NGHỆ THUẬT HÁT NĨI CỦA NGUYỄN CƠNG TRỨ,
NGUYỄN KHUYẾN TỪ GĨC NHÌN SO SÁNH
LÊ VĂN MINH
Khoa Ngữ văn
Tóm tắt: Thơ Hát nói Nguyễn Cơng Trứ, Nguyễn Khuyến là tinh hoa văn
hóa dân tộc. Qua đề tài: “nghệ thuật thơ Hát nói của Nguyễn Cơng Trứ,
Nguyễn Khuyến từ góc nhìn so sánh”, bằng góc nhìn so sánh ta thấy được
những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai tác giả, từ đó có cái nhìn khái
qt về thể thơ cũng như tinh hoa văn hóa văn học dân tộc ẩn chứa trong nó.
Đồng thời làm sáng tỏ cái hay cái đẹp mà thơ Hát nói Nguyễn Khuyến,
Nguyễn Cơng Trứ mang lại, những dấu ấn nghệ thuật trong thơ Hát nói của
Nguyễn Cơng Trứ và Nguyễn Khuyến.
1. MỞ ĐẦU
Hát nói là một thể thơ đặc biệt, được tổ chức bởi nhạc, do nhạc dẫn dắt, nên hình thức của
nó khá uyển chuyển, có nhiều biến thể từ âm luật đến kết cấu lời thơ. Việc xác định cấu
trúc vần, nhịp trong thể thơ hát nói là cả một vấn đề. Đành rằng đây là một thể thơ cách
luật được sáng tạo trên cơ sở truyền thống thơ ca trung đại, chịu sự quy định của các quy
chuẩn mỹ học trung đại nên phải tuân theo những quy phạm văn chương của thời đại.
Nhưng một mặt do nhu cầu thể hiện một nội dung tư tưởng phóng khống, tâm sự cá nhân
muốn thốt khỏi ràng buộc của các chế ước của xã hội đương thời, mặt khác, do sự nâng
đỡ của nhạc điệu nên ngơn từ thơ hát nói trong cách gieo vần, tạo nhịp, chọn từ, đặt câu
khá tự do. Thơ Hát nói Nguyễn Cơng Trứ, Nguyễn Khuyến là kết tinh của văn hóa dân
tộc. Xuất phát từ hành viện của ả đào để rồi bước lên đài danh dự của những thể thơ
truyền thống dân tộc. Nguyễn Lộc trong cuốn (Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIII –
hết thế kỷ XIX) có viết; “Ơng (Nguyễn Cơng Trứ) có cơng làm cho Hát nói trở thành một
thể thơ hồn chỉnh, linh hoạt, đồng thời ơng cũng có cơng mở rộng nội dung của nó.
Dưới bàn tay tài hoa của nhà thơ, thể thơ Hát nói từ giã hành viện của ả đào để bước lên
đài danh dự của những thể thơ truyền thống của dân tộc”. Nếu thơ Hát nói Nguyễn Cơng
Trứ có cơng làm cho hát nói trở thành thể thơ thì Nguyễn Khuyến là người kế thừa và
phát huy thế mạnh cũng như nội lực ẩn chứa bên trong nó.
2. Q TRÌNH NHẬN DIỆN HÁT NĨI CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ VÀ NGUYỄN KHUYẾN
Lịch sử nghiên cứu ca trù nói chung và hát nói nói riêng đã bắt đầu từ thế kỉ XIX với
các cuốn như Đại Nam quốc âm ca khúc, Ca trù thể cách, Ca phả, Ca điệu kí lược…
Những nghiên cứu trong các cuốn sách này chỉ mang tính kí lược, sơ sài chưa làm rõ thể
loại có tính loại hình, thậm chí chưa có tên gọi riêng. Riêng trong cuốn Đại Nam quốc
âm ca khúc (do Hồng triều thượng thư Nguyễn Cơng Trứ soạn, kí hiệu AB 146 của
thư viện Hán Nôm), ở phần đầu tác giả đã xếp thứ tự lần lượt các bài theo các điệu sau:
bắc phản, hát nói, phản cách, thiên thai, thi ngũ thủ, gửi thư… Trong cuốn sách này, hát
nói được tuyển nhiều nhất chứng tỏ đến lúc này người ta mới có ý thức hệ thống hóa,
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Sinh viên năm học 2014-2015
Trường Đại học Sư phạm Huế, tháng 12/2014: tr. 133-138
134
LÊ VĂN MINH
văn bản hóa việc lưu truyền các điệu thức ca trù vốn trước đây được lưu truyền bằng
truyền xướng.
Năm 1921, Phạm văn Duyệt xuất bản Hát ả đào, quyển nhất. Năm 1922 Xuân Lan cho
xuất bản ở Hải Phịng cuốn Ca trù thể cách có tuyển nhiều thơ hát nói.
Năm 1923, trên báo Nam Phong, Phạm Quỳnh viết “Văn chương trong lối viết ả đào”
làm rõ đặc sắc giá trị văn chương của hát nói, nhiều bài được ông đánh giá là “những
nền kiệt tác trong văn Nôm ta”.
Những năm gần đây, có cơng các cơng trình nghiên cứu Thể loại hát nói trong sự vận
động của lịch sử văn học dân tộc (Nguyễn Đức Mậu) (Luận án tiến sĩ 2002), Ca trù
nhìn từ nhiều phía (Nguyễn Đức Mậu); Thơ hát nói xưa và nay (Hồi n – Nguyễn
Xuân Diện); Lịch sử và nghệ thuật ca trù (Nguyễn Xuân Diện). Nhà nghiên cứu
Nguyễn Xuân Diện đã đưa ra nhiều đóng góp tích cực trên cuộc hành trình khẳng định
giá trị của thể loại bằng cách phân loại và chỉ ra các làn điệu, các thể thơ được vận dụng
phổ biến trong sinh hoạt ca trù. Những cơng trình này có những thành tựu đáng ghi
nhận về việc trình bày đặc điêm thể loại cũng như nội dung tư tưởng hát nói.
* Về Hát nói của Nguyễn Cơng Trứ
Về việc nghiên cứu thi pháp thơ hát nói một cách chun biệt có thể nói chưa có một
cơng trình nào trình bày đầy đủ, sâu sắc. Tuy nhiên, rải rác trong một số bài nghiên cứu
chúng ta có thể bắt gặp khá nhiều ý kiến đề cập đến vấn đề trên như:
Nguyễn Lộc viết trong Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX đưa ra
nhận xét: “Hát nói của Nguyễn Cơng Trứ, Cao Bá Quát đạt đến trình độ mẫu mực của
thể thơ này mà về sau Dương Lâm, Dương Khuê hay Tản Đà chỉ có kế tục chứ khơng có
sự phát triển.” [9; tr.32]. Ý kiến của Nguyễn Lộc khẳng định thành tựu đạt được của thể
loại gắn liền với Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát.
Trong cuốn Nguyễn Công Trứ - tác gia tác phẩm Nguyễn Đức Mậu có bài viết Hát nói
Nguyễn Cơng Trứ trong đó có những ý kiến liên quan trực tiếp đến đề tài và là những
gợi ý quý báu để chúng tôi triển khai tiếp vấn đề .
Trong cuốn Nguyễn Công Trứ bài ca ngất ngưỡng của Nguyễn Viết Ngoạn nhà xuất
bản Tp Hồ Chí Minh, có đề cấp đến “chàng Tơ Đơng Pha xứ Việt”. Ơng xem Nguyễn
Công Trứ như Tô Đông Pha thời Đường vậy, con người tài hoa uyên bác và văn chương
vô cùng tao nhã.
* Về hát nói của Nguyễn Khuyến
Lê Hữu Bách có bài “Ảnh hưởng của văn học dân gian đến thơ Nơm Nguyễn Khuyến”, hay
Đức Mậu có bài viết: “Nét riêng trong hát nói” trong đó có đoạn tác giả viết: “Nguyễn
Khuyến dùng hát nói làm phương tiện trào phúng (Đĩ cầu Nơm, Chế Ơng Đồ Cự Lộc)”.
Nguyễn Khuyến được biết đến với tư cách là một nhà thơ từ rất sớm, ngay từ những
năm đầu của thế kỷ XX. Thơ nôm của ông đã được giới thiệu trên tạp chí Nam Phong
và cuốn sách: Quốc văn trích diễm của Dương Quảng Hàm xuất bản 1925 cũng đã giới
NGHỆ THUẬT HÁT NĨI CỦA NGUYỄN CƠNG TRỨ, NGUYỄN KHUYẾN…
135
thiệu 7 bài thơ nơm của Nguyễn Khuyến. Từ đó trở đi Nguyễn Khuyến luôn là một nhà
thơ được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Tác giả Nguyễn Khuyến được khẳng định
là một nhà thơ lớn.
Những lời đánh giá của Xuân Diệu: “Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn có biệt tài và
có giá trị tiêu biểu cho văn học nước ta vào hồi cuối thế kỷ XIX”.
Tiếp sau Quốc văn trích diễm, Dương Quảng Hàm, trong cuốn sách nổi tiếng Việt Nam
văn học sử yếu (Nha học chính Đơng Pháp xuất bản. H. 1943) đã xếp Nguyễn Khuyến
vào hàng ngũ các nhà thơ trào phúng nổi tiếng của Văn học dân tộc.
3. GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT HÁT NÓI NGUYỄN CƠNG TRỨ VÀ NGUYỄN
KHUYẾN TỪ CÁI NHÌN SO SÁNH
Thơ Hát nói Nguyễn Cơng Trứ, Nguyễn Khuyến đã làm cho thi ca nước ta thời phong
kiến có một cuộc cách mạng tâm hồn, hay là cuộc cách mạng của ngôn từ nghệ thuật. Ở
Nguyễn Công Trứ là khát vọng, tự do, là chí nam nhi, triết lý hành lạc. Qua thể phách
và tinh anh của Hát nói, Nguyễn Cơng Trứ đã làm cho câu thơ như những làn sóng dồn
vào bờ, từng đợt từng đợt cuồn cuộn.
“Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc,
Nợ tang bồng vay trả, trả vay.
Chí làm giai nam bắc đơng tây,
Cho phỉ chí vẩy vùng trong bốn bể.”
(Chí nam nhi)
Tứ thơ của ơng như thốt ly, bay bổng, bằng lời thơ và cách gieo vần làm cho thơ ông
đặc biệt hơn so với các tác gia khác cùng thời cũng như cả sau này, khơng tìm thấy
người giống ông.
“Thi tửu, cầm kỳ khách
Phong, vân, tuyết, nguyệt thiên
Mặt tài tình đương độ thiên niên
Cuộc hành lạc vẫy vùng cho phĩ chí”
(Cịn nhiều hưởng thụ)
Thơ ơng đã đạt tới cảnh giới, thể hiện một tinh thần khẳng khái, lạc quan có lịng tin vào
tương lai. Chính nó làm cho thơ ơng khơng giống ai, hay nói cách khác thì đó là đặc sản
của Nguyễn Cơng Trứ để dành cho bạn đọc.
Đến với thơ Hát nói Nguyễn Khuyến ta thấy thơ ơng hồn tồn khác biệt với Nguyễn
Cơng Trứ. Thơ ông là sự dấu mình chứ không bung tỏa như Nguyễn Cơng Trứ.
“Người đâu tên họ là gì
Hỏi ra trích trích tri tri nực cười
Vắt tay ngoảnh mặt trơng trời
Cũng toan lo tính sự đời chi đây”
(Hỏi phỗng đá )
LÊ VĂN MINH
136
Là “Phỗng đá” mà biết lắng nghe thấu hiểu sự đời, mọi việc cứ trôi qua mà không thể
sờ tới, ông thành con người bất lực buông xuôi tất cả, khép mình lại trở thành “phỗng
đá”, vơ tri vô giác. Người cũng như vật phải giấu đi thân phận của mình chỉ để bảo tồn
hai chữ “Trung – Hiếu”, trung với vua hiếu với cha mẹ.
“So danh ai bằng mẹ Mốc
Ngồi hình hài gấm vóc cũng thêm ra
Tấm hồng nhan đem bơi lấm xóa nhịa
Làm thế để cho qua mắt tục”
(Mẹ Mốc)
Về cách gieo vần và kết cấu câu từ: Thể thơ Hát nói nói chung và Hát nói Nguyễn Cơng
Trứ nói riêng vẫn kế thừa, tiếp nhận cách gieo vần ở các thể thơ Việt Nam có trước như
vè, ca dao, tục ngữ, thơ Đường luật, thơ lục bát, song thất lục bát và thơ thất ngôn. Điều
này thể hiện rõ ở cách gieo vần: cả vần lưng lẫn vần chân.
Về ngôn ngữ: Nếu như giai điệu, âm thanh là ngôn ngữ của âm nhạc; màu sắc, đường
nét là ngôn ngữ của hội họa; mảng khối là ngơn ngữ của kiến trúc thì ngơn ngữ là chất
liệu của tác phẩm văn chương. Macxim Gorki đã nói: “Ngơn ngữ là yếu tố thứ nhất của
văn học”. Tuy nhiên tùy vào đặc trưng thể loại, ngôn ngữ trong mỗi loại thể văn học có
những đặc điểm riêng. Là nghệ thuật “lấy ngôn ngữ làm cứu cánh” (Jakobson), ngôn
ngữ giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong thơ. Đó là thứ ngôn ngữ được chưng cất
công phu phủ nhận trong yếu tính thơ, vì “thơ tức là phần tinh lọc nhất của ngơn ngữ”.
Ngơn ngữ vì “bài thơ là tổ chức ở trình độ cao của ngơn ngữ, một tổ chức chặt chẽ tinh
tế của ngôn ngữ”. Ngôn ngữ thơ là một phương tiện hình thức ln được coi trọng; thơ
là thứ ngôn ngữ biểu hiện tập trung nhất tính hàm súc phong phú của ngơn ngữ, vừa
giàu hình ảnh, sắc màu (tính họa) vừa giàu nhạc điệu (tính nhạc). Các đặc điểm trên hòa
quyện với nhau tạo nên hình tượng thơ lung linh, đa nghĩa.
Trong Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến, tác giả đã công phu sưu tập, hệ thống
hoá và khảo sát chi tiết nội dung các tác phẩm thơ ca theo nhiều bình diện cốt lõi khác
nhau như: "cái nhìn về con người", “cái nhìn về thế giới”, “sự đa dạng, năng động và
uyển chuyển trong bút pháp”, “nét riêng trong giọng điệu”, “đặc sắc ngôn ngữ nghệ
thuật thơ”… Điều này tạo nên tính đồng tuyến giữa các vấn đề, sự rành mạch giữa các
chương mục và tạo dựng những cách hình dung khác nhau về thơ Nguyễn Khuyến, đưa
đến những cách lý giải mới mẻ hơn về mối quan hệ giữa thơ chữ Hán và chữ Nơm cũng
như những sắc thái trữ tình sâu lắng gắn với các giai đoạn sáng tác khác nhau trong
cuộc đời n Đổ.
Đến với ngơn ngữ thơ Hát nói Nguyễn Cơng Trứ thì ta lại thấy một phương thức thể
hiện khác:
“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”
(Tràng An hoài cổ)
NGHỆ THUẬT HÁT NĨI CỦA NGUYỄN CƠNG TRỨ, NGUYỄN KHUYẾN…
137
Cách xử lí này phải nói là khó bởi vì gặp hai trở ngại, thứ nhất là về mặt nghĩa, ghép
vào phải có sự tương thích với tồn bài, thứ hai là về mặt vần điệu phải phối hợp ăn ý
với những vần trong bài mà không bị đơ, cứng, gượng ép. Trong cách dùng thi liệu của
Nguyễn Cơng Trứ có sự tương đồng, đồng cảm với cách nghĩ dân gian, không bị ảnh
hưởng của xu hướng bác học.
Về không gian, thời gian: Khơng gian nghệ thuật thuộc phạm trù hình thức nghệ thuật,
là phương thức tồn tại, triển khai thế giới nghệ thuật. Khơng gian nghệ thuật là trường
nhìn được mở ra từ một điểm nhìn, cách nhìn. Mỗi tác phầm có một khơng gian do tác
giả lựa chọn và miêu tả. Không gian trong thơ Nguyễn Khuyến mang nhiều sắc thái
khác nhau. Là không gian làng cảnh Việt Nam nơi mà ơng tìm về với thiên nhiên làng
cảnh, với cuộc sống thường nhật, sống với rơm rạ với chén rượu lúc say lúc tỉnh.
Nguyễn Cơng Trứ nói về sự ngắn ngủi của thời gian con người cũng là một cách để
đánh thức sự tự ý của người tiếp nhận của cảnh: bao gồm khơng gian của chí nam nhi,
cầu nhàn hưởng lạc và không gian của tâm trạng. Ở mỗi mảng ơng có một cách thể hiện
riêng, chính vì lẽ đó mà thơ hát nói Nguyễn Cơng Trứ có một điểm nhấn riêng không
giống với bất cứ một ai.
Về yếu tố dân gian: Phong vị dân gian trong thơ Nguyễn Khuyến không chỉ biểu hiện ở
các thể thơ, ca dao, tục ngữ mà còn ở lối đếm, lối nghĩ, lối gieo vần, khiến cho thơ rất
gần với đời thường. Văn học dân gian nói chung, thơ dân gian nói riêng hay sử dụng
biện pháp ẩn dụ khi phản ánh hiện thực. Viết những bài thơ “Ông Phỗng đá”, “Mẹ
mốc”, “Anh giả điếc”...Nguyễn Khuyến đã chịu ảnh hưởng của văn hóa dân gian Việt.
Bên cạnh đó là cái ngơng và nghệ thuật trào phúng: Cái “ngông” là một phong cách rất
riêng trong thơ Nguyễn Cơng Trứ, vì cái ngơng đó mà ơng sống rất thực, thực với mình,
với người, với cuộc đời. Các nhà nho khác thì viết về thiên chức của một kẻ sĩ, cịn cái
tơi thì ít thấy nhắc tới. Nhưng Nguyễn Cơng Trứ thì khác: Ơng khơng hề giấu diếm hay
né tránh, đời thường của ông được ông diển tả trực tiếp vào thơ của mình. Vì vậy mà
ngồi tuổi bảy mươi ơng vẫn nặng nợ phong lưu, quen thói đa tình. Thú tiêu sầu: rượu
rót, thơ đề, có yến yến hường hường thì mới thoải chí phong lưu.
Nhắc đến cụ Tam Nguyên Yên Đổ có lẽ điều người ta nghĩ đến trước hết chính là những
bài thơ trữ tình thật hay, thật tinh tế viết về thiên nhiên vùng đồng bằng chiêm trũng Bắc
Bộ, về tình cha con, vợ chồng, bè bạn, xóm giềng rất chân thành, thắm thiết. Nguyễn
Khuyến là nhà thơ số một của làng cảnh Việt Nam. Cảnh sắc trong thơ ông thanh sơ,
đẹp và phơn phớt một sắc buồn từ cõi lòng mang tâm sự thời thế. Thế nhưng không
dừng lại ở đó, Nguyễn Khuyến đã thật sự gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc bởi
những vần thơ mang tiếng cười rất đặc sắc: nhẹ nhàng, kín đáo mà lại thâm thúy, chua
cay. Tiếp cận với những sáng tác trào phúng của Nguyễn Khuyến ta mới thấy hết cái
đặc sắc, cái giọng điệu riêng của ngòi bút trào phúng bậc thầy này.
4. KẾT LUẬN
Hát nói là thể thơ mà ở trong đó ta tìm thấy hơi thở của dân tộc, nơi mà các nhà tác giả
trung đại gửi gắm tâm tư tình cảm của mình. Thể loại hát nói được các nhà nho tài tử
LÊ VĂN MINH
138
sáng tạo nên, là tinh túy của dân tộc mà đến ngày nay và cả mai sau với mọi thế hệ đều
sẽ tiếp nhận duy trì và phát triển. Hát nói đã để lại nhiều thành quả quan trọng cho văn
học dân tộc Việt Nam. Có thể thấy rằng hát nói để đạt được thành tựu lớn như ngày
hơm nay thì phải nhắc đến các nhà nho đã có cơng gây dựng và phát triển thể thơ Hát
nói như: Trương Quốc Dụng, Nguyễn Bá Nghi, Nguyễn Quý Tân, Cao Bá Quát, Dương
Khuê, Trần Tế Xương, và phải kể đến hai bậc thầy đã có đóng góp vơ cùng to lớn:
Nguyễn Cơng Trứ và Nguyễn Khuyến. Với cái nhìn so sánh ta dễ nhận diện những dấu
ấn nghệ thuật trong sáng tác của hai nhà văn tài hoa này./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]
[7]
[8]
[9]
[10]
Nguyễn Xuân Diện (1995). “Vẻ đẹp độc đáo của nghệ thuật Ca trù”, Tạp chí Văn hóa
nghệ thuật, (8), tr. 25- 26.
Ngô Viết Dinh (2001). Đến với thơ Nguyễn Khuyến, NXB Thanh Niên, Hà Nội.
Ngô Viết Dinh (2001). Đến với thơ Nguyễn Công Trứ, NXB Thanh Niên, Hà Nội.
Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề (1994). Việt Nam Ca trù biên khảo, NXB Thành phố
Hồ Chí Minh.
Nguyễn Lộc (1999). Văn học Việt Nam (Nửa cuối thế kỷ XVIII - Hết thế kỷ XIX),
NXB Giáo Dục, Hà Nội.
Nguyễn Đức Mậu (2003). Ca trù nhìn từ nhiều phía, NXB Văn hóa Thông tin, Hà
Nội.
Nguyễn Viết Ngoạn (2010). “Nguyễn Công Trứ ông hồng thơ hát nói”, Tạp chí
Nghiên cứu văn học, (2), tr. 58.
Nguyễn Viết Ngoạn (2010). Nguyễn Công Trứ Bài ca ngất ngưởng, NXB Đại học
quốc gia TP Hồ Chí Minh.
Trần Nho Thìn (2008). Văn học Trung đại Việt Nam dưới góc nhìn Văn hóa, NXB
Giáo dục, Đà Nẵng.
Lê Trí Viễn (2001). Đặc trưng Văn học Trung đại Việt Nam, NXB Văn nghệ Thành
phố Hồ Chí Minh.
LÊ VĂN MINH
SV lớp Văn 4A, khoa Ngữ Văn, trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
ĐT: 0982 459 674, Email: