Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

TIỂU LUẬN vận DỤNG lí LUẬN về CHUYÊN CHÍNH vô sản của CHỦ NGHĨA mác lê NIN TRONG xây DỰNG NHÀ nước PHÁP QUYỀN xã hội CHỦ NGHĨA ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.13 KB, 29 trang )

MỞ ĐẦU
Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học một nấc thang cao hơn trong lịch
sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa nhân loại qua các giai đoạn của nó gắn liền với sự
phát triển của hiện thực xã hội và thực tiễn cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp
cơng nhân quốc tế. Tồn bộ lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học cũng như mỗi
nguyên lý của nó, trải qua chiều dài lịch sử, ngày càng được bổ sung, phát triển và
hoàn thiện hơn. Bằng tư duy khoa học sáng tạo trên nền tảng thế giới quan và
phương pháp luận duy vật biện chứng; qua thực tiễn đấu tranh của phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế; trước những đổi mới của cuộc sống và thời đại, lý luận
chủ nghĩa xã hội khoa học ngày càng thể hiện tính đúng đắn và sức sống của mình,
nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải
phóng lồi người.
Tư tưởng về chun chính vơ sản chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong
hệ thống lý luận mácxít. Nó chỉ ra rằng; trong quá trình đấu tranh cách mạng để
thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp cơng nhân sẽ khơng đánh đổ được kẻ
thù của mình là giai cấp tư sản, sẽ không cải tạo được xã hội cũ, xã hội tư bản chủ
nghĩa và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản nếu như giai
cấp cơng nhân khơng giành được chính quyền và thiết lập chun chính vơ sản.
Chun chính vơ sản là hình thức chính trị tất yếu phải trải qua để đưa lồi người
tiến tới một xã hội khơng cịn giai cấp, khơng cịn áp bức, bóc lột, mọi người được
sống tự do hạnh phúc. Chính vì vậy, V.I.Lênin cho rằng đây là vấn đề chủ yếu nhất
của toàn bộ cuộc đấu tranh giai cấp của giai câp vô sản đặc biệt là trong cách mạng
xã hội chủ nghĩa.
Đối với cách mạng Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh thấm nhuần quan điểm
chun chính vơ sản của chủ nghĩa Mác-Lênin, trung thành và vận dụng sáng tạo tư
tưởng chuyên chính vơ sản vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh đã
nhìn nhận vấn đề chính quyền nhà nước như một nội dung cơ bản của cách mạng
Việt Nam. Người quan tâm đến vấn đề giành chính quyền và tổ chức xây dựng
chính quyền cách mạng. Tư tưởng về chun chính vơ sản của Hồ Chí Minh là tài
1



sản vô giá, là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho Đảng ta trong việc vận dụng, xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Ở nước ta trong thời gian qua, cũng đã xuất hiện những quan điểm sai trái,
phản động xuyên tạc bản chất của chủ nghĩa xã hội, của nhà nước chun chính vơ
sản mà chúng ta đang xây dựng. Chúng đưa ra mơ hình “ Nhà nước phi giai cấp”,
“Nhà nước siêu giai cấp”, “ Nhà nước đa Đảng đối lập”…nhằm hạ bệ nhà nước xã
hội chủ nghĩa suy tôn nhà nước tư bản, duy trì trật tự vĩnh hằng của chủ nghĩa tư
bản. Chính vì vậy, trong cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa hai con đường tư bản
chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội hiện nay, thực chất vẫn đặt ra những vấn đề trực tiếp
đó là chuyên chính vơ sản hay chun chính tư sản. Vì thế, làm rõ tư tưởng của
C.Mác- Ph.Ăng ghen, V.I.Lênin và chủ tịch Hồ Chí Minh về chun chính vơ sản
là một trong những vấn đề quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Mặt khác mặt khác trong quá trình
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa địi hỏi chúng ta ln ln phải
đấu tranh chống các quan điểm sai trái, xuyên tạc, về chuyên chính vơ sản, về bản
chất nhà nước xã hội chủ nghĩa, đây là nhiệm vụ thường xuyên, cấp bách hiện nay.
Chính vì vậy tiểu luận tập trung nghiên cứu vấn đề: “Vận dụng lí luận về chun
chính vơ sản của chủ nghĩa Mác – Lênin trong xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc hiện nay.

2


NỘI DUNG
1. Quan điểm của C.Mác- Ph. Ăngghen và VI.Lênin về chun chính
vơ sản.
1.1. Tư tưởng của C.Mác- Ph. Ăngghen về chun chính vơ sản
Tư tưởng về chun chính vơ sản hình thành gắn liền với quá trình hoạt động
lý luận và thực tiễn của C.Mác- Ph. Ăngghen với quá trình chuyển đổi lập trường

từ duy tâm sang duy vật, từ dân chủ cách mạng sang cộng sản chủ nghĩa. Trong q
trình đó, với tư duy biện chứng duy vật và thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai
cấp công nhân chống giai cấp tư sản, C.Mác- Ph. Ăng ghen đã khơng ngừng tìm tịi
khám phá trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn qua từng thời kỳ, từng
giai đoạn thang trầm của phong trào cách mạng để hồn thiện học thuyết của mình.
Thơng qua các tác phẩm chủ yếu như: “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” (1848);
“đấu tranh giai cấp ở Pháp” (1850); “ngày 18 tháng sương mù của LuiBôlapactơ” (1851); “thư gửi cho Vâyđơmâyơ”(1852); “nội chiến ở Pháp”(1871)…
tư tưởng về chun chính vơ sản khơng ngừng được bổ xung, phát triển ngày càng
rõ hơn. tuy nhiên tác phẩm đầu tiên đánh dấu sự manh nha hình thành tư tưởng về
chun chính vơ sản đã dược C.Mác đề cập tới trong tác phẩm “hệ tư tưởng Đức”
viết năm 1845. Trong tác phẩm này, khi phê phán những quan điểm sai trái, duy
tâm của các nhà tư tưởng Đức, đứng trên lập trường duy vật về lịch sử, C.Mác đã
phân tích, luận giải xã hội tư bản, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và phát
hiện thấy một lực lượng có khả năng xố bỏ trật tự xã hội tư bản chủ nghĩa đó là
giai câp vô sản. Cùng với tư duy biện chứng và khả năng suy luận lơgíc, C.Mác cho
rằng, giai câp vơ sản muốn thực hiện vai trị lịch sử của nó thì trước hết phải giành
lấy quyền thống chính trị. Ơng chỉ rõ: “Mỗi giai cấp muốn vươn lên giành lấy
quyền thống trị- thậm chí sự thống trị của nó địi hỏi phải thủ tiêu tồn bộ hình
thức xã hội cũ và thống trị nói chung, như điều xẩy ra ở giai cấp vơ sản- thì giai
cấp đó trước hết phải giành được quyền về tay mình”1. Như vậy, tư tưởng về một
nền chun chính cách mạng của giai cấp vơ sản đã xuất hiện từ tác phẩm “hệ tư
1

C.Mác- Ph. Ăng ghen toàn tập, tập3, NxbCTQG, H1995,tr1

3


tưởng Đức”(1845) trước khi chủ nghĩa Mác ra đời. Trải qua các giai đoạn hoạt
động lý luận và thực tiễn đấu tranh cách mạng của phong trào công nhân từ năm

1845 đến 1848, C.Mác - Ph. Ăng ghen cho ra đời nhiều tác phẩm lý luận kinh điển
đánh dấu bước phát triển các nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học. tháng
2/1848, với việc Công bố “tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, cương lĩnh chính trị
đầu tiên của giai cấp vô sản, chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa khoa học chính thức ra đời.
Trong tác phẩm này, tư tưởng về chun chính vơ sản có một bước phát riển mới
trên cơ sở phân tích sự hình thành, phát triển của hai giai cấp cơ bản trong xã hội tư
bản là giai cấp vô sản và giai cấp tư sản cũng như vạch ra sự tất yếu sự đấu tranh
giữa chúng, C.Mác- Ph. Ăng ghen đã chỉ rõ đỉnh cao của cuộc đấu tranh ấy sẽ là sự
bùng nổ của một cuộc cách mạng vô sản, và tất yếu giai cấp vơ sản sễ giành được
thắng lợi, giành lấy chính quyền, giành lấy dân chủ trở thành giai cấp thống trị xã
hội . các ông vạch rõ: “giai câp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính
quyền, tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hồn
tồn khơng phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”2
Tác phẩm “tuyên ngôn Đảng cộng sản” chỉ ra cho giai cấp vô sản “phải tự
vươn lên thành giai cấp dân tộc”, điều đó có nghiã là giai cấp vô sản phải thiết lập
một nền chun chính của mình, và trở thành giai cấp thống trị xã hội, giai cấp đại
diện cho quốc gia dân tộc mình. Hồn thành nhiệm vụ của cuộc cách mạng vơ sản
trước hết ở trong nước mình, tất nhiên giai cấp dân tộc ở đây không phải là theo
chủ nghĩa dân tộc hẹp hịi ích kỷ, biệt lập như là cách mà giai cấp tư sản thường
hiểu, mà giành chính quyền trong một quốc gia dân tộc chỉ là mục tiêu trước mắt,
và là tiền đề cho công cuộc giải phóng nhân loại của giai câp vơ sản. Rõ ràng đến
đây, tư tưởng về giai cấp vơ sản được hình thành rõ nét hơn trong tác phẩm “hệ tư
tưởng Đức”. Trong tác phẩm này C.Mác- Ph.Ăng ghen trình bày chuyên chính vơ
sản như là một tất yếu, con đường, biện pháp, để cho giai câp vô sản thực hiện sứ
mệnh lịch sử của mình.

2

C.Mác- Ph. Ăng ghen tồn tập, tập 4, NxbCTQG, H1995, tr624


4


Sau cách mạng 1848-1849 thông qua tổng kết cuộc đấu tranh giai cấp ở
Pháp, đặc biệt diễn biến cuộc cách mạng dân chủ tư sản tháng hai và cách mạng
tháng 6 năm 1848, C. Mác đã khảng định: việc giai câp vô sản trong cuộc đấu tranh
chống kẻ thù của mình nhất thiết phẩi thành lập nền chun chính cách mạng.
C.Mác gọi đó là “nền chun chính của giai cấp cơng nhân”, “chun chính của
những người bạn đồng minh của giai cấp nơng dân”, hay đó là “chun chính của
giai câp vô sản”. Trong tác phẩm “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, C.Mác gắn tư
tưởng chun chính vơ sản với khái niệm cách mạng khơng ngừng, cách mạng vơ
sản. Ơng chỉ rõ: “chủ nghĩa xã hội nay là lời tuyên bố cách mạng khơng ngừng, là
chun chính của giai cấp vơ sản, coi đó là q độ tất yếu đi đến xoá bỏ tất cả các
quan hệ sản xuất…”3. Rõ ràng, C.Mác đã chỉ ra rằng, để thực hiện thắng lợi mục
tiêu chủ nghĩa xã hội, giai câp vô sản phải tiến hành cuộc cách mạng không ngừng
và kết quả của nó, đồng thời cũng là bước tiếp theo của nó là phải thiết lập được
nền chun chính vơ sản, dùng nền chun chính này để xố bỏ quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa- cái cơ sở kinh tế để sinh ra chế độ áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa.
Như vậy là tư tưởng chun chính vơ sản được phát triển mở rộng thêm, Nhưng
đến giai đoạn này, C.Mác- Ph. Ăng ghen mới nêu ra sự cần thiết và tất yếu phải
giành được chính quyền trong quá trình đấu tranh của giai cấp vơ sản, cịn thái độ
của giai cấp vô sản đối với bộ máy của giai cấp tư sản như thế nào thì giai hai ông
chưa đề cập đến. Vấn đề này được các ông đề cập đến trong tác phẩm “ngày 18
tháng sương mù của Lui-Bơnapactơ” C.Mác viết năm 1851. Đó là thái độ dứt
khoát là phải đập tan bộ máy nhà nước áp bức đó. C.Mác viết: “Tất cả các cuộc
cách mạng đều hồn bị bộ máy nhà nước đó chứ khơng phải đập tan nó, các chính
Đảng nối gót đấu tranh giành chính quyền đều coi việc đoạt lấy tồ lâu đài nhà
nước đồ sộ ấy là chiến lợi phẩm chủ yếu của thắng lợi của mình”4.
Có thể nói, tư tưởng về chun chính vơ sản của C.Mác- Ph. Ăng ghen đã
tiến thêm một bước làm rõ, giai câp vô sản không chỉ giành lấy chính quyền nhà

nước mà nó phải phá huỷ, đập tan bộ máy nhà nước đó. Sở dĩ, có tư tưởng này là
(sách đã dẫn; tập17, tr126)
(C.Mác- Ph. Ăng ghen toàn tập, tập 18, NxbCTQG, H,1995, tr236)

3
4

5


do khi nghiên cứu lịch sử các cuộc cách mạng ở Pháp, C.Mác đã nhận thấy rằng từ
cách mạng tư sản Pháp năm 1897, một cuộc cách mạng tư sản với sự ra đời của nền
cộng hoà I, cho đến cuộc cách mạng tháng2/1848, với sự ra đời của nền cộng hồ II
và cuộc đảo chính tháng chạp năm 1851 của Lui Bônapactơ, dẫn đến sự phục hồi
của chiều đại quân chủ tư sản; thì kết quả sau các cuộc cách mạng, hoặc phản cách
mạng đó là một bộ máy áp bức, bóc lột mới ra đời. Và dường như, bộ máy nhà
nước ra đời sau lại hoàn bị hơn bộ máy nhà nước trước ở sự rã man và bản chất ấp
bức, bóc lột tinh vi sảo quyệt hơn, tính chất bóc lột của nó đối với quần chúng nhân
dân lao động càng nặng nề hơn. Do đó, C.Mác cho rằng, giai câp vô sản không thể
chiếm lấy một chính quyền như thế, mà cần phải đập tan nó, giành chính quyền về
tay mình. Tuy nhiên lấy gì để thay thế cho bộ máy nhà nước vừa bị đập tan thì lúc
đó C.Mác khơng có kinh ngiệm thực tiễn lịch sử để giải đáp vấn đề đó.
Tư tưởng về chun chính vơ sản được cụ thể hơn trong thư gửi cho một
người bạn trong “Đồng minh những người cộng sản” ở Mỹ, ngày 05/03/1852 là
Vâyđơmâye. Trong đó C.Mác khảng định: Đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến
chuyên chính vơ sản và bản thân sự chun chính này chỉ là bước quá độ để tiến tới
xoá bỏ giai cấp, đi tới một xã hội khơng cịn giai cấp. đến đây, chung ta thấy thuật
ngữ “chun chính vơ sản” lần đầu tiên được xuất hiện và một lần nữa, C.Mác
khảng định: Về phần tơi, tơi khơng hề có cơng phát hiện sự tồn tại của các giai cấp
trong xã hội hiện đại và sự đấu tranh của những giai cấp đó. Trước tơi từ lâu các

nhà sử học đã trình bầy sự phát triển của lịch sử, của cuộc đấu tranh giai cấp đó và
các nhà kinh tế tư sản đã mổ sẻ các giai cấp đó về mặt kinh tế. Điều mới mẻ mà tôi
đã làm là đã chứng minh rằng:
1-Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển nhất
định của sản xuất.
2- Đấu tranh giai cấp tất nhiên đưa đến chuyên chính vơ sản.
3- Bản thân sự chun chính này chỉ là bước quá độ để tiến tới xoá bỏ giai
cấp và tiến tới một xã hội khơng có giai cấp.
6


Vậy là, đến năm 1852, tư tưởng về chuyên chính vơ sản đã có một bước
tiến dài so với “Tun ngơn Đảng cộng sản”. Chun chính vơ sản là một tất yêú
lịch sử, là bước quá độ để đi tới một xã hội khơng có giai cấp. Trong giai đoạn này,
C.Mác- Ph. Ăng ghen đã nêu rõ nhiệm vụ của chun chính vơ sản là: Xố bỏ
những sự khác biệt giai cấp nói chung, xố bỏ tất cả những quan hệ sản xuất làm cơ
sở cho những sự khác biệt ấy, xoá bỏ tất cả các quan hệ xã hội thích ứng với những
quan hệ sản xuất đó, đồng thời cũng cải biến tất cả những tư tưởng nảy sinh từ
những quan hệ sản xuất đó. Nhiệm vụ của chuyên chính vơ sản đã thể hiện rõ tính
chất triệt để của cách mạng vô sản.
Trước khi cuộc cách mạng Pari nổ ra, C.Mác- Ph. Ăng ghen là những người
theo dõi sát sao mọi diễn biến của tình hình. Cuộc chiến Pháp -Phổ nổ ra ngày
19/7/1870 như là một tiếng chuông báo hiệu sự sụp đổ hoàn toàn của nền đế chế II
thối nát. Từ theo dõi tình hình cách mạng ở Pháp, C.Mác đã đưa ra lời tiên đoán
hiên tài: “dầu cho cuộc chiến tranh của Lu-i Bô-na-pác-tơ chống nước Phổ kết
thúc như thế nào chăng nữa, tiếng chuông đưa đám nền đế chế II cũng sẽ điểm ở
Pari rồi. Đế chế II sẽ kết thúc…”.Trong quá trình diễn biến của cách mạng ở Pari,
C.Mác- Ph. Ăng ghen đã có những chỉ đạo cần thiết đối với cách mạng. Sau công
xã Pari, C.Mác- Ph. Ăng ghen đã bắt tay ngay vào việc tổng kết hoạt động của công
xã. Những vấn đề đó được thể hiện trong tác phẩm “nội chiến ở Pháp”. Trong tác

phẩm này C.Mác đã tổng kết cuộc nội chiến diễn ra ở Pháp và qua công xã Pari,
C.Mác đã chỉ ra, vai chò nhiệm vụ, con đường hình thành, chức năng, hình thức tổ
chức và bản chất của chun chính vơ sản. Nếu như ở tác phẩm “Đấu tranh giai
cấp ở Pháp” C.Mác cho rằng chuyên chính vô sản được biểu hiện là giai cấp công
nhân phải đấu tranh tự mình trở thành giai cấp dân tộc, phải giành lấy dân chủ và
đập tan các bộ máy nhà nước cũ thì qua thực tiễn cơng xã Pari, C.Mác- Ph. Ăng
ghen chỉ rõ, giai cấp công nhân phải thủ tiêu toàn bộ bộ máy nhà nước tư sản và
thiết lập bộ máy nhà nước chuyên chính của giai cấp công nhân. trong bộ máy nhà
nước tư sản C.Mác cho rằng cần phải đập tan các “công cụ quyền lực vật chất” như
quân đội thường trực, cảnh sát, bộ máy quan liêu, quan tồ. đồng thời phải xố bỏ
7


“các công cụ áp bức tinh thần” như các thế lực tăng lữ, tách nhà thờ ra khỏi trường
học, tách giáo hội ra khỏi nhà nước. Về bản chất của nhà nước chun chính vơ
sản, C.Mác cho rằng, chun chính vô sản mang bản chất của một nhà nước dân
chủ, trong đó quyền lực thực tế thuộc về giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động.
Ơng khảng định: “về thực chất, cơng xã là một Chính phủ của giai cấp công nhân,
là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp những người sản xuất chống lại giai cấp
chiếm đoạt, là hình thức chính trị rốt cuộc đã tìm ra được khiến cho có thể thực
hiện việc giải phóng lao động về mặt kinh tế”5. và qua đó C.Mác cũng chỉ ra con
đường hình thành chun chính vơ sản đó là con đường bạo lực vũ trang cách mạng
của quần chúng nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo. Chun chính vơ sản có
chức năng là chấn áp sự chống đối của giai cấp tư sản và các thế lực phản động và
tổ chức xây dựng một xã hội mới. Nhiêm vụ của nhà nước chun chính vơ sản
gồm cả nhiệm vụ đối nội và đối ngoại. thông qua hoạt động của công xã Pari,
C.Mác cho rằng:Muốn hiểu về chun chính vơ sản là gì, hãy nhìn vào cơng xã
Pari, chun chính vơ sản là như thế đấy.
Tư tưởng về chun chính vơ sản được C.Mác trình bầy một cách rõ ràng
hơn trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gôta”. Trong tác phẩm này, C.Mác đã

kịch liệt phê phán quan điểm về “nhà nước tự do” của chủ nghĩa Lát xan. Ông cho
rằng: “nhà nước tự do” thể hiện quan niệm về tính siêu giai cấp của nhà nước, do
đó có thể dựa vào nhà nước của giai cấp bóc lột để tổ chức củ nghĩa xã hội( lập các
hợp tác xã do nhà nước Phổ gúp đỡ để xây dựng chủ nghĩa xã hội ). C.M ác cho
rằng: “mặc dầu tất cả những lời lẽ dân chủ rất kêu của nó, tồn bộ cương lĩnh từ
đầu chí cuối đều nhiễm phải cái bệnh của phái Látxan là lòng tin của thần dân vào
nhà nước, hoặc là- điều này cũng chẳng có gì tốt hơn- tin vào phép màu dân chủ ,
hay nói cho đúng hơn, đó là sự thoả hiệp gữa hai lòng tin ấy vào phép mầu, cả hai
loại đều xa lạ như nhau với chủ nghĩa xã hội”6. Cùng với sự phê phán quan điểm
của chủ nghĩa Latxan về nhà nước chun chính vơ sản, C.Mác đã chỉ rõ vai trị
của nhà nước vơ sản sau khi giai cấp cơng nhân giành được chính quyền, chun
5
6

C.Mác- Ph. Ăng ghen toàn tập, tâp.17,NxbCTQG, H1994,tr454
C.Mác- Ph. Ăng ghen toàn tập, NxbCTQG,H,1995, tr51-52.

8


chính vơ sản phải tiến hành cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
C.Mác khảng định rằng: giữa xã hội tư bản và xã hội cộng sản có một thời kỳ cải
biến cách mạng từ xã hội trước đến xã hội sau. Tương ứng với thời kỳ ấy là một
thời kỳ quá độ chính trị trong đó nhà nước khơng thể có gì khác hơn là chun
chính cách mạng của giai câp vơ sản.
Tóm lại, chúng ta có thể thấy rằng, tư tưởng về chun chính vơ sản của
C.Mác- Ph. Ăng ghen tư lúc cịn manh nha cho đến 1895 đã khơng ngừng được bổ
xung và phát triển, hồn thiện. Đặc biệt đến cơng xã Pari 1871, nó khơng đơn thuần
chỉ là một tư tưởng mà đã trở thành hiện thực vật chất dưới hình thức chính quyền
cơng xã. Tuy nhiên chủ nghĩa xã hội khoa học nói chung cũng như tư tưởng về

chuyên chính vơ sản nói riêng khơng phải là cái gì đó bất biến mà nó phải khơng
ngừng được bổ sung và phát triển trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử mới, vấn đề
mang tính quy luật đó được chứng minh rõ nét nhất trong giai đoạn V.I.Lênin tiếp
tục bảo vệ và phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học về chun chính vơ
sản trong điều kiện lịch sử mới.
1.2. Tư tưởng V.I.Lênin về chun chính vơ sản
Hồn cảnh lịch sử thế giới lúc này: Chủ nghĩa tư bản phát triển thành chủ
nghĩa đế quốc làm cho mâu thuẫn vốn có trong lịng chủ nghĩa tư bản trở nên găy
gắt, đặc biệt là mâu thuẫn giữa giai cấp vơ sản và giai cấp tư sản. Ngồi ra cịn xuất
hiện những mâu thuẫn mới, đó là mâu thuẫn giữa nhân dân lao động của các nước
thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc. Hơn nữa ở khắp nơi, giai cấp tư sản cịn tìm cách
cấu kết với bọn địa chủ, phong kiến phản động bóc lột nhân dân lao động, làm cho
đời sống của họ khổ cực nặng nề hơn. Từ sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trong
giai đoạn này ta có thể khảng định: giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản đã lỗi thời
lạc hậu khơng cịn đóng vai trị trung tâm trong sự phát triển của lịch sử nữa. Thời
đại đã chuyển sang một thời đại mới thời đại của “cách mạng vô sản”, thời đại của
“chun chính vơ sản”, thời đại q độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội sắp
bắt đầu.
9


Cũng trong giai đoạn này phong trào cách mạng chuyển từ Đức sang Nga,
phong trào công sản và công nhân quốc tế có bước phát triển mới cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu. Tuy nhiên trong phong trào công nhân cũng xuất hiện các trào lưu cơ
hội xét lại... Do đó vấn đề khách quan đặt ra yêu cầu phải có một Đảng như thế
nào? Trang bị lý luận tư tưởng như thế nào để đáp ứng với đòi hỏi sự phát triển của
lịch sử, phong trào công nhân và phát triển chủ nghĩa Mác lên một trình độ mới.
Giữa lúc bấy giờ, V.I.Lênin lãnh tụ vĩ đại đã đáp ứng yêu cầu của lịch sử và phong
trào cộng sản và cơng nhân quốc tế.
Đứng trước tình hình đó, V.I.Lênin đã đấu tranh không khoan nhượng

chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại, bảo vệ và phát triển học thuyết Mác, trong đó vấn
đề chun chính vơ sản là vấn được V.I.Lênin quan tâm đặc biệt. Ơng cho rằng,
chun chính vơ sản là vấn đề cốt lõi xuyên suốt toàn bộ học thuyết Mác, là “hòn
đá thử vàng” với lập trường của những người Mác-xít và cịn nhấn mạnh rằng “chỉ
người nào mở rộng việc thừa nhận đấu tranh giai cấp đến mức thừa nhận chun
chính vơ sản thì mới là người Mác-xít”7
Thơng qua các tác phẩm như : “Nhà nước và cách mạng” (1917); “cách
mạng vô sản và tên phản bội Kausky” (1918) và nhiều tác phẩm khác, tư tưởng về
chun chính vơ sản đã được phát triển hồn thiện. Trong đó V.I.Lênin chỉ ra khái
niệm về chun chính vơ sản, người cho rằng: chun chính vơ sản là “việc tổ chức
đội tiền phong của những người bị áp bức thành giai cấp thống trị để chấn áp bọn
áp bức”. Như vậy, trong khái niệm này, nội dung cốt lõi của chun chính vơ sản
được thể hiện, đó là giai cấp công nhân phải tổ chức thành giai cấp cầm quyền.
Chính quyền đó phải thuộc về một giai cấp duy nhất, là giai cấp cơng nhân. Tính
chất của chun chính vô sản: là công cụ của cách mạng vô sản, là sự thống trị của
giai câp vô sản đối với giai cấp tư sản. Khối công nông dưới sự lãnh đạo của giai câp
vơ sản là chính quyền mà nó không chia sẻ cho ai hết và trực tiếp dựa vào vũ trang
của quần chúng. Trong đó Đảng của giai câp vơ sản là lực lượng lãnh đạo của
chun chính vơ sản, sự lãnh đạo đó để đảm bảo cho nền chun chính vơ sản vững
7

VI.Lê-Nin tồn tập, tập33, NxbTB,M1976, tr42.

10


mạnh, hồn thành được chức năng nhiêm vụ của mình. V.I.Lênin chỉ rằng: trong
cuộc đấu tranh cho chun chính vơ sản và xây dựng chủ nghĩa xã hội, cần cho Đảng
có đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của tất cả những người lao
động và những người bị bóc lột. Nếu khơng có Đảng lãnh đạo, thì giai cấp vơ sản và

nhân dân lao động khơng thể lật đổ giai cấp tư sản, không thể giành được thắng lợi
của cách mạng xã hội chủ nghĩa, không thể xây dựng được chủ nghĩa xã hội
Mặt khác V.I.Lênin cũng chỉ rõ nội dung của chun chính vơ sản, nó bao
gồm hai mặt: chun chính và dân chủ. Đây là hai mặt đối lập gắn bó với nhău
cùng tồn tại chuyên chính để thực hiện, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ
xã hội chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử, nhưng khơng
phải dân chủ hồn tồn mà phải thực hiện chun chính với thiểu số bọn bóc lột,
chống đối. Và sự chun chính này khơng thể nương nhẹ mà phải tiến hành cương
quyết, chừng nào còn những kẻ bóc lột, cịn sự khác biệt giai cấp thì cịn phải thực
hành chuyên chính. Theo V.I.Lênin : “Thiết lập nền chun chính của giai câp vơ
sản một nền chun chính sẽ bẻ gẫy được sự phản kháng quyết liệt của các giai
cấp bóc lột bị gạt ra khỏi chính quyền”8.
Tuy nhiên, trong chun chính vơ sản cái bản chất nhất của nó chính là ở mặt
dân chủ, tất nhiên là dân chủ với nhân dân và sẽ tước bỏ dân chủ với bọn bóc lột.
Người khảng định: “Dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân và chấn áp bằng vũ lực
bọn bóc lột, bọn áp bức nhân dân, nghiã là tước bỏ dân chủ đối với bọn chúng”9.
Thêm nữa VI.Lênin cịn vạch rõ chun chính vơ sản là một nhà nước kiểu mới,
“nhà nước dân chủ kiểu mới (dân chủ với những người vơ sản và nói chung với
những người khơng có của) và chun chính kiểu mới chống lại giai cấp tư sản”10.
Để chun chính vơ sản tồn tại và phát triển VI.Lênin luận giải cơ sở của nó:
Theo VI.Lênin đó là sự liên minh của giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng dân, với
tồn thể nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. cơ sở khách
quan của khối liên minh ấy là sự thống nhất của các quyền lực cơ bản về kinh tế,
VI.Lê-Nin toàn tập, tập33,NxbTB, M1976, tr42.
(sách đã dẫn; trang109)
10 (sách đã dẫn; trang43)
8
9

11



chính trị của giai cấp cơng nhân, giai cấp nơng dân và nhân dân lao động. Và người
chỉ rõ: “Nếu khơng có sự liên minh ấy thì khơng thể có dân chủ vững bền, không
thể cải tạo xã hội chủ nghĩa được”11.
Đề cập về nhiệm vụ của chun chính vơ sản, theo VI.Lênin đó là phải thủ
tiêu mọi chế độ người bóc lột người, là xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội. Để
thực hiện được nhiệm vụ đó cần phải có một chế độ quản lý mới thực sự có tính
nhân dân và được xây dựng theo ngun tắc “tập trung dân chủ”. Khi phê phán
quan điểm của kẻ thù cho rằng chun chính vơ sản là sự kích động bạo lực của
quần chúng chống chính quyền, VI.Lênin đã chỉ rõ, chun chính vơ sản khơng chỉ
là bạo lực với bọn bóc lột, mà cịn có chức năng chủ yếu là việc tổ chức xây dựng
thành công xã hội mới. Đây mới là thực chất của chun chính vơ sản.
Với sự phát triển của VI.Lênin về chun chính vơ sản gắn liền với học
thuyết về đấu tranh giai cấp. Nếu như từ những năm 1852, C.Mác đã khảng định
rằng đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vơ sản, thì đến khi giai cấp
cơng nhân và nhân dân lao động đã giành được chính quyền, thiết lập nền chun
chính vơ sản của mình, V.I.Lênin tiếp tục khảng định: Cuộc đấu tranh giai cấp chưa
chấm dứt mà diễn ra dưới thức mới, nội dung mới và điều kiện mới. Trong đó tất
yếu phải tăng cường sức mạnh của nhà nước chun chính vơ sản để chấn áp sự
phản kháng của các giai cấp bóc lột tuy bị đánh đổ nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn; để
tiến hành cải tạo xã hội cũ, làm sạch môi trường xã hội và để tổ chức được một
kiểu sản xuất xã hội mới, tăng nhanh năng xuất lao động tạo cơ sở chiến thắng hồn
tồn xã hội tư bản chủ nghĩa.
Cơng lao của V.I.Lênin không chỉ ở việc phát triển tư tưởng về chun chính
vơ sản của C.Mác- Ph. Ăng ghen lên đến hồn thiện, mà người đã lãnh đạo giai cấp
cơng nhân và nhân dân lao động Nga thực hiện thành công cách mạng tháng Mười,
thiết lập nên một nhà nước chun chính vơ sản đầu tiên, vạch ra cho Đảng cộng
sản và phong trào cách mạng các nước nhìn thấy con đường, bước đi để thực hiện
thắng lợi sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở từng nước.


11

VI.Lê-Nin toàn tập, Tập33, NxbTB, M1976, tr49.

12


Sau khi V.I.Lênin qua đời, tư tưởng về chuyên chính vô sản tiếp tục được
các Đảng công sản bảo vệ và phát triển. việc các Đảng cộng sản làm rõ khái niệm
chun chính vơ sản là sự lãnh đạo của giai cấp cơng nhân thơng qua chính Đảng
của nó là Đảng cộng sản đối với toàn xã hội, cũng như việc mở rộng các hình thức
chun chính vơ sản như: chun chính cơng nơng, nhà nước dân chủ nhân dân,
đưa ra các bước quá độ để chuyển từ chuyên chính cơng nơng lên chun chính vơ
sản, đã nói lên sự đóng góp của các Đảng cộng sản để phát triển về tư tưởng
chun chính vơ sản trong thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội trên toàn thế giới. Đặc biệt là sự vận dụng của chủ tịch Hồ Chí Minh
về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân
ở Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều
kiện thực tiễn cách mạng. Người xác định cách mạng Việt Nam phải đi theo con
đường cách mạng vơ sản và nhìn nhận vấn đề chính quyền nhà nước như một nội
dung cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng và trực
tiếp tổ chức xây dựng chính quyền nhà nước chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di
sản đồ sộ về vấn đề chính quyền, nhà nước trong nhiều tác phẩm như “Đường cách
mệnh”, “Sửa đổi lối làm việc”, “Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ
nghĩa cá nhân”, “Di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh” tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước là một bộ phận cơ bản cấu thành hệ thống quan điểm của người về những
vấn đề cơ bản của cách mạng.

2.1. Qúa trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam hiện nay
Qúa trình hoạt động ở nước ngồi Nguyễn Quốc đã viết nhiều bài báo và
tác phẩm lên án chế độ thực dân Pháp nói chung và hình thức cai trị của chúng ở
Đơng dương nói riêng. Trong đó tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Người
đã tố cáo tội ác của chế độ thực dân và bộ máy thống trị của chúng đối với nhân
dân các nước thuộc địa, đồng thời Người tỏ thái độ dứt khoát phải soá bỏ chế độ
13


thuộc địa ở các nước thuộc địa. Đây là những vấn đề đầu tiên làm nền tảng cho tư
tưởng giải phóng dân tộc và xây dựng một nhà nước kiểu mới của Hồ Chí Minh
sau này.
Đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, nhận thức sâu sắc lời dạy của V.I.Lênin:
“Khơng có lý luận cách mạng thì khơng có vận dụng cách mạng”. Nguyễn Quốc
khơng những lên án bộ mặt thật của thực dân Pháp ở Việt Nam mà cịn trình bày cơ
sở lý luận xây dựng đường lối cách mạng Việt Nam trong đó tác phẩm “ Đường
cách mệnh” được xem là giáo khoa cách mạng Việt Nam, sự nối tiếp hợp lơgiích
với “Bản án chế độ thực dân Pháp” đã chỉ ra mục tiêu và con đường đi tới thắng
lợi của cách mạng Việt Nam. Trong tác phẩm người cho chúng ta thấy rằng cách
mạng Việt Nam không thể đi theo con đường cách mạng tư sản vì cách mạng tư sản
là cuộc cách mạng khơng đến nơi, chỉ có cách mạng vơ sản là con đường duy nhất
giải phóng triệt để nhân dân lao động ra khỏi áp bức bóc lột, mới đem lại tự do,
hạnh phúc thực sự cho nhân dân Việt Nam. Người khảng định: “cách mệnh Pháp
cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh khơng đến nơi,
tiếng là cộng hồ và dân chủ kì thực trong thì nó tước lục cơng nơng, ngồi thì nó
áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay cơng nơng Pháp hẵng cịn mưu
cách mệnh một lần nữa mới hịng thốt khỏi vịng áp bức. Cách mạng An Nam nên
nhớ điều này”12. Cách mạng đến nơi theo chủ tịch Hồ Chí Minh là cách mạng vô
sản theo kiểu cách mạng tháng Mười Nga theo đó nhà nước được thiết lập sau cách

mạng là chun chính vơ sản của nhân dân lao động do giai cấp công nhân lãnh
đạo. Người cho rằng: “trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là thành công,
và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do bình
đẳng thật”13. Từ lịch sử thực tiễn, tác giả định hướng cho cách mạng Việm Nam là
đi theo con đường của cách mạng tháng Mười Nga “theo chủ nghĩa Mã Khăc Tư
và Lênin”. Tuy nhiên về hình thức cụ thể của nhà nước mới trong tác phẩm “
đường cách mệnh” Hồ Chí Minh chưa đề cập tới mà phải đến “chính cương vắn
12
13

Hồ Chí Minh tồn tập, tập 2, NxbCTQG, H2000, tr274
Hồ Chí Minh toàn tập, tập2, ẫnbCTQG, H2000, tr280.

14


tắt, sách lược vắn tắt” năm 1930. Trong tác phẩm này lần đầu tiên Nguyễn Aí
Quốc đề cập đến vấn đề dựng ra Chính phủ “cơng -nơng –binh”; một kiểu nhà nước
theo nhà nước Nga xô viết. đây là một nhà nước được xây dựng trên nền tảng côngnông binh, do giai cấp công nhân lãnh đạo mang bản chất của giai cấp công nhân.
Lãnh đạo nhân dân ta tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng tháng Tám vĩ đại,
ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử người đã đọc bản “tuyên ngôn độc
lập” khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hồ. “Bản ttun ngơn” đã nói lên
tư tưởng của Người về một nhà nước Việt Nam độc lập tự chủ thống nhất và thể
hiện quyết tâm bảo vệ đến cùng nền độc lập, thống nhất ấy “thà hy sinh tất cả chứ
không chịu mất nước, chứ nhất định không chịu làm nô lệ”. Sau “tuyên ngôn độc
lập”, bản hiến pháp năm 1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì soạn thảo đã khảng
định lại một lần nữa quan điểm của Người về một nhà nước độc lập, chủ quyền,
cộng hoà, dân chủ nhân dân. Sau 1954 trong điều kiện đất nước bị chia cắt Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã sác định nhiệm vụ cho cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ là
“Nhiệm vụ trước mắt của toàn dân ta là xây dựng và củng cố miền bắc tiến lên xã

hội chủ nghĩa đồng thời đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, nhằm xây dựng
một nước Việt Nam hồ bình, thống nhất, độc lập, dân chủ giầu mạnh”14. Từ đó
người xác định nhà nước muốn hồn thành được chức năng nhiệm vụ của mình cần
phải không ngừng củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng “Nhà nước ta thành
lập sau cách mạng tháng Tám là nhà nước dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân
lãnh đạo để đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất
nước nhà, chúng ta cần phải không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân đối với nhà nước dân chủ nhân dân”15. Ta thấy rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng chính quyền nhà nước giắn liền với q trình hoạt động cách mạng của
Người và thơng qua q trình chỉ đạo cách mạng Việt Nam nó mang tính cách mạng
khoa học sâu sắc, nội dung của nó cịn giữ ngun giá trị cho đến ngày nay.

14
15

Hồ Chí Minh tồn tập, Tập8, NxbCTQG, H2000, tr154.
Hồ Chí Minh toàn tập, Tâp 8, NxbCTQG, H2000, tr586.

15


2.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới, của
dân, do dân, vì dân
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa MácLênin về chun chính vơ sản vào việc thiết lập nhà nước kiểu mới ở Việt Nam
theo đó người khảng định: “nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là nhà nước dân
chủ nhân dân dặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thong qua chính Đảng
của mình”. Đảng lãnh đạo nhà nước là một nguyên tắc bất di bất dịch, là điều kiện
tiên quyết làm cho nhà nước thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình. Một mặt
khảng định sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với nhà nước Hồ Chí Minh cũng sác
định: Lực lượng nòng cốt của nhà nước là liên minh cơng- nơng -trí thức, sức mạnh

của nhà nước dựa trên nền tảng khối đại đoàn kết dân tộc. Chính vì vậy tư tưởng về
nhà nước kiểu mới của chủ tịch Hồ Chí Minh là phải xây dựng nhà nước làm cho
nhà nước thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Nhà nước của dân là: Nhân dân là chủ thể của nhà nước, quyền lực nhà nước
bắt nguồn từ nhân dân. theo Hồ Chí Minh “nhà nước ta là nhà nước dân chủ, đại
vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”. Hiến pháp măm 1946 quy định “tất cả quyền
bính trong nước đều là của toàn thể nhân dân Việt Nam”. Nhà nước của dân khơng
có nghĩa là “nhà nước tồn dân” vơ chính phủ mà theo chủ tịch Hồ Chí Minh:
“nhân dân là bốn giai cấp:công- nông, tiểu tư sản và tư sản dân tộc dưới sự lãnh
đạo của giai cấp công nhân và Đảng của các giai cấp này đoàn kết lại bầu ra
chính phủ của mình. Đối với nội bộ nhân dân thì thực hành dân chủ, đối với đế
quốc phong kiến và lực lượng phản động thì thực hành chun chính chống lại
chúng, đàn áp chúng … bốn giai cấp ấy do giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy công
nông liên minh làm nền tảng, đoàn kết các giai cấp dân chủ và các dân tộc trong
nước để thực hành dân chủ chuyên chính”16 .
Theo Hồ Chí Minh, trong nhà nước của dân, nhân dân thực hiện quyền làm
chủ của mình mà trước hết là quyền bầu ra nhà nước, bầu ra chính quyền các cấp,
nhà nước là tổ chức để thực hiện quyền lực của nhân dân. Nhân dân có quyền kiểm
16

Hồ Chí Minh tồn tập, tập17, NxbCTQG, H2000, tr217

16


tra giám sát hoạt động của nhà nước. Người nhắc nhở: “Chính phủ ta là Chính phủ
của nhân dân, chỉ có mục đích là ra sức phụng sự lợi ích của nhân dân. Chính phủ
rất mọng đồng bào giúp đỡ, đơn đốc kiểm sốt và phê bình để làm chịn nhiệm vụ
của mình là người đầy tớ trung thành tận tuỵ của nhân dân ta”17. Muốn để nhân
dân kiểm soát nhà nước phải có cách tổ chức thuận tiện tránh cửa quyền hách

dịch… sinh thời Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn: “nạn lãng phí tham ơ và
bệnh quan liêu mệnh lệnh trong công tác của các cấp lãnh đạo ở các cơ quan nhà
nước gây ra… vì vậy các cơ quan thanh tra nhà nước chẳng những kiểm tra chống
lãng phí, tham ơ mà cịn phải chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh… Đồng bào có oan
ức, thắc mắc mới khiếu nại, ta giải quyết tốt các công việc khiếu nại, đồng bào
thấy Đảng và Chính phủ quan tâm lo lắng đến họ, do đó, mối quan hệ giữa quần
chúng nhân dân với Đảng và Chính phủ được củng cố tốt hơn” 18. Nhân dân khơng
những có quyền kiểm tra giám sát các đại biểu, mà cịn có quyền bãi miễn họ để
nhà nước luôn xứng đáng là nhà nước của dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước do dân: Nhà nước do dân là nhà nước
phát huy được sức mạnh của nhân dân trong việc thực hiện các công việc của nhà
nước, đưa ra chế độ chưng cầu dân ý, quan tâm đến việc để nhân dân thảo luận,
phát huy sáng kiến tìm cách giải quyết các vấn đề của quốc gia dân tộc Người cho
rằng: “Nghị quyết mà dân chúng cho là khơng phù hợp thì để họ sửa chữa, dựa
vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”19
Nhà nước do dân tức là công việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc là trách nhiệm
của nhân dân. Do đó phải phát huy vai trị của mặt trận, các đồn thể trong công tác
quản lý nhà nước và xã hội. Nhà nước muốn quản lý điều hành xã hội có hiệu quả
nhất định phải dựa vào lực lượng nhân đân dựa vào sáng kiến trí tuệ của dân. Chính
ví vậy, Nhà nước tin dân nên nhà nước việc gì cũng làm được “khó vạn lần dân
liệu cũng xong”

Hồ Chí Minh nhà nước và pháp luật, Nxb Pháp lý, H1995, tr221.
Hồ Chí Minh nhà nước và pháp luật, Nxb Pháp lý, H1995, tr228.
19 Hồ Chí Minh tồn tập,T5, NxbCTQG, H2000, tr297.
17
18

17



Tư tưởng về nhà nước vì dân: Nhà nước vì dân là hệ quả tất yếu của nhà
nước của dân, do dân. nhà nước vì dân là nhà nước làm lợi cho dân Người nhắc
nhở: “chúng ta phải hiểu rằng các cơ quan chính phủ từ tồn quốc đến các làng
đều là công bộc của dân, nghiã là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải
là đè đầu nhân dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp- Nhật. Việc gì
có lợi cho dân ta, phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân ta, ta phải hết sức
tránh.”20 Nhà nước mà mọi chủ chương chính sách, mọi quy định của pháp luật từ
trung ương đến địa phương đều phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân. Biết bảo vệ
nhân dân, kiên quyết chống lại những tệ nạn vi phạm dân chủ và lợi ích của nhân
dân, mọi cán bộ nhà nước đều phải hết lòng phục vụ nhân dân, phải thực sự gương
mẫu, thực sự trong sạch. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ln đề cao vai trị của chế độ
pháp quyền. Người từng nói : "Trăm điều phải có thần linh pháp quyền". Vì thế, chỉ
một ngày sau khi nước nhà giành được độc lập, Người đã khẳng định : "Trước chúng
ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần
chuyên chế, nên nước ta khơng có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền
tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ". Khi chưa giành được độc
lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy trước hình dáng của Nhà nước ta: Nhà
nước dân chủ nhân dân; phải có hiến pháp theo lý tưởng dân quyền, lấy lao động làm
cơ sở và chú trọng bảo vệ quyền lợi của người lao động; một hiến pháp của Nhà
nước độc lập biết tôn trọng quyền tự quyết của các dân tộc khác.
Tóm lại, tư tưởng nhà nước “thân dân”, Nhà nước “lấy dân làm gốc” đã sớm
xuất hiện ở nhà chính trị kiệt xuất Hồ Chí Minh, trong đó con người vừa là mục
tiêu và là lực lượng để xây dựng nhà nước. Nhà nước của dân, do dân và vì dân
khơng ngừng được Người phát triển trở thành một hệ thống lý luận quan trọng
trong hệ thống các quan điểm của Người về cách mạng Việt Nam có nội dung
phong phú và sâu sắc. Tư tưởng về xây dựng Nhà nước pháp quyền ccủa chủ tịch
Hồ Chí Minh đến nay vẫn cịn ngun giá trị. Là phương hướng cho Đảng ta trong
việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay.
20


Hồ Chí Minh toàn tập, T4, NxbCTQG, H2000, tr56

18


3. Sự vận dụng của Đảng ta về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa hiện nay
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những nhận thức mới
về chun chính vơ sản. Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (tháng 3-1989) lần đầu
tiên đã sử dụng khái niệm “hệ thống chính trị” thay cho khái niệm “hệ thống
chun chính vơ sản”. Từ đó về sau, trong Cương lĩnh năm 1991 và Cương lĩnh (bổ
sung, phát triển năm 2011), trong các văn kiện từ Đại hội VII đến Đại hội XI ít sử
dụng thuật ngữ chun chính vơ sản. Đây là một bước tiến của nhận thức, phù hợp
hơn với điều kiện tình hình mới trong thời kỳ chúng ta xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Ý tưởng xây dựng một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân đã
được thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng ta từ hồi cịn hoạt động bí mật; sau
Cách mạng Tháng Tám thành công, ý tưởng này đã được khẳng định ngay trong
Hiến pháp năm 1946 và tiếp theo được thể hiện ngày càng rõ nét hơn phù hợp với
từng giai đoạn cách mạng trong các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992. Cương lĩnh
Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2011 và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2013 đều khẳng định: "Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân
dân". Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI nhấn
mạnh nhiệm vụ đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy
dân chủ, tăng cường pháp chế, trong đó nhiệm vụ cốt lõi là xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
3.1. Những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam hiện nay
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân

dân, do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Toàn bộ quyền lực nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân uỷ
quyền cho bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phụng sự lợi ích của nhân dân. Bộ
máy nhà nước được thiết lập là bộ máy thừa hành ý chí, nguyện vọng của
nhân dân, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước không thể là các ông quan cách
19


mạng mà là công bộc của nhân dân. Là nhà nước của dân, do chính nhân dân lập
qua thơng qua chế độ bầu cử dân chủ. Bầu cử dân chủ là phương thức thành lập
bộ máy nhà nước đã được xác lập trong nền chính trị hiện đại, đảm bảo tính
chính đáng của chính quyền khi tiếp nhận sự uỷ quyền quyền lực từ nhân dân.
Tư tưởng về một nhà nước của dân, do dân, vì dân đã được thể chế hoá
thành một mục tiêu hiến định ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên của chính thể
dân chủ cộng hồ ở nước ta - Hiến pháp 1946: “Xây dựng một chính quyền
mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” (Lời nói đầu - Hiến pháp 1946). Đặc điểm
này của Nhà nước ta tiếp tục được khẳng định trong các bản Hiến pháp 1959,
1980, 1992 và 2013.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động
trên cơ sở Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp.
Trong Nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân và sự lựa chọn chính trị
được xác lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất bằng Hiến pháp.
Chính vì lẽ đó mà Hiến pháp được coi là Đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu
lực pháp lý cao nhất, quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, quốc
phịng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Sự hiện diện của Hiến pháp là điều
kiện quan trọng nhất bảo đảm sự ổn định xã hội và sự an toàn của người dân.
Những quan điểm lớn, những nội dung cơ bản của Hiến pháp là cơ sở
pháp lý quan trọng cho sự duy trì quyền lực nhà nước, cho sự làm chủ của nhân
dân. Và đó chính là nền tảng có tính chất hiến định để xem xét, đánh giá sự hợp

hiến hay không hợp hiến của các đạo luật, cũng như các quyết sách khác của
Nhà nước và của cá tính chất chính trị, tính chất xã hội.
- Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm
vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa của chúng ta là kết quả của sự thể chế hố
đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam trên tất cả các mặt kinh tế,
chính trị, xã hội, văn hố giáo dục khoa học, đối nội, đối ngoại. Pháp luật thể
20


hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan,
thúc đẩy tiến bộ xã hội. Vì vậy, nói đến pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là
nói đến tính pháp luật khách quan của các quy định pháp luật, chứ khơng phải
chỉ nói đến nhu cầu đặt ra pháp luật, áp dụng pháp luật, tuân thủ pháp luật một
cách chung chung với mục đích tự thân của nó.
Nhà nước pháp quyền đặt ra nhiệm vụ phải có một hệ thống pháp luật cần
và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp
luật và kỷ luật. Pháp luật thể chế hoá các nhu cầu quản lý xã hội, là hình thức
tồn tại của các cơ cấu và tổ chức xã hội và của các thiết chế Nhà nước. Vì vậy,
sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là lối sống có trật tự và lành mạnh
nhất của xã hội. Tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và
mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và bảo vệ
quyền con người, các quyền và tự do của công dân, giữ vững mối liên hệ giữa
Nhà nước và Nhân dân, giữa Nhà nước và xã hội
Xét về bản chất, ngọn cờ bảo vệ quyền con người thuộc về các Nhà nước
cách mạng chân chính, nhà nước xã hội chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh trên bảy
mươi năm đầy gian khổ hy sinh của dân tộc Việt Nam vì độc lập, tự do dưới sự
lãnh đạo của Đảng suy cho cùng, chính là vì quyền con người, quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của cộng đồng dân tộc và của từng cá

nhân, từng con người. Do vậy, vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công
dân, mở rộng quyền dân chủ, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và
công dân, giữa công dân với Nhà nước, … luôn được Đảng ta dành sự quan tâm
đặc biệt. Nhiều Hội nghị của Trung ương Đảng đề cập đến vấn đề này như văn
kiện từ Đại hội Đảng VI đến Đại hội Đảng XII và nhiều Nghị quyết trung
ương khác. Văn kiện Đại hội Đảng IX xác định rõ những phương châm cơ bản:
xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra" đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước.
Thực hiện tốt các cơ chế làm chủ của nhân dân: làm chủ thông qua đại diện
21


(là cơ quan dân cử và các đoàn thể), làm chủ trực tiếp bằng các hình thức nhân
dân tự quản, bằng việc xây dựng và thực hiện các quy ước, hương ước tại cơ
sở. Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới phong cách, bảo đảm dân chủ trong
quá trình chuẩn bị ra quyết định và thực hiện các quyết định.
- Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự kiểm tra,
giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước.
Bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VII (1991), với “Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, quan điểm về sự tồn tại của
ba quyền và sự phân công, phối hợp giữa ba phạm vi quyền lực đó của Nhà
nước mới được chính thức khẳng định trên cơ sở tiếp thu, kế thừa, phát triển,
vận dụng vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam các tri thức của nhân loại
và trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của bộ máy nhà nước. Và đến Hội nghị Trung ương lần thứ tám (khoá
VII), (1995) quan niệm của Đảng về ba quyền đã được sự bổ sung quan trọng:
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư

pháp. Quan điểm về sự thống nhất quyền lực nhà nước có sự phân cơng, phối
hợp chặt chẽ giữa ba quyền và quyền lực nhà nước là một quan điểm có tính
ngun tắc chỉ đạo trong thiết kế mơ hình tổ chức Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
Đối với dân tộc Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
nhà nước, đối với xã hội không chỉ là tất yếu lịch sử, tất yếu khách quan mà còn là
ở chỗ sự lãnh đạo đó cịn có cơ sở đạo lý sâu sắc và cơ sở pháp lý vững vàng. Sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản - Đảng duy nhất cầm quyền đối với đời sống xã hội và
đời sống nhà nước không những không trái (mâu thuẫn) với bản chất nhà nước
22


pháp quyền nói chung mà cịn là điều kiện có ý nghĩa tiên quyết đối với quá trình
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta.
Trong ý nghĩa ấy, nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, một Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam hành động là một trong những đặc trưng cơ bản của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
3.2. Những giải pháp cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Thứ nhất, làm tốt công tác giáo dục về bản chất cách mạng khoa học của lý
luận chủ nghĩa xã hội khoa học nói chung và lý luận về chun chính vơ sản trong
xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
Nắm vững thực chất cách mạng, khoa học của học thuyết mácxít về chun
chính vơ sản, chúng ta sẽ vững vàng trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc
và các thế lực cường quyền, bảo vệ và tăng cường nền chuyên chính cách mạng,
đưa sự nghiệp cách mạng mau đi đến thắng lợi.
Thường xuyên giáo dục cho các tầng lớp nhân dân hiểu được bản chất của

chuyên chính vô sản, bản chất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Đảng
và nhân dân ta đang xây dựng hịên nay và tính ưu việt của nó, đó là nhà nước:
“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. cơng cuộc đổi mới đều là trách nhiệm của dân.
quyền hành lực lượng đều ở nơi dân”. Giáo dục bản chất nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa nền dân chủ “gấp triệu lần” dân chủ tư sản. Nền dân chủ mà trong hơn 85
năm qua Đảng cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn dân đấu tranh, phấn đấu, để cho
dân chủ thực sự của nhân dân, gắn liền với công bằng xã hội, xố bỏ áp bức bất
cơng. Từ thân phận nô lệ, nhân dân ta đã trở thành chủ đất nước. Từ thân phận làm
thuê, chịu bóc lột, nhân dân ta đã vươn lên làm chủ cuộc sống của mình, đang từng
bước xố bỏ chế độ người bóc lột người. Cũng cần phải khảng định dứt khoát rằng,
trong khi phấn đấu để có dân chủ thực sự đối với nhân dân, chúng ta không chấp
nhận cái gọi là “dân chủ đa nguyên”- dân chủ với cả những thế lực chống lại nhân
dân. khơng thể có chuyện các cá nhân, tổ chức chống đối, phản cách mạng, có hành
vi chống lại Đảng, Nhà nước, vi phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, đất nước…lại đòi
được hưởng quyền dân chủ như mọi người. Cũng phải vạch rõ, núp dưới khẩu hiệu
23


địi đa ngun về chính trị, đa Đảng lãnh đạo, những người phê phán chế độ một
Đảng ở nước ta thực ra là muốn làm hợp pháp hố vai trị của các lực lượng chính
trị phản động đã bị nhân dân ta đánh đổ.
Thứ hai, đấu tranh chống mọi âm mưu của các thế lực thù đich thực hiện
chiến lược “Diễn biến hịa bình” nhằm chống phá cách mạng Việt Nam, phủ nhận
thành quả cách mạng và lý luận chủ nghĩa khoa học nói chung.
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì
dân, đó là một nhà nước dân chủ với nhân dân và chuyên chính với kẻ thù. Đảng ta
chỉ rõ nhà nước ta “thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ
cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và
nhân dân”21. Thực tiễn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là qua 30 năm đổi mới vừa qua đẵ chứng minh

cho bản chất ưu việt của nền dân chủ của nhà nước ta. Tuy nhiên để tiến tới một
nền dân chủ thực sự bên cạnh việc thực hành dân chủ rộng dãi đối với quảng đại
quần chúng nhân dân lao động chúng ta phải không ngừng đấu tranh chống lại các
quan điểm sai trái và các âm mưu luận điệu chống phá của kẻ thù nhằm xuyên tạc
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Để vu cáo Việt Nam không có dân chủ,
các thế lực thù địch thường nêu ra những luận điệu: ở Việt nam thực hiện “chế độ
độc Đảng”. Các phần tử cơ hội chính lại hung hăng đòi bỏ điều 4 của hiến pháp
quy định sự lãnh đạo của Đảng với nhà nước và xã hội. Họ lặp đi lặp lại: một Đảng
lãnh đạo dẫn tới chế độ “Đảng trị”, gây ra tai hoạ cho xã hội. Họ mơ tả Đảng ta có
“một bộ máy đã tạo nên một xã hội khơng có tự do dân chủ”, “bộ máy độc đốn,
độc tài tồn trị” đầy tham nhũng phản dân chủ. Độc đốn thì kéo theo nhiều thứ
độc: “độc tài, độc đoán, độc quyền”. Những luận điệu trên đây đã được các nghi sỹ
bên kia đại dương đưa vào bản dự thảo “đạo luật về nhân quyền Việt Nam” trình
bầy thơng qua Hạ viện Hoa Kỳ ngày 6/9/2001 và 2004 đã ghi trong điều 1: “Việt
Nam là một quốc gia độc Đảng, do Đảng cộng sản Việt Nam cai trị và kiểm sốt”.
Chính vì vậy, đấu tranh vạch trần bản chất, âm mưu thủ đoạn của kẻ thù chống phá
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa hiện nay là nhiệm vụ thường xuyên cấp bách đối với
toàn xã hội.
21

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, NxbCTQG, H1996, tr129.

24


Đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch hiện
nay, hơn bao giờ hết là phải tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng trở thành một
“đảng đạo đức, văn minh”, cách mạng và khoa học, trong sạch và vững mạnh.
Đảng phải giữ vững lập trường, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với xu thế lịch sử, thực tiễn Việt Nam, kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao bản lĩnh chính trị,

trình độ trí tuệ của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là của cán bộ
lãnh đạo chủ chốt các cấp; khơng dao động trong bất cứ tình huống nào. Kiên định
đường lối đổi mới, chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi
mới vơ ngun tắc.
Thứ ba, Thực hiện dân chủ thực sự trong mọi mặt đời sống xã hội đi đôi với
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta khảng định: “dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động
lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn
bó giữa Đảng, nhà nước và nhân dân. Nhà nước đại diện quyền làm chủ của nhân
dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi
đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân
dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân”22. Với bản chất của nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở nước ta, trong thời gian qua Đảng và nhân dân ta đã có những
thành tựu đáng khích lệ trong cơng tác xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khảng định: Nhà nước tiếp tục
được xây dựng và hoàn thiện, nền hành chính được cải cách một bước, Nhà nước
có cố gắng lớn trong việc điều hành, quản lý quyền làm chủ của nhân dân trên các
mặt được phát huy, một số chính sách và quy chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân
dân trước hết ở cơ sở bước đầu được thực hiện. Những thành tựu đó đã góp phần
tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm thăy đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của
nhân dân củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao
vị thế của nước ta trên chính trường quốc tế.
22

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, NxbCTQG, H, 2006, tr125.

25



×