Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Tài liệu TIỂU LUẬN: Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu giày dép Việt Nam sang thị trường EU pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.55 KB, 28 trang )














TIỂU LUẬN:

Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh
xuất khẩu giày dép Việt Nam sang
thị trường EU




Lời mở đầu

Trong hơn mười năm "Đổi mới", Việt Nam đã nỗ lực không ngừng để phát triển
kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao vị thế của đất nứơc trên trường quốc tế.
Bước sang thế kỷ 21, nền kinh tế Việt Nam tuy chưa "sánh ngang được các cường
quốc năm châu" nhưng đã "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn "trong mắt bạn bè quốc tế.
Thực hiện cơ chế mở cửa là một tất yếu khách quan đối với bất kì một quốc gia
nào nếu muốn phát triển, nhất là trong thời đại ngày nay khi các cụm từ như "toàn cầu
hoá"(globalization) hay "hợp tác hoạt động" (co_operation) được nhắc tới thường


xuyên không chỉ trên diễn đàn quốc tế mà còn trong nhiều hoạt động thường ngày.
Trong xu thế đó, cùng với sự nhận thức về nội lực đất nứơc, Việt Nam bắt đầu con
đường đi lên công nghiệp hoá _hiện đại hoá đất nước bằng chính sách hướng ra xuất
khẩu với những mặt hàng tận dụng lợi thế về lao động, tài nguyên của quốc gia như
dầu thô, dệt may, giày dép, nông sản, thuỷ sản. . Hiện nay đây vẫn là hướng đi chính
của thương mại Việt Nam. Tuy nhiên chính sách này cần được đổi mới trong một vài
năm tới do những thay đổi về chính sách của một số quốc gia đối tác cũng như cần
nâng cao vị thế cho các sản phẩm của Việt Nam.
Một trong số những đối tác thương mại chính của Việt Nam trong thời gian qua và
sẽ tiếp tục là bạn hàng quan trọng trong những năm tới là EU. Quan hệ thương mại
Việt Nam _EU không ngừng phát triển cùng với tiến trình hợp tác của EU và đà lớn
mạnh của nền kinh tế Việt Nam do chính sách "Đổi mới"mang lại. Giày dép hiện nay
là mặt hàng xuất khẩu vào EU lớn nhất của Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu của sản
phẩm vào thị trường này luôn tăng với tốc độ khá cao. Đây là mặt hàng được EU dành
cho những ưu đãi về thuế quan và nó cũng đáp ứng một phần không nhỏ nhu cầu về
giày dép cho thị trường thống nhất và rộng lớn này. Tuy nhiên đến năm 2005, giày
dép sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức do sự thay đổi ưu đãi về thuế, do sức ép cạnh
tranh của nhiều sản phẩm cùng loại, hoặc cũng có thể do sự phát triển kinh tế không
khả quan của nền kinh tế EU sẽ ảnh hưởng tới sức mua. Chính vì vậy ngành giày dép
Việt Nam cần có những bước đổi mới tích cực hơn nữa. Không phải chỉ từ phía Nhà

nước mà bản thân các doanh nghiệp phải năng động hơn trong việc tìm kiếm những
con đường đi cho sản phẩm của mình đến được với thị trường EU.
Nắm bắt được tính thực tiễn của vấn đề này, em đã lựa chọn vấn đề "Thực trạng
và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu giày dép Việt Nam sang thị trường EU"làm đề tài
cho đề án môn học của mình.
Đề tài của em gồm có 3 phần :
Phần I :Lý luận chung về tình hình xuất khẩu hàng hoá và sự cần thiết phải đẩy
mạnh xuất khẩu giày dép Việt Nam sang thị trường EU
Phần II :Thực trạng xuất khẩu giày dép Việt Nam sang thị trường EU

Phần III:Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu giày dép sang thị trường
EU
Do thời gian có hạn cũng như sự hiểu biết còn hạn chế nên đề án này không thể
không còn những thiếu sót, em rất mong thầy cô và các bạn đưa ra những ý kiến đóng
góp bổ sung.
Em xin chân thành cảm ơn cô Th. S. Ngô Tuyết Mai đã giúp đỡ em hoàn thành đề
án này.







Phần I :Lý luận chung về xuất khẩu hàng hoá và sự cần thiết phải đẩy mạnh
xuất khẩu giày dép Việt Nam sang thị trường EU

I. Khái niệm và vai trò của xuất khẩu
1. Khái niệm và đặc điểm
1. 1. Khái niệm xuất khẩu
Xuất khẩu là việc bán, cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho bên nước ngoài trên cơ
sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Thường thì hoạt động xuất khẩu là việc
đưa hàng hoá qua biên giới của một quốc gia.
Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế quốc gia trong phân
công lao động quốc tế. Hiện nay, hoạt động xuất khẩu đã phát triển cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu trên phạm vi toàn cầu, trong tất cả các ngành nghề, các lĩnh vực của nền
kinh tế nhằm đem lại lợi ích thương mại và phi thương mại cho các quốc gia.
1. 2. Đặc điểm
Hoạt động xuất khẩu diễn ra giữa hai hay nhiều quốc gia
Hoạt động xuất khẩu nhằm khai thác lợi thế so sánh của các quốc gia

Hoạt động xuất khẩu góp phần cải thiện đời sống nhân dân, gia tăng tiến bộ xã hội
Hoạt động xuất khẩu có thể được tiến hành bởi tư nhân, doanh nghiệp trong nước
hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
2. Vai trò
2. 1. Đối với nền kinh tế quốc gia

Xuất khẩu tạo vốn bằng ngoại tệ phục vụ cho vấn đề nhập khẩu những hàng hoá
không phải là lợi thế của quốc gia. Điều này rất có ý nghĩa nhất là đối với các nước
đang phát triển
Xuất khẩu là động lực chính để nền kinh đổi mới và phát triển theo chiều sâu
Xuất khẩu giải quyết các vấn đề xã hội của một quốc gia như vấn đề về vốn để mở
rộng sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế, sử dụng tài nguyên có hiệu quả ;giảm sức
ép về vấn đề thất nghiệp lên nền kinh tế quốc dân
Xuất khẩu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của quốc gia theo hướng tiến bộ
hơn, phù hợp hơn với xu thế của thế giới
2. 2. Đối với doanh nghiệp
Xuất khẩu sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao lợi nhuận, có nguồn thu ngoại tệ để
phục vụ nhu cầu nhập khẩu tư liệu sản xuất, dây chuyền công nghệ có vốn để tái đầu
tư sản xuất, mở rộng qui mô sản xuất, tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động
Xuất khẩu là động lực mạnh mẽ cho các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh
tranh của sản phẩm về giá cả, chất lượng trên thị trường thế giới
Xuất khẩu giúp các doanh nghiệp có cơ hội mở rộng quan hệ kinh doanh với các
đối tác nước ngoài, đồng thời có thể học hỏi kinh nghiệm quản lý, tác phong làm việc
có hiệu quả của các doanh nghiệp nước ngoài
3. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu
Xuất khẩu trực tiếp :là hoạt động trong đó bên xuất khẩu bán, cung cấp hàng hoá
cho bên nhập khẩu một cách trực tiếp, không qua trung gian.
Xuất khẩu gián tiếp :là hoạt động xuất khẩu nhưng phải qua trung gian, có thể qua
một hoặc nhiều trung gian.
Xuất khẩu tại chỗ :là hoạt động xuất khẩu trong đó hàng hoá không phải di chuyển

qua biên giới

Tái xuất :là hoạt động xuất khẩu trở lại nứơc ngoài những hàng hoá trước đây đã
nhập khẩu mà chưa qua chế biến tại nước tái xuất
II. Sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất khẩu giày dép của Việt Nam vào thị
trường EU
1. Sự cần thiết đẩy mạnh xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang thị trường
EU
Những năm đầu thế kỷ 21, Việt Nam tiếp tục thực hiện chiến lược phát triển hàng
công nghiệp tiêu dùng hướng ra xuất khẩu và giày dép được định hướng là một trong
những ngành xuất khẩu mũi nhọn. Hơn 10 năm xuất khẩu giày dép đã đạt được những
kết quả vượt bậc từ những nỗ lực của ngành giày dép và những ưu đãi của một số thị
trường dành cho hàng hóa xuất khẩu của các quốc gia đang phát triển. Sau năm 2004
giày dép Việt Nam sẽ đứng trước những khó khăn do hạn chế về thuế ưu đãi và sự
cạnh tranh gay gắt của sản phẩm cùng loại. Chính những khó khăn này cộng với
những ưu thế của ngành sẽ trả lời cho câu hỏi có hay không cần thiết đẩy mạnh xuất
khẩu giày dép sang thị trường EU.
1. 1. Vị trí của ngành giày dép trong nền kinh tế quốc dân
Ngay từ khi Việt Nam tiến hành chính sách mở cửa hội nhập kinh tế hướng về
xuất khẩu, các sản phẩm giày dép đã từng bước trở thành một trong những mặt hàng
xuất khẩu chủ lực cùng với dầu thô, dệt may, thủy sản. . góp phần đáng kể vào tổng
kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Điểm qua kinh nghiệm của các nước NIEs chúng ta
nhận thấy rằng các quốc gia này trong thời kỳ đầu phát triển cũng dựa vào các mặt
hàng công nghiệp nhẹ như giày dép, dệt may xuất khẩu thu ngoại tệ, đáp ứng cho nhu
cầu xuất khẩu máy móc, nguyên vật liệu, công nghệ. . . phục vụ cho quá trình công
nghiệp hoá, phát triển lên công nghiệp chế tạo.
Mặt khác, đây là ngành công nghiệp nhẹ thu hút nhiều lao động, tạo nhiều công ăn
việc làm cho phụ nữ với mức thu nhập bình quân ngày càng tăng. Do đó với nội lực
nền kinh tế Việt Nam hiện nay, giày dép vẫn được đánh giá là một trong những ngành


công nghiệp quan trọng, đẩy mạnh xuất khẩu giày dép tiếp tục là mục tiêu kinh tế
chiến lược của nước ta trong những năm tới.
1. 2. Xu hướng chuyển dịch của ngành xuất khẩu giày dép
Từ những năm 80 đã xuất hiện sự chuyển dịch sản xuất giày dép từ những nước
phát triển sang các nước công nghiệp mới và tiếp đó là những nước đang phát triển.
Sản xuất giày dép là quá trình sử dụng nhiều lao động, xét về mặt kinh tế sẽ dẫnđến
ngày càng tăng tỉ lệ sản xuất giày dép tại các nước có giá sức lao động thấp, như các
nước đang phát triển. Các nứơc công nghiệp phát triển, các nước công nghiệp mới sẽ
phát triển các ngành kĩ thuật cao, sử dụng ít lao động, giảm các ngành sử dụng nhiều
lao động như công nghiệp giày dép. Châu á trở thành khu vực sản xuất giày dép chủ
yếu của thế giới. Là một quốc gia nằm trong khu vực châu á và đang bắt đầu quá trình
công nghiệp hoá, sự phát triển của ngành giày dép Việt Nam là phù hợp với xu thế
chuyển dịch phân công lao động mang tính toàn cầu. Xu hướng này sẽ vẫn duy trì
trong một thời gian tới, và ngành giày dép của Việt Nam có nhiều điều kiện để phát
triển.
1. 3. Lợi thế của ngành giày dép
Nguồn lực của một quốc gia là yếu tố quan trọng đối với những sản phẩm mà
quốc gia đó sản xuất và hướng ra xuất khẩu. Việt Nam tại thời điểm bắt đầu quá trình
công nghiệp hoá được đánh giá là đất nước có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, có
nguồn lao động dồi dào, chi phí lao động thấp. Do đó chúng ta tập trung phát triển một
số ngành tận dụng được lợi thế quốc gia. Giày dép là một trong những ngành nằm
trong định hướng xuất khẩu của Việt Nam trong những năm qua và một số năm sắp
tới. Lợi thế của ngành là chi phí lao động thấp vì đã tận dụng được lực lượng lao động
nhất là lao động nữ có tay nghề không cao với mức lương trung bình thấp so với nhiều
nước trong khu vực và trên thế giới. Lợi thế này đã tạo ra mức giá cạnh tranh cho sản
phẩm giày dép của Việt Nam trong thời kỳ vừa qua
Một lợi thế của ngành giày dép nước ta là trong nước bảo đảm một phần nhất định
nguyên liệu đầu vào cho sản phẩm. Việt Nam là một nước nông nghiệp lâu đời và xu

hướng hiện nay là chuyển dịch cơ cấu tăng tỷ trọng chăn nuôi trong toàn ngành, do đó

chúng ta hoàn toàn có thể chủ động nguyên liệu chủ yếu là da thuộc cho giày dép
trong thời gian tới. Và chi phí sản xuất giày dép của Việt Nam tiếp tục giảm, sản phẩm
của Việt Nam sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh và lợi nhuận thu được sẽ tăng lên
Sản xuất giày dép là ngành có các quá trình sản xuất không đòi hỏi một lượng quá
lớn, vốn quay vòng nhanh, kinh doanh ít rủi ro. Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam
hiện nay, đây cũng được coi là một lợi thế của ngành giày dép. Với nhiều lợi thế như
vậy có thể thấy rằng đẩy mạnh phát triển sản xuất và xuất khẩu giày dép sẽ tối đa hoá
lợi ích thu được từ việc khai thác được lợi thế của ngành hàng xuất khẩu mũi nhọn này
1. 4. Thị trường và sức cạnh tranh
Qua rồi thời kỳ tồn tại quan điểm người tiêu dùng phải tìm tới hàng hóa. Ngày nay
hàng hoá sản xuất ra phải đáp ứng được yêu cầu của thị trường: sản xuất cho ai, sản
xuất để làm gì và sản xuất như thế nào. Thị trường là nơi đánh giá đúng đắn nhất về
hàng hoá. Giày dép xuất khẩu Việt Nam đã xuất hiện nhiều nơi trên thị trường thế giới
nhưng sức cạnh tranh của sản phẩm này còn thấp. Sự cạnh tranh mạnh mẽ của hàng
hóa Trung Quốc là áp lực buộc sản phẩm của chúng ta phải nâng cao sức cạnh tranh
để duy trì vị trí trên thị trường chính đồng thời mở rộng thị trường. Và điều này chính
là nhân tố quan trọng để trả lời thật sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất khẩu giày dép
Việt Nam
2. Tiềm năng của thị trường EU
EU là một thị trường thống nhất và rộng lớn với 15 quốc gia thành viên . Người
tiêu dùng ở thị trường này có mức sống cao, thích sự sáng tạo, ưa thời trang, ăn mặc
đẹp và lịch lãm. Do đó đây là thị trường có sức mua lớn đối với các mặt hàng may
mặc, giày dép. Với dân số gần 400 triệu người và mức tiêu thụ khoảng 4_5 đôi
giày/người /năm, hàng năm EU phải nhập khẩu hơn 800 triệu đôi giày dép các loại,
chiếm 29, 3 tổng mức tiêu thụ giày dép của thế giới. Thị trường này có đầy đủ các yếu
tố thống nhất cũng như đa dạng của từng quốc gia thành viên : Thống nhất trong một
số các chính sách, thống nhất trong các hệ thống tiêu chuẩn về sản phẩm, thống nhất

trong việc hàng hoá có thể di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác mà không
gặp phải một hạn chế nào, …đồng thời có sự đa dạng về văn hoá, về tập quán tiêu

dùng, về thói quen kinh doanh. Đến 1/5/2004 EU sẽ kết nạp thêm10 thành viên là các
quốc gia ở Trung và Đông Âu, đây là cơ hội cho sản phẩm giày dép của Việt Nam mở
rộng thị trường, đồng thời khôi phục lại thị trường truyền thống của những năm đầu
thập niên 90.
Hiện nay, Liên minh châu Âu là một khối thương mại hàng đầu, và là một trong
ba trung tâm kinh tế hùng mạnh. EU có khuôn khổ thiết chế độc đáo dựa trên cơ sở
hiệp ước nhằm xác định và quản lý các quan hệ hợp tác về chính trị và kinh tế giữa 15
quốc gia thành viên. EU không phải là một Nhà nứơc Liên bang như Mỹ. Tuy nhiên
nó còn hơn cả khu vực mậu dịch tự do. Năm 2000, GDP của EU đạt 9. 785 tỷ USD
lớn hơn Mỹ khoảng 13%, lớn hơn Nhật Bản khoảng 38%. Bốn thị trường chính là
Anh, Pháp, Đức, Italia chiếm 72% GDP và đây cũng là 4 quốc gia nằm trong nhóm
các nước công nghiệp lớn nhất thế giới G7. Do những ảnh hưởng của môi trường quốc
tế dẫn đến nhu cầu nhập khẩu và xuất khẩu của EU giảm, kinh doanh kém đi trong
giai đoạn cuối năm 1998 đầu năm 1999. Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng tốt, nhu cầu lớn bên
trong EU (đặc biệt là tiêu dùng cá nhân)và sự phục hồi từng bước của các nước Đông
Nam á đã thúc đẩy tăng trưởng trở lại và đạt mức 2, 6% năm 1999 và lên 3, 32% vào
năm 2000
EU là một khu vực có hoạt động ngoại thương rất phát triển. Năm 2000 kim ngạch
xuất nhập khẩu của EU chiếm 44, 9% kim ngạch xuất nhập khẩu của thế giới (gồm cả
thương mại trong EU), chỉ tính riêng kim ngạch xuất nhập khẩu bên ngoài EU chiếm
tới hơn 20% kim ngạch thương mại toàn cầu. Nếu không tính đến giao dịch thương
mại trong thị trường thống nhất thì EU đứng sau Mỹ về nhập khẩu. Năm 2000, EU
nhập khẩu 779, 1 tỷ Euro, Mỹ nhập khẩu 983, 7 tỷ Euro, Nhật Bản nhập khẩu có 291,
5 tỷ Euro. EU là khu vực luôn có xu hướng nhập khẩu cao trên thế giới, ngay trong
thập niên 90 trung bình kim ngạch nhập khẩu của EU đạt 1797 tỷ USD (60% trong
khu vực và 40 % ngoài khu vực). Đặc biệt là trong những năm gần đây EU đã có
những chiến lược kinh tế hướng về châu á, trong đó có sự phát triển không ngừng về
thương mại. Cơ cấu kinh tế của các nước thành viên EU và các quốc gia đang phát

triển ở châu á như Việt Nam hoàn toàn có thể bổ sung cho nhau. Những mặt hàng xuất

khẩu chủ lực của Vịêt Nam là những mặt hàng EU có nhu cầu nhập khẩu lớn như giày
dép. . . và ngược lại.
Bên cạnh đó còn phải tính đến sự xuất hiện của đồng tiền chung Euro sẽ càng tăng
thêm sức mạnh về kinh tế và chính trị cho Liên minh này. Đây là cơ hội tốt cho các
nhà xuất khẩu Việt Nam _những người còn ngần ngại trong việc khai phá và phát triển
các thị trường như Ailen, Hi Lạp, Bồ Đào Nha, Lucxămbua do những khó khăn về
đồng tiền thanh toán. Từ nay với một đồng tiền Euro duy nhất họ có thể chào hàng đến
tất cả các nước trong khu vực. Đồng tiền này sẽ tháo gỡ những vướng mắc trong vấn
đề thanh toán. Hơn nữa thị trường EU được kiện toàn sẽ giúp các nhà xuất khẩu Việt
Nam mở rộng xuất khẩu sang các nước thành viên hiện còn ít giao lưu thương mại vì
một sản phẩm Việt Nam được biết đến thì cũng dễ được những nước còn lại biết đến
và chấp nhận mà không tốn thêm chi phí tiếp thị, quảng cáo.





Phần II :Thực trạng xuất khẩu giày dép Việt Nam sang thị trường EU
1. Khái quát chung về hàng giày dép Việt Nam
Trước năm 1992, ngành giày dép Việt Nam chủ yếu thực hiện các hợp đồng hợp
tác kinh doanh gia công mũ giày cho Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu. Khi
khối này tan rã, ngành giày dép đã phải trải qua thời kỳ khó khăn do thiếu thị trường,
thiếu đơn đặt hàng. Tuy nhiên giai đoạn này kéo dài không lâu.
Bắt đầu từ năm 1993, ngành giày dép đã khởi sắc trở lại nhờ làn sóng di chuyển
sản xuất của các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động từ các nước phát triển và

các nước công nghiệp mới sang các nước đang phát triển. Ngành giày dép Việt Nam
đã bắt đầu tiếp nhận sự chuyển giao công nghệ từ các nước thông qua đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI), đặc biệt từ các nước NIEs trong khu vực. Cùng với nó là các đơn
đặt hàng chuyển dịch từ những nước có truyền thống về sản xuất giày dép như Đài

Loan, Hàn Quốc sang Việt Nam.
Hiện nay có 233 doanh nghiệp hoạt động trong ngành giày dép, tính đến cuối năm
1999 đã đầu tư hơn 550 dây chuyền sản xuất đồng bộ các loại giày dép, xây mới và
sửa chữa nhiều nhà xưởng. Ngành đã thu hút gần 400 000 lao động tham gia sản xuất,
năng lực sản xuất toàn ngành ngày càng được nâng cao và hiện nay đạt được hơn 360
triệu đôi / năm.
Sau những khó khăn do mất thị trường truyền thống của những năm 88_90, xuất
khẩu giày dép đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao. Thị trường xuất khẩu chủ yếu của
ngành giày dép Việt Nam hiện nay là EU. Mỹ và Nhật Bản là hai thị trường đứng sau
EU về mức nhập khẩu giày dép của Việt Nam. Xét về khả năng cạnh tranh với hàng
ngoại, sản phẩm giày dép Việt Nam đạt loại trung bình, tương đương với sản phẩm
cùng loại của Thái Lan, Indonesia, Philipine nhưng thấp hơn hàng Trung Quốc với
mức giá lại cao hơn
Về cơ bản, có thể nói ngành giày dép Việt Nam có điều kiện thuận lợi để tăng
trưởng mạnh và trở thành nước xuất khẩu giày dép lớn của châu á cũng như trên thế
giới.
2. Thực trạng xuất khẩu
2. 1. Kim ngạch xuất khẩu
Chính từ sự đầu tư, đổi mới dây chuyền sản xuất, năng lực sản xuất ngành giày
dép đã tăng lên nhanh chóng. Chỉ tính trong khoảng thời gian 1997 _2000 sản xuất
chung tăng 206 triệu đôi lên đến 303 triệu đôi và chỉ số trung bình phát triển hàng
năm trong giai đoạn này là 14%. Nếu từ năm 1991 trở về trước hầu như chỉ tiêu thụ
nội địa, không có xuất khẩu, thì đến năm 1992 đã xuất khẩu được 5 triệu USD và tăng
liên tục với tốc độ cao trong những năm sau đó cho đến nay. Năm 2001 so với năm

1992_ tức là sau 9 năm _kim ngạch xuất khẩu giày dép đã tăng 312 lần, bình quân 1
năm tăng trưởng tới 89, 3 % và hiện nay đứng thứ 4 trong các ngành hàng xuất khẩu
của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu giày dép Việt Nam từ chỗ không có gì, sau 10
năm phát triển đã vươn lên hàng thứ 4 thế giới sau Trung Quốc, Hông Cong và Italia.
Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu giày dép thì tăng cao và tăng đều qua các năm nhưng

kim ngạch xuất khẩu thực thu lại thì không nhiều do chúng ta chủ yếu làm gia công
cho các công ty giày dép nước ngoài, chiếm tới 80 % kim ngạch xuất khẩu của toàn
ngành.
Hướng về những mục tiêu trong tương lai, năm 2003 mục tiêu kim ngạch xuất
khẩu của ngành giày dép là hơn 2 tỷ USD ;dự kiến năm 2005 sản xuất 390 triệu đôi
giày dép, xuất khẩu đạt trị giá 2, 5 tỷ USD, năm 2010 sản xuất 620 triệu đôi giày dép,
xuất khẩu đạt trị giá khoảng 5_5, 2 tỷ USD. Hiện nay đồng Euro có xu hướng tăng giá
so với đồng USD nên rất thuận lợi cho việc xuất khẩu giày dép sang EU. Tuy vậy sự
cạnh tranh mạnh mẽ từ các sản phẩm của Trung Quốc sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới số
lượng giày dép xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU và tất yếu sẽ ảnh hưởng
tới kim ngạch xuất khẩu dự kiến của ngành trong thời gian tới. Bên cạnh đó cũng
không nên trông chờ vào sự vươn mình mạnh mẽ của kinh tế châu Âu nhằm tăng sức
mua. Do đó, kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam nói chung và kim ngạch
xuất khẩu vào thị trường EU nói riêng có thể tăng như dự kiến nhưng tốc độ tăng sẽ
giảm so với những năm trước.
2. 2. Mặt hàng xuất khẩu
Nhiều năm qua ngành giày dép đã cố gắng để bảo đảm sự ổn định sản xuất và tăng
trưởng xuất khẩu. Từ chỗ chỉ làm gia công các chi tiết không tạo ra sản phẩm hoàn
chỉnh đã chuyển sang sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh. Ba mặt hàng chính là giày thể
thao, giày nữ, giày vải chiếm phần lớn trong kim ngạch xuất khẩu giày dép, trong đó
chủ yếu là giày thể thao chiếm hơn 60%, giày nữ chiếm 14% giày vải chiếm 11%. Các
dây chuyền sản xuất giày thể thao đã có đơn đặt hàng đều hơn và khai thác từ 70_75
% công suất, sản phẩm ngày càng có chất lượng cao. Số đơn đặt hàng ngày càng tăng
ở các cơ sở sản xuất đế giày, bồi vải, sản xuất khuôn mẫu cũng như các nguyên vật

liệu khác. Giá gia công và giá bán giày trên thế giới tăng khoảng 5% tuy vậy vẫn chưa
được cải thiện nhiều. Các chi phí đầu vào cho quá trình sản xuất giày dép còn cao,
chênh lệch giá lao động của Việt Nam cũng không còn nhiều lợi thế so với khu vực đã
đẩy chi phí sản xuất 1 đôi giày của Việt Nam là 5_6 USD / 1 đôi trong khi đó của
Trung Quốc là 2_3 USD / 1 đôi. Thông thường giá bán hàng của Trung Quốc nhập

khẩu thấp hơn 20_50% hàng của Việt Nam cùng loại (Theo thống kê năm 2000, giá
nhân công Việt Nam là 0, 35 USD /giờ, còn Trung Quốc là 0, 48 USD /giờ). Bên cạnh
đó cần phải nhìn nhận sản phẩm của ta còn kém về chất lượng, yếu về mẫu mã, chủng
loại hơn nhiếu so với sản phẩm của Trung Quốc , do đó Trung Quốc là một đối thủ
nặng kí của giày dép Việt Nam trên thị trường EU.
2. 3. Thị trường xuất khẩu
Những năm đầu thập kỷ 90, Liên Xô và Đông Âu tan rã, hầu hết các hàng hoá của
Việt Nam mất bạn hàng truyền thống trong đó có sản phẩm giày dép. Vượt qua thời kỳ
khó khăn nhất do không có thị trường giày dép Việt Nam đã có những hướng đi mới
đến với những thị trường mới. Năm 2000, giày dép của chúng ta đã đi đến 129 nước
và lãnh thổ trong đó có 48 quốc gia và lãnh thổ đạt hơn 1, 2 triệu USD, 18 thị trường
đạt trên 10 triệu USD trong đó đứng đầu là Anh 220 triệu USD, Đức 210, 6 triệu USD,
Bỉ 155, 4 triệu USD, Pháp 139, 6 triệu USD, Hà Lan 133 triệu USD, Italia 86, 5 triệu
USD, . . . Xét theo khu vực, EU là thị trường lớn nhất, năm 2001 đã chiếm tới 82 %
kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam. Sang năm 2002 kim ngạch xuất khẩu
sang thị trường này là gần 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả ngành giày dép và
tương ứng với 7, 2 % thị phần nhập khẩu giày dép của EU. EUlà thị trường chính cho
giày dép xuất khẩu của Việt Nam nhưng trên thị trường EU sản phẩm giày dép Trung
Quốc chiếm một vị trí hơn hẳn Việt Nam. Không chỉ hơn về thị phần Trung Quốc là 7,
8% so với Việt Nam là 7, 2% mà sản phẩm của Trung Quốc còn đáp ứng được những
nhu cầu tiêu dùng người dân EU. EU là thị trường rộng lớn, thống nhất với 15 quốc
gia, dân số là và sức mua lớn, mỗi năm có nhu cầu nhập khẩu hơn 800 triệu đôi giày
dép, người dân EU có mức sống cao nên giá cả không là vấn đề cạnh tranh chính, chất
lượng cũng không là mối quan tâm hàng đầu mà đó là mẫu mã, chủng loại, tính thời
trang của sản phẩm. Sản phẩm của Trung Quốc đã đáp ứng đầy đủ những yếu tố cạnh

tranh đó và giày dép của Việt Nam đứng trước nhiều thách thức không nhỏ để giữ
được vị trí xuất khẩu sang thị trường EU. Nhất là sau 11/12/2001 sau khi Trung Quốc
chính thức gia nhập WTO tạo cơ hội và thuận lợi cho hàng hoá Trung Quốc tràn ngập
thị trường EU. Còn Việt Nam phải tính đến thời điểm sau 31/12/2004 không còn

những ưu đãi về thuế đối với giày dép của ta. Khi đó giá cả giày dép đã cao hơn của
Trung Quốc sẽ lại càng cao hơn, mà chất lượng, mẫu mã chưa cải tiến kịp thời, chắc
chắn thị phần EU của Việt Nam sẽ bị thu hẹp dần nếu ngành giày dép không tìm cho
mình những hướng đi mới. Chúng ta có thể hướng sang một số thị trường lớn khác
như Mỹ, Nhật Bản. Mỹ là thị trường mới đầy tiềm năng nhất là sau khi Hiệp định
thương mại Việt _Mỹ được kí kết, bước đầu tạo cho các doanh nghiệp của ta cơ hội
khai thác tốt hơn thị trường này. Mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu giày dép của
Việt Nam vào thị trường Mỹ năm 2002 đạt gần 300 triệu USD. Đối với thị trường
Nhật Bản, dù có nhu cầu rất lớn 300 triệu đôi mỗi năm nhưng trong đó hàng Trung
Quốc đã chiếm tới 70 %. Năm2002 kim ngạch xuất khẩu giày dép Việt Nam sang thị
trường khó tính này đạt một con số khá khiêm tốn là 73, 5 triệu USD
Sản phẩm giày dép của Việt Nam vào hai thị trường này không được hưởng
những ưu đãi như đối với thị trường EU mà mặt khác phải chịu nhiều áp lực từ những
yếu tố nhạy cảm và những động thái bất ngờ của thị trường Mỹ hay "sự khắt khe "của
thị trường Nhật Bản. Do vậy, có thể khẳng định rằng EU vẫn là thị trường lớn, ổn định
và là thị trường chủ lực cho sản phẩm giày dép xuất khẩu của Việt Nam. Thách thức
nhiều nhưng không phải là có ít cơ hội cho các doanh nghiệp sản xuất giày dép Việt
Nam trên thị trường còn nhiều tiềm năng này. Điều quan trọng này là chúng ta phải
biết khai thác và tận dụng tốt lợi thế cũng như những cơ hội có được khi thâm nhập
sâu hơn vào thị trường này.
2. 4. Hình thức xuất khẩu
Theo nghiên cứu về quan hệ thương mại Việt Nam _Liên minh châu Âu cho thấy
quan hệ xuất nhập khẩu giữa hai bên qua trung gian còn chiếm tỷ trọng lớn :40_50%
khối lượng hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam với châu á là đi châu Âu hoặc có xuất
xứ từ châu Âu. Việc buôn bán qua trung gian đã gây thiệt hại không nhỏ cho các

doanh nghiệp Việt Nam cũng như các doanh nghiệp EU. Tồn tại một thực tế hiện nay
là giày dép xuất khẩu của Việt Nam vào EU chủ yếu thông qua các công ty Đài Loan,
Hàn Quốc, Hông Kong khiến cho doanh số giảm từ 10_15%. Trên thực tế, tăng tỷ
trọng xuất khẩu trực tiếp vào thị trường EU là phương hướng phát triển quan trọng của

ngành giày dép Việt Nam và cũng là mong muốn của EU. Nhiều công ty nước ngoài
đầu tư vào ngành giày dép của Việt Nam nhằm tận dụng ưu đãi mà EU dành cho hàng
hoá xuất khẩu có xuất xứ từ Việt Nam (C/O). Giày dép xuất ra khỏi Việt Nam và đến
với người tiêu dùng tại thị trường EU dưới một thương hiệu có "made in. . . "là một
nước nào đó mà không phải là Việt Nam. Sản phẩm giày dép của chúng ta chịu ảnh
hưởng giày dép của Đài Loan, Hàn Quốc, chưa có hình ảnh riêng cho sản phẩm, chưa
có những nhãn hiệu đáng tin cậy đối với người tiêu dùng EU nên muốn tiêu thụ được
trên thị trường này giày dép của Việt Nam buộc phải đi theo đường vòng. Phương
thức sản xuất gia công lại thêm vào hình thức xuất khẩu qua trung gian đã không nói
lên được lợi ích thực sự của Việt Nam khi xuất khẩu giày dép sang thị trường EU.
3. Đánh giá chung về tình hình xuất khẩu giày dép Việt Nam thời gian qua
3. 1. Ưu điểm
Từ thực trạng xuất khẩu giày dép Việt Nam sang thị trường EU chúng ta có thể
nhận thấy nhiều điểm sáng trong bức tranh xuất khẩu của ngành công nghiệp nhẹ này
Đầu tiên phải nói đến sự tăng trưởng vượt bậc về năng lực sản xuất của ngành
trong những năm qua. Số lượng giày dép sản xuất ra năm sau tăng hơn năm trước,
không những đáp ứng nhu cầu nội địa mà phần lớn dành cho xuất khẩu. Công suất
hoạt động các dây chuyền sản xuất của ngành tăng lên, đơn đặt hàng nhiều hơn, sản
phẩm ngày càng đạt chất lượng cao hơn đáp ứng nhu cầu của nhiều khách hàng, giá
bán giày dép và giá gia công đã được cải thiện trên thị trường thế giới.
Cùng với sự phát triển về năng lực sản xuất, kim ngạch xuất khẩu giày dép của
Việt Nam sang thị trường EU tăng qua các năm, mức tăng trưởng bình quân cao. Có
một số thời kỳ con số này có chững lại do một số nguyên nhân nhưng Việt Nam vẫn là
quốc gia xuất khẩu lớn thứ hai vào thị trường này. Kim ngạch xuất khẩu giày dép vào

thị trường EU là một nguồn thu ngoại tệ góp phần điều chỉnh cán cân thương mại của
Việt Nam. Đây cũng là nguồn vốn ngoại tệ lớn để phục vụ cho nhu cầu nhập khẩu của
Việt Nam về trang thiết bị, máy móc, công nghệ. . . trong công cuộc công nghiệp hoá
và hiện đại hoá đất nước
Một điểm sáng nổi bật trong toàn cảnh xuất khẩu giày dép sang EU là đã thúc đẩy

các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho nhiều lao
động, nhất là những lao động nữ nông thôn tay nghề thấp. Thất nghiệp giảm đáng kể
đã giảm bớt sức ép lên xã hội, đồng thời nhiều vấn đề xã hội khác cũng được giải
quyết.
Vấn đề nóng bỏng nhất trong xuất khẩu của Việt Nam luôn là vấn đề thị trường đã
có những bước tiến mới. Bên cạnh thị trường giày dép lớn nhất là EU, giày dép Việt
Nam đã có mặt trên nhiều quốc gia và lãnh thổ. Sản phẩm của chúng ta đang nỗ lực
củng cố vị trí trên thị trường EU, phấn đấu mở rộng thị phần trên những thị trường
tiềm năng như Mỹ, Nhật Bản, tìm cách nối lại quan hệ bạn hàng với cá thị trường
truyền thống đồng thời tiếp cận những thị trường mới nhất là một số quốc gia sắp gia
nhập Liên minh châu Âu.
Với những nỗ lực sản xuất và xuất khẩu của toàn ngành trong những năm qua, Uỷ
ban châu Âu đã thông qua chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập mới áp dụng từ ngày
1/1/2002 đến ngày 31/12/2004, theo đó hàng giày dép xuất xứ từ Việt Nam xuất khẩu
sang EU được hưởng mức thuế thấp chỉ bằng 70 % mức thuế thông thường. Đây là
điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang thị trường EU.
3. 2. Tồn tại
Bên cạnh những bước tiến đã đạt được trong thời gian qua, ngành giày dép vẫn
còn phải đối mặt với nhiều vấn đề bức xúc còn tồn tại
Không thể không nhìn nhận năng lực sản xuất của toàn ngành giày dép đã tăng lên
đáng kể cùng với sự đổi mới và đầu tư nhiều dây chuyền sản xuất, công nghệ, nhà
xưởng nhưng công suất hoạt động của các dây chuyền sản xuất này chưa được khai
thác tối đa. Nhiều đơn đặt hàng giày thể thao doanh nghiệp của ta không thực hiên hết

được, bên cạnh đó nhiều đơn đặt hàng giày dép cao cấp hơn chúng ta lại phải chịu bỏ
qua. Điều này cho thấy rằng sản phẩm của Việt Nam hàm lượng kỹ thuật thấp, hàm
lượng giá trị gia tăng mới chỉ ở mức 30_35% dẫn đến giá trị xuất khẩu chưa cao. Một
bất lợi cho sản phẩm giày dép Việt Nam là giá cả còn cao thậm chí cao hơn nhiều lần
so với sản phẩm cùng loại của Trung Quốc nhưng chất lượng, mẫu mã, chủng loại thì
lại kém hơn rất nhiều. Đây thực sự là một điểm yếu của sản phẩm của ta có thể dẫn tới

nguy cơ không cạnh tranh được với hàng hóa Trung Quốc trên thị trường EU trong
thời gian tới, nhất là sau năm 2004 và Việt Nam chưa gia nhập WTO
Gia công là phương thức sản xuất chủ yếu của ngành giày dép. Chúng ta chưa
thực hiện được phương thức mua đứt bán đoạn đối với hàng hoá giày dép nên hiệu quả
kinh doanh chưa cao. Thêm vào đó sản phẩm của Việt Nam xuất khẩu sang EU hầu
như phải qua trung gian nên kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành tăng khá đều và cao,
đạt được con số nhiều triệu đôla nhưng lợi nhuận thực tế thu về cho đất nước và cho
chính doanh nghiệp còn thấp
Cho đến nay, EU vẫn là thị trường chính chủ yếu, nhập khẩu nhiều nhất giày dép
của Việt Nam (chiếm trên dưới 80%). Dù đã có quan hệ thương mại về mặt hàng này
trong cùng một thời gian tương đối dài nhưng hiện nay vẫn còn hiện tượng làm ăn
manh mún, giao hàng không đúng thời hạn, chất lượng không đúng qui định như trong
hợp đồng của các doanh nghiệp Việt Nam, ngay cả việc khai thác GSP mà EU dành
cho Việt Nam cũng chưa biết tận dụng và chưa hiệu quả. Giày dép là sản phẩm mang
tính thời trang theo mùa vì vậy việc giao hàng theo đúng thời gian của hợp đồng là rất
quan trọng nếu không sẽ bị khách hàng từ chối (trả về). EU là thị trường luôn bảo vệ
người tiêu dùng với hệ thống các tiêu chuẩn quốc gia và khu vực như yêu cầu về trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR), hệ thống tiêu chuẩn quản lý môi trường, ISO
14000, tiêu chuẩn SA 8000, tiêu chuẩn về lao động. . . buộc các nước xuất khẩu phải
thực hiện. Nếu các sản phẩm không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng, cũng như
các tiêu chuẩn này thì khó mà trụ vững trên thị trường EU. Mặt khác, EU là một thị
trường có tính thống nhất cao, thông tin xuyên suốt toàn khu vực, nếu như sản phẩm
giày dép của chúng ta mất uy tín trên một thị trường thì bất lợi cho hàng hoá của ta bị

nhân lên gấp 15 lần và hậu quả không thể lường hết được do vậy vấn đề bảo đảm chữ
tín trong hoạt động xuất khẩu trên thị trường EU là rất có ý nghĩa.
3. 3. Nguyên nhân của những tồn tại
Những tồn tại trong việc xuất khẩu giày dép sang EU là kết quả của rất nhiều
nguyên nhân, cả nguyên chủ quan lẫn nguyên nhân khách quan
Cho đến nay, hầu hết các thiết bị sản xuất giày dép được nhập khẩu từ Đài Loan

và Hàn Quốc theo phương thức trả chậm, các dây chuyền máy móc chủ yếu là công
nghệ của thập kỉ 70, 80 tuổi thọ ngắn. Việc nhập khẩu không mang tính chọn lọc,
công nghệ lạc hậu và thiếu đồng bộ đã dẫn đến việc vẫn đầu tư công nghệ nhưng công
suất khai thác được chưa đáp ứng đựơc yêu cầu của sản xuất và xuất khẩu. Phần lớn
các doanh nghiệp Việt Nam qui mô sản xuất còn nhỏ, khả năng tài chính còn hạn chế
nên còn yếu trong việc thực hiện các đơn đặt hàng lớn. Đồng thời cũng phải kể đến
vấn đề nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất. Nguyên vật liệu chủ yếu cho ngành giày
dép là da. Nhưng đến nay chúng ta gặp khó khăn trong việc thu mua nguyên liệu và
chất lượng nguyên liệu không bảo đảm. Có một nghịch lý là nguyên liệu da thuộc rất
thiếu trong khi năng lực sản xuất da thuộc trong nước đã phát triển, nhiều nhà máy đã
đầu tư thay đổi máy móc công nghệ nhưng công suất chỉ là 25%, đáp ứng không quá
10% nhu cầu và kết quả là hàng năm cả nứơc phải nhập khẩu 6 triệu feet vuông da
thuộc. Song vấn đề đáng quan tâm hơn là chất lượng da chưa đạt yêu cầu làm giày
xuất khẩu sang các nứơc xứ lạnh (trọng lượng da chỉ ở mức 50% so với tiêu chuẩn thế
giới). Đó là kết quả tất yếu của quá trình chăn nuôi không khoa học, kĩ thuật lột da
kém, xử lý trước khi lột chưa hợp lý, giết mổ phân tán nên không có điều kiện bảo
quản da. Tuy ngành có tốc độ phát triển cao về sản lượng song về kỹ thuật công nghệ
quản lý và thiết kế mẫu mốt vẫn bị lệ thuộc nhiều vào đối tác nước ngoài
Chính vì những khó khăn và hạn chế về tài chính, cung ứng nguyên phụ liệu, công
nghệ và trình độ quản lý. . . hiện nay của ngành giày dép Việt Nam (đặc biệt là các
doanh nghiệp trong nước) nên hình thức hợp tác gia công xuất khẩu với các đối tác
trong khu vực là phương thức chính của đa số các doanh nghiệp. Phương thức hợp tác

này mặc dù còn nhiều hạn chế cho các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và kinh tế
Việt Nam nói chung song phù hợp với giai đoạn vừa qua và hiện nay.
Một trong những nguyên nhân rất quan trọng dẫn tới những nhược điểm còn tồn
tại trong quan hệ thương mại xuất khẩu giày dép Việt Nam sang thị trường EU đó
chính là quan điểm và sự hiểu biết về thị trường này còn hạn chế. Giày dép là sản
phẩm của Việt Nam xuất khẩu sang EU đạt kim ngạch lớn nhất, tuy nhiên ngành giày
dép chưa có chiến lựơc phát triển xuất khẩu sản phẩm của ngành sang EU trong dài

hạn. Ngành và các doanh nghiệp trong ngành còn thiếu hiểu biết về thị trường thống
nhất, rộng lớn và đa dạng như EU. Các doanh nghiệp Việt Nam còn non nớt trong
kinh nghiệm thương trường, thậm chí còn bỡ ngỡ với thị trường EU, không biết nắm
bắt thời cơ, kém hiểu biết luật lệ của thị trường EU, thiếu thông tin, chưa biết tiếp cận
thị trường, chưa quan tâm tới hệ thống chất lượng sản phẩm theo các tiêu chuẩn của
EU. Thêm vào đó là thói quen làm ăn kiểu cũ, tuỳ tiện đã dẫn tới những việc làm
không đáng có, không phù hợp với truyền thống và tập quán kinh doanh của EU. Cũng
chính sự thiếu hiểu biết này dẫn đến sự thiếu tự tin của các doanh nghiệp Việt Nam
khi ra thương trường quốc tế. Thiếu thông tin, không dám mạo hiểm nên các doanh
nghiệp giày dép của Việt Nam không lựa chọn được những phương thức thích hợp để
tiếp cận với hệ thống phân phối khá phức tạp của EU và do đó buộc phải xuất khẩu
qua trung gian mới mong tiêu thụ được sản phẩm của mình trên thị trường này.
Nguyên nhân này gây ra những tác động rất tiêu cực và ảnh hưởng sâu sắc trong hoạt
động xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang thị trường EU






Phần III: Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu giày dép Việt
Nam sang thị trường EU
Mục tiêu của ngành giày dép trong những năm tới là:hướng ra xuất khẩu với
phương hướng chuyển mạnh từ gia công sang mua nguyên liệu bán thành phẩm, bảo
đảm nâng cao chất lượng, đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu, đáp ứng các yêu cầu
về mẫu mã, kiểu dáng, số lượng, chất lượng theo yêu cầu của thị trường, nâng cấp nhà
xưởng, đổi mới trang thiết bị và công nghệ theo hướng đưa công nghiệp tự động vào
sản xuất, tiến tới xuất khẩu trực tiếp sản phẩm hoàn chỉnh và xuất khẩu những sản
phẩm trung và cao cấp. Đến năm 2005 sản xuất 390 triệu đôi, kim ngạch xuất khẩu đạt
2, 5 tỷ USD, tạo việc làm cho khoảng hơn 500 ngàn lao động ;Năm 2010, sản xuất 620

triệu đôi, kim ngạch xuất khẩu đạt 5_5, 2 tỷ USD, với hơn 700 ngàn chỗ làm.
Từ những mục tiêu này trong qui hoạch phát triển tổng thể của ngành giày dép
đến năm 2010, chúng ta cần phải có những định hướng đẩy mạnh xuất khẩu giày dép
sang thị trường EU
I. Phương hướng đẩy mạnh xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang thị trường
EU
1. Đa dạng hoá sản phẩm
Để tìm được chỗ đứng lâu dài tại thị trường EU các sản phẩm giày dép của Việt
Nam cần phải nâng cao sức cạnh tranh cho mình. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng
sản phẩm, nâng cao hàm lượng công nghệ và chất xám trong sản phẩm thì các sản
phẩm xuất khẩu sang thị trường EU còn phải cải tiến mẫu mã hợp thị hiếu tiêu dùng.
Người dân EU rất coi trọng mẫu mã và thời trang của giày dép chứ không chỉ chất
lượng của sản phẩm. Do đó cần đa dạng hoá các sản phẩm giày dép từ hàng bình dân
đến hàng trung và cao cấp. Cần thiết đẩy mạnh năng lực sản xuất và xuất khẩu các mặt
hàng cao cấp sang thị trường EU để hạn chế sự cạnh tranh đối với hàng cấp thấp của
Trung Quốc.
2. Phân cấp sản phẩm

EU sử dụng "rào cản kỹ thuật "là biện pháp chủ yếu để bảo hộ sản xuất và tiêu
dùng nội địa hiện nay vì thuế nhập khẩu vào EU đang giảm dần. Việc áp dụng hệ
thống quản lý chất lượng theo các tiêu chuẩn của EU chính là yếu tố có tính quyết
định cho hàng hóa của các nước đang phát triển _những hàng hóa được EU cho hưởng
thuế quan ưu đãi GSP trong đó có giày dép của Việt Nam có vượt qua được rào cản kĩ
thuật của EU hay không. Phấn đấu nâng cấp các sản phẩm của Việt Nam đáp ứng các
tiêu chuẩn chất lượng của EU là chìa khóa đưa sản phẩm của ta vào được thị trường
EU. Với các chứng chỉ về tiêu chuẩn chất lượng của EU, sản phẩm của chúng ta sẽ có
được lòng tin của khách hàng khó tính trên thị trường này. Bên cạnh đó người dân
châu Âu ưa chuộng hàng hóa có nhãn hiệu nổi tiếng, giá cả không phải là giải pháp
cạnh tranh tối ưu đối với giày dép Việt Nam. Do đó cần nâng cấp sản phẩm, từng
bước xây dựng thương hiệu giày dép của Việt Nam sánh ngang tầm khu vực. Đây là

những hướng đi đúng đắn và cực kì cần thiết cho các sản phẩm giày dép của Việt Nam
khi bước vào những thị trường đã đạt tới trình độ phát triển cao, văn minh công nghiệp
đã được xây dựng như EU.
3. Chuyển đổi phương thức sản xuất hàng xuất khẩu
Để đạt được các mục tiêu xuất khẩu giày dép sang thị trường EU đặc biệt là mục
tiêu về kim ngạch xuất khẩu mà thực chất là củng cố chỗ đứng vững chắc cho sản
phẩm giày dép Việt Nam trên thị trường này thì các doanh nghiệp Việt Nam phấn đấu
chuyển sang phương thức sản xuất mua đứt bán đoạn, mua nguyên liệu bán thành
phẩm đối với hàng hoá này. Trong tình hình hiện nay và trong khoảng thời gian 2_3
năm tới, phương thức sản xuất gia công chưa thể khắc phục được. Cần có thời gian để
các doanh nghiệp nâng cao trình độ, công nghệ, đồng thời giảm dần tỷ trọng hàng gia
công, tiến tới tự chủ về sản xuất vào năm 2005, cho phép nâng cao quyền lựa chọn và
lợi nhuận trong kinh doanh.
4. Đa dạng hoá hình thức xuất khẩu
Phương hướng của toàn ngành giày dép trong những năm tới ngoài việc đa dạng
hoá sản phẩm, phân cấp sản phẩm, chuyển đổi phương thức sản xuất còn phải tiến tới
đa dạng hoá các hình thức xuất khẩu. Đa dạng hoá các hình thức xuất khẩu là đa dạng

hoá các con đường đưa sản phẩm của chúng ta đến với thị trường tiêu thụ. Cần chủ
động tiếp cận trực tiếp với đối tác nước ngoài nhằm tìm hiểu đặc điểm kinh doanh,
nhu cầu của thị trường thế giới, nắm bắt cơ hội cũng như đối mặt với những thách
thức để triệt để khai thác lợi thế quốc gia, tiến hành kinh doanh quốc tế có hiệu quả.
Ngành giày dép sẽ nỗ lực hơn nữa đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp nhằm tăng lợi nhuận
kinh doanh cho doanh nghiệp và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu
giày dép thu nhiều kim ngạch xuất khẩu thực hơn.
II. Giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu giày dép sang thị trường EU
Để đạt được những mục tiêu của ngành giày dép từ nay cho đến năm 2010 theo
như những phương hướng xuất khẩu giày dép của Việt Nam trong giai đoạn tới, cả
phía Nhà Nước và Doanh nghiệp cần phải có những giải pháp cụ thể và tích cực để
đẩy mạnh xuất khẩu giày dép sang thị trường EU

1. Từ phía Nhà Nước
1. 1. Xây dựng chiến lược đúng đắn và đồng bộ cho sản phẩm giày dép của Việt
Nam hướng về xuất khẩu.
Nhiều năm nay ngành giày dép Việt Nam vẫn chưa xây dựng được chiến lược của
ngành từ khâu kiểm soát nguyên phụ liệu đầu vào :ai đầu tư ? vốn là bao nhiêu ? cho
đến phương thức sản xuất, hình thức xuất khẩu thích hợp cho từng thời kỳ. Chính phủ
nên kết hợp với các bộ ngành có liên quan xây dựng chiến lược mang tính tổng thể
cho ngành giày dép. Thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào ngành, khuyến khích đầu
tư vào ngành sản xuất nguyên liệu, qui hoạch phát triển công nghiệp về nuôi thú,
thuộc da và vật liệu, tạo mối liên kết giữa ngành cung cấp nguyên vật liệu trong nước
với các doanh nghiệp sản xuất giày dép. Vì trong một thời gian tới chúng ta mới tiến
tới loại bỏ phương thức gia công xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp nên Nhà
Nước cần có các biện pháp quản lý chặt chẽ hoạt động xuất nhập khẩu công nghệ,
nguyên phụ liệu. Đồng thời nên có sự hỗ trợ nhất định về chi phí dịch vụ (điện, nước,
vận tải, bảo hiểm), những ưu đãi về thuế nhập khẩu nguyên liệu, thuế thu nhập doanh

nghiệp. Những biện pháp này sẽ phần nào hỗ trợ năng lực xuất khẩu của ngành giày
dép một cách có hiệu quả nhất
1. 2. Tiếp cận và mở rộng hơn nữa thị trường EU.
Cần tranh thủ những điều kiện do Hiệp định khung đã kí kết giữa Việt Nam _EU
và giữ vững những cam kết đó để phát triển quan hệ với EU. Chính phủ nên bắt đầu
với việc thông qua các chính sách chống gian lận thương mại, gian lận về xuất xứ
hàng hoá, nguyên phụ liệu, kiểm tra và xử lý nhanh chóng, hiệu quả những trường hợp
vi pham các bộ chứng từ có C/O Việt Nam nhưng xuất xứ Trung Quốc. Nên tích cực
xúc tiến đàm phán và kí kết Hiệp định thương mại song phương với các quốc gia trong
EU nhất là các quốc gia chủ yếu, nhập khẩu lớn giày dép của Việt Nam như Anh,
Pháp, Đức. Bên cạnh đó cũng cần quan tâm tới thị trường các nước sắp gia nhập vào
EU (1/5/2004)
Việc tiếp cận và mở rộng quan hệ thương mại Việt Nam _EU xuất phát từ nhu cầu
và lợi ích từ hai phía. Lợi ích thương mại của Việt Nam càng gia tăng khi đồng Euro

chính thức đưa vào lưu hành trên thị trường thế giới thay thế cho các đồng tiền của 12
nước trong Liên minh châu Âu. Trong tương lai Euro sẽ là một đồng tiền mạnh và ổn
định, nó sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam tận dụng khai thác lợi thế tỷ giá EUR/VND có
lợi cho xuất khẩu Việt Nam sang các quốc gia trong khu vực sử dụng đồng Euro. Đó
chính là cánh cửa mở ra một tiềm năng và khả năng hợp tác đầy hứa hẹn cho cả hai
bên. Đặc biệt là đối với giày dép _sản phẩm chiếm kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của
Việt Nam sang thị trường EU, thì đây thực sự là một cơ hội lớn để thúc đẩy hơn nữa
xuất khẩu vào thị trường EU.
EU là thị trường thống nhất nhưng vẫn bao gồm sự đa dạng của 15 quốc gia thành
viên, mỗi quốc gia có những đặc điểm riêng về văn hoá, kinh tế xã hội. Chính phủ cần
thúc đẩy hơn nữa mối liên kết giữa các cơ quan xúc tiến thương mại tại các nước
thuộc EU với các doanh nghiệp sản xuất giày dép trong nước. Nâng cao hiệu quả hoạt
động của các cơ quan này chính là tăng cường vai trò cầu nối các doanh nghiệp trong
nước với những thông tin về thị trường EU như thông tin về nhu cầu thị trường, đặc
điểm văn hoá, tập quán tiêu dùng, thói quen kinh doanh, yếu tố luật pháp, qui định về

hệ thống tiêu chuẩn chất lượng, hệ thống phân phối vào thị trường này. Điển hình là
những thông tin về hệ thống kênh phân phối hàng hoá vào EU là cực kì quan trọng, vì
đây là thị trường có hệ thống phân phối khá phức tạp qua 2 kênh :tập đoàn và không
tập đoàn. Cho đến nay các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn thiếu thông tin về đặc
điểm của những kênh phân phối này.
1. 3. Nhà nước nên đứng ra hỗ trợ các doanh nghiệp cả vấn đề về lao động
Hiện nay ngành giày dép phụ thuộc lớn vào lao động thủ công trong quá trình sản
xuất. Lực lượng lao động này rất dồi dào nhưng trình độ thì lại hạn chế nên ảnh hưởng
không nhỏ đến năng suất toàn ngành. Chính vì nguồn cung lao động luôn lớn, chất
lượng nguồn lao động không cao nên dẫn đến những sự cố không đáng có xảy ra trong
nhiều doanh nghiệp liên doanh. Một giải pháp có thể được chính phủ đưa ra là hình
thành các trung tâm đào tạo, cung cấp nguồn lao động phù hợp, đáp ứng đúng, đủ nhu
cầu của các doanh nghiệp sản xuất trong ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động
này. Bên cạnh đó cần đào tạo bồi dưỡng nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý

doanh nghiệp, cán bộ hoạt động trong lĩnh vực ngoại thương của ngành về trình độ
ngoại ngữ, tác phong làm việc. . . để hoàn thiện hơn nữa hoạt động sản xuất và xuất
khẩu giày dép của Việt Nam trong tương lai không xa.
2. Từ phía doanh nghiệp
Với những giải pháp hỗ trợ của Nhà nước dành cho, ngành giày dép không nên
trông chờ ỷ lại, không nên thụ động ngồi chờ sự thay đổi sáng hơn lên của nền kinh tế
thế giới. Mỗi một doanh nghiệp trong ngành cần phải làm những gì để không bị tụt
hậu quá xa so với đối thủ Trung Quốc trên thị trường EU đặc biệt là sau năm 2004
2. 1. Bên cạnh sự hỗ trợ về thị trường, chính sách của Nhà nước các doanh nghiệp
nên chủ động tìm hiểu về thị trường EU. Nên chú trọng tới vấn đề tập quán tiêu dùng
và hệ thống tiêu chuẩn chất lượng của khu vực này. Chứng chỉ tiêu chuẩn chất lượng
của EU được coi như là tấm hộ chiếu cho sản phẩm của doanh nghiệp xâm nhập vào
thị trường này. Đây được coi như là mục tiêu bắt buộc của mỗi một doanh nghiệp xuất
khẩu giày dép sang EU. Tiếp đến là việc bảo đảm uy tín về số lượng, chất lượng, thời

gian giao hàng, chứng chỉ xuất xứ hàng hoá của giày dép Việt Nam cần được các
doanh nghiệp nhìn nhận là kim chỉ nam trong hoạt động xuất khẩu sang thị trường cấp
cao này
2. 2. Chủ động đầu vào của sản phẩm giày dép (nhất là nguyên liệu da) là một yêu
cầu bức thiết đối với mỗi doanh nghiệp sản xuất giày dép. Cần bảo đảm nguồn cung
cấp da đáp ứng được về số lượng cũng như chất lượng để có thể sản xuất những sản
phẩm cao cấp có chất lượng tốt hơn với chi phí giảm. Cải thiện dây chuyền sản xuất,
công nghệ và khai thác chúng có hiệu quả tối đa nhằm nâng cao hàm lượng kĩ thuật và
hàm lượng giá trị gia tăng đối với sản phẩm giày dép. Các doanh nghiệp nên coi trọng
và đầu tư nhiều hơn cho khâu sáng tạo và thiết kế mẫu mã, chủng loại hợp thời trang
cho những sản phẩm của mình để có được phong cách riêng và chỗ đứng ổn định trên
thị trường EU
2. 3. Các doanh nghiệp sử dụng nhiều phương thức khác nhau để đạt được mục
tiêu là giới thiệu sản phẩm, tìm kiếm cơ hội kinh doanh và mở rộng thị trường. Giới
kinh doanh giày dép thế giới thường tham gia các hội chợ triển lãm chuyên ngành như

:Hội chợ giày Dusseldorg(CHLB Đức), Hội chợ giày Milan_Bologra, Simac (Italia),
Hội chợ New Delhi (ấn Độ), Hội chợ Hông Kông, Quảng Châu, Quảng Đông (Trung
Quốc). Doanh nghiệp của chúng ta nên học hỏi những kinh nghiệm này từ các đối tác
nước ngoài để tích cực hơn nữa quảng bá hình ảnh sản phẩm giày dép Việt Nam trên
thị trường thế giới, đặc biệt là trên thị trường EU. Tại Việt Nam, Hiệp hội da giày đã
phối hợp tổ chức giới thiệu sản phẩm da giày Việt Nam. Triển lãm 2 lần trong 1 năm,
qui mô tuy chưa lớn nhưng đã đánh dấu bước phát triển mới của da giày Việt Nam
trên thị trường khu vực và thế giới
2. 4. Yếu tố con người luôn góp phần quyết định vào hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp nên bản thân mỗi một doanh nghiệp cần phải chú trọng tới công tác phát
triển nguồn nhân lực :đào tạo tay nghề cho lao động thủ công, bồi dưỡng nâng cao
trình độ và năng lực làm việc cho các cán bộ. Đặc biệt quan tâm tới đội ngũ thiết kế
mẫu mã, kĩ thụât viên tiếp thị xuất khẩu cho sản phẩm của doanh nghiệp mình. Đây là
những con người sẽ đem lại sự sáng tạo mới cho giày dép _một loại sản phẩm mang

×