Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

gía trị kinh tế của rừng ngập mặn và những vai trò của cộng đồng địa phương trong sự giữ gìn tài nguyên thiên nhiên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (695.77 KB, 40 trang )

ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL
COMMUNITIES IN THAILAND
[Type text] Page 1









GIÁ TRỊ KINH TẾ CỦA RỪNG NGẬP MẶN VÀ
NHỮNG VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG ĐỊA
PHƢƠNG TRONG SỰ GÌN GIỮ TÀI NGUYÊN
THIÊN NHIÊN:

NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG CỦA SURAT THANI, PHÍA
NAM, THÁI LAN.

ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL
COMMUNITIES IN THAILAND
[Type text] Page 2



Suthawan Sathirathai


1.0. LỜI GIỚI THIỆU
Hệ sinh thái rừng ngập mặn là một phạm trù rất quan trọng của hệ thống


vùng đất ẩm bờ biển và cửa sông. Những rừng ngập mặn đặc biệt thuộc về vùng
nhiệt đới chí tuyến, giàu trong động vật và thực vật. Môi trường chính dịch vụ bao
gồm sự bảo vệ cơn bão, sự ổn định bờ biển, chống đỡ sự cháy dầu và điều kiện
của sự xói mòn đất và nạn lụt. Chúng cũng là một xuất khẩu sinh khối và là một
vườn đất trong biển. Ở Thái Lan, mặc dù rừng ngập mặn nhanh chóng biến mất ở
nhịp độ đáng sợ, gần 38,909 rai (6,225 ha) mỗi năm (bảng 1.1).
Sự khai thác rừng ngập mặn đã gây ra một số phần lớn, thì sự chuyển đổi
khu vực rừng ngập mặn thành nơi nuôi tôm có cường độ cao đã trở thành một
bước kinh doanh rất liều lĩnh của nhân dân, đặc biệt ở phía Nam Thái Lan.
(CORIN 1995). Rừng ngập mặn ngập nước là mục tiêu cho việc nuôi tôm, bởi vì
vùng bị ngập với nguồn nước mặn trở thành vùng có nhiều tiềm năng cho việc
nuôi tôm (Hassanai 1993). Thật ra, sự chăn nuôi tôm chuối và tôm trơn
(Metapeneaun spp.) đã được thực hiện hơn 50 năm. Trong những phương pháp
truyền thống, rừng ngập mặn chỉ là một phần nhưng cần có cường độ phát triển
cao trong việc chăn nuôi tôm cọp đen (P.Monodon) hoàn toàn thay đổi của vùng
rừng ngập mặn. Kiểu nuôi tôm này đã bắt đầu sớm hơn năm 1974. Tuy nhiên, vào
năm 1985 khi nhu cầu đánh bắt tôm của Nhật Bản càng ngày càng cao đã nay giá
cả lên 100$ /kg theo từng loại tôm và nghề nuôi tôm đã bùng nổ với cường độ cao
(Bantoon 1994).
Sự phá huỷ vùng ngập mặn cũng được quy vào sự thất bại chính sách. Mặc
dù rừng ngập mặn ngập nước là mục tiêu cho việc nuôi tôm, những vùng không
ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL
COMMUNITIES IN THAILAND
[Type text] Page 3

cần khai thác quá mức nhưng kết quả chưa hợp lý bởi việc khai thác rừng ngập
mặn quá mức độ, chưa theo ý định. Tuỳ theo quốc hội đưa ra, tất cả vùng ngập
mặn thuộc về chính phủ, được chế độ Bộ Lâm Nghiệp chịu trách nhiệm duy nhất
mạnh mẽ về việc canh giữ và bảo vệ vùng rừng ngập mặn. Tuy nhiên trong thực tế
rừng ngập mặn đã trở thành vùng tiềm năng kinh tế cho bất cứ ai muốn xâm chiếm

đất rừng ngập mặn. Trước đây, những khu vực là đất hoang cằn cỗi mà có thể cải
tạo đất để hoạt động kinh tế phát triển hữu ích cao (Hamilton và Snedaker 1984).
Hơn nữa, quốc gia kiếm được hơn $1200 triệu mỗi năm từ xuất khẩu tôm đông
lạnh (NESDB 1995). Như vậy chính phủ xem xét Bộ Thuỷ Sản (DOF) được theo
một điều khiển thiết lập chăn nuôi tôm mạnh mẽ thêm. Trong thực tế, nghề chăn
nuôi bất chấp thì khuyến khích nghề chăn nuôi không quan tâm đến khu vực trồng
trọt vào địa điểm. Rõ ràng sự thiếu sót chính sách gồm có không chỉ vấn đề của
một bất động sản không đúng chế độ, nhưng cũng có sự mâu thuẫn trong mục tiêu
chính sách bảo vệ đối với xuất khẩu.
Thật ra chính nghề nuôi tôm không ảnh hưởng đến môi trường mà cho rằng
dự phòng phí nước từ nông trại đã được thương lượng tốt trước khi thải vào hệ
thống nước. Những vấn đề đấu tranh xảy ra khi nuôi tôm trong khu vực sinh thái
rừng ngập mặn, vì việc nuôi tôm được cao “giá thị trường “ hơn so với rừng ngập
mặn , chính phủ đã đẩy mạnh vào việc chăn nuôi tôm và sự đẩy mạnh này đã đánh
giá rất cao với kết quả giá trị kinh tế. Toàn bộ giá trị kinh tế của rừng ngập mặn đã
đánh giá thấp bởi vì nó không có thị trường liên quan tới xã hội. Rừng ngập mặn
là thành phần tự nhiên, cho nên đầu tiên chọn chính sách một cách phù hợp nhất,
đó là điều cần thiết để đánh giá chính xác với giá trị của rừng ngập mặn và so với
việc chăn nuôi tôm hiện nay.
Ngoài ra, “vấn đề công lý” cần phải suy nghĩ sâu xa việc chăn nuôi tôm đã
thành công là vấn đề quan trọng nhất, nó cần phải có công nghệ hiện đại mà có giá
trị cao đối với người chăn nuôi quy mô nhỏ, một số lớn đã bị bỏ rơi bởi vì thiếu
nước để khai thác, bản chất và kết quả gây hại tới con tôm và kiến thức thực te
ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL
COMMUNITIES IN THAILAND
[Type text] Page 4

(CORIN 1995). Nó thích hợp với việc nuôi tôm hầu như hoàn toàn với một công
việc kinh doanh quy mô lớn, hợp thời. Nó cũng quan trọng nhưng cần chú ý một
số nhỏ dân chài trong phía Nam Thái Lan đã tuyên bố bạo động phản đối với việc

nuôi tôm. Đây là một số nhỏ dân chài tin vào cuộc sống của họ dựa vào nghề đánh
cá biển, đó có lợi trực tiếp từ hệ sinh thái rừng ngập mặn. Từ một cuộc phỏng vấn
đầu tiên với người thủ lĩnh của một làng đánh cá trong xã Surat Thani đã cho biết
rằng dân làng đã thực hiện rõ rằng mà rừng ngập mặn đã bị tàn phá sau khi thương
nghiệp nuôi tôm đã vào trong khu vực của họ. Như một kết qua, họ có thể nhận
xét rõ rằng với sự giảm sút sinh lợi của sản phẩm đánh cá của họ và hơn nữa
chung bắt đầu bị tổn hại từ nổi sóng gió và cơn bão, trong sự phản ứng lại dân làng
đã tổ chức thành nhóm để bảo vệ khu vực rừng ngập mặn mà còn lại để chống với
chăn nuôi tôm. Trường hợp này không chỉ có trong xã này, trong xã Songkhla
Lake Basin, cũng có dân chái trong xã đã phản đổi với sự tấn công của việc nuôi
tôm trong khu vực của chúng. Trong một số dân làng, người đánh cá đã cố gắng
khôi phục lại khu vực rừng ngập mặn. Nhưng lợi ích vô hình của rừng ngập mặn
cho cộng đồng địa phương không thể được đánh giá. Hơn nữa, dưới pháp luật hiện
nay, nhân dân địa phương không có sở hữu để bảo vệ rừng mặc dù rừng ngập mặn
đã công nhận với sự cố gắng của chúng. Nhưng đây là thời gian chuyển tiếp cho
một điều kiện mới đối với chính sách và dần dần pháp luật này có thể được thay
đổi. Mới đây đã có một số phát triển trong chính sách đối với sự bảo tồn rừng ngập
mặn, nhưng dưới sự tham gia của cộng đồng địa phương trong hoạt động bảo tồn.
Bộ Nông Nghiệp và cộng đồng thuộc về rừng ngập mặn đã công bố mới đây với
sự bảo tồn rừng ngập mặn phải được nghiêm trọng, nó là việc cần phải quan tâm
tới, chống khai thác rừng ngập mặn và sử dụng khu vực rừng ngập mặn. Rộng cả
nước, đây là cách đặc biệt để áp dụng với khu vực rừng ngập mặn mà đã phá
hoang để trở thành chỗ nuôi tôm. Hiện nay mặc dù quyền khai thác với sự khai
khẩn rừng của đất, rừng đã bị cấm hơn 5 năm nhưng việc cấm đó chưa được áp
dụng cho rừng ngập mặn. Sự hoạt động chính sách thứ hai liên quan tới sự lập
ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL
COMMUNITIES IN THAILAND
[Type text] Page 5

pháp mới trên cộng đồng rừng mà sẽ tuyên bố sớm. Hiện tại, cộng đồng đã lập

danh sách trong quá trình đề nghị hiện thời với sự tham khảo đầu tiên của nhà lập
pháp. Như vậy nó là sự quan trọng để điều tra với lợi ích của rừng ngập mặn cho
cộng đồng địa phương và đã khuyến khích thật sự với việc bảo vệ có hiệu quả tới
khu vực rừng ngập mặn. Tóm lại, mục tiêu nghiên cứu với việc kiểm soát chặt chẽ
sự phân tích kinh tế đã sử dụng kỹ thuật với giá trị để đánh giá ích lợi của rừng
ngập mặn so với lợi ích từ việc thay đổi khu vực rừng ngập mặn trở thành khu vực
nuôi tôm.
Trường hợp này nó giống trường hợp Ban Tha Po Moo 2 trong thị xã Tha
Thong, xã Kanjanadit của tỉnh Surat Thani trong đó 2.500 rai(400 ha). Rừng ngập
mặn đã được bảo vệ bởi người dân làng. Lợi ích của rừng ngập mặn với người dân
làng đã được đánh giá:
1.2 . Mục đích nghiên cứu :
Dự án nghiên cứu này thì dựa vào giả thuyết sau 1) Sự chuyển đổi hoàn
toàn của rừng ngập mặn trở thành thương nghiệp nuôi tôm đã không được đánh
giá nếu lợi ích của rừng ngập mặn that sự được đánh giá. 2) Lợi ích từ rừng ngập
mặn có thể cung cấp sự khuyến khích cho cộng đồng địa phương để bảo vệ sinh
thái. Sau đó, nếu chứng tỏ đúng hàm ý rằng quyền lợi của cộng đồng địa phương
này để canh giữ và bảo vệ tài nguyên đã được công nhận đúng theo pháp luật.
Mục tiêu nghiên cứu như sau:

1. Kiểm soát sự đánh giá kinh tế của khu vực rừng ngập mặn đã lựa chọn
để đánh giá cả giá trị thị trường và không có thị trường của khu vực bảo trợ a) một
số hoạt động kinh tế tức là bao gồm gỗ, sản phẩm phu và nghề đánh cá b) dịch vụ
sinh thái và môi trường như xuất khẩu biomass và dịch vụ vùng đáy biển cho
cuộc sống quan trọng đối với nghề đánh cá. Nhiệm vụ khác gồm có sự tịch thu
cacbon, sự baỏ vệ cơn bão, ổn định bờ biển và kiểm tra sự xói mòn đất và lũ lụt.
Những giá trị này là lợi ích đã tính của rừng ngập mặn mà có thể so sánh với thực
ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL
COMMUNITIES IN THAILAND
[Type text] Page 6


giá thu vào từ sự thay đổi toàn bộ của khu vực rừng ngập mặn trở thành sự nuôi
tôm có cường độ cao. Nó đã cho rằng NB
m
thay mặt lợi ich xã hội(gồm có lợi ích
môi trường và sinh thái) từ rừng ngập mặn, trong khi NB
m
tương đương với lợi ích
xã hội từ sự thay đổi toàn bộ của khu vực rừng ngập mặn sang thương mại nuôi
tôm. Sự thay đổi có giá trị chỉ khi NB
s
> NB
m
, nhưng cũng phải chú ý mà NB
m

trong trường hợp này thay mặt giá trị thấp nhất của rừng ngập mặn từ khi giá trị sử
dụng được tính đến, hơn nữa nhiều bằng chứng đã chỉ định rằng nhiều khu vực
rừng ngập mặn đã thay đổi toàn bộ vào trong thương mại nuôi tôm và cũng trở
thành nước cường toan để chống đỡ hoạt động trong thời gian dài và sẽ bị bỏ rơi
dần dần. Sự thất bại này sẽ được tính đến khi giá trị của sử dụng rừng ngập mặn
vào thương mại nuôi tôm đã được so sánh.
2. Đề đánh giá tiềm năng vai trò của cộng động địa phương trong việc bảo
vệ rừng ngập mặn. Lợi ích của rừng ngập mặn đến nhân dân địa phương sẽ trở
thành thuế trực thu và cần nhắc lại chi phí đã chịu từ tổ chức bảo vệ của khu vực.
Sự phân tích về tài chính của việc lựa chọn đất dùng, mà trong trường hợp thương
nghiệp nuôi tôm cũng sẽ hướng dẫn trong tố chức đến sự hiểu biết việc khuyến
khích và vai trò của sự giúp đỡ cho việc bảo tồn rừng ngập mặn

2.0 GIÁ TRỊ KINH TẾ CỦA RỪNG NGẬP MẶN

2.1. Các phƣơng pháp :
2.1.1. Tổng quát phương pháp cách tiếp cận và giá trị sử dụng:
Phương pháp giá trị kinh tế cần phải đánh giá tiền tệ với sự thay đổi trong
sự ấm no của mỗi người bởi sự thay đổi chất lượng môi trường. Đây là giá trị đánh
giá đã biết theo tổng giá trị kinh tế (TEV) mà gồm có giá trị sử dụng (UV) và giá
trị không sử dụng (NUV). Giá trị sử dụng có thể được chia ra là giá trị sử dụng
trực tiếp (IUV) và giá trị lựa chọn (OV). Giá trị gián tiếp thì xác định và đánh giá
hơn, có thể chia ra giá trị tồn tại (EV) và giá trị đề lại (BV) (xem hình 2.1)
ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL
COMMUNITIES IN THAILAND
[Type text] Page 7

Có một lý lẽ mà TEV không tương đương với tổng giá trị môi trường (TV
của một tài nguyên). TEV gồm có cả thuyết nhân loại bản vị dùng làm phương
tiện và giá trị thực chất. TV gồm có giá trị TEV cộng với giá trị dùng làm phương
tiện mà đó không có liên quan tới con người (giá trị dùng làm phương tiện không
thuyết nhân loại bản vị) (CSERGE 1995). Có 3 phương pháp khác nhau được sử
dụng để xác định hệ sinh thái vùng đất ẩm.
1) Cho nó tự phát triển và bảo trì tự nhiên mà có thể tìm đến tích tụ và tự
thành lập khả năng của vùng đất ẩm.
2) Xuất khẩu với hệ sinh thái khác.
3) Xuất khẩu tới xã hội con người.

Tổng giá trị kinh tế (TEV)





Giá trị sử dụng (UV) Giá trị không sử dụng (NUV)







Giá trị sử dụng Giá trị sử dụng Giá trị lựa chọn Giá trị tồn tại (EV)
trực tiếp gian tiếp (OV) or Giá trị đề lại (BV)


ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL
COMMUNITIES IN THAILAND
[Type text] Page 8


Sản phẩm Lợi ích Lợi ích Lợi ích
- Giá trị sử dụng - bảo trợ nghề - Giá trị của sự điều tra - Giá trị của tài
tiêu thụ đánh cá đã tặng lên trong sản sinh ra trong
- Giá trị sử dụng - bảo vệ cơn tương lai tương lai
không tiêu thụ bão, etc.

Nguyên bản: điều chỉnh từ Barbier (1993)
Hình 2.1 Tổng Giá Trị Kinh Tế
Dựa vào loại sử dụng khác nhau này, giá trị tổng cộng của vùng đầm lầy
TV có thể chia ra 2 giá trị:
1) Giá trị đầu tiên hoặc “giá trị gắn lại” (glue value) ( ví dụ :giá trị khả
năng thiết lập của sinh thái)
2) Giá trị thứ nhì là giá trị sử dụng khác nữa và có thể định rằng là giá trị
sản phẩm, trợ sinh và dịch vụ sinh thái mà khả năng tự thiết lập đã sinh ra(Gren
et.1994). Mặt khác, tổng giá trị của hệ sinh thái vùng đầm lầy gồm có giá trị đầu

tiên mà thật ra là giá trị phương tiện không thuyết nhân loại bản vị và giá trị thứ
nhì gồm có cả phương tiện thuyết nhân loại bản vị và giá trị thực chất. Sau đó
thích hợp với TEV (tổng giá trị môi trường).
Mặc dù giá trị đầu tiên không liên quan trực tiếp tới con người, nó là giá trị
tăng viện tự nhiên tới sự tồn tại của hệ thống và sự tiếp tục. Tuy vậy, giá trị này có
thể được đánh giá một cách thô bạo theo sử dụng với sự tránh né gây thiệt hại chi
phí dự phòng hoặc phương pháp định giá thay thế. Ví dụ: với mục đích để xác
định số lượng giá trị trợ sinh của một vùng sinh thái đầm lầy đã nghiên cứu về
con người trong một giai đoạn mà đã thực hiện trong đảo Gotland trong nước
Thụy Điển, thì đã sử dụng sự phân tích năng lực( Folke 1991). Nó là điều kiện
chung trong sinh thái tới sự đánh giá tiềm lực của hệ sinh thái để phát sinh nhiệm
vụ sinh thái và dịch vụ theo đo số lượng của năng lượng với việc thu bằng sự
ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL
COMMUNITIES IN THAILAND
[Type text] Page 9

quang hợp. Bởi vậy sự điều tra đánh giá sự thất bại trong khả năng phát triển của
vùng đầm lầy trong hoạt động thu năng lượng mặt trời và phải sử dụng cây kim để
giảm bớt chức năng giá trị của vùng đầm lầy. Phương pháp tiếp cận thay thế thất
bại này với công nghệ mà con người đã làm ra.
Lý do này đã được đưa ra trình bày với mục đích bình luận tài liệu mà nhận
thấy quan trọng của sự khác nhau trong việc suy nghĩ bài học. Nhưng nó không có
liên quan nhiều tới việc nghiên cứu này mà đặt vào sự nhấn mạnh trên giá trị kinh
tế hoặc để gọi là giá trị đầu tiên của hệ thống rừng ngập mặn. Có 2 phương pháp
tiếp cận lớn đã được tính (Thurairaja 1994). Phương pháp tiếp cận thứ nhất : đánh
giá chung, là đánh giá tổng giá trị kinh tế (TEV) của rừng ngập mặn mà dựa trên
lợi ích của họ vaò trong giá trị sử dụng và giá trị không sử dụng mà đã điều tra
trước (bảng 2.1). Phương pháp 2 chọn 1 hạng của giá trị rừng ngập mặn vào trong
4 phương vị (bảng 2.2). Phương pháp này cũng có thể thích hợp với 2 loại lớn của
sự đánh giá như phân loại theo Barbier: phân tích sự tác động và đánh giá từng

phần (1993). Thay thế vào sự đánh giá trực tiếp tổng giá trị kinh tế của rừng ngập
mặn. Phương pháp này đã tập trung trên sự đánh giá lợi ích từ bỏ của tài nguyên
và so sánh nó với lợi ích kinh tế với sự đổi khu vực vào trong khu vực sử dụng
thay thế như lúa ngập nước, cây mía và việc nuôi tôm.(Dixon và Lal 1994)
Một ví dụ quan trọng của phương pháp thứ hai là trường hợp nghiên cứu
theo sự hướng dẫn của Hodgson và Dixon (1988) tới việc điều tra tác động khai
khẩn rừng rất mạnh với sự trầm tích trên cảnh xung quanh biển của Bacuit Bay,
Palawan, của nước Philippines. Sự phân tích đã giảng giải với sự xuất hiện hoạt
động đốt phá rừng trong bước ngoặt của Bacuit Bay, không thể bù lại của lợi ích
đã nhận được từ nghề đánh cá biển và du loch trong khu vực. Hiệu quả chính sự
trầm tích trên bảo hộ động vật tạo san hô và sự khác biệt nhau với giá trị sử dụng
gián tiếp quan trọng trong việc bảo trợ nghề đánh cá biển. Sự thiệt hại của động
vật tạo san hô, đá ngầm và tính chất nước sạch cũng bị ảnh hưởng đến du lịch
trong điều kiện của phương pháp. Theo văn kiện quan trọng của Barbier (1994) đã
ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL
COMMUNITIES IN THAILAND
[Type text] Page 10

thảo luận giá trị của nhiệm vụ môi trường,của vùng đất ẩm nhiệt đới với sự nhấn
mạnh trên nhiệm vụ kiểm soát sinh thái của họ trong việc bảo hộ hoặc bảo vệ hoạt
động kinh tế. Văn kiện đã cung cấp lý luận đào tạo tốt và hy vọng đưa ra phương
pháp để sử dụng trong việc đánh giá giá trị sử dụng gián tiếp tơí người kiểm soát
vùng đầm lấy, trong văn kiện, mô hình kiểm tra lạc quan đã được dựng lên giống
như mô hình trong trường hợp không thể đổi mới được của nguồn gốc tài nguyên .
Nhưng trong mô hình đất ẩm lợi ích trong việc sử dụng Situ của tài nguyên đất ẩm
được quan tâm tích trữ từ lâu và tài nguyên đất ẩm không phải chỉ có sử dụng mà
cũng phải quan tâm đặt trong chức nặng sản xuất nhiều với sản phẩm khác của
vùng đẩm lấy, chắng hạn nhiệm vụ môi trường rừng ngập mặn có thể bảo trợ nghề
đánh cá bởi cung cấp nơi cho cá con. Nếu lới ích đã định trước trong việc sử dụng
Situ của tài nguyên đất ẩm, phớt lờ đi thì vấn đề sễ giảm tới tính trạng bình thương

mà không thể thay đổi nguốn gốc tài nguyên được. Trong tính trạng này, cơ hội đề
biến đổi tài nguyên này vào trong một phương thức sử dụng sẽ được đánh giá
thấp, và sẽ dẫn tới việc sử dụng đất ẩm quá nhiều.
Căn cứ theo sự phân tích, áp tới hàm số sản xuất thì có liên quan với
phương pháp đánh giá thì sử dụng trong sự bắt lấy giá trị sử dụng gian tiếp của tài
nguyên đất ẩm (Barbier 1994).
Sự tin rằng tài nguyên đất ẩm phục vụ mỗi sản lượng trực tiếp hoặc đặc biệt
sản lượng đưa vào gian tiếp, trong thời gian kiểm soát nhiệm vụ sinh thái của họ
trong việc bảo trợ hoạt đồng kinh tế. {Q = F(X
i
……X
k
S); mà Q là một sản phẩm
từ bắt lấy phụ thuộc loại rừng ngập mặn ; S là khu vực rừng ngập mặn, X
i
……X
k

đặt vào tiêu chuẩn cho khu vực đánh cá}. Mô hình phát triển theo Ellis và Fisher
(1987) cũng đã sử dụng phương pháp hàm số sản xuất để điều tra nhiệm vụ môi
trường của vùng đẩm lấy Gulf coast trong việc bảo trợ thương nghiệp đánh con
cua biển.
Sử dụng phương pháp hàm số trong trường hợp này thì đơn gian bởi nó chỉ
có sử dụng một hệ thống. Nhưng khi kiểm soát một chức nặng sinh thái đã bảo trợ
ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL
COMMUNITIES IN THAILAND
[Type text] Page 11

mạnh hơn. Hoạt động kinh tế hoặc khi có sự kiểm soát chức năng sinh thái nhiều,
đây được trở thành một trường hợp đã sử dụng nhiều hệ thống mà trong đó sử

dụng phương pháp chức năng sản xuất có thể khó hơn. Hơn nữa sự cố gắng tập
hợp lại tổng giá trị kinh tế của vùng đầm lấy từ nhiều giá trị sử dụng cũng có thể
phức tạp bởi gấp đôi vấn đề và sự tương xứng giữa giá trị trực tiếp khác nhau và
giá trị sử dụng gián tiếp (Aylward và Barbier, 1992).
Sự nghiên cứu này không chấp nhận trực tiếp tổng giá trị (tập hợp lại tổng
giá trị kinh tế). Thay thế nó theo phương pháp thứ hai, làm sao để lợi ích đã định
trước của rừng ngập mặn là đánh giá và so sánh mà sử dụng một phương pháp, đó
là sự chuyển đổi thành nội nuôi tôm, nhưng nó có thể chú ý bởi sự chấp nhận
phương pháp này, quyền chọn lựa và giá trị tồn tại thì bị bỏ sót một cách hoàn
toàn. Trong việc đánh giá giá trị kinh tế của rừng ngập m ặn, sự nghiên cứu này đã
nhấn mạnh chỉ một “giá trị sử dụng” mà gồm có giá trị sử dụng trực tiếp. Giá trị
của biodiversity và không dùng giá trị rừng ngập mặn thì không thể đánh giá được
trong việc nghiên cứu này. Có thành phần khác của giá trị sử dụng mà có thể nghĩ
đến , nhưng nó không thể tìm được địa chỉ trực tiếp của họ. Việc nghiên cứu hiện
tại đã nhận ra 4 thành phần mà kiểm soát số liệu kể cả lợi ích của việc sử dụng giá
trị kinh tế có ích. Thành phần này gồm có giá trị sử dụng trực tiếp của rừng ngập
mặn trong điều kiện :
1) Cách sử dụng cộng đồng địa phương và giá trị sử dụng gián tiếp trong
điều kiện.
2) Sự kết hợp nghề đánh cá biển
3) Bảo vệ bờ biển
4) Sự hấp thụ cacbon, tuy thế mà đã nhấn mạnh trong hai thành phần đầu
tiên( i.e sử dụng địa phương vàsự kết hợp nghề đánh cá biển).
2.1.2. GIá trị sử dụng trực tiếp :giá trị sử dụng địa phương :
Giá trị sử dụng trực tiếp của rừng ngập mặn dựa trên địa phương có thể sử
dụng đánh giá từ việc thu nhập sản xuất theo địa phương từ rừng ngập mặn trong
ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL
COMMUNITIES IN THAILAND
[Type text] Page 12


điều kiện đốt phá rừng, gỗ để đốt, gỗ khác và sản phẩm động vật như :chim, cua,
tập trung trực tiếp từ rừng ngập mặn ngập nước. Nếu sản phẩm đã bán được giá thị
trường thì sử dụng để tính toán tất cả thu nhập sản xuất, nhưng khi sản phẩm được
sử dụng chỉ có cho mục đích tồn tại, tổng thu nhập đã đánh giá dựa trên giá thay
thế với 2 loại đã có thể thực hiện theo phương pháp. Phương pháp thứ nhất thì sử
dụng giá trị thị trường mà đóng sản phẩm thay thế. Phương pháp thứ hai thì sử
dụng thời cơ đánh giá mà đã dùng thời gian tịch thu sản phẩm. Nhưng giá lấy ra
phải trừ từ tổng thu nhập và sẽ tìm ra giá trị sử dụng trực tiếp.
Giá trị sử dụng trực tiếp trong địa phương = thu nhập sản xuất cho địa
phương sử dụng = ∑ {P
1
Q
1
– C
1
}
Địa điểm P
1
= giá sản phẩm i ,Q
1
= số lượng sản phẩm i đã được thu lại , C
1

= giá thu hút trong khi thu lại sản phẩm i.
Sự điều tra thường dùng đã dẫn đến đạt được tần số và số lượng thu lại sản
phẩm lớn từ rừng ngập mặn, cũng như sức lao động đã dùng trong thu lại sản
phẩm đó. Kết quả đã trình bày trong chương 2.2.2.
2.1.3. Giá trị sử dụng gián tiếp : Sự kết hợp nghề đánh cá
Giá trị sử dụng gián tiếp xác định bởi góp phần vào tài nguyên trong điều
kiện môi trường của chúng và chức năng sinh thái rừng ngập mặn là bảo trợ sản

phẩm hiện thời và sự tiêu dùng. Một chức năng sinh thái quan trọng của rừng ngập
mặn là bảo trợ tới nghề đánh cá bởi dịch vụ đáy biển. Mặc dù sản phẩm từ nghề
đánh cá đã giảm thì đặc tính trung bình với sự đánh cá quá mức( khu vực bờ biển
là vấn đề chung để mở đường ). Tình trạng giảm sút của khu vực rừng ngập mặn là
một kết quả xấu. Từ sự phỏng vấn điều khiển trong Surat Thani (đã xem trong
chương 4.2 ). Nhìn thấy rõ sau khi chăn nuôi tôm, đã rút lui một khu vực lớn của
rừng ngập mặn, dân làng có thể nhận xét rõ ràng với sự giảm sút sinh lợi sản phẩm
đánh cá của họ.
Vài thực nghiệm học (trong nước khác) đã làm đề đánh giá giá trị rừng
ngập mặn đặt vào sản phẩm nghề đánh cá nhưng sự đánh giá dựa vào trung bình
ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL
COMMUNITIES IN THAILAND
[Type text] Page 13

trên đơn vị đo lường và chỉ có thay đổi lợi ích hoặc tất cả lợi nhuận , thay vì lợi
nhuận chính như indicators trong sự thay đổi trợ cấp xã hội. Đây không có tính
chất lý thuyết chính xác và nó đã bỏ thời cơ đánh giá sản phẩm và cung cấp dịch
vụ (Ellis và Fisher 1987). Trợ cấp xã hội được ưu đãi với đơn vị đo lường trong
trường hợp này thì dựa trên việc thay đổi phối hợp với người tiêu dùng và nhà sản
xuất thặng dư.
Sự nghiên cứu hiện nay đã cố gắng thực hiện với giá trị rừng ngập mặn
trong điều kiện bảo trợ nghề đánh cá bởi thực hành mô hình trong giá trị mà tập
trung vào một điểm xác định theo thay đổi người tiêu dùng thặng dư. Thật ra,hiện
tại có 3 mô hình thích hợp với sự nghiên cứu này. Mô hình 1, phát triển đầu tiên
bởi Ellis và Fisher (1987) và hiện đại hoá bởi Freeman III (1991), không lưu tâm
đến sinh vật học. Mô hình 2, nó đã được thừa nhận phối hợp với mối quan hệ kinh
tế sinh vật theo Karl-Goran Maler(1996)
3
. mô hình 3, phát triển theo Dr.Edward
Barbier và Professor Ivar Strand (1997)

4
thì dựa trên hệ thống cân bằng sinh vật
học và kinh tế. Vì một số vấn đề dữ liệu và thời gian hạn chế, chỉ có một mô hình
1 đã thực hành trong việc đánh giá giá trị kinh tế rừng ngập mặn trong điều kiện
bảo trợ nghề đánh cá biển. Mô hình đã chọn thì được mô tả tóm tắt như sau :
. Mô hình Ellis –Fisher –Freeman
Mô hình dựa trên công việc của Lynne (1981) thì đã nghiên cứu mỗi quan
hệ của vùng tự nhiên đầm lầy với năng suất kinh tế (con cua xanh) trên biển
Florida. Người sáng tạo đã chọn mô hình kinh tế sinh vật liên quan khu vực đầm
lầy để chụp lấy tỉ lệ áp dụng theo một nhóm nhà sinh vật và theo mô hình của
Schaffer. Sản phẩm lề của vùng đầm lầy đã đánh giá bằng cách thực nghiệm.
Nhưng giá trị sử dụng gián tiếp của vùng đầm lầy trong điều kiện sản phẩm (con
cua xanh) đã được tính toán dựa trên giá trị sản phẩm lề theo trường hợp này đã
xem xét theo Ellis và Fisher(1987) với sự không thành công, việc đánh giá thay
đổi trong người tiêu dùng và nhà sản xuất thặng dư ,đã kết hợp mạnh hơn với khu
vực đầm lầy dựa trên số liệu và sự điều tra từ Lynne. Tất cả công việc của Ellis và
ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL
COMMUNITIES IN THAILAND
[Type text] Page 14

Fisher (1987) đã phát triển. sự dùng mô hình Cobb-Douglas từ đại biểu của sản
phẩm con cua xanh đánh giá vấn đề sắc mặt theo giá thương hồi :
max P* f (E,A) – cE

A

P :giá; E :động lực con người mà đánh giá theo số đặt bẫy.
A
-
:khu vực đầm lầy trong mẫu Anh mà tính toán exogeneous trong vấn đề

này. Và C :đơn vị giá động lực.
X là số lượng bắt cua phụ thuộc trên động lực con người và khu vực đầm
lầy mô ta theo chức năng sản phẩm Cobb-Douglas
X = f (E,A
-
) = m E
a
A
b

Dù rằng, tính đối ngẫu của lợi ích tối đa( làm tăng lên đến cực độ ) giá động
lực
Min L = cE +(X - m E
a
A
b
)
E
Phân biệt Lagrangean với mối quan hệ thay đổi động lực và Langrange.
Người làm cho bội lên sinh lợi

0
1



a
b
aEAmc
E

L




0


b
a
AmEx
L


Từ ở trên , E có thể giải quyết cho chức năng động lực ,

a
b
Am
X
E
1
][

Mà lợi ra chức năng đánh giá
ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL
COMMUNITIES IN THAILAND
[Type text] Page 15

a

b
aa
AXcmAXcC
11
),,(



Trong mô hình Ellis và Fisher đã cho rằng nghề đánh cá dưới chế độ hoàn
toàn sở hữu cá nhân. Như vậy giá thì bằng chí phí lề (MC). Theo phân biệt hàm số
chí phí với mỗi sản lượng. Chí phí lề có thể biểu diễn :

a
a
a
b
a
XAm
a
c
X
C
MCP
)1(
)
(
1










Cho rằng iso-elastic cần phải chức năng: X=DP
-d
, ngược lại với chức năng
P = D
1/d
X
-1/d
Dưới chế độ hoàn toàn sở hữu cá nhân, lợi ích tối đa thương hồi sẽ cho giá
bằng nhau với chi phí lề. Số lượng bình quân có thể giải quyết như :

 
addda
a
b
ad
AmD
c
a
X
)1(/
11
}{





Dù rằng người được hưởng đặc quyền(Freeman III .1991) đã chứng tỏ rằng
thật ra với nghề đánh cá phần lớn của tài nguyên thì ở dưới tình trạng mở cửa thị
trường. Trong điều kiện này tổng lợi tức thì bằng tổng giá phí tổn và tổn giá thì
bằng giá phí bình quân (AC), thay thế giá phí tổn lề. Đơn vị tổn phí của động lực
,c, đã dẫn tới sự thích hợp với không có lợi ích.

 
a
a
a
b
a
XAcm
X
AXcC
ACP
)1(
)(
1
,,






Đã cho nhu cầu chức năng iso- elastic, số lượng bình quân có thể giải quyết
với :

])1(/[
11
}
1
{
addda
a
b
ad
AmD
c
X



ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL
COMMUNITIES IN THAILAND
[Type text] Page 16


Bởi vậy, có thể tính cả số lượng bình quân và giá kết hợp với trình độ khác
nhau của vùng đầm lầy mà có thể ước lượng. Sự phát triển trong vùng đầm lầy sẽ
hạ xuống tổn phí và từ bây giờ sẽ nay tới giá thấp. Nhưng dưới sự mở cửa , hạ
xuống tổn phí sẽ kéo lại động lực mới mà thậ ra cuối cùng sẽ thặng dư tất cả sản
phẩm, chỉ có người tiêu dùng sẽ có lợi ích. Giá trị phát triển trong vùng đầm lầy có
thể đánh giá trong điều kiện kết hợp mạnh thêm với người tiêu dùng thặng dư như
đã thấy theo khu vực bóng mát trong hình 2.2 với một chế độ hoàn toàn sở hữu cá
nhân, giá trị phát triển trong vùng đầm lầy có thể, nhưng trong điều kiện đánh giá
phải kết hợp mạnh trong trong cả nhà sản xuất và người tiêu dùng như đã nêu ra
với khu vực A trong hình 2.3.

2.2 Giá trị kinh tế của rừng ngập mặn :trƣờng hợp nghiên cứu của Surat
Thani, phía Nam Thai Lan.
2.2.1. Sự điều tra :
Trong sự đánh giá giá trị kinh tế của rừng ngập mặn, xã Tha Po đã được
chọn làm một vị trí để nghiên cứu. Xã Tha Po Moo 2 đã hơn 100 năm với dân số
652 người(131 gia đình) dân làng chủ yếu là dân đánh cá. Xã này trên vị trí bờ
biển, ở dưới quận Tha Thong, huyện kanjanadit, tỉnh Surat Thani bao trùm vùng
rừng ngập mặn với quy mô rất rộng và đang bao phủ khoảng 7,000 rai(1120 ha).
Trước đây dân làng đã phụ thuộc phần lớn vào rừng ngập mặn để làm
phương tiện sinh sống, nhưng ở thập kỷ trước đây, 4,000 rai (640 ha) của khu vực
rừng ngập mặn dọc theo bờ biển đã được phá hoang để làm thương nghiệp nuôi
tôm. Sau đó đa số chính là người ngoài làng, nói chung là người kinh doanh từ
Bangkok và một số thành phố khác. Dân làng đã quyết định dự trữ khu vực rừng
ngập mặn còn lại trong nước 3,000 rai (480 ha) cho cộng đồng. Tuy nhiên, 500 rai
của khu vực rừng ngập mặn khác nữa đã nay mạnh xâm chiếm trên khu vực. Đến
năm 1993, dân làng đã tổ chức cho họ với sự nhất quyết lại sự xâm lấn rừng ngập
ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL
COMMUNITIES IN THAILAND
[Type text] Page 17

mặn để làm một nơi nuôi tôm. Họ đã đề nghị theo một chứng thư để chống án tới
Bộ Nông Nghiệp và hợp tác.
Căn cứ theo luật pháp, khu vực rừng ngập mặn thuộc về dưới thẩm quyền
chính phủ của Ban Lâm Nghiệp (RFD). Nhưng trong thực tế, những khu vực hầu
như đã được mở cửa, mà có thể xâm chiếm được khu vực trên. Sau khi khu vực
lớn của rừng ngập mặn đã tàn phá,riêng vấn đề tài nguyên và môi trường đã suy
đổi như làm suy tàn rất nghiêm trọng đến sinh lợi nghề đánh cá. Một vấn đề nữa,
một số dân làng đã rời nhà của họ để đi tránh xa trong khi có cơn bão mạnh.
Không có cơ hội nào để ngăn trở trực tiếp trong việc kinh doanh nuôi tôm, dân
làng cũng bị tổn hại từ ô nhiễm nước và muỗi – vấn đề gia tăng trong khu vực

nuôi tôm.
Dân làng đã quyết định thành lập một nhóm để bảo vệ 2,500 rai(400 ha)
còn lại trong đất rừng ngập mặn. Chúng tiếp tục phản đối lại với người kinh doanh
nuôi tôm mà đa số là dân tự có quyền lực. Nhưng trước đây, nhân viên của Ban
Lâm Nghiệp,ai có quyền lực pháp luật trong khu vực mà không có baỏ trợ từ ho,
trình bày theo pháp luật thì không có xác nhận cho họ đúng, nó chỉ mới xảy ra mà
đã được tiến bộ. Bộ Lâm Nghiệp trong địa phương đã bắt đầu chú ý tới sự quan
trọng của rừng ngập mặn, đặc biệt trong động lực môi trường sống quan trọng nhất
là những con chim. Bây giờ họ muốn chỉ định bao phủ rừng ngập mặn như bảo vệ
rừng và điều chế khu vực không có đi săn. Tuy vậy, dưới pháp luật hiện nay, bảo
vệ khu vực để không có đi săn và có thể ngăn trở nhân dân địa phương từ việc thu
lại sản phẩm của rừng. Dân làng trong địa phương đề nghị cộng đồng luật bảo vệ
rừng mà đã xác nhận trên giấy nhưng chưa được đề nghị giải thích đầu tiên bởi Hạ
Nghị Viện. Một thời gian đi qua, cộng đồng luật bảo vệ rừng đã cho phép cộng
đồng địa phương tham dự trong việc quản lý rừng trong thời gian dài của tài
nguyên này mà không thể mất danh giá rừng ngập mặn còn lại với 400 ha trong xã
Tha Po, gồm có nhiều loại như cây Nấm trắng, cây Giá, Thespesia populnea và
ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL
COMMUNITIES IN THAILAND
[Type text] Page 18

cây Được Bộp là những loại quan trọng nhất. Nhiều loại vào vị trí tỉ trọng của
rừng ngập mặn trong xã Tha Po được trình bày trên bảng 2.3.
Mức trung bình vị trí tỉ trọng của rừng ngập mặn là 2.256 cây/ha, với mức
trung bình sinh khối(biomass) khoảng 45.24 tấn/ha. Nó là sự quan trọng cần chú ý
tới, rừng thì đa số gồm có cây cỡ nhỏ.
2.2.2 Sự đánh giá giá trị sử dụng trong địa phƣơng
Giá trị sử dụng trực tiếp của rừng ngập mặn trong điều kiện sử dụng trong
địa phương thì bằng nhau giá trị mức lợi sản xuất từ rừng ngập mặn bởi dân địa
phương.

Giá trị sử dụng trực tiếp trong địa phương, mức lợi sản xuất cho địa phương
sử dụng = ∑ { P
i
Q
i
– C
i
}, thì P
i
= giá trị sản phẩm trong thị trường địa phương i;
Q
i
=số lượng sản phẩm i thu lai hiện nay; C
1
=giá tổn phí thu hút trong việc thu lại
sản phẩm i.
Khu vực quan sát 2 đã được hướng dẫn để nghiên cứu với việc sử dụng
rừng ngập mặn trong địa phương. Đầu tiên đã kiểm soát một gia đình mà đã hướng
dẫn trong tháng 2.1996 và thu được số liệu trên tần số ,số lượng sản phẩm khác mà
đã thu từ rừng ngập mặn như là sức lao động đã dùng trong việc thu lại sản phẩm
đó. Quan sát thứ 2 trong tháng 6.1996 đã được phỏng vấn cẩn thận và đã thu lượm
được số liệu chính xác hơn. Trong quan sát đầu tiên đã thu lại sản phẩm nhiều
trong khu vực rừng ngập mặn, theo dân làng này nghề đánh cá và không có sản
phẩm gỗ, không có báo cáo của cây hoặc sản phẩm nhiên liệu gỗ có ở trong số
sách. Nhưng trong quan sát thứ 2 đã thu được số liệu đầy đủ hơn, mà đã hướng
dẫn từ 19 -21 tháng 6.1996 đã xuất hiện ra sản phẩm gỗ và nhiên liệu gỗ mà được
thu số liệu từ dân làng. Dựa trên sự phỏng vấn, gần 40% của tổng giá định đã thu
lại thân cây để làm dụng cụ đánh cá và 10% thu lại nhiên liệu gỗ. Sự việc này đã
tìm thấy sau người gây ra và nhóm quan sát trở nền đã thân thiết với dân làng hơn.
Trước đây, dân làng đã thận trọng về việc báo cáo với sản phẩm gỗ mà họ đã sử

dùng thực tế, không muốn quan tâm tới người xâm phạm rừng. Nhưng sự phỏng
ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL
COMMUNITIES IN THAILAND
[Type text] Page 19

vấn đã tìm thấy đã số dân làng đã tập trung xây dựng gỗ của rừng ngập mặn không
phù hợp, và từ bay giờ số lượng thu lại của rừng ngập mặn thì coi như là nhỏ. Hơn
nữa, cây là một tương đổi nhỏ và vì thể cho nên không thể sử dụng gỗ, trữ ra với
sự dùng trong đồ dùng đánh cá.
Tất cả bản thông kế của nhiều sản phẩm trong xã Tho Po thì đã tỏ ra theo
mục trong bảng 2.4. Điều khoản sơ bộ đánh giá trị sử dụng trong địa phương đã
căn cứ trên 39 trường hợp (gần 35% của người bị cáo) đã báo cáo hoàn toàn với sự
thu lại từ nghề đánh cá và sản phẩm không có gỗ trực tiếp từ khu vực rừng ngập
mặn .
Nhưng chỉ có 28 trừơng hợp được cung cấp số liệu đề tính toàn mức thu
nhập mà phát sinh từ rừng ngập mặn. Số liệu mới nhất được căn cứ trên sự hương
dẫn quan sát mới đây trong tháng 6. nó tập trung trên địa phương sử dụng sản
phẩm gỗ như kết quả từ sự quan sát trước, mà cho thấy sản phẩm gỗ không thể
được thu lại tất cả bởi dân làng , một sự nghi ngờ.
Từ việc đã tổ chức trong vong nùa gió, một quan sát lớn của toàn bộ xã
không thể hương dẫn theo sự quan sát như trước được. Trong sự phỏng vấn 23 chỉ
có 10 được cung cấp cho đấy đủ số liệu trên địa phương sử dụng sản phẩm gỗ.
Như là thất dựa trên thực tế trươc mặt có thể thực hiện trong điều khiển tính toán
toàn bộ giá trị hàng năm. Sự giả thiết thì dựa trên thong tin phỏng vấn hương dẫn
trong khi dân làng tụ họp mà trong đó kẻ có chủ trưởng và nhóm quan sát đến
tham giá. Sự giả thiết thì 10% giá định trong xã đã thu lại nhiên liệu gỗ; 40% giá
định trong xã đã thu lại thân cây sử dụng để làm dụng cụ đánh cá; và 80% giá định
trong xã thu lại Mật ông từ rừng ngập mặn. Hơn nữa, giá thuế địa phương đã sử
dụng trong việc đánh giá hiện nay có thể giải quyết theo một cách sự thất mà dân
làng này đã dùng trong thời gian nghỉ việc của họ với thu lại sản phẩm này. Sự

phỏng vấn với dân làng đã cho biết tiền công thuế địa phương là 150 baht (us $ 6)
với nam và 120baht (us$4.8) với nữ. Dựa trên sự báo cáo UNEP (1994), giá tiền
công trong thời gian nghĩ việc thì tính toán cho 1/3 của tiền công mỗi ngày. Cơ hội
ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL
COMMUNITIES IN THAILAND
[Type text] Page 20

giá phí tồn trong việc sử dụng tính toán tiền thu vào từ tất cả các sản phẩm của
rừng ngập mặn đã dựa trên giá từng giờ.
Giá trị sử dụng trực tiếp của rừng ngập mặn với tính trạng của xã Tho Po
đã căn cứ trên việc đánh giá này thì trình bày trong bảng 2.5. Giá trị trung bình
hàng năm mỗi gía định là 36,98456 baht (us$ 1,479.38). Trong khi giá trị tổng kết
hàng năm là 1,405.410.75 baht (us$56.216.43). Giá trị trung bình hàng năm của
rừng ngập mặn mỗi giá định so với tiền thu nhập trung bình hàng năm mỗi giá
định là cao hơn.
Ngoài ra, nó cho thấy rằng trong khi những dân làng này không được thu
trực tiếp từ việc nuôi tôm , họ cũng thất bại về thu nhập sản xuất từ rừng ngập mặn
khi mà rừng đã được khai hoang. Đây có thể cung cấp vài động cơ cho họ để phản
đối lại sự xâm chiếm của rừng ngập mặn bằng việc nuôi tôm.
Mục đích quan trọng của sự nghiên cứu nay là so sánh với 2 loại khác nhau
của việc sử dụng đất rừng ngập mặn và thương nghiệp nuôi tôm, theo sử dụng sự
phân tích giá lợi ích, giá trị lơì thuần hiện này của lợi nhuận mỗi rai từ mỗi người
được sử dụng đất thì tính toán theo (chương 3). Lợi nhuận mỗi rai của rừng ngập
mặn cũng gồm có giá trị sử dụng trực tiếp trong điều kiện của địa phương sử dụng
giá trị mỗi rai. Với mục đích này có 3 trường hợp của giá trị sử dụng trong địa
phương được giả tihiết như sau:
1.) Trường hợp thực tế của xã Tho Po
2.) Sự tổng quát hơn trường hợp của người được bảo hộ rừng ngập mặn
trong địa phương mà trong mỗi giá định nhân được lới tức chút ít từ rừng ngập
mặn.

3.) Giống như trường hợp 2 nhưng lới tức chính gồm có lợi nhuận từ than
củi. Thực ra trong trường hợp của xã Tho Po, không giá định naò kiêm được thu
nhập từ rừng ngập mặn. Rừng thì không sinh lợi như lúc trước khi nó bị suy thoái,
mặc dù nó đàng được phục hồi (chương 2.2.1). mô tả trường hợp 2, một xã phụ
thuộc vào rừng ngập mặn với rừng sinh lợi nhiều hơn. Từ khi có số liệu không
ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL
COMMUNITIES IN THAILAND
[Type text] Page 21

thực tế trường hợp trên, sự giả thuyết đã tạo nên rằng mỗi gia đình kiếm được mức
thu nhập hàng năm gần bằng trong trường hợp của xã Tha Po trên một xác nhận
căn bản. Giá trị sử dụng trong địa phương mỗi rai mỗi năm đã được tính toán
(bảng 2.6 ). Bình thường, sinh lợi rừng nhập mặn cũng là nguồn gốc tốt của than
củi. Mức thu nhập trung bình hàng năm của than củi kiếm được từ rừng ngập mặn
được ước lượng khoảng 2299.18 baht (US $91.97). Giá trị sử dụng mỗi rai mỗi
năm trong trường hợp với sinh lợi từ than củi đã được tính toán và trình bày trong
bảng 2.6.
2.2.3. Giá trị trong điều kiện kết hợp với nghề đánh cá :
Trong nghiên cứu này, giá trị sử dụng gián tiếp của rừng ngập mặn trong
điều kiện bảo hộ với nghề đánh cá đã được đánh giá theo áp dụng của Ellis –
Fisher- Freeman( như mô tả trong chương 2.1) mà giá trị tập trung là xác định
bằng một thay đổi trợ cấp xã hội (cả trong điều kiện của người tiêu dùng và nhà
sản xuất thặng dư).
Haitrường hợp của chế độ quản lý cho nghề đánh cá đã giả thiết: tính trạng
tự do tiếp cận và điều khiển nghề đánh cá theo cộng đồng địa phương. Trong
trường hợp đầu tiên, một tính trạng tự do tiếp cận , giá trị của rừng ngập mặn trong
điều kiện bảo hộ của nghệ đánh cá đã xác định bằng một thay đổi chỉ trong người
tiêu dùng thặng dư. Chế độ quản lý nghề đánh cá thì tương tự chế độ sở hữu quản
lý tư nhân trong nguyên văn của Ellis và Fisher Model (xem chương 2.1). giá trị
của rừng ngập mặn trong điều kiện bảo hộ của nghề đánh cá đã đánh giá bằng thay

đổi trong cả người tiêu dùng và nhà sản xuất thặng dư. Trong trường hợp của xã
Tha Po thì không hoàn thành trong tính trạng tự do tiếp cận, mặc dù cộng đồng
không có điều chỉnh việc đánh cá, không người nào vào khu vực đánh cá của họ.
Giá trị sử dụng gian tiếp của rừng ngập mặn trong điều kiện bảo hộ của
nghề đánh cá đã được đánh giá.Số liệu thu gom:
Loại rừng ngập mặn quan trọng trong khu vực nghiên cứu đã được xác
nhận dựa trên quan sát hướng dẫn vào ngày 19-21 tháng 6.1996. các loại này đã
ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL
COMMUNITIES IN THAILAND
[Type text] Page 22

được xếp vào trong 2 loại chính: cá đáy và loài tôm cua (i.e. cua và tôm). Nhiều
dụng cụ đánh cá đã được tìm thấy và thời gian dùng để đánh cá vớinhững dụng cụ
này đã được ghi nhân và sử dụng thay thế sức người. Số liệu chi tiết tiền phí tổn
của việc đánh cá đã được thu gom. Tuy nhiên đầu tiên nó đã không thể thu thập số
liệu từ khu vực địa phương với tổng số lượng đánh cá, số dụng cụ của nghề đánh
cá và khu vực của rừng ngập mặn. Bởi vậy, số liệu thực nghiệm dùng trong sự
đánh giá này đã dựa trên số liệu thu thấp lần thứ nhì theo Bộ Thuỷ sản (DOF) và
RFD của từng khu vực đánh cá trong vùng nghiên cứu.
Sự nghiên cứu đối phó những vấn đề khác nhau với số liệu thứ 2. Bộ Thuỷ
Sản đã bắt đầu thu thấp số liệu trêh tỉ lệ nhỏ của nghề đánh cá vào năm 1983
nhưng số liệu tiên dụng chậm nhất là vào năm 1993. Tổng số lượng đánh cá ghi
chép đã đánh giá thấp hơn. Số liệu xác thực trên số dụng cụ đánh cá là xấu hơn từ
sự tính toán dụng cụ thay đổi một cách bừa bãi. Số liệu này cũng bị đánh giá thấp
hơn. Dựa trên sự kiểm tra nghề đánh cá biển (đã hướng dẫn 10 năm một lần bắt
đầu năm 1985), số ghe thuyền đánh cá ghi nhận là chỉ 1/10 của sự tính toán kiểm
tra thực tế ghi chép trong năm tương tự(1985). Nghề đánh cá biển của 1995 thì
vừa mới phát triển. Như vậy, số liệu sử dụng cho sự tính toán sức lao động con
người trong thực nghiệm nghiên cứu này đã tuỳ theo hướng giải quyết.
Dựa trên sự quan sát hướng dẫn tháng 6, phân loại chính của dụng cụ đánh

cá sử dụng trong khu vực nghiên cứu là “gill net”. “Động lực đánh cá” đã xác định
trong nghiên cứu hiện nay là số giờ đã dùng trong đánh cá với những dụng cụ này
mỗi năm. Trong thời điểm này, từ “gill net” sẽ được dùng như dụng cụ đánh cá
căn bản, không cần có tiêu chuẩn hoá đơn vị của động lực đánh bắt cá.
Để nhận được thông tin một loạt thời gian đối với động lực đánh bắt cá, số
trung bình đã dùng theo giờ trên việc đánh cá với mỗi người đã dùng dụng cụ đánh
cá mỗi năm thì được tính toán dựa trên số liệu phỏng vấn mà thu được trong
khiquan sát cuối cùng với người đánh cá. Giá trị được trình bày trong bảng 2.7 .
ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL
COMMUNITIES IN THAILAND
[Type text] Page 23

Tổng cộng động lực đánh cá mỗi năm là số dụng cụ đánh cá dược ghi chép
mỗi năm thì được so sánh với số trung bình mà đã dùng theo giờ trên việc đánh cá
với mỗi dụng cụ đánh cá mỗi năm. Mặc dù khu vực nghiên cứu nằm trong vị trí
khu vực đánh cá 3, số liệu đã dùng bao gồm tất cả trong 5 khu vực đánh và nó
hoàn toàn tốt hơn khi có thể thu được số liệu nhiều cho econometric trên việc đánh
giá tham số sản xuất.
Kết quả thực nghiệm :
- Sự cố gắng để có thể đánh giá ham số, sản xuất Cobb-Douglas dựa trên
số liệu đã thu được bởi cả demersal và loài tôm cua :

b
a
AmEAEfX  ),(


- A Least Square Estimation of the function :

AbEamX lnlnlnln 



Kết quả sản phẩm đã trình bày trong bảng 2.8 và 2.9 .
Tính trạng tự do tiếp cận
Việc đánh giá dưới tính trạng tự do tiếp cận việc đánh giá, một người đánh cá
được bán sản phẩm đánh cá với giá bằng chi phí trung bình :

 
a
a
a
b
a
XAcm
X
AXcC
ACP
)1(
)(
1
,,





Sau khi nhận được tất cả thông số, a, b và m, trên chi phí trung bình, ham
số có thể đánh giá với trường hợp của cá demersal và loài tôm cua, tương ứng :

AC = 2.0363


10
5
X
0.723467
A
1.26701
(cá đáy)
AC = 2.6191

10
2
X
0.090366
A
-0.20884
(loài tôm cua)
ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL
COMMUNITIES IN THAILAND
[Type text] Page 24


Quản lý nghề đánh cá
Trong trường hợp nghiên cứu nghề đánh cá, như dưới chế độ quản lý sở
hữu tư nhân, một người đánh cá đã bán sản phẩm đánh cá với giá bằng (MC).

a
a
a
b

a
XAm
a
c
X
C
MCP
)1(
)
(
1









Sau thay thế tất cả thông số đã biết trên hàm số chi phí biên có thể đánh giá
với trường hợp của cá đáy và loài tôm cua, tương đương với nhau (tương ứng)

MC =2.0363

10
5
X
0.723467
A

1.26701
(cá đáy)
MC = 2.6191

10
2
X
0.090366
A
-0.20884
(loài tôm cua)

Trong việc nghiên cứu này, hàm số đã dùng thì cần phải giải quyết với 5
phương thức. Tất cả đường biểu thị của hàm số phải đi qua số liệu đã được quan
sát trên 1993 (dựa vào một trường hộp) thì có giá bằng 37.81 baht/kg và thu hoạch
được 1,545.000 kg với cá đáy và với vấn đề giá bằng 64.49 baht/kg và thu hoạch
được 1.917.000 kg với loài tôm cua. Từ không có được cung cấp thông tin mới
cho việc nghiên cứu này mà cần phải thực tế để có thể dùng được hàm số. Sự giải
quyết hàm số đã được tạo ra dựa trên sự chọn lựa khác nhau thì cần phải tính mềm
mỏng -10, -2,-1, -0,5 và -0,1 với sự thủ tính chất.
Giá trị sử dụng gian tiếp của rừng ngập mặn trong điều kiện bảo hộ nghề
đánh cá (cả cá đáy và tôm cua) đã được đánh giá theo một tính trạng mà đã được
thiết hại hết 7000 rai của rừng ngập mặn trong xã Tho Po, đã cho 2 giải đoạn khác
nhau trước và sau khi bị thiết hại của khu vực rừng. Liên kết giá cân bằng và mực
số lượng có thể giải quyết dưới sự chọn lựa 5 hàm số khác nhau (bảng 2.10 và
2.11)
ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL
COMMUNITIES IN THAILAND
[Type text] Page 25


Dựa trên việc tính toán giá cân bằng và số lượng trong bảng 2.10và 2.11, sự
thay đổi thông tin trong thặng dư người tiêu dùng, như đã mô ta theo khu vực A+B
trong hình 2.4 đã được tính toán. Sự tính toán này đối với giá trị rừng ngập mặn
trong tự do tiếp cận. Với việc quản lý chế độ nghề đánh cá, một giá trị giống nhau
như đã đánh giá theo sự thay đổi thông tin trong cả thặng dư người tiêu dùng và
thặng dư người sản xuất đã mô ta theo khu vực B+C trong hình 2.4 cũng được tính
toán. Bảng 2.12 đã làm sáng tỏ kết quả cuối cùng với cả cá đáy và loài tôm cua.
Từ kết quả, nó có thể quan sát mà đã định rõ giá trị theo sự thay đổi trong
trường hợp đã quản lý nghề đánh cá con nhất thiết không phải là cao hơn với tình
trạng tự do tiếp cận. Hình 2.4 đã cho thấy rằng nó có thể tính được với khu vực
A+B lớn hơn khu vực B+C khi đường cong đã xéo dốc đứng (không dễ uốn), như
vậy có thể tính được khi nó phản ứng rất chậm, ở dưới tình trạng tự do tiếp cận, lợi
ích trong thặng dư người tiêu dùng đã kết hợp với sự giảm giá trong giá sản phẩm
đánh cá có thể là một lợi ích lớn hơn trong cả thặng dư người tiêu dùng và thặng
dư người sản xuất trong trường hợp quản lý nghề đánh cá, bởi vì đây là trường hợp
lợi ích cuối trong thặng dư người tiêu dùng that sự di chuyển từ thặng dư nhà sản
xuất.
Có thể chú ý với giá trị rừng ngập mặn đã được đánh giá này thì trong hình
dạng nguồn cung cấp lợi thu nhập hàng năm mỗi rai trong điều kiện bảo hộ với
nghề đánh cá. Bề ngoài không được mô tả giá trị tài nguyên của rừng ngập mặn.
Mặc dù giá trị được phát sinh mô tả, nó cũng vẫn được tính là quá thấp. Dựa trên
hồ sơ của Freeman (1991), sản phẩm biên của rừng ngập mặn,
A
Q


, có thể tính toán
từ biểu thức
A
Q

A
Q
b



( khi Q là số bắt và A là hàm số sản xuất Cobb- Douglas
trong khu vực rừng ngập mặn). Trong sự nghiên cứu hiện nay, thông số b đã được
đánh giá( từ econotrics) với 0.73515 đối với cá đáy và 0.19153 đối với tôm
cua(xem bảng 2.8 và 2.9 ) .
Trong trường hợp này,
A
Q


thì chỉ tính với 4.12 đối với cá đáy và 2.77 đối
với tôm cua, đã tương đối với nhau, đây có nghĩa là trong mỗi rai của sản xuất

×