Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

TIỂU LUẬN VẬN DỤNG VÀ PHÁT HUY Ý THỨC của SINH VIÊN ( cách làm từ AZ )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.5 KB, 31 trang )

GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HIẾN

KHOA XÃ HỘI – TRUYỀN THÔNG

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
Tên học phần: triết học mác - lênin

VẬN DỤNG VÀ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA Ý THỨC VÀO
QUÁ TRÌNH HỌC TẬP VÀ NGHIÊN CỨU CỦA SINH
VIÊN HIỆN NAY

Sinh viên thực hiện : Nguyễn Hải Phú
MSSV: 211A140455
Lớp học phần: 212POL10527
Giảng viên hướng dẫn : Huỳnh Văn Giàu

Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 4 Năm 2022
1


GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HIẾN

KHOA XÃ HỘI – TRUYỀN THÔNG

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
Tên học phần: triết học mác - lênin


VẬN DỤNG VÀ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA Ý THỨC VÀO
QUÁ TRÌNH HỌC TẬP VÀ NGHIÊN CỨU CỦA SINH
VIÊN HIỆN NAY

Sinh viên thực hiện : Nguyễn Hải Phú
MSSV: 211A140455
Lớp học phần: 212POL10527
Giảng viên hướng dẫn : Huỳnh Văn Giàu

Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 4 Năm 2022
2


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................2
1.

Lý do chọn đề tài........................................................................................................................................ 2

2.

Tổng quan tình hình nghiên cứu................................................................................................................ 3

3.

Phạm vi, đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................................. 4

4.

Phương pháp nghiên cứu............................................................................................................................ 5


5.

Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn........................................................................................................... 6

6.

Kết cấu đề tài.............................................................................................................................................. 8

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU......................................................................9
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA MÁC LÊ-NIN VỀ Ý THỨC..........................................................................9
1.1.
KHÁI NIỆM CỦA Ý THỨC..................................................................................................................... 9
1.1.1.
Ý thức là gì....................................................................................................................................... 9
1.1.2.
Nguồn gốc của ý thức....................................................................................................................... 9
1.1.3.
Vai trò của ý thức............................................................................................................................ 11
1.2.
KẾT CẤU CỦA Ý THỨC....................................................................................................................... 12
1.2.1.
Các lớp cấu trúc của ý thức:............................................................................................................ 12
1.2.2.
Các cấp độ của ý thức:.................................................................................................................... 12
1.2.3.
Vấn đề trí tuệ nhân tạo.................................................................................................................... 14
1.3.
BẢN CHẤT CỦA Ý THỨC.................................................................................................................... 15
CHƯƠNG 2: PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA Ý THỨC VÀO QUÁ TRÌNH HỌC TẬP VÀ NGHIÊN CỨU CỦA

SINH VIÊN HIỆN NAY.................................................................................................................................... 17
2.1.
THỰC TRẠNG VIỆC HỌC TẬP VÀ NGHIÊN CỨU CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY Ở VIỆT NAM.....17
2.1.1.
Nguyên nhân khách quan................................................................................................................ 17
2.1.2.
Nguyên nhân chủ quan................................................................................................................... 18
2.2.
GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ NÂNG CAO Ý THỨC HỌC TẬP VÀ NGHIÊN CỨU CỦA SINH VIÊN VIỆT
NAM HIỆN NAY................................................................................................................................................ 19
2.2.1.
Đối với sinh viên............................................................................................................................ 19
2.2.2.
Đối với giảng viên.......................................................................................................................... 20
2.2.3.
Đối với Nhà trường và các tổ chức đoàn thể................................................................................... 22
2.2.4.
Đối với gia đình.............................................................................................................................. 23

KÊT LUẬN CHUNG............................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................26

1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Về nguồn gốc tự nhiên: dựa trên cơ sở của những thành tựu khoa học tự nhiên, nhất
là sinh lý học thần kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, ý thức khơng phải
có nguồn gốc siêu tự nhiên, khơng phải ý thức sản sinh ra vật chất, mà chỉ là thuộc

tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người là cơ quan
vật chất của ý thức, ý thức là chức năng của bộ óc người. Ý thức phụ thuộc vào
hoạt động bộ óc con người, do đó khi bộ óc người bị tổn thương thì hoạt động của
ý thức sẽ khơng bình thường. Vì vậy khơng thể tách rời ý thức ra khỏi hoạt động
của bộ óc, ý thức khơng thể diễn ra, tách rời hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc
người.
Khoa học đã xác định con người là sản phẩm cao nhất của quá trình phát triển từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp của vật chất vận động, đồng thời đã xác
định bộ óc của con người là một tổ chức sống đặc biệt có cấu trúc tinh vi và phức
tạp bao gồm khoảng 14-15 tỷ tế bào thần kinh. Các tế bào này có liên hệ với nhau
và với các giác quan, tạo thành vô số những mối liên hệ với nhau, điều khiển hoạt
động của cơ thể trong quan hệ với thế giới bên ngoài qua các phản xạ mang tính ý
thức. Khi khoa học kỹ thuật tạo ra những máy móc thay thế cho một phần lao động
trí óc của con người thì khơng có nghĩa là máy móc có ý thức như con người. Máy
móc là một kết cấu kỹ thuật do con người tạo ra, còn con người là một thực thể xã
hội. Máy móc khơng thể thay thế cho hoạt động trí tuệ của con người, khơng thể
sáng tạo hiện thực dưới dạng tinh thần trong bản thân nó như trong con người. Do
đó chỉ có con người với bộ óc mới có ý thức.
Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng đất
nước ngày càng giàu mạnh, ngày càng thu hẹp khoảng cách phát triển so với các
nước trong khu vực và thế giới. Với vai trị tiên phong trong sự nghiệp cơng nghiệp
hóa – hiện đại hóa đất nước, tầng lớp tri thức, đặc biệt là Sinh viên là chủ nhân
tương lai của đất nước, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự
nghiệp cách mạng của đất nước ta hiện nay. Để hoàn thành được sứ mệnh to lớn
này, địi hỏi Sinh viên phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ và có lý
tưởng cách mạng, tuyệt đối trung thành với đường lối lãnh đạo của Đảng, kiên định
với con đường đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và
nhân dân ta đã lựa chọn, có niềm tin thắng lợi vào công cuộc đổi mới mà Đảng và
nhân dân ta đang thực hiện. Mỗi một người sinh ra trong cuộc đời, đều có một khả
năng tư duy động lập. Đây quả thực là một điều kì diệu mà cuộc sống ban tặng. Ý

2


thức cá nhân của mỗi người được hình thành ngay từ khi còn bé và phát triển theo
năm tháng. Với người học sinh, sinh viên thì ý thức cá nhân góp phần rất quan
trọng trong q trình học tập và nghiên cứu. Vì vậy, làm thế nào để vận dụng và
phát huy được vai trò của ý thức đối với sinh viên vào trong quá trình học tập và
nghiên cứu, cụ thể là một nhiệm vụ mà phần lớn có vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc định hướng xây dựng con người trong thời kỳ hiện đại ngày nay thì cũng
là vấn đề dẫn đến việc tác giả quyết định chọn đề tài “ vận dụng và phát huy vai trị
của ý thức vào q trình học tập và nghiên cứu của sinh viên hiện nay” làm đề tài
nghiên cứu.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về vai trị của ý thức vào q trình học tập và nghiên cứu của sinh viên
hiện nay đã có nhiều bài viết đề cập tới, chẳng hạn như:
Tác giả: Nhà xuất bản chính trị quốc gia trong bài viết “VAI TRỊ CỦA Ý THỨC
TRONG QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH SINH
VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY” (2011) đăng trên www.nxbctqg.org.vn đề cập tới
sinh viên với ý thức có vị trí "song hành", vị trí "kép" trong xã hội. Một mặt, họ là
những thanh niên sinh viên đang dần hoàn thiện nhân cách, là lực lượng sản xuất
hiện đại, người chủ của đất nước trong tương lai. Mặt khác, họ là nguồn lực cơ bản
để bổ sung vào đội ngũ trí thức trong tương lai. Họ chính là nguồn nhân lực chất
lượng cao đầy tiềm năng sáng tạo và ứng dụng khoa học - cơng nghệ để góp phần
thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế hiện nay.
Sinh viên hiện nay rất năng động. Họ năng động trong phương thức tiếp nhận tri
thức để hồn thành tốt nhiệm vụ chính là học tập; năng động trong quá trình tham
gia vào hoạt động xã hội: Làm thêm dưới nhiều hình thức thời gian (nửa ngày, vài
ngày trong một tuần, buổi tối), phong phú về nghề (làm gia sư, bán hàng, giúp việc
nhà...). Một số sinh viên cịn có tham vọng trở thành những nhà kinh doanh giỏi đã
mở cửa hàng kinh doanh thể hiện tính chủ động, sáng tạo cao trong cơng việc của

mình. Sinh viên hiện nay đề cao vai trò cá nhân: Kinh tế thị trường có tác động
mạnh mẽ đến q trình hình thành và phát triển ý thức sinh viên Việt Nam hiện nay.
Sinh viên ln có ý thức cao trong việc khẳng định mình bằng cách trau dồi kiến
thức chuyên mơn, khẳng định vị trí của mình trước xã hội. Đồng thời, họ thể hiện
rõ vai trò cá nhân, lợi ích cá nhân trong hành động. Lợi ích chung và sự quan tâm,
chia sẻ với những người xung quanh dường như bị lấn át bởi việc thực hiện những
lợi ích riêng, nhu cầu cá nhân ở một bộ phận sinh viên.
3


Tác giả: Huỳnh Tiến Phát trong bài viết “Ý THỨC VÀ SỰ VẬN DỤNG Ý THỨC
VÀO HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN” đăng trên vdanang.com đề cập tới việc liên hệ
bản thân sinh viên với vật chất và ý thức trong chủ nghĩa Mác Lê-Nin.
Thứ nhất: Bản thân phải xác định được các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến cuộc
sống hàng ngày, vì vật chất quyết định ý thức nên con người cần phải ý thức được
những vật chất của cuộc sống cịn thiếu thốn để có hành động phù hợp với thực tế
khách quan.
Thứ hai: Phải phát huy tính năng động, sáng tạo trong mọi hoạt động hàng ngày.
Kết cấu của ý thức thì tri thức là quan trọng nhất nên mỗi chúng ta cần chú trọng
phát triển tri thức của bản thân.
Thứ ba: Cần phải tiếp thu có chọn lọc kiến thức mới và không chủ quan trong mọi
tình huống.
Thứ tư: Khi giải thích một hiện tượng cần phải xét có yếu tố vật chất lẫn tinh thần,
cả yếu tố khách quan và điều kiện khách quan.
Tác giả: Vũ Thị Yến trong bài viết “Nâng cao giáo dục ý thức cho sinh viên trong
giáo dục và đào tạo ở bậc Đại học, Cao đẳng hiện nay” đăng trên www.epu.edu.vn
đề cập tới Giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên có một vai trị quan trọng, góp
phần trang bị cho sinh viên thế giới quan và phương pháp luận khoa học, xây dựng
nên nhân sinh quan, lý tưởng cách mạng và củng cố niềm tin của sinh viên đối với
sự lãnh đạo của Đảng vào công cuộc đổi mới đất nước. Bài viết này bàn về vai trò

của công tác giáo dục ý thức cho sinh viên ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
3. Phạm vi, đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Sinh viên các trường đại học và cao đẳng trên cả nước
Phạm vi nghiên cứu : Việt Nam
Nhằm đáp ứng được mục tiêu nghiên cứu nêu trên thì tác giả tiến hành các nhiệm
vụ nghiên cứu sau đây:

Làm sáng tỏ đặc điểm phát huy vai trị của ý thức trong q trình học tập của
sinh viên

Tìm hiểu thực trạng q trình vận dụng và phát huy vai trò của ý thức vào
quá trình học tập và nghiên cứu của sinh viên

Đề xuất thêm phương thức để vận dụng và phát huy vai trị của ý thức vào
q trình học tập và nghiên cứu của sinh viên
4



nay

Giải quyết được tình trạng thiếu sáng tạo trong học tập của sinh viên hiện

4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích:
Nói tới vai trị của ý thức là nói tới vai trị của con người vì ý thức là ý thức của con
người. Bản thân ý thức không khơng thể thay đổi được gì trong hiện thực. Ý thức
muốn tác động trở lại đời sống hiện thực phải bằng lực lượng vật chất, nghĩa là phải
được con người hoạt động trong thực tế. Điều Êy có nghĩa là sự tác động trở lại của
ý thức với vật chất phải thông qua hoạt động của con người được bắt đầu Nói tới

vai trị của ý thức là nói tới vai trị của con người vì ý thức là ý thức của con người.
Bản thân ý thức không không thể thay đổi được gì trong hiện thực. Ý thức muốn
tác động trở lại đời sống hiện thực phải bằng lực lượng vật chất, nghĩa là phải được
con người hoạt động trong thực tế. Điều ấy có nghĩa là sự tác động trở lại của ý
thức với vật chất phải thông qua hoạt động của con người được bắt đầu.
- Phương pháp tổng hợp:
Tại hội nghị lần thứ hai ban chấp hành trung ương đảng khoá 8 đã chỉ rõ “giáo dục
đào tạo nước ta còn nhiều yếu kém, bất cập cả về quy mô, cơ cấu và nhất là về chất
lượng chưa đáp ứng kịp được những đòi hỏi lớn và ngày càng cao về nhân lực của
công cuộc đổi mới kinh tế và xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện cơng
nghiệp hố , hiện đại hoá đất nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”
Hiện nay nước ta còn khoảng 9% dân số mù chữ, chưa phổ cập tiểu học: tỉ lệ sinh
viên trên tổng số dân còn rất thấp: 0,36% kém 10lần so với Singapo, Hàn Quốc ...tỷ
lệ lao động qua đào tạo mới đạt hơn 10% ; nền kinh tế quốc dân còn thiếu nhiều lao
động, cán bộ có tay nghề và trình độ kỹ thuật cao. | Cơ cấu quy mô giáo dục - đào
tạo chưa hợp lý, số lượng đào tạo ở đại học nhiều hơn ở lĩnh vực dạy nghề . quy mô
đào tạo nghề hiện nay vẫn quá nhỏbé, trình độ, thiết bị lạc hậu, khơng đáp ứng
được u cầu cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.Đáng quan tâm nhất là chất
lượng và hiệu quả giáo dục - đào tạo cịn thấp, cụ thể là:
Trình độ kiến thức, kỹ năng thực hành, phương pháp tư duy, trình độ ngoại ngữ và
thể lực của đa số sinh viên còn yếu.
Khả năng vận dụng kiến thức vào sản xuất và đời sống của nhiều học sinh, sinh
viên còn nhiều hạn chế.

5


Số đơng sinh viên tốt nghiệp chưa có khả năng thích ứng với những biến đổi nhanh
chóng trong ngành nghề và trong công việc.
Đặc biệt đáng lo ngại là một bộ phận trong số học sinh, sinh viên thoái hoá đạo

đức, mờ nhạt ý tưởng, chạy theo lối sống thực dụng, thiếu hồi bão lập thân, lập
nghiệp, vì tương lai của bản thân, đất nước.Cùng với đó là đào tạo chưa gắn với
người sử dụng.
5. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận:
Trên thực tế, đa số sinh viên tham gia học tập đều nhận thức rõ tầm quan trọng của
ý thức, nên có thái độ học tập nghiêm túc, chấp hành nội quy, quy chế lớp học;
đồng thời tích cực chủ động lĩnh hội tri thức ngay trên lớp, về nhà dành thời gian
đọc tài liệu, tham khảo các giáo trình và vận dụng ngay vào trong công tác, cuộc
sống hằng ngày. Song song với đó vẫn cịn có thể tồn tại 2 xu hướng lý luận sau
Xu hướng tích cực: khi đứng trước những mâu thuẫn, bằng sự thông minh, sức
sáng tạo và nghị lực, nhiều sinh viên biết tận dụng mọi cơ hội, mọi khả năng để
vượt qua những thử thách của cuộc sống sinh viên và đi từ thành công trong học
tập đến những thành công trong nghiên cứu khoa học, trong hoạt động đồn thể, do
đó họ có thể tự tin bước vào đời. Bên cạnh đó, vẫn cịn một bộ phận sinh viên chưa
nhận thức đúng đắn về học tập và cách thức nghiên cứu, thậm chí có biểu hiện lười
học thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau.
Xu hướng tiêu cực: Biểu hiện ở thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm, ở sủ bi quan, chán
nản, trông chờ, ỷ lại hay ở những hành động có tính cực đoan, chạy theo lợi ích của
cá nhân, cơ hội, vụ lợi, a dua theo cái xấu, đua đòi, giả dối, gian lận trong thi cử
....Đối với mỗi con người chúng ta rất nên quan tâm đến việc phát huy vai trị của
bản thân, đóng góp năng lực, trí tuệ, lao động, cho xã hội, cống hiến hết mình cho
xứng đáng là con người của công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước mạnh.Trên cơ
sở lý luận biện chứng của triết học Mac-Lênin kết hợp với nhiều phương pháp
nghiên cứu, trình bày, em hy vọng đề tài này sẽ giúp chocác bạn sinh viên có được
sự vận dụng tốt hơn những kiến thức của triết họctrong việc tìm kiếm những tri
thức.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Cuộc sống này có hiện thực như nhau tuy nhiên cách nhìn nhận của mỗi người,
cách phản ánh và nhận thức của mỗi người là khác nhau. Và bản thân tác giả, cũng

6


là một sinh viên thấy mình dần hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động,
giao tiếp mà lấy giáo dục là yếu tố chủ đạo. Giáo dục ý thức có chức năng như mọi
lĩnh vực giáo dục khác đóng vai trị hết sức to lớn đối với sự hình thành và phát
triển nhân cách sinh viên. Thơng qua nó mà nội dung của các phạm trù, nguyên tắc,
chuẩn mực đạo đức được nhận thức và hình thành. Giáo dục ý thức là cơ sở để sinh
viên tiếp nhận những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của quê hương, dân tộc.
Từ đó, củng cố phát triển tinh thần yêu nước và lòng tự hào đối với quê hương.
Hướng những sinh viên khác đến việc có trách nhiệm trong học tập, nghiên cứu
khoa học, hoạt động xã hội góp phần xây dựng quê hương ngày một giàu đẹp hơn.
Đặc biệt, phải giúp cho họ thấy rõ được sự cần thiết trong việc phát triển phong
trào học tập, rèn luyện vì sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân
chủ văn minh”. Khuyến khích hỗ trợ các sinh viên khác tham gia vào các sinh hoạt
truyền thống, tổ chức du khảo về nguồn, tổ chức phong trào đền ơn đáp nghĩa, tổ
chức “tiếp lửa truyền thống – mãi mãi tuổi 20”, “Thanh niên tình nguyện”,…Dần
sẽ hình thành thói quen ý thức được việc tu dưỡng và rèn luyện ở sinh viên. Vấn đề
giáo dục ý thức cho sinh viên các trường Đại học, Cao Đẳng trong những năm qua
đã có những chuyển biến tích cực. Sự chuyển biến đó đã tạo điều kiện cho việc tu
dưỡng, rèn luyện và nghiên cứu vào học tập của sinh viên ở nhận thức mới hơn.
Đồng thời, vận dụng tốt vai trò của ý thức vào học tập và nghiên cứu cịn mang lại
nhiều lợi ích tích cực cho sinh viên khi cịn trong mơi trường Đại học, Cao đẳng:
Thứ nhất, nghiên cứu khoa học giúp sinh viên bổ sung những kiến thức khơng được
học trong chương trình chính khóa, lấp đầy những kiến thức về kinh tế, đời sống xã
hội để làm giàu vốn sống cho bản thân. Trong quá đi khảo sát hay thực tế, các bạn
sẽ phải vận dụng những kỹnăng ít khi dùng đến, qua đó bạn hiểu sâu hơn hơn về
những điều còn bỏ ngỏ ở giảng đường hay những bài học trong sách.
Thứ hai, giúp sinh viên đào sâu hơn những kiến thức được học. Nghiên cứu khoa
học sẽ phát huy khả năng phân tích, đánh giá, liên tưởng, kết hợp với những điều

mới để giải quyết những vấn đề đang quan tâm, thắc mắc… từ một vấn đề sẽ mở
rộng ra nhiều vấn đề làm phong phú kiến thức cũng như vốn sống chúng ta.
Thứ ba, Trau dồi cho sinh viên những bài học bổ ích rút ra từ cơng việc nghiên cứu.
Kỹ năng làm việc nhóm hiệu quả, ăn ý, kết hợp nhuần nhuyễn giữa các thành viên
trong đội. Bên cạnh đó, cơng việc nghiên cứu cũng gặp rất nhiều khó khăn, rắc
rối… nhưng từ những bài học đó giúp các bạn rút ra những kinh nghiệm quý giá
mà chính bản thân tự chiêm nghiệm, và thay đổi.

7


Thứ tư chính là những kinh nghiệm viết báo cáo, chuyên đề tốt nghiệp sau này hay
làm khóa luận tốt nghiệp. Những kinh nghiệm này thực sự bổ ích cho sinh viên
năm cuối và khi rời ghế nhà trường đi làm. Cao hơn là những luận văn thạc sĩ hoặc
luận án tiến sĩ… Nghiên cứu khoa học không những củng cố, nâng cao vốn hiểu
biết về kiến thức lý luận, kiến thức xã hội mà cịn góp phần rèn luyện những kỹ
năng mềm quan trọng dành cho sinh viên. Vậy nên, sinh viên cần phải nhận thức
được vai trò thiết thực của hoạt động nghiên cứu khoa học. Từ đó, có ý thức tự
giác, nghiêm túc và kiên trì theo đuổi thực hiện thành cơng đề tài nghiên cứu mà
mình đã lựa chọn.
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mục lục và danh mục tài liệu tham khảo thì kết cấu đề tài bao gồm 3
phần: Mở đầu, nội dung chính và kết luận của đề tài. Riêng phần nội dung chính
được chia làm 2 chương.

8


NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Để sinh viên có thể vận dụng tốt được vai trò của ý thức trong học tập và nghiên

cứu thì chủ yếu sinh viên phải là tự học, tự tìm tịi nhằm kích thích khả năng sáng
tạo và tư duy. Trong suốt những năm vừa qua, việc tự học tự nghiên cứu trong học
tập của sinh viên đã được cải thiện rất nhiều, nhất là sau khi chuyển sang học theo
tín chỉ. Tuy nhiên vẫn cịn tồn tại rất nhiều hạn chế trong việc tự học, tự nghiên cứu
của sinh nhà trường. Phần lớn sinh viên chưa có kế hoạch tự học khoa học, lúng
túng trong việc xác định phương pháp tự học phù hợp cho mình và cho từng môn
học cụ thể nhất là đối với sinh viên năm nhất vì các em vẫn quen với cách học tập
của bậc Trung học phổ thông. Sinh viên chưa có thói quen đọc tài liệu và nghiên
cứu mà chủ yếu dựa vào những bài giảng và tài liệu do giảng viên cung cấp, chưa
biết cách tổng hợp kiến thức thu thập được qua việc nghiên cứu tài liệu. Nguồn tài
liệu tham khảo cho mơn học cịn hạn chế, sinh viên chủ yếu dựa vào tài liệu do
giảng viên cung cấp hoặc tham khảo tài liệu trên Internet, không có nhiều tài liệu
chính thống để cho sinh viên tham khảo khi nghiên cứu. Nói chung vẫn cịn rất
nhiều vấn đề chúng ta có thể đề cập tới phần nội dung này. Cùng tác giả chúng ta đi
sâu vào tìm hiểu các vấn đề đa chiều từ việc “vận dụng và phát huy vai trị của ý
thức vào q trình học tập và nghiên cứu của sinh viên hiện nay”.
CHƯƠNG 1:
QUAN ĐIỂM CỦA MÁC LÊ-NIN VỀ Ý THỨC
1.1. KHÁI NIỆM CỦA Ý THỨC
1.1.1.
Ý thức là gì
Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác – Lenin là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc
con người dựa trên cơ sở hoạt động thực tiễn, là hình ảnh chủ quan của thế giới khác quan. Đây
là phản ánh tích cực chủ động, sáng tạo hình ảnh chủ quan.
Ví dụ: Có 2 người con gái là cặp song sinh nên 2 người tương đồng về sắc đẹp cũng như hình thể.
Nếu ta thích người chị hơn thì đương nhiên ta sẽ nhận thấy người chị đẹp hơn hơn người em, và
ngược lại.
1.1.2.

Nguồn gốc của ý thức


Có 2 nguồn gốc rõ ràng nhất là: Nguồn gốc tự nhiên (bao gồm bộ óc con người và thế giới khách
quan) và Nguồn gốc xã hội (bao gồm lao động và ngôn ngữ). Tuy nhiên, nguồn gốc quyết định để
hình thành nên ý thức là nguồn gốc xã hội (nhưng quan trọng nhất, trực tiếp nhất là lao động)
- Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm:
Khi lý giải nguồn gốc ra đời của ý thức, các nhà triết học duy tâm cho rằng, ý thức là nguyên thể
đầu tiên, tồn tại vĩnh viễn, là nguyên nhân sinh thành, chi phối sự tồn tại, biến đổi của toàn bộ thế
giới vật chất. Chủ nghĩa duy tâm khách quan với những đại biểu tiêu biểu nhưPlato, Hegelđã
tuyệt đối hóa vai trị của lý tính,khẳng định thế giới “ý niệm”, hay “ý niệm tuyệt đối” là bản thể,
9


sinh ra toàn bộ thế giới hiện thực. Ý thức của con người chỉ là sự “hồi tưởng” về “ý niệm”, hay
“tự ý thức” lại “ý niệm tuyệt đối”. Còn chủ nghĩa duy tâm chủ quan với những đại biểu như G.
Berkeley (G.Béccơli), E.Mach lại tuyệt đối hóa vai trị của cảm giác, coi cảm giác là tồn tại duy
nhất, “tiên thiên”, sản sinh ra thế giới vật chất. Ý thức của con người là do cảm giác sinh ra,
nhưng cảm giác theo quan niệm của họ không phải là sự phản ánhthế giới khách quan mà chỉ là
cái vốn có của mỗi cá nhân tồn tại tách rời, biệt lập với thế giới bên ngồi. Đó là những quan
niệm hết sức phiến diện, sai lầm của chủ nghĩa duy tâm, cơ sở lý luận của tôn giáo. Quan điểm
của chủ nghĩa duy vật siêu hình. Đối lập với các quan niệm của chủ nghĩa duy tâm, các nhà duy
vật siêu hình phủ nhận tính chất siêu tự nhiên của ý thức, tinh thần. Họ xuất phát từ thế giới hiện
thực để lý giải nguồn gốc của ý thức. Tuy nhiên, do trình độ phát triển khoa học của thời đại đó
cịn nhiều hạn chế và bị phương pháp siêu hình chi phối nên những quan niệm về ý thức cịn mắc
nhiều sai lầm. Các nhà duy vật siêu hình đã đồng nhất ý thức với vật chất. Họ coi ý thức cũng chỉ
là một dạng vật chất đặc biệt, do vật chất sản sinh ra. Theo họ, có chăng sự khác nhau giữa các
giống, loài chỉ là ở cấp độ biểu hiện ra bề ngồi bằng ngơn ngữ hay không mà thôi. Nhà triết học
Pháp Diderot cho rằng: “cảm giác là đặc tính chung của vật chất,hay là sản phẩm của tính tổ chức
của vậtchất”1. Những sai lầm, hạn chế của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình
trong quan niệm về ý thức đã được các giai cấp bóc lột, thống trị triệt để lợi dụng, lấy đó làm cơ
sở lý luận, cơng cụ để nô dịch tinh thần quần chúng lao động. Tuy vậy, sự ra đời của ý thức

khơng phải chỉ có nguồn gốc tự nhiên mà còn do nguồn gốc xã hội. Sự phát triển của giới tự
nhiên mới tạo ra tiền đề vật chất có năng lực phản ánh, chỉ là nguồn gốc sâu xa của ý thức. Hoạt
động thực tiễn của loài người mới là nguồn gốc trực tiếpquyết định sự ra đời của ý thức. C. Mác
và Ph. Ăngghen khẳng định: “con người cũng có cả “ý thức” nữa. Song đó khơng phải là một ý
thức bẩm sinh sinh ra đã là ý thức “thuần túy”... Do đó ngay từ đầu, ý thức đã là một sản phẩm xã
hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại”. Sự hình thành, phát triển của ý thức là
một q trìnhthống nhất khơng tách rời giữa nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. Trong các
cơng trình nghiên cứu khoa học của mình, C. Mác và Ph. Ăngghen đã nhiều lần chỉ rõ rằng, ý
thức không những có nguồn gốc tự nhiên mà cịn có nguồn gốc xã hội và là một hiện tượng mang
bản chất xã hội. Ý thức hình thành khơng phải là q trình con người tiếp nhận thụ động các tác
động từ thế giới khách quan vào bộ óc của mình, mà chủ yếu từ hoạt động thực tiễn. Con người
sử dụng công cụ lao động tác động vào đối tượng hiện thực,bắt chúng phải bộc lộ thành những
hiện tượng, những thuộc tính, kết cấu... nhất định và thông qua giác quan, hệ thần kinh tác động
vào bộ óc để con người phân loại dưới dạng thơng tin, qua đó nhận biết nó ngày càng sâu sắc. Ph.
Ăngghen đã khẳng định: “Nhưng cùng với sự phát triển của bàn tay thì từng bước một đầu óc
cũng phát triển, ý thức xuất hiện, trước hếtlàvề những điều kiện của các kết quả có ích thực tiễn
và về sau,...là về những quy luật tự nhiên chi phối các kếtquả có ích đó”. Trải qua q trình hoạt
động thực tiễn lâu dài, trong những điều kiện,hồn cảnh khác nhau, với nhiều loại đối tượng khác
nhau; cùng với sự phát triển của tri thức khoa học, các phương pháptư duy khoa học cũng dần
được hình thành, phát triển giúp nhận thức lý tính của lồi người ngày càng sâu sắc. Nhận thức lý
tính phát triển làm cho ý thức ngày càng trở nên năng động, sáng tạo hơn. Ý thức không chỉ là sự
phản ánh tái tạo mà còn chủ yếu là sự phản ánh sáng tạo hiện thực khách quan. Thông qua thực
tiễn những sáng tạo trong tư duy được con ngườihiện thực hóa,cho ra đời nhiều vật phẩm chưa có
trong tự nhiên. Đó là “giới tự nhiên thứ hai” in đậm dấu ấn của bàn tay và khối óc con người.
10


-

Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng:


Trong khi phê phán chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng “ý niệm” có trước, sáng tạo ra thế
giới, C. Mác đồng thời khẳng định quan điểm duy vật biện chứng về ý thức: “ý niệm chẳng qua
chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó”.Dựa
trên những thành tựu mới của khoa học tự nhiên, nhất là sinh lý học -thần kinh hiện đại, các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác -Lênin khẳng định rằng, xét về nguồn gốc tự nhiên,ý thức chỉ là
thuộc tính của vật chất; nhưng không phải của mọi dạng vật chất, mà là thuộc tính của một dạng
vật chất sống có tổ chức cao nhất là bộ óc người. Ĩc người là khí quan vật chất của ý thức. Ý
thức là chức năng của bộ óc người. Mối quan hệ giữa bộ óc người hoạt động bình thường và ý
thức khơng thể tách rời bộ óc. Tất cả những quan niệm tách rời hoặc đồng nhất ý thức với óc
người đều dẫn đến quan điểm duy tâm, thần bí hoặc duy vật tầm thường. Ý thức là chức năng của
bộ óc người hoạt động bình thường. Sinh lý và ý thức là hai mặt của một quá trình -quá trình sinh
lý thần kinh trong bộ óc người mang nội dung ý thức, cũng giống như tín hiệu vật chất mang nội
dung
thơng
tin.
Xem xét nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội của ý thức cho thấy, ý thức xuất hiện là kết quả
của quá trình tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên, của lịch sử trái đất, đồng thời là kết quả trực tiếp
của thực tiễn xã hội -lịch sử của con người; trong đó, nguồn gốc tự nhiên là điều kiện cần, còn
nguồn gốc xãhội là điều kiện đủ để ý thức hình thành, tồn tại và phát triển. Nếu chỉ nhấn mạnh
mặt tự nhiên mà quên đi mặt xã hội, hoặc ngược lại chỉ nhấn mạnh mặt xã hội mà quên đi mặt tự
nhiên của nguồn gốc ý thức đều dẫn đến những quan niệm sai lầm, phiến diện của chủ nghĩa duy
tâm hoặc duy vật siêu hình, khơng thể hiểu được thực chất của hiện tượng ý thức, tinh thần của
lồi người nói chung, cũng nhưcủa mỗi người nói riêng. Hoạt động thực tiễn phong phú của lồi
người là mơi trường để ý thức hình thành, phát triển và khẳng định sức mạnh sáng tạo của nó.
Nghiên cứu nguồn gốc của ý thức cũng là một cách tiếp cận để hiểu rõ bản chất của ý thức, khẳng
định bản chất xã hội của ý thức.
1.1.3.

Vai trò của ý thức


Vai trò của ý thức có một tầm quan trọng đối với thực tiễn cuộc sống và khẳng định vật chất là
nguồn gốc khách quan, là cơ sở sản sinh ra ý thức, còn ý thức chỉ là sản phẩm, là sự phản ánh
chân thật về thế giới khách quan. Và hành động của con người chỉ xuất phát từ những yếu tố tác
động của thế giới khách quan.
Điều này đã tạo cho con người sự thơng minh, nhạy bén để có thể ứng phó kịp thời với các tác
động của mơi trường xung quanh. Từ đó giúp tạo nên các giá trị thực tiễn cho đời sống xã hội,
nhiều cơng trình kiến trúc được tạo nên, nhiều phát minh khoa học được hình thành do ý thức của
con người dự đốn được những thiên tai, hay những thay đổi của tương lai…
Không những vậy, việc ý thức tốt về một vấn đề nào đó giúp cho con người hạn chế được những
hành vi vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng hậu quả xấu đến sự phát triển của quốc gia. Các quốc
gia có thể mở rộng mối quan hệ ngoại giao với nhau về kinh tế để cùng nhau hợp tác phát triển,
xây dựng đất nước và thị trường thế giới ngày càng phát triển hiện đại hơn.

11


Như vậy, nói tới vai trị của ý thức thực chất là nói tới vai trị của con ngư ời, vì ý thức tự nó
khơng trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực cả. Do đó, muốn thực hiện tư tưởng phải sử dụng
lực lượng thực tiễn. Nghĩa là con người muốn thực hiện quy luật khách quan thì phải nhận thức,
vận dụng đúng đắn những quy luật đó, phải có ý chí và phương pháp để tổ chức hành động. Vai
trò của ý thức là ở chỗ chỉ đạo hoạt động của con người, có thể quyết định làm cho con người
hành động đúng hay sai, thành công hay thất bại trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất
định.
Do đó, con người càng phản ánh đầy đủ, chính xác thế giới khách quan thì càng cải tạo thế giới
có hiệu quả. Vì vậy, phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố
con người để tác động, cải tạo thế giới khách quan.

1.2. KẾT CẤU CỦA Ý THỨC
Dưới góc độ tâm lý học, để hiểu rõ hơn ta cắt dọc ý thức chia làm 3 bộ phận: Vô thức, Tiềm thức,

Tự ý thức. Nếu ta cắt ngang, ý thức được chia làm 3 phận là: Tri thức, Tình cảm, Ý chí, trong đó
tri thức đóng vai trị quan trọng nhất.
1.2.1.

Các lớp cấu trúc của ý thức:

Muốn cải tạo được sự vật, trước hết con người phải có sự hiểu biết sâu sắc về sự vật đó. Do đó,
nội dung và phương thức tồn tại cơ bản của ý thức phải là tri thức. Ý thức mà không bao hàm tri
thức, khơng dựa vào tri thức thì ý thức đó là một sự trừu tượng trống rỗng, khơng giúp ích gì cho
con người trong hoạt động thực tiễn. Theo C. Mác, “Phương thức tồn tại của ý thức và của một
cái gì đó đối vớiý thức là tri thức...Cho nên một cái gì đó nảy sinh ra đối với ý thức, chừng nào ý
thức biết cái đó”. Tri thức có nhiều lĩnh vực khác nhau như: tri thức về tự nhiên, xã hội, con
người; và có nhiều cấp độ khác nhau như: tri thức cảm tính và tri thức lý tính; tri thức kinh
nghiệm và tri thức lý luận; tri thức tiền khoa học và tri thức khoa học,v.v.. Tích cực tìm hiểu, tích
lũy lũy tri thức về thế giới xung quanh là yêu cầu thường xuyên của con người trên bước đường
cải tạo thế giới. Tuy nhiên, không thể đồng nhất ý thức với sự hiểu biết, tri thức về sự vật. Cùng
với quá trình nhận thức sự vật, trong ý thức còn nảy sinh thái độ của con người đối với đối tượng
phản ánh. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh tồn tại, nó phản ánh quan hệ giữa
người với người và quan hệ giữa người với thế giới khách quan. Tình cảm tham gia và trở thành
một trong những động lực quan trọng của hoạt động con người. Sự hòa quyện giữa tri thức với
tình cảm và trải nghiệm thực tiễn đã tạo nên tính bền vững của niềm tin thơi thúc con người hoạt
động vươn lên trong mọi hoàn cảnh. Nhận thức khơng phải là một q trình dễ dàng, phẳng lặng
mà là một q trình phản ánh những khó khăn, gian khổ thường gặp phải trên mỗi bước đường
đi tới chân lý. Muốn vượt qua khó khăn để đạt tới mục đích, chủ thể nhận thức phải có ý chí,
quyết tâm cao. Ý chí chính là những cố gắng, nỗ lực, khả năng huy động mọi tiềm năng trong
mỗi con người vào hoạt động để có thể vượt qua mọi trở ngại,đạt mục đích đề ra. Nhận rõ vị trí,
vai trị của các nhân tố cấu thành ý thức và mối quan hệ giữa các yếu tố đó, địi hỏi mỗi chủ thể
phải ln tích cực học tập, rèn luyện, bồi dưỡng nâng cao tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí trong
nhận thức và cải tạo thế giới.


12


1.2.2.

Các cấp độ của ý thức:

Khi xem xét ý thức theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người, cần nhận thức được các yếu
tố: tự ý thức, tiềm thức, vơ thức... Tất cả những yếu tố đó cùng với những yếu tố khác hợp thành
ý thức, quy định tính phong phú, nhiều vẻ của đời sống tinh thần của con người
Tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới
bên ngoài. Đây là một thành tố rất quan trọng của ý thức, đánh dấu trình độ phát triển của ý thức.
Trong quá trình phản ánh thế giới khách quan, con người cũng tự phân biệt, tách mình, đối lập
mình với thế giới đó để đánh giá mình thơng qua các mối quan hệ. Nhờ vậy, con người tự ý thức
về bản thân mình như một thực thể hoạt động có cảm giác, đang tư duy; tự đánh giá năng lực và
trình độ hiểu biết của bản thân về thế giới, cũng như cácquan điểm, tư tưởng, tình cảm, nguyện
vọng, hành vi, đạo đức và lợi ích của mình. Qua đó, xác định đúng vị trí, điểm mạnh, điểmyếu
của mình, ý thức về mình nhưmột cá nhân -chủ thể có ý thức đầy đủ về hành động của mình; ln
làm chủ bản thân, chủ động điều chỉnh hành vi của mình trong tác động qua lại với thế giới khách
quan. Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân, mà còn là tự ý thức của các nhóm xã hội khác
nhau (như: một tập thể, một giai cấp, một dân tộc, thậm chí cả xã hội) về địa vị của họ trong hệ
thống quan hệ sản xuất, về lợi ích và lý tưởng của mình. Chủ nghĩa duy tâm, phản động coi tự ý
thức là một thực thể độc lập, tự nó, sẵn có trong cá nhân, là sự tự hướng về bản thân mình, khẳng
định cái tơi, tách rời khỏi những quan hệ xã hội, trở thành cái tôi thuần túy, trừu tượng trống
rỗng. Thực chất của những quan điểm đó là nhằm phủ địnhbản chất xã hội của ý thức, biện hộ
cho chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, cực đoan của các thế lực phản động hiện nay.
Tiềm thức là những hoạt động tâm lý diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của ý thức. Về thực chất,
tiềm thức là những tri thức mà chủ thể có từ trước gần như đã thành bản năng, kỹ năng nằm trong
tầng sâu ý thức của chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng. Do đó, tiềm thức có thể tự động gây ra
các hoạt độngtâm lý và nhận thức mà chủ thể khơng cần kiểm sốt chúng một cách trực tiếp.

Tiềm thức có vai trị quan trọng trong đời sống và tư duy khoa học. Tiềm thức gắn bó rất chặt chẽ
với loại hình tư duy chính xác, được lặp lại nhiều lần. Khi tiềm thức hoạt động sẽ góp phần giảm
bớt sự q tải của đầu óc khi cơng việc lặp lại nhiều lần, mà vẫn đảm bảo độ chính xác cao và
chặt chẽ cần thiết của tư duy khoa học
Vô thức là những hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển, nằm ngồi phạm vi của lý trí
mà ý thứckhơng kiểm sốt được trong một lúc nào đó. Chúng điều khiển những hành vi thuộc về
bản năng, thói quen... trong con người thơng qua phản xạ khơng điều kiện. Con người là một thực
thể xã hội có ý thức, nhưng không phải mọi hành vi của con người đều do lý trí chỉ đạo. Trong
đời sống của con người, có những hành vi do bản năng chi phối hoặc do những động tác được lặp
đi lặp lại nhiều lần trở thành thói quen đến mức chúng tự động xảy ra ngaycả khi khơng có sự
điều khiển của lý trí.
Vơ thức là những trạng thái tâm lý ở tầng sâu điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng xử của
con người mà chưa có sự can thiệp của lý trí. Vơ thức biểu hiện ra thành nhiều hiện tượng khác
nhau như bản năng ham muốn, giấc mơ, bị thôi miên, lỡ lời,... Mỗi hiện tượng vôthức có vùng
hoạt động riêng, có vai trị, chức năng riêng, song tất cả đều có một chức năng chung là giải tỏa
những ức chế trong hoạt động thần kinh vượt ngưỡng,nhất là những ham muốn bản năng không
13


được phép bộc lộ ra và thực hiện trong quy tắc của đời sống cộng đồng. Nó góp phần quan trọng
trong việc lập lại thế cân bằng trong hoạt động tinh thần của con người mà không dẫn tới trạng
thái ức chế quá mức như ấm ức, dày vò mặc cảm. Nghiên cứu những hiện tượng vô thức giúp cho
con người ln làmchủ đời sống nội tâm, có phương pháp kiềm chế đúng quy luật những trạng
thái ức chế của tinh thần. Vô thức là hoạt động tầng sâu của tâm lý -ý thức, có vai trị to lớn trong
đời sống và hoạt động của con người. Trong một sốhoàn cảnh, vô thứcgiúp cho con người giảm
bớt sự căng thẳng không cần thiết của ý thức do thần kinh làm việc quá tải. Nhờ vô thức mà
những chuẩn mực con người đặt ra được thực hiện một cách tự nhiên,không có sự khiên cưỡng.
Vơ thức có ý nghĩa quan trọng trong giáo dục thế hệ trẻ, trong hoạt động khoa học và nghệ thuật.
Tuy nhiên, khơng nên cường điệu hóa,tuyệt đối hóa và thần bí hóa vơ thức. Vơ thức là vơ thức
trong con người xãhội có ý thức, nên vô thức không thể là hiện tượng cô lập, tách rời với ý thức

và thế giới bên ngồi, càng khơng thể là cái quyết định ý thức cũng như hành vi của con người.
Trong hoạt động của con người, ý thức vẫn giữ vai trò chủ đạo, quyết định hành vi của cá nhân.
Nhờ có ý thức điều khiển, các hiện tượng vô thức được điều chỉnh, hướng tới các giá trị
chân,thiện, mỹ. Vô thức chỉ là một mắt khâu trong cuộc sống có ý thức của con người
1.2.3.

Vấn đề trí tuệ nhân tạo

Ngày nay, khoa học và cơng nghệ hiện đại đã có những bước phát triển mạnh mẽ, sản xuất ra
nhiều loại máy móc khơng những có khả năng thay thế lao độngcơbắp, mà cịn có thể thay thế
cho một phần lao động trí óc của con người. Chẳng hạn máy tính điện tử, “người máy thơng
minh”, “trí tuệ nhân tạo”. Song, điều đó khơng có nghĩa là máy móc cũng có ý thức nhưcon
người. Ý thức và máy tính điện tử là hai qtrình khác nhau về bản chất. “Người máy thông
minh” thực ra chỉ là một q trình vật lý. Hệ thống thao tác của nó đã được con người lập trình
phỏng theo một số thao tác của tư duy con người. Máy móc chỉ là những kết cấu kỹ thuật do con
người sáng tạo ra. Còn con người là một thực thể xã hội năng động được hình thành trong tiến
trình lịch sử tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên và thực tiễn xã hội. Máy không thể sáng tạo lại
hiện thực dưới dạng tinh thần trong bản thân nó. Năng lực đó chỉ có con người có ýthức mới thực
hiện được và qua đó lập trình cho máy móc thực hiện. Sự phản ánh sáng tạo, tái tạo lại hiện thực
chỉ có ở ý thức của con người với tư cáchlà một thực thể xã hội, hoạt động cải tạo thế giới khách
quan. Ý thức mang bản chất xã hội. Do vậy, dùmáy móc có hiện đại đến đâu chăng nữa cũng
khơng thể hồn thiện được nhưbộ óc con người. Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất chỉ có ở
óc người về hiện thực khách quan trên cơ sở thực tiễn xã hội -lịch sử. Sự hoàn thiện trong cấu
trúc vật chất của bộócngười và hoạt động thực tiễn xã hội phong phú đã tạo ra những tiền đề vật
chất đầy đủ cho đặc tính phản ánh -ý thức người phát triển, ngày càng xâm nhập vào tầng sâu của
thế giới hiện thực, gắn nhận thức với cải tạo thế giới. Thực tiễn xã hội là động lựctrực tiếp to lớn
thúc đẩy ý thức hình thành và phát triển đáp ứng nhu cầu của xã hội ngày càng phong phú, đa
dạng. Ý thức nhân đôi thế giới trong tinh thần, nhờ đó con người sáng tạo ra “giới tự nhiên thứ
hai”in đậm dấu ấn của con người. Con người ngày càng sáng tạo ra các thế hệ “người máy thông
minh” cao cấp hơn giúp cho con người khắc phục được nhiều mặt hạn chế của mình.Con người là

một thực thể tự nhiên -xã hội có ý thức, chủ thể sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần,quyết
định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Khẳng định vai trò to lớn của ý thức trong đời sống hiện
thực của con người về thực chất là khẳng định vai trò của con người -chủ thể mang ý thức đó.
14


Cần có thái độ đúng đối với conngười, quan tâm, chăm lo phát triển con người toàn diện cả về thể
chất và tinh thần. Đặc biệt quan tâm bồi dưỡng thế hệ trẻ có kiến thức, nắm vững khoa học -cơng
nghệ hiện đại, có tình cảm cách mạng trong sáng, ý chí vươn lên xây dựng đất nước giàu mạnh.
Cần nắm vững nguyên lý cơ bản của chủ nghĩaMác -Lênin: “Ý thức khơng bao giờ có thể là cái
gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức, và tồn tại của con người là quá trình đời sống hiện thực của
con người”1để vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam hiện nay. Muốn ý thức xã hội chủ
nghĩa thực sự giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần nhân dân, phát huy được tính tích cực
xã hội của mỗi người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay cần
quán triệt tốt đường lối đổi mới của Đảng, lấy đổi mới kinh tế làm trungtâm. Xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo ra nền tảng vật chất vững chắc để xây dựng đời
sống văn hóa tinh thần phong phú cho nhân dân, có giác ngộ xã hội chủ nghĩa, có văn hóa,khoa
học kỹ thuật, tri thức phát triển. Xây dựng nhân tố con người thực sự là nguồn lực phát triển đất
nước bền vững. Chăm lo bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, phẩm chất nhân
cách phát triển tồn diện; xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ đức, đủ tài để hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ. Để làm được điều đó, cần gắn với q trình xây dựng mọi mặt,tạo môi trường thuận lợi
cho xây dựng con người, phát huy cao nhất tính tích cực xã hội, rèn luyện bản lĩnh, nâng cao
trình độ khoa học, trình độ chuyên môn cho mỗi người.

1.3. BẢN CHẤT CỦA Ý THỨC
“Bản chất của ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ não người,
là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”
Do khơng hiểu được nguồn gốc ra đời của ý thức nên chủ nghĩa duy tâm đã có những quan niệm
sai lầm về bản chất của ý thức. Chủ nghĩa duy tâm đã cường điệu vai trò của ý thức một cách thái
quá, trừu tượng tới mức thoát ly đời sống hiện thực, biến nó thành một thực thể tồn tại độc lập,

thực tại duy nhất và nguồn gốc sinh ra thế giới vật chất. Ngược lại, chủ nghĩa duy vật siêu hình
đã tầm thường hóa vai trị của ý thức. Họ coi ý thức cũng chỉ là một dạng vật chất; hoặc coi ý
thức chỉ là sự phản ánh giản đơn, thụ động thế giới vật chất, tách rời thực tiễn xã hội rất phong
phú, sinh động. Những quan niệm sai lầm đó đã khơng cho phép con người hiểu được bản chất
của ý thức, cũng như biện chứng của quá trình phản ánh ý thức. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn
nguồn gốc ra đời của ý thức và nắm vững thuyết phản ánh,chủ nghĩa duyvật biện chứng đã luận
giải một cách khoa học bản chất của ý thức. Vật chất và ý thức là hai hiện tượng chung nhất của
thế giới hiện thực, mặc dù khác nhau về bản chất, nhưng giữa chúng ln có mối liên hệ biện
chứng. Do vậy, muốn hiểu đúng bản chất của ýthức cần xem xét nó trong mối quan hệ qua lại với
vật chất, mà chủ yếu là đời sống hiện thực có tính thực tiễn của con người. Bản chấtcủ thức là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực
khách quan của não bộ con người.
Ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo,gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội.Đây là một đặc tính căn
bản để phân biệt trình độ phản ánh ý thức người với trình độ phản ánhtâm lý động vật. Ý thức
không phải là kết quả của sự phản ánh ngẫu nhiên, đơn lẻ, thụ động thế giới khách quan. Trái lại,
đó là kết quả của q trình phản ánh có định hướng, có mục đích rõ rệt. Là hiện tượng xã hội, ý
15


thức hình thành, phát triển gắn liền vớihoạt động thực tiễn xã hội. Bằng hoạt động thực tiễn đa
dạng, phong phú của mình,con người làm biến đổi thế giới và qua đó chủ động khám phá khơng
ngừng cả bề rộng và chiều sâu của các đối tượng phản ánh.
Ý thức phản ánh ngày càng sâu sắc, từng bước xâmnhập các tầng bản chất, quy luật, điều kiện
đem lại hiệu quả hoạt động thực tiễn. Trên cơ sở đó, bằng những thao tác của tư duy trừu tượng
đem lại những tri thức mới để chỉ đạo hoạt động thực tiễn,chủ động cải tạo thế giới trong hiện
thực, sáng tạora“thiên nhiên thứ hai” in đậm dấu ấn của con người. Như vậy, sáng tạo là đặc
trưng bản chất nhất của ý thức. Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người, song đây
là sự phản ánh đặc biệt, gắn liền với thực tiễn sinh động cải tạo thế giới khách quan theo nhu cầu
của con người. Sự phản ánh ý thức là quá trình thống nhất của ba mặt: Một là,trao đổi thông tin
giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Đây là q trình mang tính hai chiều, có định hướng và chọn

lọc các thơng tin cần thiết. Hai là,mơ hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh
thần. Thực chất đây là quá trình “sáng tạo lại” hiện thực của ý thức theo nghĩa: mã hóa các đối
tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất. Ba là,chuyển hóa mơ hình từ tư duy ra
hiện thực kháchquan, tứclàquá trình hiện thực hóa tư tưởng, thơng qua hoạt động thực tiễn biến
cái quan niệm thành cái thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật
chất ngồi hiện thực. Để thúc đẩy q trình chuyển hóa này, con người cần sáng tạo đồng bộ nội
dung, phương pháp, phương tiện, công cụ phù hợp để tác động vào hiện thực khách quan nhằm
thực hiện mục đích của mình. Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý thức.
Từ kết quả nghiên cứu nguồn gốc và bản chất của ý thức cho thấy: ý thức là hình thức phản ánh
cao nhất riêng có của óc người về hiện thực khách quan trên cơ sở thực tiễn xã hội lịch sử. Ý thức
không phải là cái không thể nhận thức được như chủ nghĩa duy tâm quan niệm, nhưng cũng
không phải là cái tầm thường như ngườit heo chủ nghĩa duy vật tầm thường gán cho nó. Thực
chất, ý thức chỉ là thuộc tính phản ánh của một dạng vật chất đặc biệt là bộ óc người; nói cách
khác, chỉ có con người mới có ý thức. Loài người xuất hiện là kết quả của lịch sử vận động, phát
triển lâu dài của thế giới vật chất. Cấu trúc hồn thiện của bộ óc người là nền tảng vật chất để ý
thức hoạt động; cùng với hoạt động thực tiễn và đời sống xã hội phong phú tạo động lực mạnh
mẽ thúc đẩy ý thức hình thành và khơng ngừng phát triển. Khơng có bộ óc của con người, không
có hoạt động thực tiễn xã hội thì khơng thể có ý thức. Sáng tạo là thuộc tính đặc trưng bản chất
nhất của ý thức. Sức sáng tạo của ý thức trong tinh thần và sức sáng tạo của con người trong thực
tiễn khác nhau về bản chất nhưng chỉ là những biểu hiện khác nhau của năng lực sáng tạo, khẳng
định sức mạnh của con người trong nhận thức và cải tạo thế giới.

16


CHƯƠNG 2:
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA Ý THỨC VÀO QUÁ TRÌNH HỌC TẬP VÀ
NGHIÊN CỨU CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
2.1. THỰC TRẠNG VIỆC HỌC TẬP VÀ NGHIÊN CỨU CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY Ở
VIỆT NAM

Giáo dục luôn là vấn đề trung tâm của đời sống xã hội vì nó quyết định tương lai của mỗi người
trong xã hội ngày nay. Nói về giáo dục ngày nay đặc biệt là giáo dục Đại học cho thấy kết quả
học tập của sinh viên hiện nay chưa cao, bằng tốt nghiệp khi ra trường chỉ ở mức khá và trung
bình là chủ yếu. Phần lớn phụ huynh và sinh viên thường đổ lỗi kết quả học tập không cao là do
thiếu trang thiết bị học tập, thương mại hóa giáo dục, phong cách giảng dạy của giảng viên, việc
học thiên về lý thuyết nhiều hơn thực tiễn mà quên đi thái độ của sinh viên trong việc học của
mình. Thơng thường sinh viên học chỉ để đối phó mà khơng ý thức được rằng học để trang bị cho
mình những kiến thức cần thiết để phục vụ cho việc tìm kiếm việc làm sau này Hiện nay, đa số
sinh viên khi mới bước chân vào Đại học đều nghĩ việc học rất dễ, họ nghĩ học chỉ đơn giản là
lắng nghe thầy cô giảng bài, tiếp thu những bài học trên lớp một cách máy móc, mà quên đi học.
Đại học là nghiên cứu, là tìm tịi, là sáng tạo. Song, một bộ phận sinh viên vì điều kiện kinh tế gia
đình buộc phải tự mình đi làm thêm để tự mình trang trãi việc học dẫn đến kết quả học tập không
cao. Trái lại một số bạn sinh viên ỷ lại vào gia đình vùi mình vao những những trị chơi game vô
bổ hay những buổi đi chơi cùng bạn bè, tiêu tiền một cách hoan phí từ đó kết quả học tập của
sinh viên giảm sút.Nguyên nhân dẫn đến hai ý thức trong học tập khác nhau là do nhận thức khác
nhau. Những bạn sinh viên có ý thức sẽ nhận thức được tầm quan trọng của việc học tập và từ đó
cố gắng, phấn đấu khơng ngừng để đạt được kết quả tốt. Còn một bộ phận học sinh còn lại, có
nhận thức sai lệch làm cho việc học chỉ ngày một thêm tệ hơn. Với sự phát triển kinh tế xã hội
như hiện nay, việc kiếm tiền có thể trở nên đơn giản hơn, muốn nhanh lấy cái lợi trước mắt, theo
đuổi những điều dễ làm, điều đó khiến cho nhiều học sinh cảm thấy chán nản việc học, xao
nhãng, rằng kiếm được đồng tiền vừa được tiêu, được hưởng thụ mà không phải căng thẳng như
việc học. Cùng tác giả tìm hiểu sâu hơn về thực trạng học tập và nghiên cứu của sinh viên hiện
nay qua các nguyên nhân sau:
2.1.1.
Nguyên nhân khách quan
- Môi trường xung quanh
Môi trường xung quanh là một trong những yếu tố ảnh hưởng kết quả học tập của sinh viên: Bạn
bè là một trong những yếu tố tác động đến việc học của sinh viên, đối với một sinh viên khi ở gần
những bạn bè chăm học, siêng năng biết cách học tốt sẽ giúp chúng ta đạt được kết quả cao. Cịn
khi chúng ta ở gần những bạn bè xấu, khơng chú tâm vào việc học, chúng ta sẽ bị kéo vào những

cuộc chơi hay những buổi tiệc tùng hoan phí làm cho chúng ta dần mất đi thói quen tự học.
Khi bước chân vào giảng đường Đại học, sinh viên cịn bỡ ngỡ. Sự dìu dắt của các anh chị đi
trước sẽ giúp sinh viên định hướng về tương lai thông qua việc đặt mục tiêu phấn đấu ngay từ
ban đầu, hoặc hướng dẫn sinh viên giải những bài tập khó, cách học hiệu quả để có thể đạt được
kết quả cao trong kỳ thi cuối kỳ và giúp chúng ta không bị xa ngã vào những cuộc chơi gây lãng
phí thời gian. Cịn khơng được sự dìu dắt của những anh chị có thể chúng ta sẽ tiếp tục cách học
17


phổ thơng, mà cách học đó khơng phù hợp với việc học Đại học làm cho kết quả học tập không
cao.
Giảng viên cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên. Khi vào giảng
đường thái độ, biểu hiện, phương pháp dạy của giảng viên sẽ quyết định thái độ học tập, khả
năng tiếp thu của sinh viên. Chẳng hạn như giảng viên luôn vui vẻ, nhiệt tình, khơng tạo áp lực sẽ
kích thích sinh viên muốn học từ đó nâng cao kết quả học tập. Khi vào lớp, nếu giảng viên luôn
tạo áp lực cho sinh viên hay chỉ đơn giản là dạy theo nội dung sách vở sẽ khiến sinh viên khơng
cịn hứng thú, chán nãn dẫn đến kết quả học tập không cao.
Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật ngày nay các thú vui, các trò chơi như game online,
facebook, zalo, đã chiếm quá nhiều thời gian làm cho sinh viên không thể tập trung học tập dẫn
đến kết quả học tập khơng được như ý muốn.
Các phong trào đồn hội do nhà trường đề ra nhằm giúp sinh viên có điều kiện vừa học tập vừa
vui chơi giải trí, rèn luyện kỹ năng mềm nhưng một bộ phận sinh viên lại q hăng say trong
cơng tác đồn hội dẫn đến sa đà trong việc học.
-

Điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật

Cơ sở vật chất kỹ thuật trong trường ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên thông qua việc
cung cấp các trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho việc học. Máy chiếu là công cụ hỗ trợ cho
giảng viên trong việc trình chiếu các video clip sinh động, các hình ảnh mang tính chất tượng

trưng giúp sinh viên có thể liên tưởng đến bài học và hiểu bài học một cách nhanh hơn. Máy vi
tính, trong thời đại cơng nghiệp hóa hiện đại hóa máy vi tính là một cơng cụ học học tập rất hiệu
quả, giúp sinh viên dễ dàng tìm kiếm tài liệu, thực hành một số môn học. Trường không trang bị
đầy đủ cơ sở vật chất kỹ thuật sẽ khiến sinh viên hạn chế trong việc tìm kiếm cũng như cách tự
học của sinh viên
2.1.2.
Nguyên nhân chủ quan
- Nhận thức của sinh viên
Một trong những nguyên nhân ảnh hưởng nhiều nhất đến kết quả học tập của sinh viên đó là ý
thức hay nói chính xác hơn đó là nhận thức của sinh viên về việc học của mình. Sinh viên không
nhận thức được tầm quan trọng của việc học, từ đó ít quan tâm đến mục đích của từng mơn học
mà chỉ quan tâm đến nội dung trong môn học đó để đối phó với thi cử. Nhiều sinh viên nghĩ vào
lớp là học để lấy điểm chứ không chú tâm vào kiến thức dẫn đến kỳ thi cuối kỳ không đạt kết quả
cao.Khi lên Đại học đa số sinh viên không được sự quan tâm của cha, mẹ, dẫn đến xao lãng việc
học, từ đó bị bạn bè rủ rê dẫn đến các bạn không nghĩ việc học là việc chính.
-

Yếu tố gia đình

Hồn cảnh gia đình cũng ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên, sinh viên có hồn cảnh
khó khăn, chi phí học tập, sinh hoạt là khoản không hề nhỏ: tiền học, tiền nhà trọ, tiền ăn, các
khoản tiền phát sinhdo đó sinh viên buộc phải đi làm thêm để có thêm thu nhập cho việc đóng
học phí và các khoản chi tiêu khác ngoài ra họ muốn tiếp xúc với thực tế để tích lũy thêm kinh
nghiệm cho việc làm sao khi ra trường. Đặc biệt là sinh viên khoa Kinh tế - Xã hội việc làm thêm
18


sẽ đem lại nhiều trải nghiệm về cuộc sống và có thêm nhiều kiến thức về thực tế để giúp ích việc
làm của họ sau này. Nhưng họ không nhận ra rằng việc làm thêm đã chiếm quá nhiều thời gian
của họ làm ảnh hưởng đến kết quả học tập có nguy cơ khơng thể ra trường cho dù họ có kinh

nghiệm. Một số phu huynh buộc con mình đi theo ngành mà họ cảm thấy là tốt muốn nhằm
hướng con em mình có được một tương lai đẹp hơn, nhưng họ lại khơng biết rằng ngành đó có
phù hợp với con mình hay khơng dẫn đến sinh viên chán nãn khơng muốn học hoặc học theo kiểu
đối phó làm kết quả học tập không cao.
2.2. GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ NÂNG CAO Ý THỨC HỌC TẬP VÀ NGHIÊN CỨU CỦA
SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY
2.2.1.
Đối với sinh viên
- Xác định đúng mục tiêu, động cơ học tập:
Ngay từ đầu môn học giảng viên phải giúp cho sinh viên nhận thức đúng, rõ ràng về mục đích và
nội dung trọng tâm cũng như phương pháp học tập của môn học. Sinh viên ngay từ đầu sẽ phải
xác định cho mình mục đích rõ ràng là học để có tri thức, kĩ năng phục vụ cho hoạt động nghề
nghiệp của mình sau này. Từ nhận thức như vậy người học mới có tinh thần tích cực đối với hoạt
động tự học và do đó, mới có ý thức thường xuyên nâng cao năng lực tự học của bản thân.
- Xây dựng kế hoạch học tập
Đối với bất kì ai muốn việc học thật sự có hiệu quả thì mục đích, nhiệm vụ và kế hoạch học tập
phải được xây dựng cụ thể, rõ ràng. Trong đó kế hoạch phải được xác định với tính hướng đích
cao. Tức là kế hoạch ngắn hạn, dài hơi thậm chí từng mơn, từng phần phải được tạo lập thật rõ
ràng, nhất quán cho từng thời điểm từng giai đoạn cụ thể sao cho phù hợp với điều kiện hồn
cảnh của mình. Vấn đề kế tiếp là phải chọn đúng trọng tâm, cái gì là cốt lõi là quan trọng để ưu
tiên tác động trực tiếp và dành thời gian cơng sức cho nó. Nếu việc học dàn trải thiếu tập trung thì
chắc chắn hiệu quả sẽ không cao. Sau khi đã xác định được trọng tâm, phải sắp xếp các phần việc
một cách hợp lí logic về cả nội dung lẫn thời gian, đặc biệt cần tập trung hoàn thành dứt điểm
từng phần, từng hạng mục theo thứ tự được thể hiện chi tiết trong kế hoạch. Điều đó sẽ giúp q
trình tiến hành việc học được trôi chảy thuận lợi.
- Phát huy năng lực tiếp nhận, xử lý, tổng hợp thông tin phục vụ hoạt động học tập trong
sinh viên
Trong thời đại hiện nay, với sự bùng nổ thơng tin trên tồn cầu diễn ra nhanh chóng, hoạt động
học tập của sinh viên khơng chỉ bó hẹp trong phạm vi nhà trường mà cịn mở rộng ra nhiều mơi
trường xã hội khác nhau. Vì vậy, thông tin là một trong những yếu tố cơ bản, cần thiết để sinh

viên bổ sung và hoàn thiện vốn tri thức nghề nghiệp cho bản thân. Sau khi thu nhận thông tin,
sinh viên phải biết cách xử lý, chọn lọc, phân loại thông tin nhằm phục vụ cho chuyên môn,
nghiên cứu, rèn luyện nghiệp vụ nghề nghiệp, làm giàu vốn tri thức cho bản thân. Phát huy năng
lực tiếp nhận, xử lý, tổng hợp thông tin phục vụ hoạt động học tập trong sinh viên góp phần nâng
cao tính tích cực, chủ động học tập và nghiên cứu khoa học cho bản thân sinh viên.
- Xây dựng thói quen học tập tích cực, nắm vững kiến thức chuyên môn và phương pháp
học tập khoa học trong sinh viên
19


Việc hình thành thói quen học tập tích cực là rất quan trọng, nó giúp cho q trình học tập, đặc
biệt là tự học diễn ra liên tục và lâu dài. Để có được một thói quen tự học tốt, sinh viên cần: học
có chọn lọc, học có đam mê và học có q trình. Để nắm vững tri thức chuyên môn,sinh viên
phải vận dụng sáng tạo các nguyên tắc, quan điểm, phương pháp luận biện chứng duy vật vào
nắm bắt hệ thống khái niệm, đồng thời phải có những hiểu biết về các môn khoa học cơ bản, liên
ngành, kiến thức về đời sống xã hội. Sinh viên cần nhạy bén, linh hoạt khi lựa chọn phương pháp
học tập, tích lũy chun mơn phù hợp với khả năng của bản thân.
-

Nâng cao năng lực trí tuệ và tư duy, rèn luyện khả năng tự học

Hình thành thói quen tự học, tự nghiên cứu: Bước ra khỏi bậc học Phổ thông và lên bậc học
Cao đẳng, Đại học sinh viên phải tiếp xúc với phương pháp học mới và tự hình thành cho mình
thói quen tự học, tự nghiên cứu. Việc hình thành thói quen học tập tích cực là rất quan trọng, nó
giúp cho q trình học tập, đặc biệt là tự học diễn ra liên tục và lâu dài. Để có được một thói quen
tự học tốt, sinh viên cần: học có chọn lọc, học có đam mê và học có q trình. Kho tàng kiến thức
là vơ tận, nguồn tài liệu tham khảo cho môn học cũng rất phong phú, sinh viên khi đọc tài liệu
phải biết chọn lọc, cần tìm hiểu kĩ, lựa chọn đúng những tri thức và kỹ năng cần được trang bị,
tránh cách học dàn trải, hời hợt, cái gì cũng biết nhưng chỉ lống thống, khơng hiểu rõ bản chất
của vấn đề.

- Nâng cao khả năng tự học thông qua khả năng tiếp thu bài giảng
Để có thể tiếp thu bài giảng tốt, sinh viên cần đi học đầy đủ, ghi chép cẩn thận. Trong giờ học cần
cố gắng tập trung và tích cực tương tác với giảng viên, ln đặt câu hỏi khi có thắc mắc. Điều
này sẽ giúp sinh viên ghi nhớ lâu hơn, góp phần kích thích tư duy, đặc biệt là tư duy sáng tạo.
Năng lực tự học vì thế sẽ dần được nâng cao thơng qua sự phát triển của tư duy, của khả năng
tiếp thu.Nâng cao khả năng tự học thông qua khả năng hiểu và giải quyết vấn đề tăng cường làm
bài tập, nhất là các bài tập tình huống mà giảng viên đề cập, ghi chép các ví dụ, ghi nhớ đề
cương, các từ khóa và tập trung suy nghĩ để ln chủ động và hiểu đúng bản chất.
Bên cạnh đó, sinh viên cần được trang bị và thực hành tốt các phương pháp học tập như: phương
pháp tìm tài liệu, đọc tài liệu, nghe giảng, sơ đồ hóa kiến thức, học với giáo trình, học với phương
tiện dạy học, học thơng qua xêmina, học nhóm, học thơng qua nghiên cứu khoa học, học khi đi
thực tập, thực tế;...Cùng với đó là các phương pháp ghi nhớ thông tin, diễn đạt ý kiến, viết các
đoạn văn khoa học; các phương pháp tự kiểm tra, đánh giá;... Đồng thời, sinh viên cũng cần được
trang bị và thực hiện tốt các kỹ năng mềm như kỹ năng quản lý thời gian, kỹ năng làm việc
nhóm, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng giải quyết vấn đề,...
Tự học là một quá trình, vì thế nếu như sinh viên xây dựng được một thời gian biểu học tập cụ
thể và hợp lí, q trình tự học sẽ diễn ra thuận lợi, không bị gián đoạn, năng lực tự học vì thế
cũng sẽ được tích lũy dần dần. Ngược lại, nếu sinh viên học khơng có quy củ hay phân bổ thời
gian khơng hợp lí sẽ gây ra tình trạng mau chán và dễ quên, thói quen tự học sẽ dần dần mai một.
2.2.2.
Đối với giảng viên
- Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học

20


Trong giảng dạy, giảng viên nên chú trọng sử dụng nhiều phương pháp, biện pháp dạy học tích
cực như: dạy học nêu và giải quyết vấn đề, thảo luận nhóm, hoạt động nhóm, dạy học dự án,
phương pháp vấn đáp, phương pháp đóng vai…. Phương pháp dạy học này phát huy cao độ tính
tích cực, độc lập, sáng tạo của sinh viên, hướng tới phát triển tối đa tự chủ của sinh viên trong

học tập, phát triển năng lực độc lập làm việc và tự nghiên cứu trên cơ sở kế hoạch học tập màsinh
viên đã định ra. Tuy nhiên, để dạy học theo phương pháp tích cực thì giảng viên phải nỗ lực
nhiều so với dạy theo phương pháp truyền thống giảng giải thụ động. Với vai trò người tổ chức,
thiết kế, hướng dẫn sinh viên trong hoạt động học tập, giảng viên phải thường xuyên tìm hiểu,
nghiên cứu, sử dụng các phương pháp dạy học hiện đại kết hợp với phương pháp dạy học truyền
thống một cách có nghệ thuật, phù hợp. Hướng tới việc đổi mới phương pháp giảng dạy và học
tập, sinh viên sẽ tích cực tham gia đóng góp xây dựng bài, phát biểu ý kiến hoặc tham gia tranh
luận trong nhóm, liên hệ những kiến thức được học với thực tế, hoặc tìmcách áp dụng vào thực
tế, nâng cao năng lực tự học, tự nghiên cứu trong bản thân mỗi sinh viên.
- Sử dụng tốt các phương pháp dạy học tích cực, phát huy tính tự học tự nghiên cứu của
sinh viên trong các giờ giảng.
Thực tế giảng dạy cho thấy, đối với các mơn học thiên về lý thuyết như: Chính trị, Soạn thảo
văn bản, Tiếng Anh..., để giờ giảng đạt được hiệu quả và góp phần nâng cao năng lực tự học của
sinh viên, phải sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp như: thuyết trình, nêu vấn đề, gợi mở, tạo
tình huống, người học cùng tham gia,…Tuy nhiên, thuyết trình vẫn là phương pháp chủ đạo,
nhưng phải là thuyết trình có đổi mới, cách tân theo hướng kích thích tính tích cực, sáng tạo của
người học, buộc người học phải luôn động não, nghĩa là trong thuyết trình có nêu vấn đề, phát
vấn, tạo tình huống,... để người học suy nghĩ, tự lý giải, tự liên hệ, vận dụng vào thực tiễn, qua đó
tạo hiệu ứng tốt cho lớp học và năng lực tự học của sinh viên.
-

Tăng cường tổ chức cho sinh viên thảo luận, thuyết trình nhóm.

Đây là một hình thức dạy và học tích cực thơng qua trao đổi, chất vấn, đối thoại giữa giảng viên
với sinh viên, giữa sinh viên với sinh viên, qua đó giúp sinh viên nắm kiến thức lý thuyết và thực
tiễn của môn học tốt hơn. Việc thảo luận và thuyết trình nhóm buộc sinh viên phải đọc và nghiên
cứu tài liệu, tăng cường hoạt động nhóm để tìm ra phương án tốt nhất cho bài thuyết trình. Trong
thảo luận, thuyết trình, giảng viên cần khuyến khích chất vấn, tranh luận, lơi cuốn sự tham gia
đơng đảo của sinh viên; có nhận xét, đánh giá tinh thần làm việc, chất lượng bài thảo luận, thuyết
trình…; khích lệ, động viên đúng mức, tạo động lực (cộng điểm cho sinh viên chẳng hạn) để gia

tăng tinh thần học tập của sinh viên.
-

Tăng cường việc cho sinh viên viết tiểu luận môn học, làm các bài tập lớn.

Thực hiện tăng cường việc cho sinh viên viết tiểu luận môn học, làm các bài tập lớn sẽ giúp sinh
viên làm quen với nghiên cứu khoa học, hiểu sâu hơn những vấn đề cơ bản của môn học, bước
đầu biết gắn lý luận với thực tiễn, góp phần rèn luyện kỹ năng viết của sinh viên. Để làm tiểu
luận và các bài tập lớn, sinh viên phải thu thập và xử lý thông tin, phải đọc, phải viết, nghĩa là
phải sử dụng các phương pháp học tập và nghiên cứu khoa học, qua đó góp phần nâng cao năng
lực tự học.
21


-

Xác định mục tiêu mơn học

Trong q trình giảng dạy các môn học, người giảng viên cần xác định mục tiêu học tập từng
môn, từng bài, hướng dẫn nắm vững các kiến thức cơ bản, đặt và giải quyết các vấn đề chủ yếu
trong bài học, tiến hành đọc tài liệu, tra cứu, chuẩn bị làm bài tập. Những công việc như vậy hỗ
trợ cho sinh viên tự học, dưới sự hướng dẫn của giảng viên, một cách tích cực, sáng tạo, đúng với
yêu cầu của phương pháp học tập theo hướng tích cực. Giờ dạy học trên lớp phải là giờ mà hoạt
động học của sinh viên được giảng viên thiết kế, tổ chức, kiểm tra, đánh giá một cách khoa học,
phù hợp tạo cho các em có hứng thú học tập, có nhu cầu khám phá, phản biện và biết giải quyết
vấn đề.
- Chú trọng nâng cao chất lượng giảng dạy
Mỗi giảng viên cần tự nâng cao chất lượng giảng dạy mơn học của mình đảm nhận, cập nhật liên
tục những kiến thức mới và đưa ra những phương pháp giảng dạy phù hợp cho từng đối tượng
sinh viên, từng ngành học.Trong buổi đầu của các môn học giảng viên sẽ cung cấp đề cương môn

học và những kiến thức trọng tâm của môn học. Tùy từng môn học mà giảng viên sẽ đưa ra
những phương pháp dạy học phù hợp để phát huy hết khả năng tự học, tự nghiên cứu của sinh
viên với môn học. Bên cạnh đó, giảng viên cũng cần nhận thức rõ rằng, dù áp dụng phương pháp
giảng dạy nào thì cũng phải nhằm đạt được mục tiêu là giúp cho người học dễ hiểu bài, nắm được
bản chất của vấn đề và đặc biệt là kích thích được tư duy sáng tạo, tính tích cực và năng lực tự
học của sinh viên.
- Có tinh thần trách nhiệm, có tâm huyết nghề nghiệp,
Khơng ngừng tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức, đổi mới phương
pháp giảng dạy nhằm phát huy tính tích cực sáng tạo của SV. Để phát huy khảnăng tự học tự
nghiên cứu cho SV, đổi mới phương pháp là yêu cầu quan trọng. Khi đổi mới phương pháp dạy
học cần tổ chức hoạt động nhận thức của SV theo hướng gợi mở, phát hiện và giải quyết vấn đề.
Với cách dạy này, đòi hỏi giảng viên phải sử dụng có hiệu quả phương pháp dạy học mới như:
phương pháp dạy học giải quyết vấn đề, phương pháp dạy học nghiên cứu, phương pháp hợp
tác,...
2.2.3.
Đối với Nhà trường và các tổ chức đoàn thể
- Phát triển đội ngũ giảng viên
Đội ngũ giảng viên là một trong những nhân tố quyết định sự phát triển đào tạo trên cả hai
phương diện quy mô và chất lượng. Theo mục tiêu phát triển hệ thống các trường cao đẳng, đại
học, các trung tâm đào tạo kỹ thuật của đất nước, nhu cầu đòi hỏi phải tăng cường đào tạo đội
ngũ giảng viên là rất lớn. Có kế hoạch, chương trình thường xuyên thực hiện bồi dưỡng, đào tạo
nâng cao trình độ chun mơn ,….trên cơ sở đó để thực hiện hiệu quả việc đổi mới nội dung,
phương pháp đào tạo nguồn nhân lực. Mỗi giảng viên phải tự trao dồi, tích lũy kiến thức, nâng
cao trình độ cả bề rộng lẫn chiều sâu, có cách thức tổ chức dạy học khách quan, khoa học. Về
phía các khoa, phải thường xuyên trao đổi chuyên môn, sinh hoạt chuyên đề khoa học để nâng
cao trình độ chun mơn nghiệp vụ cho các giảng viên của khoa mình. Tổ chức các cuộc hội thảo
khoa học, những buổi tọa đàm, trao đổi xoay quanh vấn đề nâng cao năng lực tự học của sinh
22



viên, qua đó giúp sinh viên có thể học hỏi được những phương pháp và kinh nghiệm để vận dụng
vào q trình tự học của bản thân.
- Hồn thiện mơi trường học tập cho sinh viên
Thường xuyên nắm bắt ý kiến phản hồi, đóng góp từ phía sinh viên để hồn thiện quy chế quản
lý. Bên cạnh đó các tổ chức Đoàn, Hội sinh viên cần triển khai các hoạt động văn hóa, văn nghệ,
thể dục thể thao lành mạnh thu hút đơng đảo sinh viên tham gia tích cực, nhằm rèn luyện sức
khỏe, giáo dục đạo đức, lý tưởng sống cao đẹp cho mỗi sinh viên.Cần thường xuyên mở rộng cơ
chế, cách thức tiếp xúc, gặp gỡ lấy ý kiến sinh viên về những vấn đề liên quan đến học tập như
khung chương trình, chất lượng dạy học, kiểm tra đánh giá của cán bộ giảng viên. Bên cạnh đó,
việc đánh giá, xếp loại rèn luyện cũng như chính sách học bổng, khen thưởng và kỷ luật đối với
sinh viên trong từng học kỳ, từng năm học hay cả quá trình đào tạo phải đảm bảo nguyên tắc
khách quan, công bằng, hiệu quả, tạo động lực thúc đầy phong trào thi đua học tập trong sinh
viên.
- Tăng cường cơ sở vật chất trường học
Cơ sở vật chất ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dạy và học. Thông qua điều kiện vật chất,
giảng viên có thể đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng dạy và học. Cải tạo, nâng
cấp, trang bị thêm những phương tiện kỹ thuật hiện đại phục vụ cho quá trình dạy học là yêu cầu
cấp thiết hiện nay. Cơ sở vật chất hiện đại, thuận lợi phù hợp với yêu cầy dạy học không chỉ
thuận lợi cho việc nắm vững tri thức khoa học mà còn rèn luyện cho sinh viên kỹ năng và phương
pháp sử dụng có hiệu quả các phương tiện kỹ thuật đó vào nghiên cứu và phát triển chuyên môn,
nghề nghiệp, nâng cao chất lượng công việc sau này.
Bảo đảm tốt nhất về cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động tự học của sinh viên, trang bị thêm
nguồn tài liệu tham khảo cho mơn học, có thêm nhiều máy tính để cho sinh viên có thể truy cập
và tìm tài liệu để tự nghiên cứu cho môn học tại thư viện. Tăng cường hỗ trợ sinh viên về mặt tài
liệu học tập bằng cách tiếp tục phát triển hệ thống thư viện đọc và thư viện online với nguồn tài
liệu phong phú và cập nhật, khai thác thuận tiện và dễ dàng, đáp ứng được nhu cầu học tập của
sinh viên.
2.2.4. Đối với gia đình
- Rèn luyện thói quen tốt
Gia đình cần phải thật sự hiểu tâm lý của những thành viên trong gia đình, cùng học tập, làm việc

và cùng trưởng thành với những thành viên trong gia đình là điều thật sự cần thiết. Thói quen là
khuynh hướng hành vi của con người mang tính ổn định và biểu hiện thay cho ý thức của mỗi
người. Mỗi người chúng ta đều có những thói quen tốt và xấu nhất định. Giáo dục hành vi, nếp
sống, những thói quen tốt là đều quan trọng để hoàn thiện nhân cách của mỗi con người. Cùng
con cái thảo luận và đặt ra những mục tiêu cần thiết để xây dựng những thói quen tốt
- Tơn trọng lẫn nhau
Tơn trọng giúp duy trì cuộc sống gia đình bền vững. Bởi sự tôn trọng giữa cha, mẹ và con cái,
giữa các thành viên trong gia đình với nhau sẽ thỏa mãn các nhu cầu liên quan đến nhân quyền,
khẳng định nhân thân, đề cao lòng tự trọng và khẳng định phẩm chất của mỗi người. Trong cuộc
23


×