Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Kinh tế chính trị Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (730.6 KB, 31 trang )

Bộ Giáo dục và Đào tạo
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Quản trị kinh doanh
----------

BÀI TẬP LỚN
MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Đề tài: Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay

Họ tên:
Mã sinh viên:
Lớp:
Khoá: 62
HDKH:

Hà Nội – 6/2021


Bộ Giáo dục và Đào tạo
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Quản trị kinh doanh

BÀI TẬP LỚN
MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Đề tài: Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay

Hà Nội - 6/2021


MỤC LỤC
A. Lời



giới

thiệu…………………………………..

…………………………..1
I

-

Mở

đầu……………………………………………………….

………………..1
II - Tính cấp thiết của đề tài…………………………………………….
………...1

B. Nội dung………….………………………………………………………..2
I





sở

khoa

học…………………………….


………………………………….2
1. Cơ sở lý luận…………………………………………...…………….....…2
a) Khái
niệm
hội
nhập
kinh
tế
quốc
tế……………………………………..2
b) Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế …………….
…...3
2. Cơ sở thực tế………………………………………………………………
4
a) Cục diện thế giới thay đổi, hội nhập kinh tế trở thành một tất yếu
khách quan……………………..………………......……………….......4

II

b) Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển của Việt Nam…..6
Thực
trạng
vấn

đề…………………………………………………………….8
1. Hành trình hội nhập kinh tế quốc tế của
……………………….8
2. Những
thành

tựu



thách

Việt

Nam.

thức……………….

…………………………..10
a) Những thành tựu...………..……………………………………….....10
b) Những
thách
thức…………………………………………………….16
III – Phương hướng nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc
tế……………….23
1. Phương
chung…………………………………………………….23
2. Một
số
phương
hướng
thể…………………………………………….23

hướng
cụ



C. Kết luận……………………………………….………………………….26


A. Lời giới thiệu
I - Mở đầu:
Trong thời đại ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang là một trong những vấn
đề thời sự đối với hầu hết các nước. Chính sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường
đã trở thành động lực hàng đầu thúc đẩy q trình hội nhập. Nó diễn ra với tốc độ ngày
càng cao trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế thế giới như buôn bán, tổ chức sản
xuất, văn hố, lối sống...Điều đó làm cho nền kinh tế thế giới trở trở thành một chỉnh thể
thống nhất, trong đó mỗi quốc gia là một bộ phận, giữa chúng có sự phụ thuộc lẫn nhau.
Quá trình quốc tế hố ngày nay đang diễn ra ở những cấp độ khác nhau với những xu
hướng toàn cầu hố đi đơi với xu hướng khu vực hố. Xu thế khu vực hố thể hiện ở việc
hình thành các liên kết kinh tế khu vực với các hình thức đa dạng: EU, FTA, APEC...xu
thế quốc tế hoá đặt ra một yêu cầu tất yếu: Mỗi quốc gia phải mở cửa ra thị trưởng thế
giới và chủ động tham gia vào phân công lao động quốc tế, tham gia vào các tổ chức
quốc tế và khu vực để có được các khuôn khổ phù hợp cho sự phát triển.
II - Tính cấp thiết của đề tài:
“Nếu bạn khơng đủ giỏi, đừng dại đi ngược đám đông”
Tại thời điểm đầu những năm 90 của thế kỉ XX, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở
thành một xu thế của thời đại, diễn ra mạnh mẽ trên nhiều phương diện với sự xuất hiện
của nhiều khối kinh tế, mậu dịch trên thế giới. Đối với một nước kinh tế còn thấp kém,
lạc hậu như Việt Nam tại thời điểm đó, hội nhập kinh tế quốc tế là con đường tối ưu nhất
để rút ngắn khoảng cách với các nước khác trong khu vực và trên thế giới, phát huy
những lợi thế và tìm cách khắc phục hạn chế thơng qua việc học hỏi kinh nghiệm của các
nước. Đây không phải là một mục tiêu nhiệm vụ nhất thời mà là vấn đề mang tính chất
sống cịn đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng như tương lai sau này. Hơn ai hết
Đảng và Nhà nước ta đã nhận ra rằng nếu nước ta đi ngược với xu hướng phát triển
chung của thế giới thì sớm muộn cũng sẽ bị lạc hậu, bị cô lập và bị bỏ lại trên đấu trường

quốc tế.
Nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế, trong suốt thời
gian qua, Đảng đã nhất quán chủ trương phải tăng cường hội nhập sâu rộng vào nền kinh
tế khu vực và thế giới. Cụ thể, tại Đại Hội VI của Đảng (12-1986) đã quyết định tiến
hành đổi mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phải trải qua gẩn năm năm đổi mới, kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta mới bắt đầu vận hành có hiệu quả và đến Đại Hội
1


VII của Đảng (6-1991) tiến hành thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế
rộng rãi và cho đến nay đã không ngừng được mở rộng, bước đầu đưa lại những lợi ích
đáng kể cho đất nước.
Về những khía cạnh liên quan đến vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam, đã có
rất nhiều giáo sư và các nhà kinh tế đã nghiên cứu về vấn đề này. Là một sinh viên đang
theo học một ngôi trường về kinh tế - trường ĐH Kinh tế quốc dân, em cũng rất hứng thú
với tình hình hội nhập và phát triển kinh tế của đất nước cũng như đề tài của bài luận này.
Tuy nhiên vì hiểu biết cịn hạn chế nên có thể sẽ khó tránh khỏi sai sót trong q trình
làm bài luận, vì vậy em kính mong cơ sẽ giúp em khắc phục những sai sót đó để em hồn
thành bài luận tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn.
B. Nội dung:
I – Cơ cở khoa học:
1. Cơ sở lý luận:
a) Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế:
Thực tế thì đến nay vẫn khơng có một định nghĩa nào về khái niệm “hội nhập quốc
tế” giành được sự nhất trí hồn tồn trong giới học thuật và cả giới làm chính sách ở Việt
Nam. Từ các định nghĩa khác nhau nổi lên hai cách hiểu chính.
-

Thứ nhất, cách hiểu hẹp coi “hội nhập quốc tế” là sự tham gia vào các tổ chức quốc tế

và khu vực.

-

Thứ hai, cách hiểu rộng, coi “hội nhập quốc tế” là sự mở cửa và tham gia vào mọi mặt
của đời sống quốc tế, đối lập với tình trạng đóng cửa, cơ lập hoặc ít giao lưu quốc tế.
Cả hai cách hiểu trên về khái niệm “hội nhập quốc tế” đều không đầy đủ và thiếu

chính xác. Các nhà kinh tế cho rằng cách tiếp cận phù hợp nhất là xem xét hội nhập như
là một q trình xã hội có nội hàm tồn diện và thường xuyên vận động hướng tới mục
tiêu nhất định.
Theo đó, hội nhập quốc tế được hiểu như là quá trình các nước tiến hành các hoạt
động tăng cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị,
nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các chuẩn mực quốc
tế chung chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế. Như vậy, khác với
hợp tác quốc tế (hành vi các chủ thể quốc tế đáp ứng lợi ích hay nguyện vọng của nhau,
2


không chống đối nhau), hội nhập quốc tế vượt lên trên sự hợp tác quốc tế thơng thường:
nó địi hỏi sự chia sẻ và tính kỷ luật cao của các chủ thể tham gia.
Hội nhập kinh tế quốc tế bao gồm:
- Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA)
- Khu vực mậu dịch tự do (FTA)
- Liên minh thuế quan (CU)
- Thị trường chung (CM)
- Liên minh kinh tế - tiền tệ (EU)

b) Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế:
-


Thứ nhất, do xu thế khách quan trong bối cảnh tồn cầu hóa kinh tế.
Tồn cầu hóa kinh tế đã lôi cuốn tất cả các nước vào hệ thống phân công lao động

quốc tế, các mối liên hệ quốc tế của sản xuất và trao đổi ngày càng gia tăng, khiến cho
nền kinh tế của các nước trở thành một bộ phận hữu cơ và không thể tách rời nền kinh tế
tồn cầu. Do đó nếu khơng hội nhập kinh tế quốc tế, các nước không thể tự đảm bảo được
các điều kiện cần thiết cho sản xuất trong nước. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra cơ hội để
các quốc gia giải quyết những vấn đề toàn cầu đã và đang xuất hiện ngày càng nhiều, tận
dụng được các thành tựu của cách mạng công nghiệp, biến nó thành động lực cho sự phát
triển.
-

Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phổ biến của các nước,
nhất là các nước đang và kém phát triển trong điều kiện hiện nay.
Khi mà các nước tư bản giàu có nhất, các cơng ty xuyên quốc gia đang nắm trong

tay những nguồn lực vật chất và phương tiện hùng mạnh nhất để tác động lên tồn thế
giới thì chỉ có phát triển kinh tế mở và hội nhập quốc tế mới giúp các nước đang và kém
phát triển tiếp cận và sử dụng triệt để được những năng lực này.
Tuy nhiên điều đáng nói ở đây là chủ nghĩa tư bản hiện đại với ưu thế về vốn và
công nghệ đang ráo riết thực hiện ý đồ chiến lược biến q trình tồn cầu hóa kinh tế
thành q trình tự do hóa kinh tế và áp đặt chính trị theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Bởi
vậy, tất cả cá nước, nhất là các nước đang phát triển đều phải tìm kiếm các đối sách để
thích ứng với q trình tồn cầu hóa đa bình diện và đầy nghịch lý.
3


2. Cơ sở thực tế:
a) Cục diện thế giới thay đổi, hội nhập kinh tế trở thành một tất yếu khách

quan:
* Hội nhập kinh tế quốc tế đối với toàn thể các nước:
Hiện nay, các nước lớn nhỏ đều đều giành ưu tiên cho phát triển kinh tế, theo đuổi
chính sách kinh tế mở. Nay những nước có tiềm năng và thị trường lớn như Trung Quốc,
Nga, Ấn Độ, Mỹ, … và cả một số nước vốn khép kín, phát triển theo mơ hình tự cung tự
cấp cũng dần mở cửa, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Mặt khác, cộng đồng thế giới đang đứng trước những vấn đề tồn cầu mà khơng một
quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết nếu khơng có sự hợp tác đa phương như: vấn đề
ơ nhiễm môi trường, bùng nổ dân số, dịch bệnh hiểm nghèo, tội phạm quốc tế, …
Đứng trước tình hình như vậy, các nước trên thế giới nhận ra cần phải có sự hợp tác
lâu dài và chặt chẽ để cùng nhau phát triển và cùng nhau giải quyết những vấn đề chung
của toàn thể nhân loại. Với phương châm kinh doanh lấy thế giới làm nhà máy, lấy các
nước làm phân xưởng của mình và phân cơng lao động quốc tế hợp lý, các nước đã có thể
lợi dụng tối ưu các nguồn lực chung, giúp thúc đẩy quá trình quốc tế hóa sản xuất phát
triển nhanh chóng. Trong quá trình tồn cầu hóa, khu vực hóa nổi lên xu hướng liên kết
kinh tế dẫn đến sự ra đời, rồi hợp nhất của nhiều tổ chức kinh tế và thương mại, tài chính
quốc tế và khu vực, như Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF),
Ngân hàng thế giới (WB), Liên minh Châu Âu (EU), …
* Hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam và các nước đang phát triển khác:
Lịch sử nhân loại đang từng bước chuyển mình, tồn cầu hóa kinh tế lúc này đã nổi
lên như một xu hướng chủ đạo, gắn kết thế giới trên phương diện những giá trị, những
hoạt động, mơ hình – cấu trúc trong lĩnh vực kinh tế khoa học, kĩ thuật. Trong đó các
nước đang phát triển tham gia với động lực cơ bản là nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu,
tạo mối liên kết thương mại giữa các quốc gia, các khu vực với nhiều hình thức phong
phú, hoạt động có hiệu quả. Cho đến nay, một số quốc gia đang phát triển đã đạt được

4


những tiến bộ vượt bậc, ví dụ như: ở khu vực Đơng Nam Á có Thái Lan, Singapore,

Malaysia,… đã chuyển sang kinh tế xuất khẩu và thu được thành quả tốt.
Mặt khác, hội nhập kinh tế cũng có tác động tích cực đến việc ổn định kinh tế vĩ mơ.
Nhiều quốc gia đang phát triển đã mở cửa thị trường thu hút vốn, một mặt thúc đẩy cơng
nghiệp hóa, một mặt tăng tích lũy từ đó cải thiện mức thâm hụt ngân sách. Ngoài ra hội
nhập kinh tế tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới, và nâng cao mức thu nhập tương đối của
các tầng lớp dân cư.
Chính những mặt thuận lợi này mà hội nhập kinh tế quốc tế có sức mạnh to lớn. Nó
kéo tất cả các quốc gia dù lớn, dù nhỏ, dù giàu, dù nghèo đều bị cuốn vào. Tuy nhiên
trong xu thế đó, các nước công nghiệp phát triển, đứng đầu là Mỹ, do có ưu thế thị
trường, đã ra sức thao túng, chi phối thị trường thế giới, áp đặt điều kiện với những nước
chậm phát triển hơn, thậm chí dùng nhiều biện pháp cực đoan như bao vây cấm vận,
trừng phạt, làm thiệt hại lợi ích của các nước kém phát triển và đang phát triển. Trước
tình hình đó các nước đang phát triển cần tập hợp lại để bảo vệ lợi ích của mình vì một
trật tự kinh tế bình đẳng, công bằng.
Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố gắng chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, một vấn đề bao giờ cũng có hai mặt đối lập. Hội
nhập kinh tế quốc tế mang đến cho Việt Nam rất nhiều thời cơ thuận lợi nhưng cũng đem
lại khơng ít khó khăn thử thách. Nhưng theo chủ trương của Đảng: “VN muốn làm bạn
với tất cả các nước”, nên chúng ta sẽ khắc phục những khó khăn đó để hồn thành sứ
mệnh của mình.

b) Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển của Việt Nam:
* Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế:
Hội nhập kinh tế quốc tế đã giúp Việt Nam cạnh tranh được trên đấu trường kinh tế
thế giới, giúp ta tích lũy được nhiều kinh nghiệm và tận dụng được tất cả các nguồn lực
để phát triển đất nước. Cụ thể là:

5



-

Thúc đẩy thương mại phát triển, tận dụng được lợi thế trong phân công lao dộng quốc
tế, phục vụ tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và chuyển đổi mô hình tăng trưởng
sang chiều sâu với hiệu quả cao.

-

Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hình thành lĩnh vực kinh tế mũi nhọn, góp phần
cải thiện mơi trường kinh doanh, thu hút được khoa học công nghệ hiện đại và đầu tư
nước ngồi.

-

Nâng cao trình độ khoa học và nguồn nhân lực trong nước, tiếp thu công nghệ mới
thông qua đầu tư trực tiếp và chuyển giao công nghệ từ nước ngoài.

-

Tăng cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế cùng với phương thức quản trị phát triển đối
với doanh nghiệp trong nước, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế.

-

Cải thiện tiêu dùng trong nước, tăng cơ hội giao lưu nguồn nhân lực giữa Việt Nam và
các nước khác.

-

Giúp các nhà hoạch định nắm bắt tình hình và xu thế phát triển của thế giới tốt hơn, từ

đó dễ dàng đề ra chính sách phát triển phù hợp cho đất nước.

-

Hội nhập kinh tế quốc tế là tiền đề cho hội nhập văn hóa, giúp tiếp thu tinh hoa thế
giới và làm giàu thêm văn hóa dân tộc, thúc đẩy tiến bộ xã hội.

-

Hội nhập kinh tế quốc tế cịn tác động mạnh đến hội nhập chính trị, tạo điều kiện cho
cải cách toàn diện.

-

Tạo điều kiện để các nước nhận rõ vị trí của mình trong trật tự quốc tế.

-

Giúp đảm bảo an ninh trong nước và quốc tế, mở ra khả năng phối hợp để cùng giải
quyết các vấn đề chung của toàn nhân loại.

* Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế:
Bên cạnh những lợi ích trên, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đem lại khá nhiều rủi ro
và thách thức:

6


-


Hội nhập làm gia tăng cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh nghiệp và ngành kinh tế
gặp khó khăn, thậm chí là phá sản, gây nhiều hậu quả về mặt kinh tế-xã hội.

-

Làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế trong nước vào thị trường bên ngoài, khiến
nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động của thị trường quốc tế.

-

Hội nhập không phân phối công bằng lợi ích và rủi ro cho các nước và các nhóm khác
nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm tăng khoảng cách giàu-nghèo.

-

Trong quá trình hội nhập, các nước đang phát triển phải đối mặt với nguy cơ chuyển
dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng tập trung vào các ngàng sử dụng
nhiều tài nguyên, nhiều sức lao động, nhưng có giá trị gia tăng thấp. Do vậy, họ dễ trở
thành bãi rác thải công nghiệp và công nghệ thấp, bị cạn kiệt nguồn tài ngun thiên
nhiên và hủy hoại mơi trường.

-

Hội nhập có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhà nước và phức tạp đối
với việc duy trì an ninh và ổn định ở các nước đang phát triển.

-

Làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống bị xói mịn trước sự
“xâm lăng” của văn hóa nước ngồi.


-

Hội nhập có thể đặt các nước trước nguy cơ gia tăng của tình trạng khủng bố quốc tế,
buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp…

Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế vừa có khả năng tạo ra những cơ hội thuận lợi, vừa
có thể dẫn đến những nguy cơ khó lường. Tuy nhiên, khơng phải cứ hội nhập là sẽ
nghiễm nhiên được hưởng tồn bộ lợi ích cũng như gánh mọi hậu quả mà nó đem lại.
Trên thực tế thì một nước tham gia hội nhập được hưởng gì và phải gánh chịu gì hồn
tồn phụ thuộc vào năng lực và nguồn lực của quốc gia. Phần tiếp theo của bài tiểu luận
sẽ đề cập đến những thành tựu và thách thức mà Việt Nam gặp phải sau khi tiến hành hội
nhập kinh tế quốc tế.

II – Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay:

7


1. Hành trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam:
Sau 35 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới, đất nước ta đã từng bước hội nhập vào nền
kinh tế khu vực và thế giới, mở rộng và làm sâu sắc hơn quan hệ với các nước, tham gia
tích cực và có trách nhiệm tại các diễn đàn, tổ chức quốc tế. Chủ trương hội nhập kinh tế
quốc tế của Đảng và Nhà nước được hiện thực hóa một cách sinh động:
-

Trước hết, Việt Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế với hàng loạt quốc gia và khu
vực, nối lại các quan hệ với các nước lớn: Trung Quốc, Hoa Kỳ, kết quả Chính phủ
Mỹ tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam năm 1994, Tổng thống Mỹ tun
bố chính thức bình thường hóa quan hệ với Việt Nam năm 1995, tháng 7/2000, ký

Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Khai thông và phát triển quan hệ với Nhật
Bản và năm 1992 Chính phủ Nhật nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam,…

-

Về quan hệ hợp tác song phương, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hầu
hết các nước trong tổ chức Liên hiệp quốc và có quan hệ kinh tế - thương mại, xuất
khẩu hàng hoá tới trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên 90
Hiệp định thương mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư,
54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hóa song
phương với các nước và các tổ chức quốc tế.

-

Về hợp tác đa phương và khu vực: Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các tổ
chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), Quỹ tiền tệ thế
giới (IMF), Ngân hàng thế giới (WB).

-

Ngày 25/7/1995, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN và tham
gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Từ 1/1/1996 bắt đầu thực hiện nghĩa vụ
và các cam kết trong chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của
AFTA. Ngồi ra Việt Nam cịn tham gia đàm phán các hiệp định, chương trình như:
Hiệp định về thương mại, dịch vụ, chương trình hợp tác trong các lĩnh vực giao thông,
nông nghiệp...

-

Tháng 3/1996, Việt Nam là thành viên sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM),

nội dung chủ yếu là tập trung vào quá trình tự do hóa thương mại, đầu tư và hợp tác
giữa các nhà doanh nghiệp Á - Âu.

8


-

Ngày 15/6/1996, Việt Nam gửi đơn xin gia nhập Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á Thái Bình Dương (APEC). Tháng 11/1998 được cơng nhận chính thức là thành viên
của tổ chức này.

-

Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có một bước đi quan
trọng khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO vào ngày 11/1/2007 sau
11 năm đàm phán gia nhập Tổ chức này. Với việc gia nhập WTO, Việt Nam đã tiến
hành nhiều cải cách chính sách kinh tế, thương mại, đầu tư đồng bộ, theo hướng minh
bạch và tự do hóa hơn, góp phần quan trọng cho việc xây dựng một nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

-

Điểm nổi bật hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam là tháng 10/2015 Việt Nam đã
hoàn tất đàm phán để ký kết Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) vào
tháng 02/2016. Việc tham gia vào Hiệp định TPP sẽ giúp Việt Nam nắm bắt và tận
dụng tốt hơn các cơ hội do quá trình hội nhập kinh tế khu vực đem lại, đồng thời Việt
Nam có thêm điều kiện, tranh thủ hợp tác quốc tế để phục vụ chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, triển khai chiến lược hội nhập quốc tế nói chung và chiến lược đối
ngoại ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói riêng.


-

Trong những năm gần đây, thế giới đang được chứng kiến sự gia tăng nhanh chóng
của các Hiệp định thương mại tự do để thiết lập các Khu vực thương mại tự do. Phù
hợp với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế của thế giới và khu vực, tiến trình đàm
phán và ký kết các FTA của Việt Nam đã được khởi động và triển khai cùng với tiến
trình gia nhập các tổ chức quốc tế và khu vực. Tính đến nay, Việt Nam đã tham gia
tổng cộng 16 hiệp định FTA, và đang đàm phán 2 FTA khác, trong đó năm 2020 có
thơng qua FTA thế hệ mới Hiệp định Thương mai Tự do Việt Nam – EU (EVFTA6/2020), Hiệp định Thương mại Tự do giữa Việt Nam và Vương quốc Anh
(UKVFTA-12/2020) và Hiệp định Đối tác Kinh tế Tồn diện Khu vực (RCEP 11/2020) sắp có hiệu lực.

2. Những thành tựu và thách thức:
a) Những thành tựu:

9


Việc tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực đã tạo điều kiện
cho sự phát triển nhanh chóng của Việt Nam. Các cơ hội hội nhập được Việt
Nam tận dụng triệt để, sớm đã trở thành bệ đỡ giúp nền kinh tế phát triển và sánh vai với
các cường quốc năm châu.
* Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần mở rộng thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam:
Nội dung của hội nhập là mở cửa thị trường cho nhau, vì vậy, khi Việt Nam gia nhập
các tổ chức kinh tế quốc tế sẽ mở rộng quan hệ bạn hàng. Cùng với việc được hưởng ưu
đãi về thuế quan, xoá bỏ hàng rào phi thuế quan và các chế độ đãi ngộ khác đã tạo điều
kiện cho hàng hoá của Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới.
Chỉ tính trong phạm vi khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) kim ngạch xuất
khẩu của các nước thành viên cũng đã tăng đáng kể. Sau 25 năm gia nhập và trở thành
thành viên chính thức,thương mại giữa Việt Nam và ASEAN đã có bước phát triển mạnh
mẽ và thực chất, theo như biểu đồ dưới đây, là từ vài tỷ USD lên tới hàng chục tỷ USD.


10


11


Kết thúc năm đầu tiên là thành viên của tổ chức này, thương mại giữa Việt Nam với
các nước trong khu vực đạt 3,3 tỷ USD. 25 năm sau, kết thúc năm 2019, tổng kim ngạch
đạt tới hơn 57 tỷ USD, gấp hơn 17 lần so với năm 1995. Riêng khu vực ASEAN chiếm
9,4% kim ngạch xuất khẩu và 12,7% kim ngạch nhập khẩu của cả nước. Năm 2020 là
một năm đầy khó khăn, do ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19, hoạt động xuất nhập
khẩu giữa Việt Nam và khu vực ASEAN nằm trong tác động chung và chịu tăng trưởng
âm. Tuy vậy, so với tình hình kinh tế chung thế giới, mức tăng trưởng trên vẫn là điểm
sáng và là tiền đề quan trọng để nền kinh tế vững bước vào năm 2021.
Tính từ khi gia nhập WTO năm 2007 đến nay, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu nước
ta đã tăng gần 5 lần, từ 111,2 tỷ USD lên đến 543,9 tỷ USD. Tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu hàng hóa năm 2020 tăng 5,1% so với năm trước, trong đó kim ngạch xuất khẩu
hàng hóa đạt 281,5 tỷ USD, tăng 6,5%; nhập khẩu hàng hóa đạt 262,4 tỷ USD, tăng
3,6%. Đặc biệt, cán cân thương mại hàng hóa năm 2020 ước tính xuất siêu 19,1 tỷ USD,
giá trị xuất siêu lớn nhất từ trước đến nay.
* Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần tăng thu hút đầu tư nước ngồi, viện
trợ phát triển chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế:
-

Thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Từ khi bắt đầu mở cửa đối với đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) và các cải cách trong nước khác, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tích
cực. Theo Cục Đầu tư nước ngồi, lũy kế đến ngày 20/12/2020, cả nước có 33.070 dự
án cịn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký là 384 tỷ USD; vốn thực hiện lũy kế của các dự
án đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 231,86 tỷ USD, bằng 60,4% tổng vốn đầu tư

đăng ký còn hiệu lực.
Theo địa phương, FDI đã có mặt ở tất cả 63 tỉnh, thành phố, trong đó TP. Hồ Chí
Minh là địa phương dẫn đầu thu hút FDI; tiếp theo là Hà Nội; Bình Dương.
Theo đối tác đầu tư, đến thời điểm 20/12/2020, có 137 quốc gia, vùng lãnh thổ có dự
án đầu tư cịn hiệu lực tại Việt Nam. Trong đó, đứng đầu là Hàn Quốc với tổng vốn
đăng ký gần 70,6 tỷ USD; Thứ hai là Nhật Bản (60,3 tỷ USD). Các nước, vùng lãnh
thổ tiếp theo là Singapore và Đài Loan, Hồng Kông. Riêng Trung Quốc đại lục trong
5 năm gần đây đứng thứ 7.

12


-

Viện trợ phát triển ODA: Khảo sát từ năm 1993 (thời điểm Việt Nam chính thức
bình thường hố quan hệ với các nước trên thế giới) đến nay, nguồn vốn ODA đã trở
thành nguồn vốn nước ngồi có ý nghĩa quan trọng góp phần to lớn vào q trình phát
triển kinh tế-xã hội ở Việt Nam. Tính chung cả giai đoạn 1993-2020, thơng qua 20
Hội nghị Nhóm các nhà tài trợ cho Việt Nam và 7 Diễn đàn Đối tác phát triển Việt
Nam, cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế đã cam kết cung cấp nguồn vốn ODA cho Việt
Nam lên đến 78,2 tỷ USD (trong đó: các khoản viện trợ khơng hồn lại là 11,647 tỷ
USD, chiếm 14,9% tổng số vốn; các khoản vay ưu đãi với 66,553 tỷ USD, chiếm
85,1% tổng vốn cam kết). Tuy nhiên, vấn đề quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA
còn bộc lộ nhiều yếu kém, nhất là tình trạng giải ngân chậm và việc nâng cao hiệu quả
của việc sử dụng nguồn vốn ODA.

-

Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần giải quyết tốt vấn đề nợ Việt Nam: Trong
những năm qua nhờ phát triển tốt mối quan hệ đối ngoại song phương và đa phương,

các khoản nợ nước ngoài cũ của Việt Nam về cơ bản đã được giải quyết thông qua câu
lạc bộ Paris, London và đàm phán song phương. Điều đó góp phần ổn định cán cân
thu chi ngân sách, tập trung nguồn lực cho các chương trình phát triển kinh tế xã hội
trong nước.

*Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho ta tiếp thu khoa học công
nghệ tiên tiến, quản lý, đào tạo và giáo dục đều được nâng cao.
-

Trong những năm qua, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, nhất là công nghệ

thông tin và viễn thông phát triển mạnh làm thay đổi bộ mặt kinh tế thế giới và đã tạo
điều kiện để Việt Nam tiếp cận và phát triển mới này. Sự xuất hiện và đi vào hoạt
động của nhiều khu công nghiệp mới và hiện đại như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Vĩnh
Phúc, Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phịng...và những xí nghiệp liên doanh trong
ngành cơng nghệ dầu khí đã chứng minh điều đó.
-

Lĩnh vực y tế được đầu tư, cải thiện cả về vật chất và trình độ y bác sĩ.Việt Nam là

một trong số ít quốc gia có hệ thống y tế hồn chỉnh, tổ chức rộng khắp tới tận thôn,
bản; làm chủ được nhiều kỹ thuật công nghệ cao mang tầm thế giới như: ghép chi,
tim, gan, thận...; kiểm soát được nhiều dịch bệnh nguy hiểm, trong đó có Covid-19;
chủ động sản xuất được nhiều loại vắcxin phòng bệnh, mới đây nhất là vắcxin phòng
Covid-19.
13


-


Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần khơng nhỏ vào công tác đào tạo và bồi

dưỡng đội ngũ cán bộ trong nhiều lĩnh vực. Phần lớn cán bộ khoa học kĩ thuật, cán bộ
quản lý, các nhà kinh doanh đã được đào tạo ở trong và ngoài nước. Bởi mỗi khi liên
doanh hay liên kết hay được đầu tư từ nước ngồi thì từ người lao động đến các nhà
quản ký đều được đào tạo tay nghề, trình độ chun mơn được nâng cao. Chỉ tính
riêng trong các cơng trình đầu tư nước ngồi đã có khoảng 30 vạn lao động trực tiếp,
600 cán bộ quản lý và 25000 cán bộ khoa học kĩ thuật đã được đào tạo. Trong lĩnh
vực xuất khẩu lao động tính đến năm 1999 Việt Nam đã đưa 7 vạn người đi lao động
ở nước ngồi.
-

Giáo dục của Việt Nam đã có bước phát triển đáng kể trên cơ sở tiếp thu những

thành tựu văn minh của nhân loại. Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển, cơ sở vật
chất được nâng cao, chất lượng đào tạo từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân
lực. Nhiều chương trình và các cuộc thi nghiên cứu khoa học cho học sinh, sinh viên
được đầu tư và tổ chức. Trong hành trình 75 năm xóa mù chữ của mình, hội nhập một
phần đã giúp Việt Nam đạt được con số 99,65% tỷ lệ người trong độ tuổi từ 15 – 69
biết chữ, tỷ lệ học sinh đi học và hồn thành chương trình tiểu học sau 5 năm đạt
92,08%, đứng ở tốp đầu của khối ASEAN. Hiện nay Việt Nam cịn đang có 4 cơ sở
giáo dục đại học được vào top 1.000 trường đại học tốt nhất thế giới.
* Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội mở rộng giao lưu các nguồn lực nước ta với các
nước, tạo cơ hội việc làm và động lực xóa đói giảm nghèo:
Với dân số khoảng 90 triệu người, nguồn nhân lực nước ta khá dồi dào. Nhưng nếu
chúng ta không hội nhập quốc tế thì việc sử dụng nhân lực trong nước sẽ bị lãng phí và
kém hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội để nguồn nhân lực của nước ta khai
thơng, giao lưu với các nước. Ta có thể thông qua hội nhập để xuất khẩu lao động hoặc có
thể sử dụng lao động thơng qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu, đồng
thời tạo cơ hội để nhập khẩu lao động kĩ thuật cao, các công nghệ mới, các phát minh

sáng chế mà ta chưa có.
Nhờ vào nỗ lực và sự năng động của người dân khi có động lực của kinh tế thị
trường, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm nhanh chóng từ 58,1% năm 1993 xuống còn 2,75% năm
2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều).

14


* Hội nhập giúp hoạt động giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa với khu vực và quốc tế
được mở rộng:
Giao lưu văn hóa đang từng bước mở rộng, phát triển theo chiều sâu, mang tính ổn
định, bền vững, góp phần giới thiệu, quảng bá, tơn vinh văn hóa Việt Nam, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại. Các hoạt động văn hóa đối ngoại và thơng tin đối ngoại có bước
phát triển mới, nhất là các chương trình phát thanh và truyền hình Việt Nam ở nước
ngồi, tổ chức các tuần lễ văn hóa Việt Nam ở nước ngồi, tuần lễ văn hóa nước ngồi tại
Việt Nam và giao lưu hợp tác trong biểu diễn nghệ thuật, trong lĩnh vực điện ảnh, sân
khấu, thể thao được tăng cường.
* Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần duy trì hồ bình ổn định, hồn thiện hệ thống chính
trị, tạo dựng mơi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, nâng cao vị trí của VN trên
trường quốc tế nâng cao vị trí Việt Nam trên trường quốc tế.
Trước đây VN chủ yếu xây dựng mối quan hệ với Liên Xô và các nước Đông Âu.
Hiện nay Việt Nam thiết lập mối quan hệ ngoại giao hầu hết với các nước trên thế giới,
hiện Việt Nam cũng là thành viên của các tổ chức lớn trên thế giới như: ASEAN, WTO,
APEC…… Chính vì thế mà hệ thống chính trị trong nước ngày càng được ổn định, uy tín
của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Tiến trình hội nhập của nước
ta ngày càng sâu rộng thì càng địi hỏi phải hồn thiện hệ thống pháp luật kinh theo thông
lệ quốc tế, thực hiện công khai, minh bạch các thiết chế quản lý làm cho môi trường kinh
doanh của nước ta ngày càng được cải thiện; thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo
đảm cho tiến trình cải cách của nước ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn tạo ra động lực lớn


15


thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ngày càng
vững mạnh.
Nhìn chung, hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những động lực quan trọng để
thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, góp phần vào tăng trưởng GDP nước ta đạt
mức cao và khá ổn định trong 35 năm qua. Hội nhập quốc tế cũng là xúc tác đẩy mạnh tái
cơ cấu kinh tế, đổi mới mơ hình tăng trưởng gắn với phát triển bền vững, nâng cao năng
lực cạnh tranh quốc gia.

b) Những thách thức:
Mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đưa lại những lợi ích mà cịn đặtnước ta
trước nhiều thử thách.
* Sức ép cạnh tranh trên thị trường quốc tế:
Là một nước đang phát triển có trình độ kinh tế thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu
kém và bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé, sức cạnh tranh của
hàng hóa, dịch vụ nói riêng và của tồn bộ nền kinh tế nói chung cịn nhiều hạn chế, hệ
thống chính sách kinh tế, thương mại chưa hồn chỉnh, nước ta sẽ gặp khó khăn lớn trong
cạnh tranh cả ở trong nước cả trên trường quốc tế ở 3 cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp và
quốc gia.
-

Sản phẩm: Thực tế cho thấy, tâm lý sính ngoại của người tiêu dùng Việt vẫn cịn

khá phổ biến, trong khi đó khơng ít sản phẩm Việt chưa chinh phục được khách hàng
bằng chất lượng. Chính vì vậy, với việc giảm thuế đối với số lượng lớn hàng nhập
khẩu từ EU do thỏa thuận trong Hiệp định EVFTA, nhiều mặt hàng tại các siêu thị của
Việt Nam đang bị cạnh tranh gay gắt. Tại siêu thị Big C, táo Gala, táo Delicious
(Pháp) giá chỉ 35.900 đồng/kg, có khi giảm chỉ cịn 29.900 đồng/kg, được tiêu thụ khá

mạnh. Tại các hệ thống siêu thị, các cửa hàng chuyên bán hàng nhập khẩu, rất nhiều
thương hiệu sữa tươi từ EU cạnh tranh gay gắt trên thị trường như: Sữa tươi Silena
(Pháp) giá 29.000 đồng/hộp 1L, sữa tươi Mlekovita (Ba Lan) giá 26.000 đồng/hộp
1L… giá này bằng hoặc thấp hơn sản phẩm cùng loại sản xuất trong nước…
-

Doanh nghiệp:

+ Thứ nhất: đối mặt với nguy cơ rủi ro kinh tế, tình trạng phá sản doanh nghiệp luôn
hiện hữu do thực hiện những cam kết của một thành viên WTO, nhất là việc phải
16


cắt giảm mạnh thuế nhập khẩu, mở cửa sâu rộng về kinh tế. Quy mô sản xuất của
doanh nghiệp Việt Nam có đến 96% là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, không thể
cạnh tranh được với các ông lớn khác trên thị trường hội nhập.

+ Thứ hai: trong hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta cịn nhiều khó khăn về cơ chế bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ như nhãn hiệu thương mại, bản quyền tác giả, bảo vệ thiết
kế công nghiệp
VD: 44.500 doanh nghiệp phá sản, giải thể từ đầu năm 2014, tăng 12,9% so với cùng kỳ
năm trước. Chính vì liên tiếp gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh nên đến một
giai đoạn nào đó khơng kham nổi, buộc doanh nghiệp phải rút lui khỏi thị trường hoặc
một số doanh nghiệp chọn phương án chuyển nhượng thương hiệu cho các tập đồn
đa quốc gia. Cơng ty Tribico (thành lập năm 1992), mới đây chuyển quyền sở hữu cho
Uni President (Đài Loan), phở 24 (thành lập năm 2003) là phở Việt chính hiệu với 60
chi nhánh trong nước và 20 chi nhánh ở châu Á nhưng hiện nay lại do công ty
JolliBee (Philippines) là chủ. Nhiều sản phẩm khác như: Cà phê Trung Nguyên
(Trung quốc), thuốc lá VINATABA (Indo), Petro Vietnam, kẹo dừa Bến Tre (Trung
Quốc) cà phê Buôn Ma Thuật, Đắk Lắk (Pháp), nước mắm Phan Thiết (Mỹ), …dần

dần đã chuyển giao công nghệ và thương hiệu cho các tập đoàn đa quốc gia nhằm
tránh những khó khăn trong tình hình kinh tế khủng hoảng và nhiều biến động như
hiện nay.

17


-

Quốc gia: Xếp hạng năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam do Diễn đàn Kinh
tế Thế giới (WEF) công bố năm 2019, mặc dù đã tăng 10 hạng so với 2018, Việt Nam
vẫn nằm ở mức rất khiêm tốn so với các nước ASEAN

Môi trường kinh doanh dù vẫn giữ hạng 5 trong ASEAN nhưng chỉ đạt hạng 69/190
trên bảng xếp hạng quốc tế, tụt 1 hạng so với 2018. Hơn nữa, với sự cách biệt chỉ số
ngày càng nhiều, mục tiêu đưa Việt Nam vào ASEAN – 4 hiện nay có lẽ sẽ ngày càng
thách thức hơn.

* Gia tăng phụ thuộc nước ngoài:
Trong quá khứ, chúng ta phải đối mặt với suy thoái kinh tế bắt nguồn từ Mỹ (năm
2007) làm cho tình hình kinh tế trở nên tồi tệ, dẫn đến FDI (vốn đầu tư trực tiếp nước
ngồi) giảm khoảng 70%.
Cịn hiện nay, dịch Covid-19 bùng phát đã phơi bày những điểm yếu cố hữu của
kinh tế Việt Nam là sự quá phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc, khi mà rất nhiều ngành
công nghiệp chế biến, chế tạo đang đứng trước nguy cơ rất lớn thiếu hụt nguồn cung
nguyên liệu do phần lớn nguyên liệu đều là nhập từ Trung Quốc, thậm chí tổng kim
18


ngạch nhập khẩu các mặt hàng dệt may, da giày từ Trung Quốc chiếm những 47,74%

tổng kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng này của Việt Nam.
* Sự phân phối lợi ích khơng đồng đều làm tăng khoảng cách giàu nghèo:
Xét trên phạm vi tồn cầu, q trình hội nhập kinh tế đã và đang làm tăng thêm sự
phân hoá giàu nghèo giữa hai nhóm nước: phát triển và đang phát triển. Hiện nay các
nước phát triển đang nắm giữ 3/4 sức sản xuất của toàn thế giới, 3/4 phân ngạch mậu dịch
quốc tế, là nơi đầu tư và thu hút chủ yếu các luồng vốn FDI (năm 1999 trong 827 tỷ USD
tổng vốn FDI của thế giới, các nước phát triển chiếm 609 tỷ USD, riêng EU gần 300 tỷ
USD, Mỹ gần 200 tỷ USD). Các Công ty xuyên quốc gia lớn nhất thế giới, các công nghệ
hiện đại nhất, các phát minh, sáng chế, bí quyết và các sản phẩm chất xám khác cũng chủ
yếu nằm ở các nước phát triển. Ngoài ra, WTO, IMF, WB... đều nằm dưới sự chi phối của
các nước phát triển, đứng đầu là Mỹ. Với những sức mạnh kinh tế to lớn như vậy, các
nước phát triển đang chi phối nền kinh tế tồn cầu và các nước đang phát triển thì ngày
càng bị nghèo đi so với tốc độ giàu nhanh của các nước phát triển. Năm 1998, 24 quốc
gia phát triển chiếm khoảng 17% dân số thế giới thì chiếm tới 79% giá trị tổng sản lượng
kinh tế quốc dân; còn các nước đang phát triển chiếm 83% dân số thế giới thì chỉ chiếm
21% giá trị tổng sản lượng kinh tế quốc dân toàn thế giới.
Xét trên phạm vi nước Việt Nam, nước ta đang dần chuyển đổi cơ cấu kinh tế một
cách bền vững, nhưng người hưởng lợi nhiều hơn lại là tầng lớp giàu có, trong khi khối
nông nghiệp và sản xuất chỉ được hưởng lợi 10-20%. Theo số liệu từ World Bank, chỉ số
Gini (chỉ số đo chênh lệch thu nhập của các tầng lớp xã hội trong một quốc gia) của Việt
Nam đã tăng từ 35,7% lên 38,7% trong 20 năm, từ 1992 tới 2012. Điều đó đã thể hiện
hầu hết các nước đang phát triển đều bị gia tăng khoảng cách giàu nghèo trong q trình
hội nhập. Theo biểu đồ dưới đây, có thể nói nhóm giàu đang ngày càng bỏ xa các nhóm
cịn lại về thu nhập.

19


* Nguy cơ trở thành “bãi thải công nghiệp và công nghệ thấp”
Theo PGS. TS Trương Mạnh Tiến (Chủ tịch Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam),

bước vào cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0, Việt Nam có nguy cơ trở thành bãi rác công
nghệ của thế giới.
-

Theo Tổng cục Hải quan, lượng phế thải nhựa nhập khẩu tăng 200% trong năm

2018. Có khoảng 8.000 container giấy, nhựa phế liệu, trong đó 1/3 là hàng tồn trên 90
ngày khiến cảng Cát Lái (TP HCM) quá tải; chưa kể khoảng 5.000 container phế liệu
giấy, nhựa phế liệu đã lên tàu và đang hướng về các cảng Việt Nam. Trong bối cảnh
Trung Quốc đã ngừng nhập khẩu phế liệu thì mối lo trên dường như càng có cơ sở,
khi nguồn phế liệu này có thể được chuyển vào các nước trung chuyển như Việt Nam.
-

Đến năm 2019, cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung diễn biến phức tạp và có nguy

cơ kéo dài, buộc Trung quốc phải gấp rút thay thế những công nghệ cũ và phát triển
công nghệ mới, dẫn tới thực tế các thế hệ cơng nghệ thải phải tìm cách đi sang các
quốc gia khác kém phát triển hơn, trong đó có Việt Nam. Cùng thời điểm đó, Tổng
cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ghi nhận sự gia tăng đột biến dịng đầu tư
nước ngồi từ Trung Quốc vào Việt Nam với tổng vốn đầu tư đứng đầu là 5,3 tỷ USD,
Trung Quốc cũng đứng vị trí thứ ba với tổng vốn đầu tư đăng ký 2,29 tỷ USD, chiếm
12,4% tổng vốn đầu tư… Theo các chuyên gia kinh tế nhận định, nếu nước ta không
tỉnh táo lựa chọn dòng đầu tư chất lượng, khả năng nước ta phải đối mặt với nguy cơ
trở thành bãi thải công nghệ là rất cao.

20


* Hội nhập kinh tế quốc tế ảnh hưởng đến bản sắc văn hóa, an ninh quốc gia và quyền
độc lập tự chủ của Việt Nam:

- Trên lĩnh vực văn hóa, q trình hội nhập quốc tế đặt nước ta trước nguy cơ bị các
giá trị ngoại lai (trong đó có lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền), nhất là các giá
trị văn hoá phương Tây xâm nhập ồ ạt, làm tổn hại bản sắc văn hoá dân tộc. Nguy
cơ nói trên lại càng tăng gấp bội khi một siêu cường nào đó tự xem giá trị văn hố của
mình là ưu việt, từ đó nảy sinh thái độ ngạo mạn và ý đồ áp đặt các giá trị của mình
cho các dân tộc khác bằng một chính sách có thể gọi là xâm lược văn hố với nhiều
biện pháp trắng trợn tinh vi.
- Trên lĩnh vực an ninh quốc gia, các nguy cơ đe doạ an ninh ngày càng phức tạp
hơn, bên cạnh các hiểm hoạ mang tính truyền thống, đã xuất hiện các nguy cơ phi
truyền thống (an ninh môi trường, dịch bệnh, khủng bố...). Vấn đề gắn an ninh, quốc
phòng với kinh tế và an ninh, quốc phòng với đối ngoại trở thành nhiệm vụ vừa cơ
bản vừa cấp bách hiện nay của nước ta.
-

Trên lĩnh vực chính trị, đã xuất hiện những mưu đồ lấy sự phụ thuộc lẫn nhau giữa

các nước để hạ thấp chủ quyền quốc gia; áp đặt các giá trị dân chủ và nhân quyền
phương Tây trong quan hệ quốc tế, đưa ra thuyết "nhân quyền cao hơn chủ quyền",
đặt điều kiện để có “thỏa thuận”, “hợp tác” thì ta phải “cải cách”, “đổi mới”; phải thay
thế chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh bằng hệ tư tưởng dân chủ tư sản;
địi Nhà nước xóa bỏ Điều 4 của Hiến pháp và một số điều về an ninh quốc gia trong
Bộ luật Hình sự hiện hành; địi thực hiện tự do báo chí, tự do ngơn luận theo tiêu chí
phương Tây... nhằm tạo nên những tiền đề gây mất ổn định chính trị, mất độc lập, tự
chủ của đất nước.
Hiện nay, để đất nước phát triển, tất yếu cần tăng cường hội nhập quốc tế. Thế
nhưng, bất cứ một nguồn vốn viện trợ nào, dù ODA hay FDI, cũng sẽ kèm theo những
điều kiện. Giữ vững chủ quyền quốc gia chính là việc biết chấp nhận những điều kiện
đó đồng thời hạn chế tối đa những tác động tiêu cực của chúng. Sẽ khơng có chủ nợ
nào khơng đưa ra những điều kiện có lợi cho họ, nhưng cũng khơng có chủ nợ nào lại
muốn cho một con nợ không biết cách sử dụng hiệu quả đồng vốn vay. Những “luật

chơi” đa phương hiện nay ngày càng phức tạp, và thậm chí, tạo rất nhiều kẽ hở bất lợi
cho các nước đang phát triển. Vì thế, cần có sự hiểu biết thấu đáo về các cơ chế quốc
tế khi tham gia.
21


×