Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

A3.04 - Nguyễn Tuấn Anh - Luật so sánh-đã chuyển đổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (611.89 KB, 15 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

Bài Tập Tiểu luận môn Luật so sánh
Đề bài: “Những đặc trưng cơ bản của họ pháp luật Civil law và ảnh hưởng đến
hệ thống pháp luật Việt Nam”

Thực hiện
Sinh viên
Khoa
Lớp
Môn học
Tổ
Số thứ tự
Giảng viên
giảng dạy

: Nguyễn Tuấn Anh
: Luật
: QH-L -2021-VB2A(3)
: Luật so sánh
: 01
: 04
: TS. Nguyễn Văn Quân

Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 2021


MỤC LỤC
Tiêu đề
CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU


CHƯƠNG 2: NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỞ BẢN CỦA HỌ PHÁP LUẬT
CIVIL LAW

Trang
01
02

2.1 Nguồn gốc

02

2.2 Nguồn pháp luật

02

2.3 Cấu trúc nội tại của pháp luật và tư duy pháp lý

06

2.3.1 Sự phân chia luật công – luật tư

06

2.3.2 Các chế định đặc thù

06

2.3.3. Về tính chất pháp điển hóa

07


2.4 Mơ hình tố tụng và tổ chức tư pháp

08

CHƯƠNG 3: ẢNH HƯỞNG CỦA HỌ PHÁP LUẬT CIVIL LAW TỚI
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

3.1 Quá trình và một số ảnh hưởng đến pháp luật Việt Nam
3.2 Bài học kinh nghiệm cho pháp luật Việt Nam từ các quốc gia thuộc hệ
thống pháp luật Civil law

09
09
10

CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN

12

TÀI LIỆU THAM KHẢO

13


CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU
Dòng họ pháp luật Civil law là một trong những dòng họ pháp luật lớn và lâu
đời nhất trên thế giới. Trong suốt quá trình hình thành của mình, nó đã đạt được
những thành tựu to lớn. Với sự phát triển lớn mạnh và nhanh chóng của mình Civil
law đã vươn mình ra khỏi khu vực châu Âu lục địa và có tầm ảnh hưởng lớn đối với

nhiều khu vực cũng như nhiều quốc gia trên thế giới. Việt Nam cũng là một quốc gia
chịu ảnh hưởng khơng nhỏ bởi dịng họ pháp luật Civil law
Để tìm hiểu rõ hơn về nguồn gốc, đặc trưng và những ảnh hưởng đến pháp
luật Việt Nam, Tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Những đặc trưng cơ bản của họ
pháp luật Civil law và ảnh hưởng đến hệ thống pháp luật Việt Nam” làm tiểu luật
kết thúc môn Luật so sánh.

1


CHƯƠNG 2: NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỞ BẢN CỦA HỌ PHÁP LUẬT
CIVIL LAW
2.1 Nguồn gốc
Civil law được gọi theo nhiều tên khác nhau: luật La Mã (chỉ nguồn gốc), luật
châu Âu lục địa (chỉ ra khu vực hình thành và phát triển giai đoạn đầu) hay dân luật.
Là hệ thống luật lớn nhất trên thế giới, trải khắp từ châu Âu lục địa (Pháp, Đức, Ý…)
tới châu Mỹ (tỉnh Québec của Canada, bang Lousiana của Mỹ) châu Phi và nhiều
nước châu Á. Civil law được coi là biểu thị sự phát triển văn minh của hệ thống pháp
luật. Đồng thời là một trong những hệ thống có lịch sử hình thành phát triển lâu đời
nhất so với các hệ thống pháp luật khác trên thế giới. Đặc điểm nổi bật của Civil law
là ảnh hưởng của luật La Mã xuyên suốt quá trình hình thành phát triển. Lịch sử hình
thành phát triển của Civil law bắt nguồn từ sự hình thành phát triển của luật La Mã
và trải qua ba đoạn: Giai đoạn pháp luật tập quán – giai đoạn trước thế kỷ XIII; giai
đoạn pháp luật thành văn – từ thế kỷ XIII đến cuối thế kỷ XVIII; và giai đoạn pháp
điển hóa pháp luật và phát triển ra ngồi châu Âu – từ cuối thế kỷ XVII đến nay.
Hệ thống pháp luật thành văn Civil law được mở rộng ra thế giới thông qua
hai con đường. Thứ nhất là mở rộng thuộc địa (chủ yếu). Thứ hai là do sự học hỏi
văn minh pháp lí phương Tây của các nước. Hiện nay, Civil law vẫn chiếm một tỉ lệ
lớn các nước áp dụng và chịu ảnh hưởng trên thế giới.
2.2 Nguồn pháp luật

Có nhiều quan niệm về nguồn pháp luật, thứ nhất là nguồn của các quan điểm,
tư tưởng pháp luật; thứ hai là nguồn tạo nên quy phạm pháp luật; thứ ba là nguồn
chứa đựng, thể hiện pháp luật. Theo quan niệm thứ ba thì nguồn pháp luật của hệ
thống Civil law bao gồm các loại nguồn cơ bản sau:

2


- Pháp luật thành văn: rất được coi trọng ở hệ thống pháp luật này – nguồn đầu
tiên và độc nhất của họ pháp luật này. Bao gồm các loại văn bản sau:
+ Hiến pháp – đạo luật cơ bản của nhà nước – văn bản có hiệu lực pháp lý cao
nhất với những quy phạm có tính tối thượng – trình tự ban hành, sửa đổi hiến pháp
đặc biệt hơn so với các đạo luật thông thường (hội đồng bảo hiến hay Tịa án hiến
pháp). Sự giám sát tính hợp hiến của những luật khác được xây dựng là một minh
chứng cho tính tối thượng và uy quyền của hiến pháp.
+ Cơng ước quốc tế: Vai trị của cơng ước quốc tế có thể sánh với ý nghĩa của
hiến pháp. Tuy nhiên quan niệm về hiệu lực của công ước quốc tế so với nội luật của
mỗi quốc gia lại có sự khác nhau: ở một số nước như Pháp, Hà Lan – cơng ước quốc
tế có hiệu lực cao hơn nội luật; các cấp Tòa ở Tây Đức lại coi cơng ước quốc tế có
hiệu lực ngang hàng với các đạo luật trong nước nhưng hiến pháp lại ưu tiên luật
quốc tế hơn nội luật. Nhưng nhìn chung thì các nước châu Âu đều có quan điểm
chung thống nhất là cơng ước quốc tế có hiệu lực dưới hiến pháp nhưng trên đạo luật
quốc gia.
+ Bộ luật: Ở thời điểm mới xuất hiện, “bộ luật” dùng để chỉ tuyển tập những
luật khác nhau, một bộ luật bao trùm toàn bộ pháp luật (bộ luật Justianus). Đến thời
kỳ phong kiến, bộ luật được dùng để chỉ một văn bản luật tổng hợp chứa đựng hệ
thống các QPPL điều chỉnh các loại quan hệ XH khác nhau. Và hiện nay thì bộ luật
là một văn bản luật tổng hợp chứa đựng hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh
một lĩnh vực pháp luật nhất định. Yếu tố phân biệt bộ luật với các đạo luật thơng
thường đó là các quy phạm của các bộ luật thường dưới dạng các nguyên tắc chung

để áp dụng pháp luật.
+ Đạo luật (luật): luật là những văn bản QPPL do nghị viện ban hành theo
trình tự, thủ tục nhất định. Số lượng luật được ban hành lớn hơn rất nhiều so với bộ
3


luật (luật tổ chức nghị viện, luật tài chính...) tuy nhiên các đạo luật khơng có hiệu lực
thấp hơn các bộ luật, chúng bình đẳng với nhau từ góc độ giải thích luật.
+ Quy chế, sắc lệnh: Những luật loại văn bản này có hiệu lực thấp hơn luật,
tuy nhiên cũng có những sắc lệnh được ban hành thuộc lĩnh vực luật theo sự ủy quyền
của nghị viện thì có hiệu lực như luật (sắc lệnh – luật). Theo Hiến pháp của Pháp –
tồn tại quyền lập quy không thuộc quyền lực lập pháp – một quyền tự trị theo bản
chất tự nhiên của mình.
+ Thơng tư: ở họ pháp luật Civil law có sự phân biệt rõ ràng giữa luật và thông
tư – một loại văn bản giúp giải thích luật, thể hiện cách hiểu của luật.
- Tập quán pháp luật: là những quy tắc xử sự hình thành một cách tự phát, tồn
tại lâu đời, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, trở thành thói quen tự nhiên
và mang tính bắt buộc chung như QPPL. Trong dòng họ pháp luật Civil law tồn tại
nhiều quan niệm về vai trò của tập quán pháp luật: 1- Tập quán chính là nền tảng của
pháp luật; 2- Tập quán chỉ là một bộ phận của hệ thống pháp luật. Theo René David
– tập quán là một trong những yếu tố cho phép tìm ra giải pháp cơng minh.
- Án lệ: Án lệ là bản án đã tuyên hoặc sự giải thích, áp dụng pháp luật được
coi như tiền lệ làm cơ sở để thẩm phán sau đó xét xử áp dụng cho các trường hợp
tương tự. Ở dòng họ Civil law pháp luật thành văn được coi trọng, vào thế kỉ XIX,
sau khi các bộ luật cơ bản của Pháp lần lượt ra đời, với ảnh hưởng lớn của các bộ
luật này, nhất là Bộ luật dân sự Napoléon, trường phái pháp luật thực chứng ra đời.
Trường phái pháp luật thực chứng coi pháp luật thành văn hầu như là nguồn duy nhất
của pháp luật, họ coi các bộ luật như là “sự hồn hảo của lí trí”. Theo quan niệm của
các nước thuộc họ pháp luật Civil law, quy phạm do thực tiễn xét xử tạo ra khơng có
được uy tín và sự ổn định như các quy phạm lập pháp. Nó rất dễ bị thay đổi, hủy bỏ

ở bất kỳ thời điểm nào phụ thuộc vào vụ việc mới. Án lệ chỉ được áp dụng khi thẩm
4


phán thấy nó phù hợp với vụ án đang xét xử. Án lệ không là nguồn cơ bản của pháp
luật. Ngày nay tuy khơng ai cịn ảo tưởng về vai trò tuyệt đối của pháp luật thành
văn, tuy nhiên theo tư tưởng truyền thống, pháp luật thành văn vẫn được coi là nguồn
quan trọng nhất trong hệ thống các nguồn pháp luật… Theo sự phát triển của pháp
luật châu Âu, án lệ ngày càng đồ sộ và giữ vai trò là một nguồn không thể thiếu của
pháp luật. Từ vai trị quan trọng đó đã hình thành những tuyển tập thực tiễn xét xử
của tòa án – phân biệt được quyết định nào là hữu ích, quên đi những quyết định
khơng cịn phù hợp (tuyển tập được ban hành ở Pháp, CH Liên bang Đức, Tây Ban
Nha, Ý…)
- Học thuyết: Trong một thời gian dài trong quá khứ, học thuyết từng là nguồn
chính của pháp luật – khi mà chưa xuất hiện những luật thành văn. Khi mà các trường
đại học tổng hợp ở châu Âu nghiên cứu và tìm ra các nguyên tắc chung của hệ thống
pháp luật Châu Âu vào thế kỷ XIII – XVIII cùng với sự xuất hiện của tư tưởng dân
chủ và pháp điển hóa hệ thống pháp luật, thì vị trí thống trị của học thuyết đã được
thay thế bằng luật. Từ giai đoạn đó cho đến tận ngày nay, nhìn vào tổng thể hệ thống
pháp luật thì có thể nhận thấy học thuyết vẫn ln là một nguồn quan trọng của pháp
luật, nó kết tinh những khái niệm, tư duy pháp luật, phương pháp giải thích pháp
luật… mà các bộ luật, luật thuộc các hệ thống pháp luật khác nhau vẫn tiếp thu và
giữ gìn những giá trị đó cho đến tận ngày nay.
- Nguyên tắc chung của pháp luật: Những nguyên tắc chung của pháp luật
được thừa nhận và áp dụng trong thực tiễn cuộc sống chứng tỏ sự tuân theo và hướng
đến cơng bằng, cơng lý của pháp luật, nó khơng chỉ thể hiện tính chất của pháp luật
thành văn chứa đựng nó mà cịn thể hiện bản chất của họ pháp luật Civil law . Nguyên
tắc chung có thể thành văn được chứa đựng trong hiến pháp, bộ luật, luật… hoặc
khơng thành văn (nằm ngồi các quy định của pháp luật) chứa đựng trong án lệ, tập
quán hay luật La Mã cổ đại.

5


2.3 Cấu trúc nội tại của pháp luật và tư duy pháp lý
2.3.1 Sự phân chia luật công – luật tư
- Học thuyết phân chia lợi ích: Từ thời cổ đại, Ciceron đã đưa ra quan điểm
pháp luật gồm có hai bộ phận: quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ cá nhân và
quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ công. Đến thời kỳ phát triển của Luật La
Mã, các luật gia La Mã đã đưa ra học thuyết phân chia pháp luật thành luật công và
luật tư dựa trên cơ sở lợi ích. Học thuyết này phân biệt: luật cơng – lợi ích nhà nước,
lợi ích cơng cộng, luật tư – lợi ích cá nhân.
- Học thuyết quan hệ giữa các chủ thể: Đến thế kỷ XIX, những tư tưởng về
sự phân chia giữa luật công và luật tư của Luật La Mã được kế thừa và phát triển
thông qua học thuyết dựa trên quan hệ giữa các chủ thể. Học thuyết này phân chia:
Nếu là quan hệ có tính thứ bậc giữa nhà nước và cơng dân thì đó là quan hệ pháp luật
do luật cơng điều chỉnh, cịn quan hệ mà các bên tham gia là quan hệ bình đẳng thì
đó là quan hệ pháp luật của luật tư điều chỉnh.
- Học thuyết hành vi của chủ thể: Học thuyết đương đại hiện nay ở Đức về
phân chia luật công và luật tư là học thuyết dựa trên cơ sở phân loại hành vi của chủ
thể. Theo học thuyết này, luật công là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh
hành vi của các chủ thể được nhà nước trao quyền nhằm thực thi chức năng, nhiệm
vụ công. Luật tư là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi của các
chủ thể dựa trên các quy phạm của luật dân sự.
2.3.2 Các chế định đặc thù
- Chế định về nghĩa vụ: nghĩa vụ là trách nhiệm, bổn phận của một người
phải trao trả cho người khác cái gì đó, thực hiện hoặc khơng thực hiện một cơng việc
vì lợi ích của người kia. Chế định nghĩa vụ là một chế định riêng có của họ pháp luật
La Mã – Đức, xuất phát từ luật La Mã và trở thành môn khoa học pháp lý chính ở

6



các nước thuộc họ La Mã – Đức, thuật ngữ “nghĩa vụ” còn rất lạ lẫm với các họ pháp
luật khác trên thế giới.
- Chế định về pháp nhân: chế định pháp nhân là sản phẩm sáng tạo của luật
gia thời La Mã cổ đại, cội nguồn của hệ thống pháp luật La Mã – Đức. Pháp nhân là
thực thể trừu tượng được tạo nên từ sự tập hợp của nhiều thể nhân và được giao năng
lực pháp luật theo ý chí của các thể nhân thành viên. Có nghĩa là sự kết hợp của các
thể nhân tạo nên một chủ thể pháp luật mới – pháp nhân (không phải tập hợp thể
nhân nào cũng là pháp nhân). Sự hình thành pháp nhân có ý nghĩa làm đơn giản hóa
đời sống pháp luật và làm đời sống pháp luật được ổn định lâu dài do tư cách pháp
lý của pháp nhân dài hơn thể nhân. Dòng họ pháp luật La Mã – Đức phân chia thành
luật công – luật tư nên pháp nhân cũng chia thành pháp nhân tư pháp (công ty dân
sự, thương mại, các hiệp hội, các tổ chức nghiệp đồn, các quỹ) và pháp nhân cơng
pháp (nhà nước, chính quyền các cấp, các đơn vị hành chính sự nghiệp…)
2.3.3 Về tính chất pháp điển hóa
Trước Cách mạng Pháp năm 1789, ở Pháp có rất nhiều loại luật và chúng ở
trong tình trạng lộn xộn: luật địa phương, luật nước ngoài, tập quán chung và tập
quán địa phương, các loại sắc lệnh do Vua ban hành, và các loại văn bản này thậm
chí có nội dung trái ngược nhau. Tuy nhiên, chính quyền trung ương Hồng gia ở
Pháp ngày càng có vị trí thống trị. Một bước quan trọng tiến tới việc thống nhất luật
pháp là việc ban hành Sắc lệnh năm 1667 về tố tụng dân sự thống nhất ở nước Pháp.
Sau Cách mạng Pháp năm 1789, những tư tưởng của trường phái luật tự nhiên được
đánh giá cao. Trường phái này đã có cơng trong việc nâng kỹ thuật lập pháp lên trình
độ pháp điển hố (tiêu biểu nhất là Bộ luật dân sự Pháp hay Bộ luật Napoléon năm
1804).
Pháp điển hố là kỹ thuật trình bày một cách có phương pháp một pháp luật
phù hợp với xã hội hiện đại, một pháp luật được toà án áp dụng. Pháp điển hố vượt
xa cơng trình tập hợp hố mang tính lộn xộn của Hồng đế Justinian. Pháp điển hoá
cho phép thực hiện tham vọng của các luật gia trường phái luật tự nhiên: từ bỏ quá

7


khứ pháp lý cũ kỹ, chấm dứt tình trạng tủn mủn của pháp luật và sự thịnh hành của
tập quán pháp.
2.4 Mơ hình tố tụng và tổ chức tư pháp
Có thể thấy vai trò của các thẩm phán ở các nước Civil law là rất quan trọng
còn vai trò của các luật sư thì ít nổi trội hơn so với các nước trong hệ thống Common
Law. Thẩm phán có quyền điều tra xét hỏi, đặc biệt trong các vụ án hình sự và quyết
định những nhân chứng, bằng chứng được đưa ra trước tòa. Tức là ở đây các thẩm
phán dựa nhiều vào sự thật trên thực tế hơn là sự thật từ các luật sư. Điều này đảm
bảo được tính cơng bằng hơn.
Ở các nước Civil law có nghề thẩm phán riêng, có trường đào tạo thẩm phán
riêng một cách quy củ chứ không phải là lựa chọn thẩm phán từ các luật sư giàu kinh
nghiệm như các nước Common Law. Ví dụ như trình tự đào tạo thẩm phán ở Pháp
như sau: sau khi học 4 năm đại học luật, phải dự tuyển vào trường Thẩm phán
Bordeaux (Ecole national de la magistrature). Nếu được phải học trong 31 tháng,
trong khi học được hưởng lương. Sau khi tốt nghiệp, trải qua một giai đoạn thực tập
quan trọng sẽ được bổ nhiệm vào vị trí xét xử hoặc cơng tố.
Vai trò của các luật sư tại các nước Civil law ít được coi trọng. Do thủ tục tố
tụng là điều tra xét hỏi nên các thẩm phán có tồn quyền quyết định, hồn tồn làm
chủ phiên tịa. Vì thế vai trị của các luật sư bị lu mờ. Họ ít có tiếng nói tại tịa, thậm
chí phiên tịa kết thúc trước khi luật sư có mặt. Trong khi thiên chức của luật sư là
bào chữa và bảo vệ thân chủ mình tại tịa. Trái lại, luật sư tại các nước Common Law
đặc biệt rất được coi trọng. Do thủ tục tố tụng mang tính tranh tụng: các bên tham
gia váo thủ tục tố tụng được coi là có địa vị pháp lí bình đẳng với nhau, thẩm phán
chỉ có vai trị người trung gian phân xử, khơng tham gia vào quá trình tranh tụng
nhưng lại là người đưa ra phán xét cho vụ án. Họ chủ yếu dựa vào sự thật tại tịa do
các lt sư nêu, nhiều khi khơng đúng với sự thật trên thực tế. Vì vậy bên ngun
hay bên bị, bên nào muốn thắng kiện thì hồn tồn dựa vào tài biện hộ của luật sư

bên đó.
8


CHƯƠNG 3: ẢNH HƯỞNG CỦA HỌ PHÁP LUẬT CIVILAW ĐẾN
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
3.1 Quá trình và một số ảnh hưởng đến pháp luật Việt Nam
Trước khi Pháp xâm lược Việt Nam, cũng như các quốc gia châu Á khác, Việt
Nam đã tồn tại một hệ thống pháp luật có trình độ phát triển nhất định, trong đó có
pháp luật thành văn. Các đặc điểm pháp luật thời bấy giờ của nước ta là khơng có sự
phân chia các nghành luật, quan niệm pha trộn giữa dân sự và hình sự, chịu ảnh
hưởng của chủ nghĩa nhân trị. Đối với người Việt Nam, các quy định pháp luật được
xây dựng bịảnh hưởng bởi Khổng giáo, chính vì vậy pháp luật lấy luân lý làm căn
nguyên. Khi một người vi phạm luân lý có nghĩa là họ vi phạm pháp luật và phải
gánh chịu chế tài hình sự. Ngay cả tư duy pháp lý của quan lại cũ ở Việt Nam cũng
vô cùng khác biệt, các quan lại chỉ quen dùng các giải pháp định sẵn cho các trường
hợp cụ thể xảy ra trong tương lai. Đây là các đặc điểm pháp luật khác với pháp luật
phương Tây. Tuy nhiên với chức năng của một loại công cụ của nhà cầm quyền để
cai trị, thực dân Pháp đã áp đặt pháp luật nhằm hỗ trợ cho chính sách xâm lược và
cai trị của họ. Ngay sau Hòa ước Nhâm Tuất năm 1862 thì Sắc lệnh về tổ chức tư
pháp tại các vùng thuộc Pháp đã được chính phủ Pháp ban hành ngày 25/7/1864
nhằm tuyên bố các tòa án của Pháp sẽ áp dụng các bộ luật và đạo luật của nước Pháp
ở các tỉnh này. Kể từ đó là sự ra đời của Bộ Dân luật giản yếu Nam Kỳ năm 1883,
Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ năm 1931, Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ Luật năm 1936, các Bộ
luật Hình sự, Tố tụng Hình sự và tổ chức Tịa án được ban hành bắt đầu từ những
năm 20 của thế kỷ XX. Mặc dù được áp dụng vì mục đích cai trị nhưng Việt Nam đã
tiếp nhận những chế định của pháp luật Pháp với một sự hòa hợp với những quy định
pháp luật của bản địa trước đó, đồng thời chấp nhận sự du nhập của các học thuyết
tiến bộ về pháp luật, về các chế định về luật tư như quyền tài sản, nghĩa vụ, công ty...
Bên cạnh việc bị "xâm lược pháp luật", sự ảnh hưởng của pháp luật Pháp nói

riêng và pháp luật Civil law nói chung cũng thể hiện rõ những khía cạnh chủ động
từ Việt Nam, xuất phát từ những yếu tố văn minh và tiến bộ của hệ thống pháp luật
9


này. Người có vai trị tiên phong trong việc tiếp nhận những tư tưởng tiến bộ này là
nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc và sau này là lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sự tiếp nhận này
là thành quả của những năm học tập và làm việc tại Pháp và các nước châu Âu, ông
đã tiếp nhận những tư tưởng về quyền con người và tư tưởng dân chủ, pháp quyền
tiến bộ, đồng thời thể hiện nó qua những tác phẩm của mình như bản Yêu sách của
nhân dân An Nam (1919) và Tuyên ngôn độc lập 1945.
Sau khi độc lập, quá trình lập pháp và tổ chức điều hành bộ máy Nhà nước
cũng thể hiện rõ sự tiếp nhận những tư tưởng và chế định pháp luật của hệ thống
pháp luật này. Mặc dù sau đó, do ảnh hưởng của chế độ chính trị, sự ảnh hưởng của
hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa tỏ ra phát triển nhưng trong cái nhìn tổng thể về
một quá trình phát triển hệ thống pháp luật từ khi giành độc lập, đặc biệt là sau quá
trình đổi mới, trải qua gần một thế kỷ, pháp luật Pháp đã in dấu ấn khá đậm ở Việt
Nam. Nó xóa gần hết quan niệm cổ về pháp luật ở Việt Nam, thiết lập một kỹ thuật
pháp lý, cách tư duy pháp lý và ý thức hệ mới. Đồng thời nó để lại một kho tàng kiến
thức pháp lý khá lớn. Tuy nhiên có thể thấy các Bộ luật Dân sự nói trên ở Việt Nam
có quan niệm về nguồn pháp luật khá rộng so với Bộ luật Dân sự Pháp có lẽ bởi sự
pháp điển hóa chưa hồn tồn đầy đủ và sự địi hỏi điều chỉnh thích hợp với xã hội
Việt Nam thời đó khi mà các quy tắc luân lý, phong tục tập quán còn chi phối khá
mạnh đời sống con người. Bên cạnh đó, Civil law cịn ảnh hưởng đến q trình lập
hiến, hình thành các bộ luật dân sự và tổ chức tòa án sau này của Việt Nam.
3.2 Bài học kinh nghiệm cho pháp luật Việt Nam từ các quốc gia thuộc hệ
thống pháp luật Civil law
Một là, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về số lượng văn bản pháp luật.
Việt Nam đã ban hành được hệ thống văn bản pháp luật khá lớn gây khó khăn cho
việc tiếp cận pháp luật của người dân. Nhưng thực tế cho thấy, hệ thống pháp luật

nói chung cịn nhiều vấn đề bất cập. Khung pháp luật thiếu toàn diện, một số lĩnh
vực quan trọng chưa có luật điều chỉnh. Ở Pháp cũng như ở Việt Nam, các nhà làm
luật phân biệt lĩnh vực dân sự và lĩnh vực thương mại hay kinh tế. Sự phân biệt này
10


là cần thiết vì bản chất của hai quan hệ trên có nhiều điểm khác nhau. Có thể vận
dụng các quy định trên trong pháp luật Pháp làm phương hướng để hoàn thiện, thiết
lập những quy định phù hợp với hoàn cảnh nước ta.
Hai là, hoàn thiện pháp luật Việt Nam về sự thống nhất trong hệ thống văn bản
pháp luật. Hệ thống văn bản pháp luật có thể coi là hệ thống pháp luật theo nghĩa
hẹp. Đối với một quốc gia theo hệ thống luật thành văn như Việt Nam, tạo ra sự
thống nhất về hệ thống văn bản pháp luật là hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định
cho sự phát triển của cả hệ thống pháp luật theo nghĩa rộng. Hiện nay việc ban hành
các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành đối với các văn bản luật, pháp
luật chậm. Thiếu các thiết chế, điều kiện tương ứng với các quy định để có thể tổ
chức triển khai thi thành văn bản quy phạm pháp luật.
Ba là, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về nguồn pháp luật. Hiện nay,
pháp luật Việt Nam đã có những quy định cụ thể về việc áp dụng một nguồn pháp
luật tương đối mới mẻ ở Việt Nam là án lệ. Ghi nhận án lệ như một nguồn pháp luật
vào hệ thống pháp luậtt Việt Nam hiện tại là một nhu cầu thiết yếu tuy nhiên khi lựa
chọn mơ hình án lệ để áp dụng cần chú ý một điều rằng giữa mơ hình án lệ được lựa
chọn và hệ thống pháp luật hiện tại cần tương thích và phù hợp. Cần phát triển một
học thuyết pháp lý phù hợp song song với quá trình kết hợp các quy định của nhiều
hệ thống pháp luật nhằm đảm bảo tính ổn định của cả hệ thống pháp luật, khơng làm
xáo trộn hay gây ra những khó khăn và trở ngại trong việc áp dụng; Chỉ nên đặt ra
hiệu lực thuyết phục với các thẩm phán thay vì có tính cách bắt buộc bởi ảnh hưởng
mạnh mẽ của Tòa án nhân dân tối cao tới xu hướng giải quyết các vụ việc của thẩm
phán cấp dưới trong hoạt động xét xử và nhằm khắc phục những mâu thuẫn về thứ
tự ưu tiên trong hệ thống nguồn pháp luật khi áp dụng án lệ trong thực tiễn.


11


CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN
Các nước theo truyền thống Civil Law ngày nay ngày càng phát triển mạnh
mẽ hơn với một hệ thống pháp luật ổn định và hiện đại, trong khi vẫn ngày ngày tiếp
tục thích nghi với những sự thay đổi của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trên thế
giới. Những học thuyết về nguyên lý của pháp luật, về tư duy pháp lý cũng như những
đặc trưng khác trong hệ thống pháp luật này đã trở thành hình mẫu của nhiều các
quốc gia trên thế giới, từ châu Âu, châu Phi, Latinh đến các quốc gia tại Châu Á.
Việt Nam với những đặc điểm pháp luật chịu ảnh hưởng sâu sắc từ hệ thống
pháp luật Civil law nhưng hệ thống pháp luật của nước ta vẫn còn nhiều điểm bất
cập về số lượng văn bản pháp luật, về sự thống nhất trong hệ thống văn bản pháp
luật,…Việc vẫn tồn tại những lĩnh vực chưa có văn bản pháp luật điều chỉnh là một
khó khăn lớn cho q trình vận hành cơng tác thi hành pháp luật, cũng như cản trở
sự phát triển của các lĩnh vực đó. Ngồi ra sự thống nhất trong hệ thống văn bản pháp
luật cũng là điều cần được quan tâm, vì nó ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển
của cả hệ thống pháp luật

12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật so sánh, Nhà xuất bản
Công an nhân dân.
2. Ngô Huy Cương, “Sự ảnh hưởng của pháp luật Pháp tới luật tư ở Việt Nam”,
Tạp chí nghiên cứu lập pháp điện tử, />3. Đỗ Văn Đại (2004), “Vai trị của Luật so sánh trong cơng cuộc hồn thiện
pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Pháp lý, (Số 01).
4. PTS. Nguyễn Ngọc Đào (1997), Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật thế

giới, Nhà xuất bản ĐHQG HN, Hà Nội.
5. Hoàng Mạnh Hùng (2013), Án lệ trong hệ thống các loại nguồn pháp luật,
Luận văn thạc sĩ Lý luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp Luật, Khoa Luật
(ĐHQG Hà Nội), Hà Nội.
6. Trần Kiên, Phạm Hồ Nam, Nguyễn Lữ Quỳnh Anh (2017), “Án lệ trong dân
luật Pháp và hướng áp dụng án lệ ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN:
Luật học, (Tập 33 số 3), tr.50-57.
7. Dương Thị Mai (2012), Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, Luận văn
thạc sĩ Lý luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp Luật, Khoa Luật (ĐHQG Hà
Nội), Hà Nội.
8. PGS.TS Phạm Hữu Nghị (2008), “Nhìn lại những chặng đường phát triển của
pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến nay”, Kỷ yếu hội thảo quốc tế Việt Nam
học lần thứ ba – Tiểu ban pháp luật Việt Nam, tr.627-645, Hà Nội.
9. Hoàng Thị Kim Quế chủ biên (2015), Giáo trình lý luận chung nhà nước và
pháp luật, Nhà xuất bản DHQG Hà Nội.

13



×