Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.88 KB, 16 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương I: Phần mở đầu
Đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động
nào đó nhắm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn đã
bỏ ra để đạt được kết quả đó .
Như vậy nhân tố quan trọng tạo nên sự tăng trưởng, phát triển kinh tế của
mỗi quốc gia là đầu tư. Mục tiêu của mọi quốc gia, của mọi nền sản xuất xã hội
đều là tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Do đó đầu tư luôn là một vấn đề
quan trọng và quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển
kinh tế- xã hội của mình. Việt Nam cũng không nằm ngoài qui luật đó. Trong
giai đoạn hiện nay, Việt Nam một đất nước đang từng bước chuyển mình từ cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN, đang tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì đầu tư lại càng đóng
vai trò quan trọng. Trong quá trình này việc huy động mọi nguồn lực trong nước
và sử dụng có hiệu quả, cùng với việc tận dụng, thu hút những nguồn lực từ bên
ngoài cho phát triển kinh tế – xã hội là yếu tố quyết định sự thành công của
chúng ta.
Với một vấn đề lớn như đầu tư trong phạm vi bài viết này tôi chỉ xin đề
cập đến vấn đề đầu tư trực tiếp nước ngoài ( Freign Direct Investment ) gọi tắt
theo tiếng Anh là FDI và vai trò của FDI đối với việc thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế ở Việt Nam.
Chương II: Phần nội dung
I. Lý thuyết chung về FDI.
1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
a. Khái niệm.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hình thức đầu tư quốc tế mà trong đó
người bỏ vốn và người sử dụng vống là một chủ thể, có nghĩa là các doanh
nghiệp, các cá nhân người nước ngoài (chủ đầu tư) trực tiếp tham gia vào quá
trình quản lý, sử dụng vốn đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư nhằm thu hồi
đủ số vốn đã bỏ ra.
b. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài.


b.1. Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Là hình thức đầu tư trong đó các bên tham gia hợp đồng ký kết thoả
thuận để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước nhận
đầu tư trên có sở quy định rõ đối tượng, nội dung kinh doanh, nghĩa vụ, trách
nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho các bên tham gia.
b.2. Doanh nghiệp liên doanh.
Do các bên nước ngoài và nước chủ nhà cùng góp vốn, cùng kinh doanh,
cùng hưởng lợi và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn. Doanh nghiệp liên doanh
được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp
nhân theo luật pháp trước nhận đầu tư.
b.3. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
2
Là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc
cá nhân người nước ngoài) do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ
nhà, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh .
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập theo hình thức các
công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo luật pháp nước chủ nhà.
2. Vai trò của FDI với việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế
ICOR (Investrnent Copital Output Rate) là chỉ tiêu tổng hợp cho phép
đánh giá hiệu quả đầu tư của một nền kinh tế được tính toán trên cơ sở so sánh
đầu tư với chức tăng trưởng kinh tế hàng năm.
Đầu tư toàn xã hội so với GDP
ICDR =
Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm
Về phương diện lý thuyết, khi hệ số ICOR càng thấp, chứng tỏ nền kinh
tế càng có hiệu quả, vốn đầu tư bỏ ra tuy ít nhưng tăng tỷưởng kinh tế đã đạt
mức cao theo mong muốn. Tuy nhiên, trên thực tế ICOR còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác như nền kinh tế đang ở trong giai đoạn phát triển nào đã công
nghiệp hoá chưa? Đó là nền kinh tế “đóng” hay “mở”? Mức độ tác động của bối
cảnh quốc tế ra sao? Chất lượng quản lý Nhà nước trong đầu tư cao hay thấp?

Đối với những nền kinh tế đang ở trong giai đoạn CNH- HĐH thông
thường một hệ số ICOR cao (dưới 10) phản ánh thực tế đã có sự tuỳ tiện trong
khâu lựa chọn dự án và quyết định đầu tư, thiếu những kinh toán cụ thể về khả
năng sinh lời hoặc khả năng hoàn vốn của dự án.
3
Khi hệ số ICOR vượt quá 10 thì đã có sai lầm lớn trong khâu xét duyệt và
quyết định đầu tư. Đó là những khoản đầu tư không hiệu quả, không thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế .
Ngoài ra khi xem hệ quả của công thức tính ICOR ta còn có thể dự đoán
được tiềm năng tăng trưởng kinh tế và dự báo tổng mức vốn đầu tư khi cần thiết
cho một giai đoạn phát triển.
Đối với những nước mà tỷ lệ huy động vốn từ nội bộ nền kinh tế đất nước
còn thấp thì vai trò của vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là FDI có vai trò quan
trọng.
Với vốn đầu tư trực tiếp (FDI) nước nhận đầu tư không phải lo trả nợ, lại
có thể dễ dàng có được công nghệ (do người đầu tư mang vào góp vốn) học tập
được kinh nghiệm quản lý, tác phong làm việc theo lối công nghiệp của nước
ngoài, gián tiếp có được chỗ đứng trên thị trường thế giới, nhanh chóng được
thế giới biết đến thông qua các quan hệ làm ăn với nhà đầu tư.
Mặt khác FDI còn là yếu tố hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư trong nước bỏ
vốn sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sự cạnh tranh, đổi mới công nghệ, đẩy mạnh
xuất khẩu giúp đất nước nhanh chóng hoà nhập vào thị trường thế giới.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện thu hút FDI cũng cần phải thận trọng
và có những biện pháp tránh hiện tượng cạn kiệt tài nguyên ở nước nhận đầu tư.
II. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt nam hiện nay.
Kinh tế nước ta từ năm 1990 đến nay liên tục tăng trưởng với tộc độ cao,
bình quân mỗi năm thời kỳ 1991- 1995 tăng 8,1%; năm 1996 tăng 9,3%. Trong
điều kiện tích luỹ đầu tư từ nội bộ nền kinh tế còn thấp, huy động nguồn vốn
4
trong nước còn nhiều khó khăn thì nguồn vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp là một

trong những yếu tố quan trọng để tạo ra nhịp độ tăng trưởng cao của nền kinh tế
trong những năm vừa qua.
Từ khi “luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” có hiệu lực cho đến hết
tháng 12- 1999, Nhà nước ta đã cấp giấy phép cho 2766 dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài với tổng số vốn đăng ký là 37055,66 dự án với mức 3087,97 triệu
USD vốn đăng ký.
Nhịp độ thu hút đầu tư tực tiếp nước ngoài của ta có xu hướng tăng nhanh
từ năm 1988 đến năm 1995 cả về số dự án cũng như vốn đăng ký. Từ năm 1997,
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam bắt đầu suy giảm, nhất là các năm
1998, 1999 thì xu hướng giảm càng rõ rệt hơn. Nếu so với năm 1997 số dự án
được duyệt của năm 1998 chỉ bằng 79,71%; năm 1999 chỉ bằng 80,58%, Số
hiệu tương ứng của vốn đăng ký là 83,83% và 33,01%. Điều này phần nào là do
sự tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính khu vực đối với đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam khi mà khoảng 70% vốn đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam là xuất phát từ các nhà đầu tư châu á. Ngoài ra một nguyên nhân
khác là sự giảm sút về khả năng hấp dẫn cho điều kiện nội tại của nền kinh tế
Việt Nam đôí với các nhà đầu tư nước ngoài.
Tiến độ thực hiện của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
thời kỳ 1988-1999 như sau:
- Có 785 dự án sau một thời gian triển khai đến nay có nhu cầu xin được
tăng vốn mở rộng sản xuất . Tổng số vốn đã được phê duyệt tăng thêm là 5.171
triệu USD (bằng 14% tổng vốn đăng ký và bằng 28,4% số dự án được cấp giấy
phép).
- 127 dự án hết thời hạn thực hiện hợp đồng (bằng 4,6% số dự án được
cấp giấy phép); 466 dự án đã bị rút giấy phép (bằng 16,8%). Tính đến ngày 31-
5
12-1999 trên lãnh thổ Việt Nam còn 2173 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
đang hoạt động, với tổng vốn đăng ký của các dự án còn hiệu lực là 36086
USD.
- Đến năm 1998 đã có 838 dự án đã đi vào hoạt động sản xuất kinh

doanh (bằng 33,68% tổng số dự án được phê duyệt) và 624 dự án đang trong
giai đoạn xây dựng cơ bản (băng 25.08% số dự án).
Đến nay số vốn đã thực hiện bằng 42,4% của tổng số vốn đăng ký. Trong
điều kiện của một nền kinh tế kém phát triển, kết cấu hạ tầng lạc hậu, các nguồn
lực cũng như các chính sách đối với đầu tư nước ngoài còn nhiều biến động, thị
trường phát triển chưa đầy đủ… thì tỷ lệ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực
hiện như vậu là không thấp.
Tuy nhiên, xuất phát từ đặc điểm các dự án sau khi được phê duyệt
thường chưa đủ các điều kiện để triển khai ngay, do đó số vốn thực hiện trong
năm chủ yếu là của các dự án được phê duyệt từ các năm trước đó.
Vì vậy nếu so sánh số vốn thực hiện của từng năm so với số vốn đăng ký
còn lại (tổng vốn đăng ký từ trước trừ đi số vốn đã thực hiện) thì tỷ lệ vốn thực
hiện diễn biến theo xu hướng thiếu ổn định. Tỷ lệ này tăng nhanh từ đầu đến
năm 1995 (vốn thực hiện năm 1992/ vốn đăng ký năm 1988-1991 còn lại=
13,6%, số lượng tương ứng năm 1993= 23,5%; năm 1994= 30,1%; năm 1995=
32,3%) và sau đó giảm dần từ năm 1996 đến nay (số liệu tương ứng năm
1996=21,8%; năm 1997= 18,1%; năm 1998= 10,1%; năm 1999=7,1%). Tình
trạng này có thể do có nhiều nguyên nhân nhưng có nguyên nhân rất đáng được
chú ý là do một số nhà đầu tư khi lập dự toán đã tính toán chưa thật sát với thực
tế nên khi triển khai dự án họ gặp nhiều vần đề phát sinh vượt quá khả năng tài
chính cũng như các yếu tố điều kiện cho doanh nghiệp vận hành. Thậm chí có
6

×