Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến hst đô thị. mô hình sinh thái nhằm ứng phó, ngăn ngừa ảnh hưởngcủa biến đổi khí hậu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 43 trang )

GVHD: TS Đinh Thị Phương Anh.
HVTH: Phạm Thị Quỳnh Thảo.
Lớp : Cao học Sinh thái học 2/2009 - 2011
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
Trường Đại Học Sư Phạm
BÀI TẬP CUỐI KÌ
Đề tài:
Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu
đến HST đô thị. Mô hình sinh thái
nhằm ứng phó, ngăn ngừa ảnh
hưởngcủa biến đổi khí hậu.
Đà Nẵng, tháng 12/2010
Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến
HST đô thị. Mô hình sinh thái nhằm
ứng phó, ngăn ngừa ảnh hưởng của
biến đổi khí hậu.
MỤC LỤC
A. Đặt vấn đề. 2
B. Nội dung 3
I. Biến đổi khí hậu là gì? 3
II. Nguyên nhân gây biến đổi khí hậu 4
III. Hậu quả của biến đổi khí hậu 9
3.1. Các hệ sinh thái bị phá hủy 9
3.2. Mất đa dạng sinh học 10
3.3. Chiến tranh và xung đột 11
3.4. Các tác hại đến kinh tế 12
3.5. Dịch bệnh 13
3.6. Hạn hán 14
3.7. Bão lụt 15
3.8. Những đợt nắng nóng gay gắt 15
3.9. Các núi băng và sông băng đang teo nhỏ 16


3.10. Mực nước biển đang dâng lên 16
IV. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến HST đô thị 18
4.1. Hệ sinh thái đô thị là gì? 18
4.2. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến các HST đô thị 19
4.2.1. Nguy cơ mất nơi ở do mực nước biển dâng cao và hiện tượng sa mạc hóa.20
4.2.2. Ngập lụt ngày càng nghiêm trọng hơn 21
4.2.3. Hiệu ứng đảo nhiệt đô thị 23
- 2 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
2
4.2.4. Mưa acid phá hủy các công trình – kiến trúc đô thị 25
4.2.5. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến con người 26
V. Mô hình sinh thái nhằm ứng phó, ngăn ngừa ảnh hưởng của biến đổi khí hậu.
5.1. Sử dụng hệ thống cây xanh 33
5.2. Xây dựng đô thị sinh thái 34
5.3. Khuyến khích sử dụng và phát triển năng lượng tái tạo 38
C. KẾT LUẬN 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- 3 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
3
A. Đặt vấn đề
Trong quá trình tiến hóa và phát triển, con người luôn phải dựa vào các yếu
tố sẵn có trong tự nhiên. Con người với tư cách là một vật thể sống, một yếu tố của
sinh quyển đã tác động trực tiếp vào môi trường. Các hệ sinh thái tự nhiên hoặc
dần chuyển thành hệ sinh thái nhân tạo, hoặc bị tác động của con người đến mức
mất cân bằng và suy thoái. “Báo cáo của Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Hoa Kỳ
(NASA) tháng 10/2006 cho biết, hiện tượng băng tan ở Greenland đạt tốc độ 65,6
kilômét khối, vượt xa mức tái tạo băng 22,6 kilômét khối một năm từ tuyết rơi.
Trung tâm Hadley của Anh chuyên nghiên cứu và dự đoán thời tiết cũng dự đoán:

1/3 hành tinh sẽ chịu ảnh hưởng của hạn hán nếu việc thay đổi khí hậu không được
kiểm soát. Những kết quả nghiên cứu được công bố vào tháng 9/2006 cho thấy,
nhiệt độ thế giới đã tăng lên với tốc độ chưa từng có trong vòng ít nhất 12.000
năm qua. Chính điều này đã gây nên hiện tượng Trái đất nóng lên trong vòng 30
năm trở lại đây. Các nhà khoa học cho rằng: thế kỷ vừa qua, nhiệt độ trung bình
của Trái đất đã tăng thêm 1oC do việc tích lũy các chất cácbon điôxít (CO2),
mêtan (CH4) và các khí thải gây hiệu ứng nhà kính khác trong không khí (như
N2O, HFCs, PFCs, SF6) - sản phẩm sinh ra từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch trong
các nhà máy, phương tiện giao thông và các nguồn khác.Những hiện tượng trên
đều do biến đổi khí hậu gây nên.
Biến đổi khí hậu được gọi là toàn cầu vì nó diễn ra ở hầu như mọi nơi trên
thế giới. Đặc biệt, Việt Nam đứng thứ 5 trong danh sách các nước bị ảnh hưởng
bởi khí hậu toàn cầu. Vị trí địa lý của Việt Nam khiến Việt Nam rất dễ bị tổn
thương trước những biến đổi khí hậu cả về hình thái khí hậu khi mực nước biển
tăng, lẫn diện tích đất canh tác sẽ bị thu hẹp. Trong các hệ sinh thái dễ bị tổn
thương thì hệ sinh thái đô thị đang đứng trước nguy cơ đó. Vậy biến đổi khí hậu đã
ảnh hưởng như thế nào đến thế giới, cụ thể hơn đến Việt Nam để từ đó con người
có thể đưa ra những mô hình sinh thái, những giải pháp nhằm ứng phó với những
biến đổi đó. Câu hỏi nêu ra này chính là lí do để tôi chọn tiểu luận “Ảnh hưởng
- 4 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
4
của biến đổi khí hậu đến HST đô thị. Mô hình sinh thái nhằm ứng phó, ngăn
ngừa ảnh hưởng của biến đổi khí hậu”. Nếu không có những biện pháp phù hợp
và hiệu quả để giảm thiểu tác hại của biến đổi khí hậu, hậu quả sẽ là khôn lường.
B. Nội dung
I. Biến đổi khí hậu là gì?
Định nghĩa:
"Biến đổi khí hậu trái đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thuỷ
quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên nhân tự

nhiên và nhân tạo".
Môi trường trước đây Môi trường hiện tại
“Biến đổi khí hậu là những biến đổi trong môi trường vật lý hoặc sinh học gây ra
những ảnh hưởng có hại đáng kể đến thành phần, khả năng phục hồi hoặc sinh
sản của các hệ sinh thái tự nhiên và được quản lý hoặc đến hoạt động của các hệ
thống kinh tế - xã hội hoặc đến sức khỏe và phúc lợi của con người”.(Theo công
ước chung của LHQ về biến đổi khí hậu).
- 5 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
5
II. Nguyên nhân gây biến đổi khí hậu.
Nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu Trái đất là do sự gia tăng các hoạt
động tạo ra các chất thải khí nhà kính, các hoạt động khai thác quá mức các bể hấp
thụ khí nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái biển, ven bờ và đất liền
khác. Nhằm hạn chế sự biến đổi khí hậu, Nghị định thư Kyoto nhằm hạn chế và ổn
định sáu loại khí nhà kính chủ yếu bao gồm: CO
2
, CH
4
, N
2
O, HFCs, PFCs và SF
6
.
- CO
2
phát thải khi đốt cháy nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí) và là
nguồn khí nhà kính chủ yếu do con người gây ra trong khí quyển. CO
2
cũng sinh ra từ các hoạt động công nghiệp như sản xuất xi măng và cán

thép.
- CH
4
sinh ra từ các bãi rác, lên men thức ăn trong ruột động vật nhai lại,
hệ thống khí, dầu tự nhiên và khai thác than.
- N
2
O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp.
- HFCs được sử dụng thay cho các chất phá hủy ôzôn (ODS) và HFC-23
là sản phẩm phụ của quá trình sản xuất HCFC-22.
- PFCs sinh ra từ quá trình sản xuất nhôm.
- SF
6
sử dụng trong vật liệu cách điện và trong quá trình sản xuất magiê.
Các biểu hiện của biến đổi khí hậu:
- Sự nóng lên của khí quyển và Trái đất nói chung.
- Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường
sống của con người và các sinh vật trên Trái đất.
- Sự dâng cao mực nước biển do băng tan, dẫn tới sự ngập úng ở các vùng
đất thấp, các đảo nhỏ trên biển.
- 6 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
6
- Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng
khác nhau của Trái đất dẫn tới nguy cơđe dọa sự sống của các loài sinh
vật, các hệ sinh thái và hoạt động của con người.
- Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu
trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hoá khác.
- Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành
phần của thuỷ quyển, sinh quyển, các địa quyển.

Một số hiện tượng của biến đổi khí hậu
- Hiệu ứng nhà kính: "Kết quả của sự của sự trao đổi không cân bằng về
năng lượng giữa trái đất với không gian xung quanh, dẫn đến sự gia tăng
nhiệt độ của khí quyển trái đất được gọi là Hiệu ứng nhà kính". Hiệu
ứng nhà kính, dùng để chỉ hiệu ứng xảy ra khi năng lượng bức xạ của tia
sáng mặt trời, xuyên qua các cửa sổ hoặc mái nhà bằng kính, được hấp
thụ và phân tán trở lại thành nhiệt lượng cho bầu không gian bên trong,
dẫn đến việc sưởi ấm toàn bộ không gian bên trong chứ không phải chỉ ở
những chỗ được chiếu sáng.
- 7 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
7
Mưa axit: Mưa acid là mưa có tính acid do một số chất khí hòa tan trong nước
mưa tạo thành các acid khác nhau. Trong tự nhiên, mưa có tính acid chủ yếu vì
trong nước mưa có CO
2
hòa tan (từ hơi thở của động vật và có một ít Cl- (từ nước
biển) và có độ pH < 5. Là sự lắng đọng thành phần axít trong những cơn mưa,
sương mù, tuyết, băng, hơi nước…
- Thủng tầng ô zôn: Ozon là một chất khí có trong thiên nhiên, nằm trên tầng cao
khí quyển của Trái đất, ở độ cao khoảng 25km trong tầng bình lưu, gồm 3 nguyên
tử oxy (0
3
). Chất khí ấy tập hợp thành một lớp bao bọc quanh hành tinh thường
được gọi là tầng Ozon. Tầng ozon như lớp áo choàng bảo vệ Trái đất trước sự xâm
nhập và phá hủy của tia tử ngoại. Tầng ozon là lớp lọc bức xạ mặt trời, một phần
lớp lọc này bị mất sẽ làm cho bề mặt Trái đất nóng lên. Chiếc áo choàng quý giá
ấy bị "rách" cũng có nghĩa sự sống của muôn loài sẽ bị đe dọa.
- Cháy rừng: Nhiệt độ tăng
cao, đất đai khô cằn và nhiều

- 8 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
8
cánh rừng lớn biến thành tro bụi - những hiện tượng bất thường này không còn bó
hẹp ở một số quốc gia hay khu vực mà đang xảy ra hầu khắp trên thế giới. Từ
vùng rừng Taiga ở Sibérie của Nga đến khu rừng Rockies rộng lớn ở Canada,
miền Nam California (Mỹ) và Australia, các nhà khoa học đã tìm thấy những
bằng chứng rõ ràng cho thấy tình trạng cháy rừng tràn lan hiện nay có nguồn gốc
từ sự biến đổi khí hậu.
- Lũ lụt:
- Hạn
hán
- 9 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
9
- Sa mạc hóa: là hiện tượng suy thoái đất đai ở những vùng khô hạn, bán khô hạn,
vùng ẩm nửa khô hạn, gây ra bởi sinh hoạt con người và biến đổi khí hậu.Ở Việt
Nam, mất
rừng là
nguyên nhân
chủ yếu dẫn
tới hoang
mạc hoá, gây
suy thoái môi
trường, lũ lụt
và hạn hán.
- 10 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
10
- Hiện tượng sương khói: Sương khói là một sự cố môi trường, xảy ra do sự kết

hợp sương với khói và một số chất gây ô nhiễm không khí khác. Sương khói
thường tạo ra nhiều chất gây ô nhiễm thứ cấp có hại cho động thực vật và môi
trường nói chung.
III. Hậu quả của biến đổi khí hậu.
3.1. Các hệ sinh thái bị phá hủy:
Biến đổi khí hậu và lượng cacbon dioxite ngày càng tăng cao đang thử
thách các hệ sinh thái của chúng ta. Các hậu quả như thiếu hụt nguồn nước ngọt,
không khí bị ô nhiễm nặng, năng lượng và nhiên liệu khan hiếm, và các vấn đề y
tế liên quan khác không chỉ ảnh hưởng đến đời sống của chúng ta mà còn là vấn
đề sinh tồn.
- 11 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
11
San hô bị tẩy trắng do nước biển ấm lên chỉ là một trong rất nhiều tác hại của biến
đổi khí hậu đến các hệ sinh thái.
3.2. Mất đa dạng sinh học
Nhiệt độ trái đất hiện nay đang làm cho các loài sinh vật biến mất hoặc có
nguy cơ tuyệt chủng. Khoảng 50% các loài động thực vật sẽ đối mặt với nguy cơ
tuyệt chủng vào năm 2050 nếu nhiệt độ trái đất tăng thêm từ 1,1 đến 6,4 độ C nữa.
Sự mất mát này là do mất môi trường sống vì đất bị hoang hóa, do nạn phá rừng
và do nước biển ấm lên. Các nhà sinh vật học nhận thấy đã có một số loài động vật
di cư đến vùng cực để tìm môi trường sống có nhiệt độ phù hợp. Ví dụ như là loài
cáo đỏ, trước đây chúng thường sống ở Bắc Mỹ thì nay đã chuyển lên vùng Bắc
cực.Và dĩ nhiên con người cũng không nằm ngoài tầm ảnh hưởng. Tình trạng đất
hoang hóa và mực nước biển đang dâng lên cũng đe dọa đến nơi cư trú của chúng
ta. Và khi cây cỏ và động vật bị mất đi cũng đồng nghĩa với việc nguồn lương
thực, nhiên liệu và thu nhập của chúng ta cũng mất đi.
- 12 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
12

Cáo Bắc cực
3.3. Chiến tranh và xung đột
Lương thực và nước ngọt ngày càng khan hiếm, đất đai dần biến mất nhưng
dân số cứ tiếp tục tăng; đây là những yếu tố gây xung đột và chiến tranh giữa các
nước và vùng lãnh thổ. Do nhiệt độ trái đất nóng lên và biến đổi khí hậu theo
chiều hướng xấu đã dần làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Một cuộc
xung đột điển hình do biến đổi khí hậu là ở Darfur. Xung đột ở đây nổ ra trong
thời gian một đợt hạn hán kéo dài, suốt 20 năm vùng này chỉ có một lượng mưa
nhỏ giọt và thậm chí nhiều năm không có mưa, làm nhiệt độ vì thế càng tăng cao.
Theo phân tích của các chuyên gia, các quốc gia thường xuyên bị khan hiếm nước
và mùa màng thất bát thường rất bất ổn về an ninh.

Xung đột ở Darfur (Sudan)
xảy ra một phần là do các căng
thẳng của biến đổi khí hậu.
3.4. Các tác hại đến kinh tế:
- 13 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
13
Các thiệt hại về kinh tế do biến đổi khí hậu gây ra cũng ngày càng tăng theo
nhiệt độ trái đất. Các cơn bão lớn làm mùa màng thất bát, tiêu phí nhiều tỉ đô la;
Ngoài ra, để khống chế dịch bệnh phát tán sau mỗi cơn bão lũ cũng cần một số
tiền khổng lồ. Khí hậu càng khắc nghiệt càng làm thâm hụt các nền kinh tế.
Lấy ví dụ, trong đợt bão hồi năm 2005, bang Louisiana (Mỹ) bị thiệt hại đến 135 tỉ
đô la, và trong mấy tháng tiếp theo, thu nhập của toàn bang giảm đến 15%.
Các tổn thất về kinh tế ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống. Người dân phải chịu
cảnh giá cả thực phẩm và nhiên liệu leo thang; các chính phủ phải đối mặt với việc
lợi nhuận từ các ngành du lịch và công nghiệp giảm sút đáng kể, nhu cầu thực
phẩm và nước sạch của người dân sau mỗi đợt bão lũ rất cấp thiết, chi phí khổng
lồ để dọn dẹp đống đổ nát sau bão lũ, và các căng thẳng về đường biên giới.

- 14 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
14
Các cơn bão lớn gây thiệt hại kinh tế đến hàng trăm tỉ đô la.
3.5. Dịch bệnh:
Nhiệt độ tăng cùng với lũ lụt và hạn hán đã tạo điều kiện thuận lợi cho các
con vật truyền nhiễm như muỗi, ve, chuột,… sinh sôi nảy nở, truyền nhiễm bệnh
gây nguy hại đến sức khỏe của nhiều bộ phận dân số trên thế giới. Tổ chức WHO
đưa ra báo cáo rằng các dịch bệnh nguy hiểm đang lan tràn ở nhiều nơi trên thế
giới hơn bao giờ hết. Những vùng trước kia có khí hậu lạnh giờ đây cũng xuất hiện
các loại bệnh nhiệt đới. Hàng năm có khoảng 150 ngàn người chết do các bệnh có
liên quan đến biến đổi khí hậu, từ bệnh tim do nhiệt độ tăng quá cao, đến các vấn
đề hô hấp và tiêu
chảy.
- 15 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
15
3.6. Hạn hán
Trong khi một số nơi trên thế giới chìm ngập trong lũ lụt triền miên thì một
số nơi khác lại hứng chịu những đợt hạn hán khốc liệt kéo dài. Hạn hán làm cạn
kiệt nguồn nước sinh hoạt và tưới tiêu, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền nông
nghiệp của nhiều nước. Hậu quả là sản lượng và nguồn cung cấp lương thực bị đe
dọa, một lượng lớn dân số trên trái đất đang và sẽ chịu cảnh đói khát.
Hiện tại, các vùng như Ấn Độ, Pakistan, và Châu Phi đang hứng chịu những đợt
hạn hán, lượng mưa ở các khu vực này ngày càng thấp, và tình trạng này còn tiếp
tục kéo dài trong vài thập kỷ tới. Theo ước tính, đến năm 2020, sẽ có khoảng 75
triệu đến 250 triệu người dân châu Phi thiếu nguồn nước sinh hoạt và canh tác, dẫn
đến sản lượng nông nghiệp của lục địa này sẽ giảm khoảng 50%.
- 16 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.

16
3.7. Bão lụt:
Để dự đoán các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến thời tiết, các nhà khoa
học phải dùng đến các thiết bị hiện đại. Nhưng chẳng cần có thiết bị hiện đại cũng
thấy được những cơn bão khốc liệt đang ngày một nhiều hơn. Trong vòng chỉ 30
năm qua, số lượng những cơn giông bão cấp độ mạnh đã tăng gần gấp đôi. Theo
ước tính, chỉ riêng ở Mỹ, trong vòng 100 năm qua (từ 1905 đến 2005), số lượng
những cơn bão mạnh đã tăng không ngừng. Nếu từ 1905 – 1930 chỉ có khoảng
trung bình 3,5 cơn/năm thì con số này là 5,1 trong khoảng 1931-1994, và lên đến
8,4 từ 1995-2005. Thực tế, năm 2010 đã vượt quá năm 1998 về số tháng phá kỷ
lục nhiệt độ cao nhất theo lịch năm (Cục Quản lý Đại dương & Khí quyển Quốc
gia Hoa Kỳ -NOAA).
Tài liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn cho thấy
những thiệt hại do bão, lũ gây ra ở Việt Nam trong hơn hai thập kỷ qua lớn nhất từ
trước đến nay là do bão, lũ gây ra năm 1996, sau đó là năm 1994 , 1986 và năm
1995, 1998, 2000 (hầu hết những năm này đều thiệt hại trên 100 triệu USD). Mức
độ thiệt hại về sinh mạng và vật chất do các cơn bão và các trận lụt lội gây ra cũng
đang ở mức kỷ lục.
- 17 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
17
3.8. Những đợt nắng nóng gay gắt
Đợt nắng nóng quét qua Châu Âu hồi năm 2003, 2010 đã làm thiệt mạng
khoảng hơn 40 ngàn người (theo WHO). Đó thật sự là dấu hiệu đáng báo động của
những thay đổi ngày càng tồi tệ của khí hậu. Các đợt nắng nóng khủng khiếp đang
diễn ra thường xuyên hơn gấp khoảng 4 lần so với trước đây, và dự đoán trong
vòng 40 năm tới, mức độ thường xuyên của chúng sẽ gấp 100 lần so với hiện nay.
Hậu quả của các đợt nóng này là nguy cơ cháy rừng, các bệnh tật do nhiệt độ cao
gây ra, và tất nhiên là đóng góp vào việc làm tăng nhiệt độ trung bình của trái đất.
Các năm từ 2001 - 2009 đều là 11 năm nóng nhất trong chuỗi số liệu đo đạc. Đáng

chú ý, sáu tháng đầu năm 2010 là một chuỗi tháng nhiệt độ toàn cầu cao nhất chưa
từng có (trong đó tháng 6 vừa qua là tháng nóng kỷ lục), bao gồm cả nhiệt độ trên
đất liền và trên biển toàn cầu kể từ năm 1980.
3.9. Các núi băng và sông băng đang teo nhỏ
Không cần tới những thiết bị đặc biệt để thấy rằng các sông băng và núi băng trên
thế giới đang nhỏ dần. Những lãnh nguyên bao la từng được bao phủ bởi một lớp
băng vĩnh cữu rất dày giờ đây được cây cối bao phủ. Lấy một ví dụ, các núi băng
ở dãy Hy Mã Lạp Sơn cung cấp nước ngọt cho sông Hằng – nguồn nước uống và
canh tác của khoảng 500 triệu người – đang co lại khoảng 37m mỗi năm.
- 18 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
18
3.10. Mực nước biển đang dâng lên
Nhiệt độ ngày càng cao trên trái đất khiến mực nước biển đang dần dâng
lên. Nhiệt độ tăng làm các sông băng, biển băng hay lục địa băng trên trái đất tan
chảy và làm tăng lượng nước đổ vào các biển và đại dương.
Các nhà khoa học đã tiến hành quan sát, đo đạc và nhận thấy rằng băng ở đảo băng
Greenland đã mất đi một số lượng lớn, gây ảnh hưởng trực tiếp đến các đảo quốc
hay các quốc gia nằm ven biển. Theo ước tính, nếu băng tiếp tục tan thì nước biển
sẽ dâng thêm ít nhất 6m nữa vào năm 2100. Với mức này, phần lớn các đảo của
Indonesia, và nhiều thành phố ven biển khác sẽ hoàn toàn biến mất.
Hình ảnh băng ở Bắc Cực do vệ tinh chụp. Ảnh: NASA.
Trong suốt 30 năm qua, mực nước biển ở Việt Nam đã tăng lên 5 cm. Theo
dự đoán, mực nước biển sẽ còn tăng cao nữa khoảng 9 cm vào năm 2010, 33 cm
vào năm 2050, 45 cm vào năm 2070 và 1 m vào năm 2100. Việt Nam sẽ bị ảnh
hưởng lớn do mực nước biển tăng, vì những vùng đất thấp ở đồng bằng song Mê
- 19 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
19
Kông và đồng bằng sông Hồng có mật độ dân số khá cao. Do đó, ước tính rằng,

mực nước biển tăng cao 1 m sẽ khiến 10.8% dân số bị mất đất (Tài liệu làm việc
của Ngân hangTthế giới, “Tác động của mực nước biển dâng cao ở những quốc
gia đang phát triển: phân tích mang tính so sánh”;
Susmita Dasgupta, Benoit Laplante, Craig Meisner, David Wheeler, and Jianping
Yan; 2007.)
- 20 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
20
IV. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến HST đô thị.
4.1. Hệ sinh thái đô thị là gì?
Khác với các hệ sinh thái tự nhiên khác, hệ sinh thái đô thị ngoài hai thành
phần cơ bản là hữu sinh và vô sinh, nó còn có thành phần thứ ba đó là thành phần
công nghệ. Nó bao gồm các nhà máy, cơ quan, xí nghiệp, các cơ sở sản xuất
Hệ sinh thái đô thị là hệ sinh thái nhân văn do con người tạo nên, được sử
dụng như một điểm dân cư tập chung và thường theo yêu cầu của sự phát triển
công nghiệp. Ở đô thị, con người quan hệ mật thiết với nhau hơn so với các yếu tố
tự nhiên. Tuy nhiên, dưới sự phát triển và tác động của con người, các yếu tố
thuộc về tự nhiên, thiên nhiên đang dần bị mất đi. Khí hậu thay đổi, thời tiết bất
thường cộng với nhiều nguồn ô nhiễm (nguồn nước, rác thải, khói bụi, tiếng ồn…)
gây ra cho con người những bất lợi về sức khỏe đặc biệt là về yếu tố tinh thần.
Ngoài ra, theo quan điểm Holistie, hệ sinh thái đô thị được coi là mội môi
trường tự nhiên và hoàn cảnh văn hóa, xã hội mà con người đã xây dựng nên cho
bản thân trong đô thị. Với cách nhìn như vậy, đô thị là biểu hiện cao nhất của tình
hình phát triển kinh tế và xã hội của loài người, và xét tiêu chuẩn nào thì cũng là
một thực thể vô cùng phức tạp. Từ đó, “hệ sinh thái đô thị được đặc trưng bằng hai
loại cơ chế khống chế: tự nhiên và xã hội. Trong đó, cơ chế xã hội dần chiếm ưu
thế. Các giới hạn của hệ sinh thái đô thị sẽ xác định rõ ràng phạm vi vận động của
con người trong hệ sinh thái đô thị”.
Các đặc trưng của hệ sinh thái đô thị
- Mật độ dân cư cao.

- Hoạt động kinh tế - xã hội thường xuyên, liên tục, chủ yếu là công –
thương nghiệp.
- Giao thông và xây dựng.
- Các hợp phần tự nhiên bị biến đổi và thay thế bằng các hợp phần nhân
tạo.
- Được tạo ra từ nhu cầu phát triển của con người.
- 21 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
21
4.2. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến các HST đô thị
4.2.1. Nguy cơ mất nơi ở do mực nước biển dâng cao và hiện tượng sa
mạc hóa
Với trên 3.200km bờ biển, Việt Nam được coi là quốc gia có mức độ dễ bị
tổn thương cao trước sự biến đổi khí hậu. Theo tính toán của phân viện Khí tượng
thủy văn và môi trường phía Nam, khi mực nước biển dâng cao từ 0,2 – 0,6m, sẽ
có 1.708 km
2
đất bị ngập ảnh hưởng tới 108.267 người sinh sống. Trong trường
hợp tệ hơn, khi nước dâng lên 1m, Đồng bằng sông Cửu Long sẽ mất đi một diện
tích đất khoảng 15.000 – 20.000km
2
. Vùng đất thấp của TP.HCM là nơi sẽ bị ảnh
hưởng nặng nề do nước biển dâng.
Đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng là những vùng trũng
nên bị ảnh hưởng nhiều nhất khi xảy ra ngập lụt, xâm nhập mặn và các hiện tượng
thời tiết xấu. Trong đó 90% diện tích thuộc các tỉnh ĐBSCL bị ngập hầu như toàn
bộ, và có khoảng 10% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp, tổn thất đối với GDP khoảng
10%. Nếu nước biển dâng 3m sẽ có khoảng 25% dân số bị ảnh hưởng như đợt xâm
nhập mặn vào năm 2005. Đồng bằng sông Cửu Long sẽ là vùng bị ảnh hưởng
mạnh nhất, nước biển dâng cao hơn sẽ làm cho nhiều vùng đồng bằng nước ngọt

hiện nay trở thành vùng nước lợ, hàng triệu người sẽ có nguy cơ bị mất chỗ ở, từ
đó làm gia tăng sức ép lên sự phát triển của các vùng lân cận, làm thay đổi chế độ
thủy văn dòng chảy và gây áp lực đến 90% diện tích ngập nước. Vì theo dự báo,
trong vài chục năm tới, ĐBSCL nước biển sẽ dâng cao làm ngập lụt phần lớn
ĐBSCL vốn đã bị ngập lụt hàng năm, dẫn đến mất nhiều đất nông nghiệp. Sẽ có từ
15.000 – 20.000 km
2
đất thấp ven biển bị ngập hoàn toàn. Lưu lượng nước sông
Mêkông giảm từ 2 – 24% trong mùa khô, tăng từ 7- 15% vào mùa lũ. Hạn hán sẽ
xuất hiện nhiều hơn. Nước lũ sẽ cao hơn tại các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Long
An, Tiền Giang, Kiên Giang, Vĩnh Long, TP Cần Thơ, Hậu Giang, thời gian ngập
lũ tại đây sẽ kéo dài hơn hiện nay. Việc tiêu thoát nước mùa mưa lũ cũng khó
- 22 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
22
khăn. Suy giảm tài nguyên nước sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông
nghiệp, nghề cá. Quá trình xâm nhập mặn vào nội đồng sẽ sâu hơn, tập trung tại
các tỉnh ven biển gồm Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Tiền
Giang, Long An và nước ngọt sẽ khan hiếm.
Trong khi đó, hạn hán có xu hướng mở rộng ở hầu hết các vùng, đặc biệt là
ở các tỉnh Nam Trung Bộ, dẫn đến gia tăng hiện tượng hoang mạc hóa. Theo Bộ
NN&PTNT, trong 9 triệu ha đất hoang hóa ở VN (chiếm 28% diện tích cả nước)
có 4,3 triệu ha đã và đang bị thoái hóa, sa mạc hóa, ảnh hưởng nghiêm trọng đến
đời sống của trên 20 triệu người. Số còn lại là những đụn cát và bãi cát di động ở
các tỉnh ven biển miền Trung; đất khô theo mùa hoặc vĩnh viễn ở Nam Trung Bộ
như: Bình Thuận, Ninh Thuận, Nam Khánh Hoà); đất bị xói mòn ở Tây Bắc, Tây
Nguyên và đất bị nhiễm mặn, nhiễm phèn ở ĐBSCL đã ảnh hướng xấu đến hoạt
động phát triển kinh tế xã hội, xóa đói giảm nghèo ở khu vực nông thôn.
4.2.2. Ngập lụt ngày càng nghiêm trọng hơn
Thiên tai đang diễn ra nhiều nơi trên thế giới tiếp tục là những cảnh báo gửi

tới con người về các tác động do biến đổi khí hậu mang lại. Ngày 2/12, hàng ngàn
người Venezuela đã phải rời bỏ nhà cửa do các trận lở đất và lũ lụt ở khu vực gần
thủ đô Caracas khiến ít nhất 21 người thiệt mạng và hàng chục người khác bị mất
tích. Mưa to và lũ lụt đã khiến hàng nghìn ngôi nhà bị phá hủy, hầu hết số nạn
nhân kể trên bị nước lũ cuốn trôi hoặc bị chết do nhà đổ. Chính phủ Venezuela đã
tuyên bố tình trạng khẩn cấp tại 3 bang. Cơ quan khí tượng Venezuela cho biết,
mưa lớn còn kéo dài vài ngày nữa. Trong khi đó, bang Tamil Nadu của Ấn Độ
cũng đang hứng chịu các trận mưa lớn, gây lụt lội trên diện rộng. Tại khu vực
Cuddalore, gần 50.000 ha hoa màu đã bị phá hủy hoàn toàn và hơn 20 làng ngập
chìm trong nước lũ. Theo Tỉnh trưởng Karunanihi, đã nhận được thông báo về số
người thiệt mạng trong trận lụt nhưng chưa thống kê chi tiết.
Hơn 400 đô thị lớn nhỏ ven biển Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp hoặc
gián tiếp bởi mực nước biển dâng trong khi biến đổi khí hậu đã hiện hữu ở nhiều
- 23 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
23
đô thị của các thành phố lớn – một quan chức ở Cục Phát triển Đô thị cho biết
trong hội thảo biến đổi khí hậu và phát triển đô thị bền vững tại Việt Nam ngày 14
và 15/9/2010 ở Hà Nội.
Trong tổng số 754 đô thị hiện nay, khoảng 405 đô thị lớn nhỏ sẽ bị ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến mực nước biển dâng” – TS.KTS Đỗ
Tú Lan, Phó Cục trưởng Cục Phát triển Đô thị thuộc Bộ Xây dựng Việt Nam cho
biết. Tình trạng gia tăng liên tục của mực nước trên sông Sài Gòn cùng với những
trận mưa lớn xuất hiện ngày càng thường xuyên hơn trong khi hệ thống thoát nước
và kiểm soát triều cường vẫn chưa đủ khả năng đáp ứng đã làm cho tình trạng
ngập lụt đô thị ở TP Hồ Chí Minh ngày càng trầm trọng. Hơn 70 vị trí ngập xuất
hiện ở TP Hồ Chí Minh sau những cơn mưa từ 40mm trở lên ngay cả khi thủy
triều đang ở mức thấp cho thấy dòng chảy tràn đô thị do mưa lớn vượt quá khả
năng thoát nước đang là tác nhân gây ngập chủ yếu hiện nay. Các đô thị trong khu
vực đồng bằng châu thổ như Cần Thơ hay các đô thị nằm gần châu thổ sông Mê

Kông như TP Hồ Chí Minh sẽ không chỉ có nguy cơ bị đe dọa trực tiếp bởi mực
nước biển dâng mà có thể chịu áp lực di cư lớn của từ các khu vực xung quanh.
Không những vậy, các nguồn lực kinh tế-xã hội, chẳng hạn như tiến trình công
nghiệp hóa liên tục và lối sống mới, sẽ tiếp tục kép dòng di cư từ các vùng nông
thôn vào các đô thị.
Việt Nam xếp thứ 4 sau Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh nếu tính lượng
người lớn nhất tuyệt đối sống ở các vùng ven biển có cao độ thấp và dễ bị tổn
thương, được xác định là vùng tiếp giáp dọc theo bờ biển có cao độ thấp hơn 10
mét trên mực nước biển. Khoảng 43 triệu người Việt Nam hoặc hơn 55% dân số
cả nước (38% dân số đô thị Việt Nam) đang sinh sống tại những vùng mực nước
biển dâng. Đây là tỷ lệ phần trăm cao nhất trên toàn thế giới. Theo định hướng
quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2020, quy
mô đô thị từ mức 30,4 triệu người và diện tích 2.432 km2 năm 2010 sẽ tăng
lên 40 triệu người và diện tích 4.600 km2 (chiếm 45% dân số và 1,4% diện
tích cả nước) vào năm 2020.
- 24 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
24
Những đối tượng công trình chịu tác động của biến đổi khí hậu và nước
biển dâng ở các đô thị gồm nhà ở và các công trình công cộng như trường học,
bệnh viện, nhà hát, các công sở, xí nghiệp, trung tâm thương mại.
Biến đổi khí hậu không chỉ đe dọa các đô thị ven biển mà còn tác động rất
lớn đến những đô thị ở vùng núi - các nhà khoa học cho biết như vậy trong hội
thảo “Ô nhiễm không khí, biến đổi khí hậu và tác động sức khỏe ở Việt Nam”
ngày 11/9 ở Hà Nội. "Các vùng ven biển tập trung nhiều khu đô thị nên nước biển
dâng sẽ tác động rất lớn lên khu vực này”, PGS.TS Trần Việt Liễn, Trung tâm
Khoa học Công nghệ Khí tượng Thủy văn & Môi trường, nói: “Lũ quét và sạt lở
đất, đá tăng cũng đe dọa các đô thị vùng núi.
4.2.3. Hiệu ứng đảo nhiệt đô thị
Nền nhiệt độ tăng do biến đổi khí hậu ở nội đô nhanh hơn các vùng ngoại ô,

đặc biệt ở các thành phố lớn. Các đợt nóng đang có xu thế tăng nhanh, nhất là ở
các thanh phố lớn do kết hợp với hiệu ứng đô thị. Các đô thị ở Nam Bộ, ven biển
Trung Bộ xuất hiện nhiều hơn các đợt nắng nóng dị thường. Tăng nhiệt độ không
khí: Nhiệt độ toàn cầu có thể tăng 4
o
C, đến năm 2050 nếu phát thải khí nhà kính
vẫn có xu hướng tiếp tục tăng như hiện nay, một nghiên cứu mới được đưa ra tại
hội nghị khoa học đánh giá về tình trạng và hậu quả của trái đất ấm dần lên tại
trường đại học Oxford (Anh Quốc) ngày 28/9. Các nhà khoa học cũng cho rằng
nhiệt độ ấm dần lên sẽ có ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng đến một số khu vực
như Bắc Cực, Tây và Nam Phi vì tại những vùng này nhiệt độ sẽ tăng thêm tới
10
o
C. Đặc biệt ở Bắc Cực: phát thải khí nhà kính gây ấm nóng toàn cầu làm nhiệt
độ Bắc Cực trong thập kỉ qua lên mức cao nhất trong ít nhất 2000 năm, làm đảo
ngược 1 chiều hướng làm mát tự nhiên đã kéo dài hơn 4 thiên niên kỉ. Điều gì sẽ
xảy ra nếu Bắc Cực không đứng yên tại đó, bởi vì Bắc Cực là máy tạo thời tiết lớn
nhất của Trái đất, còn được gọi là máy điều hòa của Trái đất.
Biến đổi khí hậu đã hiện hữu tại các đô thị Việt Nam khi nền nhiệt độ ở đô
thị cao hơn trung bình so với những khu vực xung quanh. Theo TS Michael
- 25 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
25

×