Smith – cha đẻ của lý thuyết “Bàn tan vơ hình” và “kinh tế thị
trường”.
Chương 3: Các học thuyết khác của Adam Smith.
Chương 4: Đóng góp của các học thuyết.
Trong quá trình làm bài, vì năng lực cịn hạn chế nên việc viết bài của em sẽ còn
nhiều hạn chế cũng như thiếu sót. Vì vậy em mong thầy có thể thơng cảm cho những
sự thiếu sót này của em. Em xin chân thành cảm ơn.


Chương 1: ĐÔI NÉT VỀ ADAM SMITH
1.1 Tiểu sử của Adam smith
Adam Smith là một nhân vật có cuộc
đời trầm lặng, sống một cuộc đời ẩn
dật, một con người ít viết thư từ và đã
ra lệnh đốt bỏ một số bản thảo khi gần
qua đời vì vậy mà những người đời hiểu
rõ các tư tưởng của Adam Smith hơn là
cuộc đời của nhà Kinh Tế Học này.
Chính vì lẽ đó mà khơng có tài liệu nào ghi rõ ngày sinh của Adam Smith cả, chỉ
biết rằng ông được rửa tội vào ngày 5 tháng 6 năm 1723 tại Kirkcaldy, một ngôi làng
chài nhỏ chỉ với 1.500 dân nhưng vô cùng thịnh vượng gần Edinburgh, xứ Tô Cách

Lan. Adam Smith là con trai của cuộc hôn nhân thứ hai của ông Adam Smith với bà
Margaret Douglas – con gái của một chủ đất giàu có trong vùng. Cha của Adam Smith
chỉ là một người kiểm soát thuế vụ, đã qua đời trước khi ông sinh ra 5 tháng nên ông đã
được người mẹ của mình ni dưỡng. Người ta khơng biết gì về tuổi trẻ của Adam
ngồi câu chuyện kể lại rằng năm lên 4 tuổi, Adam đã bị bắt cóc do một nhóm người
Di Gan sống lang thang và sau cuộc báo động tìm kiếm, cậu bé Adam đã được nhóm
người kia bỏ lại.
Nhận được giáo dục trung học tại một trường học địa phương. Mẹ đã cố gắng truyền
cho con trai một tình yêu của cuốn sách. Smith tỏ ra thích thú với các hoạt động tinh
thần. Từ năm 14 tuổi, Adam đã học triết học tại Đại học Glasgow. Anh nhận bằng thạc
sĩ, cũng như học bổng du học. Năm 1750, ơng gặp David Hume. Hóa ra ơng chia sẻ
quan điểm của Smith về tôn giáo, triết học, kinh tế và chính trị. Họ cùng nhau viết một
số tác phẩm mà trong thời kỳ Khai sáng Scotland đóng một vai trò quan trọng.

1


Năm 1751, nhà kinh tế được bổ nhiệm làm giáo sư logic tại Glasgow, giảng bài về
kinh tế chính trị, hùng biện và luật pháp. Dựa trên các bài giảng, ông đã viết và xuất
bản một cuốn sách khoa học vào năm 1759 với tựa đề Lý thuyết về đạo đức cảm giác.
Cô mang đến cho anh sự nổi tiếng và trở thành tác phẩm nổi tiếng nhất của anh. Trong
cuốn sách của mình, tác giả đã mơ tả các tiêu chuẩn đạo đức của hành vi duy trì sự ổn
định trong xã hội, và cũng tiết lộ một cách tiếp cận đạo đức và đạo đức để giải quyết
công bằng giữa mọi người.
Năm 1764, Smith du hành tới Pháp với tư cách là con ni của Cơng tước Buckley.
Ơng được trả lương rất cao cho công việc này và Smith đã bỏ cơng việc của mình ở
Glasgow, cống hiến hết mình để viết một cuốn sách mới.
Năm 1776, Smith đã ở London và hoàn thành cuốn sách "Nghiên cứu về bản chất và
nguyên nhân của sự giàu có của các dân tộc", mà ơng bắt đầu ở Pháp. Nó vẫn được coi
là nền tảng của giáo dục kinh tế.

Năm 1778, Adam Smith chuyển đến Edinburgh. Tại đây anh có một công việc là
một ủy viên hải quan. Anh ấy rất nghiêm túc trong cơng việc, vì vậy anh ấy thực tế
khơng có thời gian cho hoạt động khoa học. Smith bắt đầu phác thảo cho cuốn sách thứ
ba của mình, nhưng anh khơng có thời gian để viết xong. Nhà khoa học ra lệnh đốt tất
cả các bản thảo của mình, cảm thấy rằng cái chết chỉ ở gần đó.
Nhà kinh tế vĩ đại đã chết ngày 17 tháng 7 năm 1790 vì bệnh đường ruột ở
Edinburgh.
1.2 Các tác phẩm chính của Adam Smith
“Lectures on Rhetoric and belles Lettres,”1748.
“The Theory of Moral Sentiments,” 1759.
“Lectures on Rhetoric and Belles Lettres” (1762 – 1763; in 1958).
“Lectures on Jurisprudence,” 1766.

2


“An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations,” 1776.
“Account of the Life and Writings of David Hume,” 1777.
“Thoughts on the State of the Contest with America,” 1778.
Essays on Philosophical Subjects,” 1795 – gồm:
“The Principles which Lead and Direct Philosophical Enquiries illustrated by the
History of Astronomy”.
“The Principles which Lead and Direct Philosophical Enquiries illustrated by the
History of Ancient Physics”.
“The Principles which Lead and Direct Philosophical Enquiries illustrated by the
History of Ancient Logic and Metaphysics”.
1.3 Phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu kinh tế của Adam Smith
Adam Smith là nhà kinh tế học thuộc trường phái cổ điển Anh. Đối với trường phái
này, điểm đặc trưng trong lý luận kinh tế của họ chính là ủng hộ kinh tế thị trường tự
do cạnh tranh và thuyết giá trị - lao động; nền kinh tế thị trường vối các quy luật vốn có

của nó sẽ tự động điều tiết kinh tế và đảm bảo thăng bằng cung - cầu và cho rằng Nhà
nước không nên can thiệp vào kinh tế.
Theo quan điểm của họ: kinh tế thị trường là một mơ hình tăng trưởng tự động. Tác
phẩm nổi tiếng của A. Smith là cuốn “The Wealth of Nations” (Của cải của các dân
tộc) xuất bản lần đầu năm 1776 đã thể hiện rõ tinh thần đó. Nghiên cứu học thuyết kinh
tế của ông chúng ta thấy một đặc điểm khá nổi bật trong phương pháp luận của A.
Smith là chủ nghĩa cá nhân về phương pháp luận trong cách tiếp cận về các vấn đề kinh
tế. Vậy chủ nghĩa cá nhân về phương pháp luận trong cách tiếp cận các vấn đề kinh tế
là gì?
Ở đây chúng ta có thể hiểu một cách khái quát cách đặt vấn đề của A Smith: Đó là
những “con người kinh tế” hay các cá nhân kinh tế. Trong hành động cũng như trong
các ứng xử kinh tế “con người kinh tế” đều xuất phát từ lợi ích cá nhân của họ. Lợi ích

3


cá nhân của họ dẫn dắt họ hoạt động và lợi ích cá nhân của họ dẫn dắt họ đến trao đổi
hàng hóa, đến các thỏa thuận, các giao ước, đến các quan hệ thị trường.
Trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc” ơng có viết con người cần sự giúp đỡ của
đồng loại, nhưng thật quả là vô ích nếu mong đợi sự giúp đỡ đó chỉ do lòng từ tâm của
người khác. Tốt hơn là anh phải làm cho nhiều người khác chú ý đến anh... và làm như
thế nào để người khác thấy là họ cũng có lợi khi làm điều gì mà anh ta u cầu. Bất kỳ
ai mang lại cho người khác một món hời... thì cũng mong được trả lại như vậy. Anh
cho tơi thứ mà tơi thích, anh sẽ có thứ mà anh u cầu, đó chính là ý nghĩa của sự trao
đổi”. Như vậy, “con người kinh tế” của A. Smith đó chính là các cá nhân trong xã hội.
Theo A-Smith, xã hội con người là một liên minh trao đổi và thiên hướng trao đổi là
đặc tính vốn có của con người, là một thiên hướng phổ biến và tất yếu của mọi xã hội,
nó tồn tại vĩnh viễn cùng với sự tồn tại của xã hội loài người. Theo A Smith, khi tiến
hành trao đổi sản phẩm cho nhau, con người ta bị chi phối lợi ích cá nhân và cũng
chính vì lợi ích cá nhân mà người ta có các quan hệ thị trường. Trong khi tiến hành trao

đổi con người kinh tế bị chi phối bởi lợi ích cá nhân, nhưng khi chạy theo lợi ích cá
nhân thì con người kinh tê cịn chịu sự tác động của “bàn tay vơ hình”. Thuyết “bàn tay
vơ hình” ở đây, theo quan điểm của A Smith chính là sự tác động của các quy luật kinh
tế của thị trường, chính các quy luật đó nó chi phối các quan hệ kinh tê và ông gọi các
quan hệ thị trường đó chính là “trật tự tự nhiên”. Từ đó ơng kêu gọi phải tuân theo “trật
tự tự nhiên”, nền kinh tế phải được phát triển trên cơ sở tự do kinh tế, tự do cạnh tranh,
tự do mậu dịch. Chủ nghĩa cá nhân về phương pháp luận A Smith, nếu xem xét kỹ hơn
- chúng ta thấy, có nguồn gốc sâu xa của nó là những tư tưởng triết học cá nhân chủ
nghĩa đang thịnh hành lúc bấy giờ ở Tây Âu vối những đại biểu như: Mandeville,
Hume... và ngay từ thời là sinh viên học ở đại học Glasgow ông đã thấm nhuần những
nguyên lý của trường phái “Triết học Scotland”. Theo trường phái này con người ta
được dẫn dắt bởi hai dịng sức mạnh bản năng. Đó là bản năng vị kỷ, nó thúc đẩy sự

4


hưởng thụ cá nhân và thứ hai là bản năng vị tha, cho phép con người ta sống thành xã
hội và khuyến khích sự hợp tác lẫn nhau.
Chính những tư tưởng này đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến ông và hình thành nên tư duy
về kinh tế thị trường của ông. Ông cho rằng, kinh tế trao đổi, kinh tế thị trường là phù
hợp với bản chất của con người, là thuộc về bản chất của con người. Giáo sư Alain
Geledan trong cuốn Lịch sử tư tưởng kinh tế đă khái qt mơ hình tăng trưởng kinh tế
của A Smith như sau:

MƠ HÌNH CỔ ĐIỂN CỦA ADAM SMITH
Như vậy, cơ sở của mơ hình tăng trưởng kinh tế của Adam Smith là nền kinh tế thị
trường với các quy luật khách quan của nó: cạnh tranh, giá cả, cung - cầu, lợi nhuận và
tích lũy tư bản. Các quy luật khách quan của thị trường chính là sức mạnh của “bàn tay
vơ hình” dẫn dắt con người kinh tế hoạt động trong đời sống xã hội.
Smith sống trong thế kỷ 18, thời kỳ đỉnh cao của công trường thủ công tư bản chủ

nghĩa, cho nên ông nhấn mạnh tối phân công lao động trong việc phát triển lực lượng
sản xuất và tăng năng suất lao động xã hội. Cũng chính vì vậy mà K.Marx gọi ơng là
nhà kinh tế học của thời kỳ công trường thủ công.

5


Chương 2: ADAM SMITH – CHA ĐẺ CỦA LÝ THUYẾT “BÀN TAY VƠ
HÌNH” VÀ “KINH TẾ THỊ TRƯỜNG”
2.1 Hồn cảnh
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế nửa cuối thế kỉ XVIII thế giới chứng kiến sự
suy tàn của chủ nghĩa trọng thương và sự hình thành trường phái kinh tế chính trị tư
sản cổ điển. Sự suy tàn này bắt nguồn từ những lý do: Cùng với sự phát triển của lực
lượng sản xuất, thời kì tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang thời
kỳ sản xuất tư bản chủ nghĩa, trọng tâm lợi ích của giai cấp tư sản đã chuyển từ lĩnh
vực lưu thơng sang lĩnh vực sản xuất. Thực tiễn đó địi hỏi cần có lý thuyết phân tích
sâu sắc sự vận động của nó và đưa ra những biện pháp nhằm làm giàu cho giai cấp tư
sản; Chủ nghĩa trọng thương với những quan điểm phiến diện đã hạn chế tự do thương
mại và điều này mâu thuẫn với lợi ích của đông đảo tầng lớp tư bản công nghiệp, nông
nghiệp và nội thương. Với sự tan rã của chủ nghĩa trọng thương, các học thuyết kinh tế
mới thuộc trường phái kinh tế chính trị tư sản cổ điển như chủ nghĩa trọng nông ở
Pháp, học thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith... ra đời và phù hợp với giai đoạn
phát triển mới của chủ nghĩa tư bản.
Bắt đầu từ giữa kỳ thứ 18, nền kinh tế ở các nước Tây Âu đã có những thay đổi đáng
kể:
Từ một xã hội nông nghiệp đơn giản phát triển thành một xã hội kinh tế phức tạp,
bao gồm nhiều ngành nghề khác nhau.
Công nghiệp phát triển, đặc biệt là ở Anh. Cuộc cách mạng kỹ nghệ đã biến nước
này từ một nền kinh tế kỹ nghệ tại gia sang một nền kinh tế với những cơ xưởng dựa
vào sức máy và hơi nước. Vị trí của tư sản cơng nghiệp trở nên rất quan trọng, thay thế

cho vị trí của thương nhân trước đây.

6


Thương mại từ nội bộ địa phương đã được mở rộng ra toàn quốc và toàn cầu, các
mặt hàng xuất khẩu đa dạng hơn. (Thay cho len và lúa mì là những sản phẩm mới như
vải dệt, vật dụng bằng sắt, sản phẩm da thuộc, than...).
Hệ thống ngân hàng phát triển, hệ thống thương phiếu ra đời và bắt đầu phát hành
ngân hàng tiền tệ.
Quốc gia đã mạnh, không cần dùng các biện pháp tăng cường quyền lwujc nhưu giai
đoạn trước mà chuyển vai trị đó vào tay cá nhân. Vai trị của các doanh nghiệp được
đề cao, họ có quyền tự quyết các vấn đề như sản xuất cái gì, bằng phương pháp nào và
định giá ra sao, khơng cịn phải chịu sự kiểm sốt của các chính quyền địa phương,
giáo hội hay quân đội như trước đây nữa.
Trong bối cảnh như thế xuất hiện một quan điểm về thương mại quốc tế của Adam
Smith, nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh thời bấy giờ.
2.2 Nội dung của lý thuyết
2.2.1 Bàn tay vơ hình
Điểm xuất phát trong phân tích của A.smith là nhân tố con người kinh tế. Theo ơng
con người kinh tế có 2 tính: tính vị kỷ và tính vị tha. Trong 2 tính này, tính vị kỉ trội
hơn nên làm nảy sinh mối quan hệ trao đổi và mua bán.
Bàn tay vơ hình là một phép ẩn dụ, một tư tưởng tự do kinh tế do Adam Smith đưa
ra vào năm 1776. Trong tác phẩm “Tài sản của các quốc gia” và những bài viết khác,
Smith đã tuyên bố rằng, trong nền kinh tế thị trường tự do, mỗi cá nhân theo đúng một
mối quan tâm và xu hướng lợi ích riêng cho cá nhân mình, và chính các hành động của
các cá nhân này lại có xu hướng thúc đẩy nhiều hơn và củng cố lợi ích cho tồn cộng
đồng thơng qua một “bàn tay vơ hình”. Ơng biện luận rằng, mỗi một cá nhân đều muốn

7



thu lợi lớn nhất cho mình sẽ làm tối đa lợi ích của cả cộng đồng, điều này giống như
việc cộng tồn bộ tất cả các lợi ích của từng cá nhân lại.
Ơng dùng thuật ngữ này mơ tả khả năng của cơ chế thị trường trong việc điều chỉnh
cung cầu trên thị trường. Và ví sức mạnh của cơ chế thị trường như bàn tay vơ hình
định hướng người bán và người mua, phân bố nguồn lực kinh tế đạt được hiệu quả xã
hội lớn nhất mà không cần sự can thiệp của Chính phủ. Theo quan điểm của A.Smith,
Chính phủ chỉ nên giữ chức năng quản lý, bởi lẽ ơng cho rằng: “ Chính bàn tay vơ hình
với tư cách là cơ chế tự động cân bằng của thị trường cạnh tranh làm cho phúc lợi cá
nhân và hiệu quả kinh tế để đạt tối đa. Trong khi chạy theo lợi ích riêng của mình, con
người phụng sự xã hội nhiều hơn anh ta chủ trương làm điều đó...”
Smith chỉ sử dụng thuật ngữ “bàn tay vơ hình” ba lần trong ba tác phẩm của ông.
Nhưng sau này, thuật ngữ này đã được sử dụng rộng rãi trở thành một lý luận kinh tế
học.
Ông viết: “Mỗi cá nhân đều cố gắng sử dụng vốn của mình sao cho có được sản
phẩm có giá trị cao nhất. Thơng thường, cá nhân này khơng có chủ định cũng cố lợi
ích cơng cộng, mà củng chẳng biết mình đang củng cố lợi ích này ở mức độ này. Cá
nhân này chỉ có mục đích bảo vệ sự an tồn và thành quả riêng của mình. Trong quá
trình này, một bàn tay vơ hình này đã buộc anh ta phải theo đuổi một mục đích khơng
nằm trong dự định. Trong khi theo đuổi lợi ích của mình, anh ta đã bảo vệ ln lợi ích
của xã hội một cách hữu hiệu hơn cả khi anh ta có ý định làm việc này.”
Lý thuyết bàn tay vơ hình dựa trên sự thúc đẩy của lợi ích cá nhân và sự điều tiết của
thị trường tự do cạnh tranh. Ơng giải thích việc giá cả thị trường được cân bằng phải
không rời xa chi phí sản xuất hàng hóa thực tế. Ơng giải thích việc xã hội làm như thế
nào để hướng những người sản xuất hàng hóa phải cung cấp những hàng hóa mà xã hội
cần.

8



Ông cho rằng Nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế, Nhà nước chỉ có chức
năng bảo vệ quyền sở hữu tư bản, đấu tranh chống kẻ thù bên ngoài, chống tội phạm
trong nước. Nhà nước chỉ nên can thiệp vào các chứng năng kinh tế khi nó vượt ra
ngoài khả năng của các chủ doanh nghiệp. Trong tác phẩm “Nghiên cứu về bản chất và
nguyên nhân giàu có của một quốc gia”, Adam Smith đã khẳng định “ Sự giàu có của
mỗi quốc gia đạt được khơng phải do những quy định chặt chẽ mà do bởi tự do kinh
doanh”. Triết lý này của Adam Smith được mọi người chấp nhận và trở thành học
thuyết ngự trị suốt thế kỷ.
Theo ơng, như vậy, chính phủ cũng khơng can thiệp vào các hoạt động thương mại
quốc tế. Đây là một quan điểm hết sức tích cực, ngược lại với quan điểm của phái trọng
thương khi cho rằng chính phủ cần can thiệp sâu vào các hoạt động thương mại quốc
tế.
2.2.2 Lợi thế tuyệt đối
Theo Adam Smith, cơ sở của thương mại quốc tế giữa hai quốc gia là lợi thế tuyệt
đối. Khi cùng sử dụng một nguồn lực (lao động), quốc gia nào sản xuất được nhiều sản
phẩm hơn tức là quốc gia đó có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất ra sản phẩm đó.
Từ theo khái niệm lợi thế tuyệt đối, Adam Smith cho rằng quốc gia nên chun mơn
hóa vào việc sản xuất và xuất khẩu sản phẩm mà quốc gia đó có lợi thế tuyệt đối, nhập
khẩu sản phẩm mà quốc gia kém lợi thế tuyệt đối. Bằng cách nào đó, tài nguyên của
mỗi quốc gia sẽ được sử dụng có hiệu quả hơn và sản phẩm sản xuất của hai bên tăng
lên. Như vậy cả hai bên tham gia đều thu được lợi ích lớn hơn.
2.3 Ví dụ về lý thuyết
Giả sử cùng sử dụng một nguồn lực để sản xuất các sản phẩm lúa mỳ (lương thực)
và vải (quần áo), kết quả sản xuất ở Mỹ và Anh được thể hiện theo bảng sau:

9


Bảng 1: Lợi thế tuyệt đối của Mỹ và Anh.

Lúa mỳ (W)

Vải (C)

Mỹ

6

4

Anh

1

5

Theo lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith thì Mỹ có lợi thế tuyệt đối trong
việc sản xuất lúa mỳ so với Anh, còn Anh lại có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất
vải so với Mỹ. Mỹ sẽ chun mơn hóa vào việc sản xuất lúa mỳ cịn Anh chun mơn
hóa vào việc sản xuất vải và sau đó đem ra trao đổi với nhau: Mỹ xuất khẩu lúa mỳ,
nhập khẩu vải; Anh xuất khẩu vải, nhập khẩu lúa mỳ.
Nếu Mỹ đổi 6W để lấy 6C của Anh thì Mỹ sẽ có lợi 2C (vì trong nội địa chỉ đổi
được 4C). Tương tự, Anh nhận được 6W khi chỉ đổi được 6C sẽ có lợi ích là 24C
(trong nội địa Anh mất 30C).
Như vậy, cả hai quốc gia đều thu được lợi ích lớn hơn nhờ chun mơn hóa sản xuất
và thương mại quốc tế.
Trong ví dụ trên, chúng ta giả định Mỹ trao đổi 6W lấy 6C của nước Anh. Tuy nhiên
đây không phải là tỷ lệ trao đổi duy nhất mà ở hai quốc gia cùng có lợi. Đối với Mỹ,
chỉ cần đổi 6W lấy một số lớn hơn 4C là đã có lợi hơn so với sản xuất trong nước. Đối
với Anh để có 6W phải mất 30C nếu sản xuất trong nước. Do đó Anh sẽ sẵn sàng trao

đổi với Mỹ bất cứ một lượng vải nào nhỏ hơn 30C để có được 6W là Anh đã có lợi hơn
so với sản xuất trong nước.
Như vậy khung (miền) trao đổi của hai quốc gia sẽ là: 4C < 6W < 30C
Adam Smith cũng đề cập đến lợi thế do nỗ lực, chính là lợi thế có được do sự phát triển
kỹ thuật và sự lành nghề trong công việc. Ngày nay, thương mại quốc tế thường là mua
bán các sản phẩm đã được chế biến hơn là nông phẩm hay nguyên liệu. Lợi thế về kỹ

10


thuật chế biến là khả năng sản xuất các loại sản phẩm khác nhau, sự khác biệt các loại
sản phẩm tương tự.
2.4 Đánh giá ưu điểm và hạn chế của lý thuyết
2.4.1 Ưu điểm
Thứ nhất, đề cao vai trò cá nhân và các doanh nghiệp, ủng hộ một nền thương mại tự
do, khơng có sự can thiệp của Chính phủ. Thương mại tự do sẽ làm cho thế giới sử
dụng tài nguyên có hiệu quả hơn, mang lại nhiều lợi ích hơn.
Thứ hai, nhận thức đúng về sự giàu có của các quốc gia. Một quốc gia giàu có là quốc
gia có nhiều hàng hóa, dịch vụ để tiêu dùng và nhiều tài nguyên để có thể sản xuất ra
nhiều hàng hóa và dịch vụ.
Thứ ba, thấy được tính ưu việt của chun mơn hóa và thương mại quốc tế. Thương
mại quốc tế sẽ mang lại lợi ích lớn hơn cho tất cả các bên tham gia (chứ không phải là
lợi ích chỉ dành cho một bên), như vậy các bên sẽ tự nguyện tham gia vào thương mại
quốc tế.
Thứ tư, lý thuyết lợi thế tuyệt đối được xây dựng khá hồn chỉnh, có căn cứ khoa học,
giải thích được một phần nguyên nhân, lợi ích của thương mại quốc tế.
2.4.2 Hạn chế
Thứ nhất, đồng nhất hóa sự phân cơng lao động quốc tế với sự phân công lao động
trong nước mà khơng tính đến sự khác biệt giữa các quốc gia là rất lớn về thể chế chính
trị, về phong tục tập quán.

Thứ hai, dùng lợi thế tuyệt đối chỉ có thể giải thích được một phần rất nhỏ trong
thương mại thế giới ngày nay ví như các nước phát triển với các nước phát triển. Lý
thuyết này không thể giải thích được trong trường hợp một nước được coi là “tốt nhất”
tức là quốc đó có thể lợi thế tuyệt đối để sản xuất cả các sản phẩm hoặc một nước được

11


coi là “kém nhất” tức là quốc gia đó khơng có một sản phẩm nào có lợi thế tuyệt đối để
sản xuất trong nước. Liệu trong những trường hợp đó, các quốc gia có cịn giao thương
với nhau nữa khơng và lợi ích thương mại sẽ nằm ở chỗ nào? Hay lại áp dụng chính
sách “Bế quan tỏa cảng”, nếu dùng lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith thì
khơng thể giải thích được.
Chương 3: CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ KHÁC CỦA ADAM SMITH
3.1 Phê phán chế độ phong kiến và luận chứng cương lĩnh kinh tế của giai cấp
tư sản
Ơng phê phán tính chất ăn bám của bọn q tộc phong kiến, theo ơng "các đại biểu
được kính trọng nhất trong xã hội" như: nhà vua, quan lại, sĩ quan, thầy tu... cũng
giống như những người tôi tớ, khơng sản xuất ra một giá trị nào cả.
Ơng phê phán chế độ thuế khóa độc đốn như thuế đánh theo đầu người, chế độ thuế
thân có tính chất lãnh địa, chế độ thuế hà khắc ngăn cản việc tích lũy của nơng dân.
Ơng lên án chế độ thừa kế tài sản nhằm bảo vệ đặc quyền của quý tộc, coi đó là "thể
chế dã man" ngăn cản việc phát triển của sản xuất nơng nghiệp.
Ơng bác bỏ việc hạn chế bn bán lúa mỳ vì nó gây khó khăn cho sản xuất nơng
nghiệp.
Ơng vạch rõ tính chất vơ lý về mặt kinh tế của chế độ lao dịch và chứng minh tính
chất ưu việt của chế độ lao động tự do làm thuê.
Ông kết luận: chế độ phong kiến là một chế độ "khơng bình thường": là sản phẩm
của sự độc đoán, ngẫu nhiên và dốt nát của con người, đó là một chế độ trái với trật tự
ngẫu nhiên và mâu thuẫn với yêu cầu của khoa học kinh tế chính trị. Theo ơng nền

kinh tế bình thường là nền kinh tế phát triển trên cơ sở tự do cạnh tranh, tự do mậu
dịch.

12


3.2 Phê phán chủ nghĩa trọng thương
Adam Smith là người đứng trên lập trường của tư bản công nghiệp để phê phán chủ
nghĩa trọng thương. Ông xác định đánh tan chủ nghĩa trọng thương là niệm quan trọng
bậc nhất để đánh tan ảo tưởng làm giàu bằng thương nghiệp.
Ông phê phán chủ nghĩa trọng thương đã đề cao quá mức vai trị của tiền tệ. Theo
ơng, sự giàu có khơng phải ở chỗ có tiền mà là ở chỗ người ta có thể mua được cái gì
với tiền. Ơng cho rằng lưu thơng hàng hóa chỉ thu hút được một số tiền nhất định và
không bao giờ dung nạp quá số đó.
Ơng phê phán chủ nghĩa trọng thương đề cao quá mức vai trò của ngoại thương và
cách làm giàu bằng cách trao đổi khơng ngang giá. Ơng cho rằng việc nâng cao tỷ suất
lợi nhuận trong thương nghiệp bằng độc quyền thương nghiệp sẽ làm chậm việc cải
tiến sản xuất. Muốn làm giàu phải phát triển sản xuất.
Ông phê phán chủ nghĩa trọng thương dựa vào nhà nước để cưỡng bức kinh tế, ông
cho rằng chức năng của nhà nước là đấu tranh chống bọn tội phạm, kẻ thù...nhà nước
có thể thực hiện chức năng kinh tế khi các chức năng đó vượt q sức của các chủ xí
nghiệp riêng lẻ như xây dựng đường sá, sơng ngịi và các cơng trình lớn khác. Theo
ơng, sự phát triển kinh tế bình thường khơng cần có sự can thiệp của nhà nước.
3.3 Phê phán chủ nghĩa trọng nông
Mục tiêu phê phán của ông là đánh tan các ảo tưởng của phái trọng nơng về tính
chất đặc biệt của nơng nghiệp, và phá vỡ những luận điểm kỳ lạ của họ về tính chất
khơng sản xuất của cơng nghiệp.
Ơng phê phán quan điểm của trọng nông coi giai cấp thợ thủ công, chủ công trường
là giai cấp không sản xuất.


13


Ông đưa ra nhiều luận điểm để chứng minh ngành công nghiệp là một ngành sản
xuất vật chất như luận điểm về năng suất lao động, tích luỹ tư bản...
3.4 Lý luận về thuế khoá
Adam Smith là người đầu tiên luận chứng cương lĩnh thuế khoá của giai cấp tư
sản, chuyển gánh nặng thuế khoá cho địa chủ và tầng lớp lao động, ông xác định thu
nhập của nhà nước có thể từ hai nguồn: một là từ quỹ đặc biệt của nhà nước, tư bản
đem lại lợi nhuận, ruộng đất đem lại địa tô, hai là lấy từ thu nhập của tư nhân bắt
nguồn từ địa tô. lợi nhuận, tiền cơng.
Ơng đưa ra bốn ngun tắc để thu thuế:
Thứ nhất, các thần dân phải có nghĩa vụ ni chính phủ, "tùy theo khả năng và sức lực
của mình".
Thứ hai, phần thuế mỗi người đóng phải được quy định một cách chính xác.
Thứ ba, chỉ thu vào thời gian thuận tiện, và với phương thức thích hợp.
Thứ tư, nhà nước chi phí ít nhất vào cơng việc thu thuế.
Ơng đưa ra hai loại thuế phải thu: đó là thuế trực thu và thuế gián thu:
Thứ nhất, thuế trực thu là thuế đánh trực tiếp vào thu nhập: địa tô, lợi nhuận, tiền
công, và tài sản kế thừa.
Thứ hai, thuế gián thu, ông cho rằng không nên đánh thuế vào các vật phẩm tiêu dùng
thiết yếu, nên đánh thuế vào các hàng xa xỉ để điều tiết thu nhập của những người
"sống trung bình hoặc cao hơn trung bình".
3.5 Lý luận về kinh tế hàng hố
3.5.1 Lý luận về phân cơng lao động

14


Adam Smith cho rằng phân công lao động là sự tiến bộ hết sức vĩ đại trong sự phát

triển sức sản xuất lao động.
Ơng cho rằng phân cơng lao động sẽ làm tăng thêm hiệu suất lao động, tăng năng
suất lao động.
Ơng khẳng định ngun nhân dẫn đến phân cơng lao động là trao đổi, nên mức độ
phân công phụ thuộc vào quy mô thị trường, điều kiện để thực hiện phân công là mật
độ dân số cao và sự phát triển của giao thông liên lạc.
3.5.2 Lý luận về tiền tệ
Adam Smith đã trình bày lịch sử ra đời của tiền tệ thông qua sự phát triển của lịch
sử trao đổi, từ súc vật làm ngang giá đến kim loại vàng, ơng đã nhìn thấy sự phát triển
của các hình thái giá trị. Ơng đã chỉ ra bản chất của tiền là hàng hoá đặc biệt làm chức
năng phương tiện lưu thông và đặc biệt coi trọng chức năng này của tiền tệ, ông là
người đầu tiên khuyên nên dùng tiền giấy.
Ơng đã có quan điểm đúng về số lượng tiền cần thiết trong lĩnh vực lưu thông là do
giá cả quy định. Trong lý luận của A.Smith còn có hạn chế là: khơng hiểu đầy đủ bản
chất của tiền, còn nhầm lẫn giá trị tiền với số lượng tiền, không thấy hết các chức năng
của tiền tệ.
3.5.3 Lý luận về giá trị - lao động
Adam Smith đã đưa ra thuật ngữ khoa học là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, khi
phân tích về giá trị trao đổi ơng đã tiến hành phân tích qua các bước:
Xét hàng hố trao đổi với lao động:
Ơng cho rằng, thước đo thực tế của giá trị hàng hoá là lao động nên giá trị hàng hoá
là do lao động sống mua được. Như vậy là ông đã đồng nhất giá trị là lao động kết tinh
trong hàng hoá với lao động mà hàng hố đó đổi được.

15


Xét trao đổi hàng hố với hàng hố:
Ơng viết: "giá trị trao đổi của chúng bằng một lượng hàng hoá nào đó". Như
vậy giá trị trao đổi của hàng hố là quan hệ tỷ lệ về số lượng giữa các hàng hố.

Xét trao đổi hàng hố thơng qua tiền tệ:
Theo ông, khi chấm dứt nền thương nghiệp vật đổi vật thì giá trị hàng hố được đo
bằng tiền và giá cả hàng hoá là biểu hiện bằng tiền của giá trị, giá cả hàng hố có hai
loại thước đo đó là lao động và tiền tệ, trong đó thước đo là lao động là thước đo chính
xác nhất của giá trị, còn tiền tệ chỉ là thước đo trong một thời gian nhất định mà thôi.
Adam Smith là người đưa ra quan niệm đúng đắn về giá trị hàng hoá đó là: giá trị
hàng hố là do lao động hao phí tạo ra, ơng cịn chỉ rõ giá trị hàng hố bằng số lượng
lao động đã chi phí bao gồm lao động quá khứ và lao động sống.
Tóm lại trong lý luận giá trị - lao động A.Smith đã có những bước tiến đáng kể so
với chủ nghĩa trọng nông và W.Petty. Cụ thể là:
Ông đã chỉ ra cơ sở của giá trị, thực thể của giá trị chính là do lao động. Lao động là
thước đo giá trị (theo ông: lao động là nguồn gốc của sự giàu có của các quốc gia, là
thực thể giá trị của hàng hố. Khơng phải vàng hay bạc mà sức lao động mới là vốn
liếng ban đầu và có khả năng tạo ra mọi của cải cần thiết).
Ông khẳng định mọi thứ lao động sản xuất đều bình đẳng trong việc tạo ra giá trị
hàng hoá (đã khắc phục hạn chế của chủ nghĩa trọng thương và chủ nghĩa trọng nông).
Trong khi phân biệt hai phạm trù giá trị sử dụng và giá trị, ông bác bỏ quan niệm
cho rằng giá trị sử dụng quyết định giá trị trao đổi. Khi phân tích về giá trị, ơng cho
rằng giá trị được biểu hiện ở giá trị trao đổi trong mối quan hệ về số lượng với các
hàng hố khác, cịn trong nền sản xuất hàng hố phát triển nó được biểu hiện ở tiền.
Lượng giá trị

16


Là do hao phí lao động trung bình cần thiết quyết định, khơng phải do lao động chi
phí thực tế để sản xuất hàng hố. Ở đây đã có sự trừu tượng hoá các dạng lao động cụ
thể, các chi phí lao động cá biệt để xem xét giá trị do lao động tạo ra như một đại lượng
xác định mang tính chất xã hội. Đã có sự phân biệt lao động giản đơn, lao động phức
tạp trong việc hình thành lượng giá trị hàng hoá.

Về giá cả
Theo A.Smith, giá trị là cơ sở của giá cả và có giá cả tự nhiên và giá cả thị trường.
Giá cả tự nhiên là giá trị thực của hàng hoá do lao động quyết định. Giá cả thị trường
(hay giá cả thực tế) thì khác với giá cả tự nhiên, phụ thuộc vào quan hệ cung cầu và các
loại độc quyền khác (ông đã sớm nhận ra nhân tố độc quyền tư bản).
Lý luận giá trị - lao động của A.Smith còn có hạn chế, đó là:
Quan niệm về lượng giá trị chưa nhất quán: trên cơ sở lý luận giá trị lao động ơng đã
có định nghĩa đúng giá trị là lao động hao phí để sản xuất hàng hố. Nhưng có lúc ơng
lại định nghĩa giá trị là do lao động mà người ta có thể mua được bằng hàng hố này
quyết định (gồm v+m), tức là khơng thấy vai trị của lao động q khứ. Vì vậy dẫn đến
sự bế tắc khi phân tích tái sản xuất.
Một quan điểm sai lầm của Adam Smith khi ông cho rằng: "tiền công, lợi nhuận, địa
tô là ba nguồn gốc đầu tiên của thu nhập cũng như của mọi giá trị trao đổi, là ba bộ
phận cấu thành giá cả hàng hoá". Do đó giá trị do lao động tạo ra chỉ đúng trong nền
sản xuất hàng hố giản đơn cịn trong kinh tế tư bản chủ nghĩa thì nó do các nguồn thu
nhập tạo thành là tiền công, lợi nhuận và địa tô. Điều này biểu hiện sự xa rời học thuyết
giá trị - lao động.
Ông cũng đã phân biệt được giá cả tự nhiên và giá trị thị trường, nhưng ông lại chưa
chỉ ra được giá cả sản xuất bao gồm chi phí sản xuất và lợi nhuận bình qn.

17


3.5.4 Lý luận về tư bản
Adam Smith quan niệm: tư bản là những tài sản đem lại thu nhập, ông đã phân biệt
được tư bản cố định và tư bản lưu động:
Tư bản lưu động: là tư bản không đem lại thu nhập nếu nó vẫn ở trong tay người chủ
sở hữu và giữa nguyên hình thái, như: tiền, lương thực dự trữ, nguyên nhiên vật liệu,
thành và bán thành phẩm.
Tư bản cố định: là tư bản đem lại lợi nhuận mà khơng chuyển quyền sở hữu, như:

máy móc, cơng cụ lao động, các cơng trình xây dựng đem lại thu nhập, những năng lực
có ích của dân cư.
Về tích luỹ tư bản: Ơng khẳng định chỉ có lao động mới là nguồn gốc của tích luỹ tư
bản: "tích luỹ tư bản tăng là do kết quả của sự tiết ước và chúng giảm đi là do hoang
phí và khơng tính tốn cẩn thận".
3.5.5 Lý luận về thu nhập
Đây là điểm trung tâm và là cơ sở xuất phát giải quyết các vấn đề lý luận trong học
thuyết kinh tế của Adam Smith:
Lý luận về tiền lương:
Ông quan niệm tiền lương là một phần thu nhập của công nhân làm thuê, là một
phần của sản phẩm lao động. Ông ủng hộ việc trả tiền lương cao.
Hai yếu tố quyết định đến mức tiền lương là cầu về lao động và giá cả trung bình
của các tư liệu sinh hoạt, ơng cũng đã phân biệt sự khác nhau giữa tiền lương thực tế và
tiền lương danh nghĩa.
Lý luận về lợi nhuận, lợi tức:

18


Adam Smith chỉ rõ nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận: là một khoản khấu trừ do
công nhân tạo ra là kết quả của lao động đem lại.
Về lợi tức ông cho rằng lợi tức là một bộ phận của lợi nhuận, được đẻ ra từ lợi
nhuận. Lợi tức của tư bản cho vay được trả bằng cách lấy vào lợi nhuận thuần tuý và
đo mức lợi nhuận thuần tuý quyết định.
Ông cũng chỉ ra những nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận như: tiền công, quy mô tư
bản, lĩnh vực đầu tư, cạnh tranh, sự can thiệp của nhà nước...
Ông cũng là người chỉ ra xu hướng giảm xuống của tỷ suất lợi nhuận, và cho rằng tư
bản đầu tư ngày càng nhiều thì tỷ suất lợi nhuận càng thấp.
Lý luận về địa tơ:
Adam Smith có hai luận điểm về khái niệm địa tô: một là, địa tô là khoản khấu trừ

thứ nhất vào sản phẩm lao động, hai là, địa tô là khoản tiền trả về việc sử dụng đất đai,
phụ thuộc vào mức độ phì nhiêu của đất đai và việc người nơng dân có khả năng trả
tiền cho ruộng đất.
Về hình thức địa tơ, Adam Smith đã phân biệt hai hình thái của địa tơ chênh lệch I,
nhưng ông lại chưa nghiên cứu địa tô chênh lệch II.
3.5.6 Lý luận về tái sản xuất tư bản xã hội
Lý luận về tái sản xuất của Adam Smith được xây dựng trên quan điểm của giá trị
hàng hố bao gồm: tiền lương, lợi nhuận, địa tơ. Trong q trình phân tích, ơng đã trình
bày các khái niệm: tổng thu nhập, thu nhập thuần tuý, nhưng ông không lấy tổng thu
nhập làm điểm xuất phát mà lấy thu nhập thuần tuý làm điểm xuất phát và toàn bộ lý
luận tái sản xuất chỉ xoay quanh thu nhập thuần tuý.

19


Mặt khác, ông phân chia tư bản xã hội làm hai bộ phận: tư liệu sản xuất và tư liệu
tiêu dùng, nhưng sự phân chia này chưa rành mạch, ông đã đồng nhất tư bản với của
cải xã hội, chứ khơng phải tư bản là bộ phận dự trữ.
Tóm lại: A.Smith đã hiểu một số vấn đề của lý luận tái sản xuất xã hội gần giống với
lý luận về tái sản xuất xã hội mà Mác xây dựng sau này. Ơng đã có gợi ý thiên tài là:
phân chia nền sản xuất xã hội thành hai khu vực (sản xuất tư liệu sản xuất và sản xuất
tư liệu tiêu dùng), phân biệt tích luỹ và cất trữ trong tái sản xuất mở rộng.
Hạn chế lớn nhất của a.Smith là ở chỗ: Cho rằng sản phẩm xã hội chỉ thể hiện ở hai
phần là tiền công (v) và giá trị thặng dư (m), loại bỏ phần giá trị tư bản bất biến (c),
đồng nhất thu nhập quốc dân và toàn bộ tổn sản phẩm xã hội. Theo ông giá trị tổng sản
phẩm gồm: tiền công, lợi nhuận và địa tô. Từ đó dẫn đến sai lầm tiếp theo: cho rằng
tích luỹ chỉ là biến giá trị thặng dư thành tư bản khả biến phụ thêm mà khơng có tư bản
bất biến phụ thêm. Tức là bỏ qua giá trị tư bản bất biến trong phân tích tái sản xuất và
khơng tính đến tư bản bất biến phụ thêm trong phân tích tái sản xuất mở rộng.
Mác đặt tên cho sai lầm này là "Tín điều của A.Smith" (từ sai lầm này và đi chứng

minh cho các sai lầm đã dẫn A.Smith đến chỗ bế tắc).
3.6 Lý thuyết về "lợi thế so sánh"
Adam Smith là người đưa lý thuyết về "lợi thế tuyệt đối". Ơng cho rằng, việc bn
bán giữa các nước diễn ra trên cơ sở lợi thế tuyệt đối của từng nước khi quốc gia này
có lợi thế hơn quốc gia khác về sản xuất một loại hàng hoá nào đó, ngược lại quốc gia
khác lại có lợi thế tuyệt đối về một mặt hàng nào đó, do đó khi tiến hành trao đổi cả hai
nước đều có lợi ích cao nhất. Bởi vậy mỗi quốc gia phải biết chun mơn hố sản xuất
loại hàng hố mà họ có lợi thế hơn.

20


Nhưng trong thực tế hiện tượng này không nhiều, bởi vậy lý thuyết này của Adam
Smith có những điểm hạn chế, về sau chính Ricardo là người phát triển lý thuyết về lợi
thế tuyệt đối, xây dựng lý thuyết về lợi thế so sánh.
Những tư tưởng của A.Smith còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn, cả phương pháp khoa
học và phương pháp tầm thường song ông đã xác định được nhiệm vụ của kinh tế
chính trị học, đã đưa các tư tưởng kinh tế có từ trước đó trở thành hệ thống, là một
trong những đỉnh cao của tư tưởng xã hội thế kỷ XVIII.
Chương 4: ĐÓNG GÓP CỦA ADAM SMITH
Quan điểm kinh tế của ông phản ánh phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của chủ
nghĩa tư bản vào thời kỳ đó. Vào thời kỳ đó, trong lĩnh vực sản xuất cơng nghiệp thì tự
do cạnh tranh là đặc trưng chủ yếu và phổ biến vì lúc đó quy mơ các doanh nghiệp cịn
nhỏ, số lượng các doanh nghiệp cịn ít. Sự lựa chọn của mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp
là có hiệu quả nhất và thích hợp nhất.
Lý thuyết bàn tay vơ hình là lý thuyết kinh tế vĩ mô trong điều kiện tự do cạnh tranh.
Trong một nền kinh tế cạnh tranh khơng hồn tồn thì lý thuyết này vẫn là cơ sở của lý
thuyết kinh tế vĩ mô hiện đại.
Phương pháp lý luận của ông có tính rõ rệt khoa học và tầm thường:
- Khoa học: quan sát các mối liên hệ bên trong, các phạm trù kinh tế hoặc cơ cấu bị che

lấp của hệ thống kinh tế tư sản.
- Tầm thường: lý luận của ơng cịn nhiều mâu thuẫn, ơng đặt các mối quan hệ trên như
mối liên hệ bề ngoài của hiện tượng cạnh tranh.
Ngày nay, lý thuyết “bàn tay vơ hình" được trình bày như một hiện tượng tự nhiên.
Nó hướng dẫn nền kinh tế thị trường tự do đạt được sự hữu hiệu qua lực lượng cung và
cầu. Chính tư lợi cá nhân, được bảo đảm bởi quyền tư hữu, là động lực khiến cho cá

21


×