Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

bài thu hoạch môn học pháp luật đại cương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.78 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐƠNG Á
KHOA QUẢN TRỊ

BÀI THU HOẠCH
Mơn học: Pháp Luật Đại Cương

Tên

: Võ Thị Thúy Kiều

Ngày sinh

: 24/07/2003

Lớp

: MK21A2B

Ngành

: Marketing

Tên giáo viên : Lê Thị Thanh Lai


Đề: Bằng kiến thức đã học hãy chứng minh pháp luật giữ vai
trò quan trọng trong đời sống xã hội.
BÀI LÀM
I/ MỞ ĐẦU
Pháp luật là nhân tố quan trọng để điều chỉnh các quan hệ xã hội, là
phương tiện để nhà nước quản lý các mặt quan trọng của đời sống xã hội


và thực hiện các chức năng của mình. Pháp luật có vai trị vơ cùng quan
trọng đối với nhà nước bởi nó là cơ sở pháp lý để bộ máy nhà nước tổ
chức và hoạt động. Cùng với việc xây dựng một nhà nước kiểu mới, hệ
thống pháp luật mới cũng nhanh chóng được xây dựng để ghi nhận, củng
cố, bảo vệ và phát triển những thay đổi cơ bản của xã hội nước ta trong
quá trình phát triển. Pháp luật là công cụ quản lý xã hội quan trọng và
không thể thiếu . Pháp luật là công cụ quản lý hiệu quả. Để đánh giá một
cách chính xác vai trị của pháp luật thì cần phải xem xét nó ở góc độ cụ
thể, nghĩa là phải gắn nó với việc thực hiện các chức năng của nhà nước
và nhu cầu điều chỉnh pháp luật của xã hội. Qua lý do trên, em xin phân
tích để làm nổi bật vai trò của pháp luật đối với đời sống xã hội ở Việt
Nam hiện nay.
II/ NỘI DUNG
1/ Pháp luật là gì? Tầm quan trọng của pháp luật với đời sống
xã hội?
Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là pháp luật là gì? Pháp luật là hệ thống quy
tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận
nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo mục tiêu, định hướng cụ thể.
Nhà nước là bộ máy quyền lực đặc biệt, được tổ chức chặt chẽ để thực thi
chủ quyền quốc gia, tổ chức và quản lý xã hội bằng pháp luật, phục vụ lợi


ích giai cấp, lợi ích xã hội và thực thi các cam kết quốc tế . Vậy vai trò
của pháp luật đối với đời sống xã hội như thế nào, có quan trọng khơng?
Ngày nay, pháp luật khơng chỉ được nhìn nhận là của “riêng” nhà nước,
cơng cụ để nhà nước tổ chức và quản lí xã hội, ngược lại, pháp luật đã trở
thành “tài sản” chung của toàn xã hội, một loại quy tắc ứng xử đặc biệt
quan trọng trong đời sống chung, yếu tố thiết yếu cho cuộc sống hàng
ngày.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, việc tăng cường vai trò

của pháp luật được đặt ra như một tất yếu khách quan. Điều đó khơng chỉ
nhằm mục đích xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, mà
còn hướng đến bảo vệ và phát triển các giá trị chân chính, trong đó có ý
thức đạo đức. Pháp luật càng chặt chẽ, càng đầy đủ và được thi hành
nghiêm chỉnh thì đạo đức càng được đề cao, đồng thời khả năng điều
chỉnh và giáo dục của đạo đức càng được mở rộng và ảnh hưởng một cách
tồn diện, tích cực đến mọi hành vi, mọi mối quan hệ giữa con người với
con người, giữa con người với xã hội. Một hệ thống pháp luật hồn chỉnh,
thể hiện đúng đắn ý chí và nguyện vọng của số đông, phù hợp với xu thế
vận động của lịch sử sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường và q trình tồn cầu hóa hiện nay,
u cầu đặt ra đối với pháp luật là phải tác động tích cực đến nền đạo đức
của xã hội. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường đòi hỏi mỗi cá
nhân trong hoạt động của mình phải tính toán chặt chẽ những điều kiện
khách quan và hiệu quả kinh tế. Khi đời sống kinh tế - xã hội đã và đang
có những chuyển biến lớn, thì quan hệ giữa con người với con người
không thể chỉ là mối quan hệ trực tiếp, cảm tính, chủ yếu vẫn bị chi phối
bởi những nguyên tắc và chuẩn mực của sự phát triển ưu trội về đạo đức
như trước đây, mà nó cần được bổ sung những chuẩn mực, những giá trị
mới, như tính kinh tế, tính hiệu quả...
2/ Vai trị của pháp luật với đời sống xã hội
Đối với đời sống xã hội, pháp luật có những vai trị nổi bật sau đây:


Pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã
hội.
Quốc gia là đại diện chính thức của tồn thể từng lớp, Vì vậy nhà nước
có chức năng (nhiệm vụ) quản lý toàn tầng lớp.
Để quản lý toàn tầng lớp, nhà nước dùng nhiều dụng cụ, nhiều biện
pháp, nhưng luật pháp là công cụ quan yếu nhất. Với những đặc điểm

riêng của mình, luật pháp có khả năng triển khai những chủ trương, chính
sách của nhà nước một cách nhanh nhất, đồng bộ và có hiệu quả nhất trên
quy mơ rộng lớn nhất. Cũng nhờ có luật pháp, quốc gia có cơ sở để phát
huy quyền lực của mình và rà, kiểm sốt các hoạt động của các tổ chức,
các cơ quan, các viên chức nhà nước và mọi công dân.
Trong tổ chức và quản lý kinh tế, pháp luật lại càng có vai trị lớn. Bởi,
chức năng tổ chức và quản lý kinh tế của quốc gia có phạm vi rộng và
phức tạp, bao gồm nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ mà nhà nước cần xác
lập, điều hành và kiểm soát như hoạch định chính sách kinh tế, xác định
chỉ tiêu kế hoạch, quy định các chế độ tài chính, tiền tệ, giá... Thảy q
trình tổ chức và quản lý đều địi hỏi sự hoạt động tích cực của quốc gia
nhằm tạo ra một cơ chế đồng bộ, xúc tiến quá trình phát triển đúng hướng
của nền kinh tế và mang lại hiệu quả thiết thực.
Do thuộc tính phức tạp và khn khổ rộng của chức năng quản lý kinh
tế, nhà nước không thể trực tiếp tham dự vào các hoạt động kinh tế cụ thể
mà chỉ thực hiện việc quản lý ở tầm vĩ mơ và mang thuộc tính hành chính
- kinh tế. Q trình quản lý kinh tế khơng thể thực hành được nếu không
dựa vào pháp luật.
Chỉ trên cơ sở một hệ thống văn bản luật pháp kinh tế đầy đủ, đồng bộ,
hiệp với thực tiễn (điều kiện và trình độ phát triển của kinh tế xã hội) và
kịp thời trong mỗi thời kỳ cụ thể, quốc gia mới có thể phát huy được hiệu
lực của mình trong lĩnh vực tổ chức và quản lý kinh tế, xã hội.
Pháp luật điều tiết và định hướng sự phát triển của các quan hệ xã hội


Pháp luật không sinh ra các quan hệ xã hội, nhưng pháp luật được xem
như một phương thức hữu hiệu để điều tiết và định hướng sự phát triển
của các quan hệ xã hội. Có thể nói, nếu coi cuộc sống như một dịng chảy
tự nhiên, thì pháp luật được xem như hai bờ của dịng chảy đó, bờ có vai
trị định hướng dịng chảy, làm cho sự chảy đó khơng tràn lan, tùy tiện mà

theo một dịng nhất định, khơng có bờ, nước vẫn chảy, nhưng khơng theo
dịng. Tất nhiên, bờ phải đi theo dòng chảy, “lựa” theo dòng chảy, bờ
khơng thể bắt dịng chảy trái quy luật. Do vậy, vai trò định hướng của
pháp luật phải trên cơ sở quy luật vận động, phát triển khách quan của các
quan hệ xã hội.
Pháp luật củng cố và tăng cường các xu hướng phát triên tích cực của
các quan hệ xã hội, ngăn ngừa, loại bỏ những xu hướng phát triển tiêu cực,
đảm bảo sự phát triển của xã hội phù hợp với quy luật khách quan (ví dụ,
quan hệ sở hữu, sự tích tụ, tập trung ruộng đất).
Pháp luật như là “hành lang”, “đường biên” cho ứng xử của con người,
nó nói lên giới hạn cần thiết mà nhà nước quy định để mọi người có thể xử
sự một cách tự do trong khn khổ nhất định. Nhờ có pháp luật, các thành
viên trong xã hội nắm bắt được những hành vi nào là hợp pháp, được
khuyến khích, hành vi nào là bắt buộc, hành vi nào bị ngăn cấm để từ đó
có cách ứng xử phù hợp khi bắt gặp một tình huống cụ thể. Qua đó, pháp
luật củng cố và tăng cường các xu hướng phát triển tích cực của các quan
hệ xã hội, ngăn ngừa, loại bỏ những xu hướng phát triển tiêu cực, đảm bảo
sự phát triển của xã hội phù hợp với quy luật khách quan. Pháp luật ghi
nhận sự tồn tại của các quan hệ xã hội phù hợp với mục đích, định hướng
của nhà nước, tạo lập mơi trường pháp lí thuận lợi cho sự phát triển và bảo
vệ sự tồn tại của những quan hệ xã hội đó. Ngược lại, pháp luật hạn chế và
loại bỏ những quan hệ xã hội lạc hậu, kìm hãm sự phát triển của đời sống,
trái với mục đích, định hướng của nhà nước. Đặc biệt trong bối cảnh có sự
thay đổi lớn của đời sống xã hội, vai trò của pháp luật càng được thể hiện


rõ. Sau mỗi cuộc cách mạng xã hội, kể cả các cuộc cải cách, những yếu tố
mới được xác lập thường gặp phải sự chống đối, sức ỳ và lực cản từ nhiều
phía, ngược lại, những yếu tố lạc hậu, lỗi thời, khơng cịn phù hợp nhưng
chưa hồn tồn mất hẳn. Trong những điều kiện đó, “Luật pháp được xem

như một phương thức hữu hiệu đế điều tiết các trạng thái xã hội và các
quan hệ nảy sinh từ chỉnh các biến đổi xã hội quan trọng đó” Bằng pháp
luật, những yếu tố mới, tích cực, tiến bộ sẽ được khẳng định, nhờ đó sự
tồn tại của chúng trở nên chính thức và chắc chắn, khơng thể đảo ngược
(việc thiết lập chính quyền mới, cải cách thủ tục hành chính…). Có thể
nói, mọi chủ trương cải cách, đổi mới nếu khơng được bảo đảm bởi pháp
luật thì khó có thể thành công. “Trong lịch sử nhân loại, các cuộc cải
cách đã thất bại bởi một trong những nguyên nhân là người ta đã đặt các
cải cách xã hội tách biệt với luật pháp ”.
Pháp luật là cơ sở để bảo đảm an tồn xã hội
An tồn xã hội là tình trạng của đời sống xã hội, trong đó con người
được yên ổn trong sinh hoạt hàng ngày, trong lao động, học tập, nghỉ ngơi,
tính mạng, sức khỏe, tài sản, bí mật đời tư, danh dự, uy tín... khơng bị xâm
hại. An toàn xã hội được thể hiện trên nhiều mặt, an tồn trong sản xuất,
trong giao thơng, trong sinh hoạt hàng ngày, an toàn trong các giao dịch xã
hội... An tồn ln là vấn đề có ý nghĩa trong mọi xã hội, đó là tiền đề,
đồng thời cũng là động lực và mục tiêu của cuộc sống. Tuy nhiên, “an
toàn xã hội ln có nguy cơ bị phá vở hoặc bị xâm hại từ nhiều phía mà
nguyên nhân chủ yếu là lòng tham và sự kém hiểu biết cũng như thái độ
ứng xử của con người đối với môi trường xung quanh, điều kiện sinh hoạt
vật chất của xã hội... Nhờ sự tác động mạnh mẽ, nhiều mặt của pháp luật
mà an tồn xã hội được bảo đảm, tính mạng, tài sản, danh dự, uy tín... của
con người được bảo vệ. Cùng với việc xác định cách thức xử sự cho các
chủ thể, pháp luật nghiêm trị những hành vi gây mất an toàn cho cuộc


sống. “Phàm hình pháp là cái gốc của thiên hạ, ngẫn cẩm điều bạo
ngược, ghét bỏ điều ác là để răn những điều chưa xảy ra”. Nhờ có pháp
luật, người dân trở nên vững tâm hơn, họ tin tưởng cái ác sẽ bị trừng trị,
an toàn sẽ được bảo đảm: “luật pháp nói chung khơng chỉ là khn mẫu

cho hành vi con người, giúp họ giải quyết có hiệu quả các cơng việc thực
tiễn mà cịn tạo lập cho họ niềm tin về “an ninh” của chính mình”. Ví dụ
như trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta khi có xung đột hoặc bất
đồng quan điểm chắc chắn con người ta sẽ có những hành động và cách
ứng xử thơ lỗ, lời nói có thể là xúc phạm đối phương thì khi đấy pháp luật
sẽ can thiệp để giải quyết để bảo vệ quyền lợi an toàn cho cá nhân và nếu
gây ồn ào náo loạn thì giải quyết vấn đề an ninh cho xã hội. Bằng pháp
luật, nhà nước thể chế hố những tiêu chuẩn an tồn kĩ thuật, đề ra những
biện pháp đảm bảo an toàn, giáo dục con người ý thức tự bảo vệ minh...
Pháp luật còn có sự tác động mạnh mẽ đến các mặt của đời sống xã hội,
thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, cải thiện điều kiện vật chất kĩ thuật của
xã hội.
Pháp luật là cơ sở để giải quyết các tranh chấp trong xã hội.
Đời sống thường ngày chắc chắn sẽ có rất nhiều vấn đề giữa xảy ra
giữa con người với nhau trong xã hội có, trong gia đình cũng có. Ví dụ
như tranh chấp đất đai, tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, tranh chấp
quyền thừa kế, bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng….v.v.. Có rất nhiều
vấn đề và rất cần pháp luật can thiệp để giải quyết cho người dân.
Có thể nói, các quy định trong hệ thống pháp luật được xem như là kết
quả của quá trình “chọn lọc, đào thải” một cách tự nhiên các cách xử sự
trong xã hội. Trải qua bao biến cố xã hội, bỏ qua và vượt lên những yếu tố
ngẫu nhiên, khơng hợp lí, pháp luật tồn tại như những cách xử sự phổ
biến, hợp lí, khách quan. Chính vì vậy, pháp luật được xem như một loại
chuẩn mực công cộng được thừa nhận rộng rãi nhất trong toàn xã hội. Với


ưu thế đó, pháp luật là chuẩn mực chung, có hiệu quả nhất để các cá nhân,
tổ chức trong xã hội tự giải quyết các tranh chấp trong đời sống.
Pháp luật là phương tiện bảo đảm và bảo vệ quyền con người
Quyền con người là khả năng con người được tự do lựa chọn hành

động, tự do lựa chọn cách thức và mức độ thể hiện thái độ cũng như hành
động theo ý mình, khơng bị hạn chế, ràng buộc, cấm đốn một cách vơ lí.
Ngày nay, quyền con người đã trở thành một giá trị chung được toàn thế
giới công nhận. Trong lịch sử, cùng với sự phân chia giai cấp thì sự áp bức
giai cấp cũng xuất hiện, các quyền con người bị xâm phạm, bị chà đạp. Từ
đó cho đến nay, vấn đề tái lập sự bình đẳng trong xã hội, bảo đảm, bảo vệ
các quyền, tự do, dân chủ của con người luôn là nhu cầu, khát vọng mạnh
mẽ của nhân loại bị áp bức. Có thể nói, lịch sử lồi người từ khi xã hội
phân chia thành các giai cấp là lịch sử đấu tranh nhằm giải phóng con
người, vươn tới tự do, địi quyền làm chủ.
Tuy nhiên, chỉ trong điều kiện xã hội dân chủ, pháp luật mới thực sự
đóng vai trị quan trọng trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền, tự do, dân chủ
của con người. Vai trò quan trọng này của pháp luật thể hiện trước hết ở
việc pháp luật ghi nhận các quyền, tự do, dân chủ của con người, cần lưu ý
rằng, sự quy định trong pháp luật chỉ là sự thừa nhận chính thức của nhà
nước về các quyền vốn có của con người. Pháp luật quy định trách nhiệm
của nhà nước cũng như toàn xã hội trong việc bảo đảm cho các quyền con
người được hiện thực hoá. Đồng thời, pháp luật quy định các biện pháp
nhằm bảo vệ quyền con người khỏi bị xâm hại.
Quyền con người, tự do cá nhân cũng cần phải có điểm dừng, nó khơng
thể được hiểu là được làm tất cả hay muốn làm gì thì làm. Tự do “chỉ có
thể là được làm những cải nên làm và không bị ép buộc làm điều không
nên làm “Nếu một công dãn làm điều trái luật thì anh ta khơng cịn tự do
nữa vì nếu để anh ta tự do làm thì mọi người đều được làm trái luật cả


". Lênin đã khẳng định, sống trong một xã hội mà lại thoát khỏi xã hội ấy
để được tự do, đó là điều khơng thể được. Chính vì vậy, quyền, tự do cá
nhân luôn phải được đặt trong sự tôn trọng quyền, tự do của người khác,
tôn trọng và tuân thủ những quy tắc chung của cộng đồng, mỗi người vừa

tơn họng cái chung, vừa có điều kiện để tự do hành động nhằm đáp ứng
lợi ích riêng của mình. Nói cách khác, quyền tự do của mỗi người phải bị
giới hạn bởi quyền tự do của người khác. Pháp luật là phương tiện để mỗi
cá nhân phải ràng buộc đối với cá nhân khác và xã hội. Một mặt cá nhân
được làm tất cả trừ những việc bị pháp luật cấm, mặt khác, họ khơng được
làm những gì có hại cho người khác, cho cộng đồng. Đồng thời, quyền, tự
do, dân chủ của cá nhân phải luôn đi kèm với nghĩa vụ.
Pháp luật là phương tiện bảo đảm dân chủ, cơng bằng, bình đẳng và
tiến bộ xã hội
Dân chủ, cơng bằng, bình đẳng là những giá trị của nhân loại. Dân chủ
được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Trên bình diện chung nhất,
dân chủ có nghĩa là người dân là chủ, người dân làm chủ, làm chủ chính
bản thân mình và làm chủ xã hội trên tất cả các lĩnh vực của cuộc sống.
Mỗi người được tự quyết định vận mệnh của chính mình, đồng thời tham
gia quyết định những vấn đề chung của xã hội. Công bằng, bình đẳng
khơng phải là những khái niệm bất di bất dịch, nó mang tính tương đối và
phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Hai khái niệm này có nội hàm gần
gũi nhưng khơng hồn tồn đồng nhất. Khi nói tới bình đẳng xã hội, người
ta muốn nói tới sự ngang bằng nhau giữa người với người về một phương
diện xã hội nào đấy, chẳng hạn về kinh tế chính trị, văn hố... Trong khi
đó, cơng bằng xã hội chỉ là một dạng của bình đẳng xã hội, đó là sự ngang
bằng nhau trong quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa công - tội và
thưởng - phạt.. theo nguyên tắc cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ ngang
nhau, có cơng được thưởng, có tội phải bị trừng phạt, tội càng nặng mức


phạt càng nặng. Nói cách khác, bình đẳng là ngang bằng nhau về địa vị xã
hội, công bằng là được đối xử ngang bằng nhau, khơng có sự thiên vị
trong phân phối, ttong khen thưởng, xử phạt... Tiến bộ xã hội được hiểu là
sự vận động, biến đổi của xã hội theo chiều hướng đi lên, trở nên tốt hơn

trước. Tiến bộ xã hội có nội dung tồn diện, bao quát trên cả phương diện
vật chất và tinh thần của xã hội, trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội,
văn hố, tư tưởng, khoa học kĩ thuật….
Có thể thấy khi con người chúng ta vi phạm luật như luật giao thơng,
hay luật dân sự thì người ta đều căn cứ từng điều luật mà quyết định xử
phạt nặng nhẹ từng cấp độ. Ví dụ như một người vượt đèn đỏ thì họ vi
phạm luật giao thơng thì họ sẽ bị phạt, chứ khơng thể vì họ là chủ tịch tỉnh
hay là có nhiều hoạt động thiện nguyện giúp đỡ người khó khăn mà bỏ
qua cho người đó. Thấy rằng pháp luật rất cơng bằng, bình đẳng đối với
tất cả mọi người.
Pháp luật của các nhà nước hiện đại có vai trị to lớn trong việc bảo
đảm dân chủ, bình đẳng, cơng bằng và tiến bộ xã hội. Pháp luật quy định
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, đảm bảo cho nhân dân tham gia
quản lí nhà nước và xã hội, thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động
của nhà nước, quy định trách nhiệm của nhà nước trước nhân dân... Pháp
luật chống lại sự phân biệt đối xử dựa trên sự khác biệt về nguồn gốc xuất
thân, chủng tộc, màu da, giới tính, dân tộc, tơn giáo, quan điểm chính trị,
tài sản... Pháp luật thừa nhận quyền bình đẳng trước pháp luật của tất cả
mọi người. Bằng pháp luật, nguyên tắc phân phối theo lao động, theo mức
vốn và các nguồn lực khác góp vào sản xuất kinh doanh, theo mức độ
cống hiến đối với xã hội được bảo đảm. Pháp luật bảo đảm, bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp, chính đáng cho các giai tầng xã hội, nhất là những người
ở vị thế xã hội yếu hơn. Thơng qua pháp luật, người có cơng thì được
thưởng, kẻ có tội phải bị trừng phạt, cơng càng lớn, thưởng càng lớn, tội
càng lớn, phạt càng nặng.


Pháp luật là công cụ quan trọng để ghi nhận và bảo vệ cái mới, tích
cực, tiến bộ, thúc đẩy xã hội phát triển, đảm bảo đời sống vật chất, tinh
thần của con người ngày càng được nâng cao, có điều kiện phát huy tài

năng, phát triển toàn diện, các giá trị con người ngày càng được tôn trọng,
bảo đảm, bảo vệ.
Pháp luật đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội
Bất cứ xã hội nào cũng luôn cần có ổn định để tồn tại và phát triển, hơn
nữa, sự phát triển phải có tính chất liên tục và vững chắc trên tất cả các
mặt, đảm bảo có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không
phương hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Nói
một cách cụ thể, sự phát triển của xã hội phải bao hàm trong đó tăng
trưởng kinh tế luôn gắn liền tiết kiệm tài nguyên và nâng cao chất lượng
môi trường, công bằng xã hội được bảo đảm, truyền thống tốt đẹp của dân
tộc được giữ gìn và phát huy.
Trong điều kiện ngày nay, đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội là
vấn đề rất cấp bách, địi hỏi tồn xã hội phải chung tay thực hiện, trong đó
pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng. Pháp luật đảm bảo an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội, tạo ra những tiền đề quan trọng cho sự phát triển bền
vững của xã hội. Pháp luật tạo ra cơ chế thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh
mẽ, qua đó thúc đẩy sự phát triển toàn diện các lĩnh vực khác của đời sống
xã hội như y tế, giáo dục, văn hoá, xã hội... Pháp luật góp phần ngăn ngừa
những hiện tượng dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội, đồng thời, nó
cũng góp phần quan trọng trong việc khắc phục khủng hoảng, đảm bảo sự
phát triển liên tục, kéo dài của nền kinh tế. Pháp luật quy định các biện
pháp bảo vệ và cải thiện môi trường, khai thác và sử dụng hợp lí, tiết
kiệm, có hiệu quả tài ngun thiên nhiên. Nhờ có pháp luật mà sự phát
triển kinh tế đã được kết hợp chặt chẽ với bảo vệ và cải thiện môi trường,
bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội. Pháp luật góp phần bảo tồn và phát


huy các truyền thống tốt đẹp của dân tộc, giữ gìn các giá trị truyền thống
dân tộc khơng chỉ cho hơm nay mà cịn cho mai sau.
Vai trị giáo dục của pháp luật

Đổ điều chỉnh hành vi con người, pháp luật phải tác động lên ý thức
của họ. Thông qua đó, pháp luật nâng cao nhận thức, định hướng tư tưởng
và làm thay đổi hành vi của các chủ thể trong xã hội.
Trước hết, pháp luật vừa là cơ sở, vừa là động lực, vừa là mục đích của
nhận thức pháp luật. Với tính chất cơng khai của mình, một khi pháp luật
đã được công bố, bắt buộc các thành viên trong xã hội phải nắm bắt được
chúng. Mặt khác, chính yêu cầu của đời sống buộc con người phải có
những trĩ thức nhất định về pháp luật. Đồng thời nhờ tham gia vào đời
sống mà con người dần dần tích lũy được các tri thức pháp luật. Như vậy,
chính hệ thống pháp luật thực định cũng như đời sống pháp lí thực tiễn là
chất liệu cũng như nội dung của tri thức pháp lí. Thơng qua các quy định
trong pháp luật, thông qua việc tham gia vào các quan hệ xã hội mà pháp
luật điều chỉnh, thông qua giao tiếp... mọi người biết được như thế nào là
hợp pháp, như thế nào là trái pháp luật...
Thứ hai, pháp luật giữ vai trò định hướng tư tưởng cho các thành viên
trong xã hội. Pháp luật là cơ sở hình thành ý thức tuân thủ pháp luật, thái
độ tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật, pháp luật thúc đẩy
việc hình thành thói quen suy nghĩ và hành động hợp pháp. Pháp luật giáo
dục ý thức công dân, làm hình thành ở mỗi người ý thức về trách nhiệm,
bổn phận của cá nhân đối với cộng đồng, công dân đối với đất nước.
Thứ ba, pháp luật định hướng hành vi của con người. Thông qua các quy
định trong pháp luật, các chủ thể biết được quyền, nghĩa vụ cũng như
trách nhiệm của mình, từ đó có cơ sở để lựa chọn và thực hiện hành vi
một cách phù hợp. Pháp luật tạo cho mỗi chủ thể khả năng sử dụng
những quyền đã được pháp luật quy định để phục vụ lợi ích của mình,


nhưng đồng thời phải thực hiện nghĩa vụ tương ứng để tơn trọng và bảo
đảm quyền, lợi ích của chủ thể khác. Bằng việc quy định các biện pháp
cưỡng chế, pháp luật tạo ra một “chướng ngại vật” có sức cản trở mạnh

mẽ đối với những hành vi trái pháp luật. Đồng thời, bằng việc quy định
những hình thức khen thưởng, pháp luật khuyến khích các chủ thể tích
cực, chủ động, tự giác thực hiện những hành vi hợp pháp.
III/ KẾT LUẬN
Như vậy có thể khẳng định rằng, trong đời sống xã hội pháp luật có
vai trị đặc biệt quan trọng. Nó là cơng cụ khơng thể thiếu, bảo đảm cho
sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội nói chung và của nền đạo
đức nói riêng. Pháp luật không chỉ là một công cụ quản lý nhà nước hữu
hiệu, mà cịn tạo mơi trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thức đạo
đức, làm lành mạnh hóa đời sống xã hội và góp phần bồi đắp nên những
giá trị mới.
Việc tăng cường vai trò của pháp luật, tạo mơi trường thuận lợi cho sự
hình thành và phát triển ý thức đạo đức đã trở thành một trong những
yêu cầu cấp thiết. Quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng như xã hội dân sự
đòi hỏi phải tích cực hơn nữa trong việc đưa pháp luật vào đời sống, hình
thành và phát triển ý thức pháp luật. Đồng thời, việc xã hội hóa tri thức,
nâng cao dân trí, tạo cơ sở nâng cao đạo đức lên trình độ duy lý pháp lý
và khoa học, chuyển thói quen điều chỉnh xã hội theo “lệ”, chủ yếu là sự
cảm thông sang điều chỉnh xã hội bằng pháp luật trên ngun tắc cơng
bằng và bình đẳng xã hội là điều hết sức cần thiết. Trong quan niệm về
chuẩn giá trị và đánh giá đạo đức, tính khách quan, khoa học phải thay
cho sự tùy tiện vốn dựa trên cơ sở kinh nghiệm, duy cảm, duy tình. Sự
điều chỉnh xã hội bằng pháp luật (với nguyên tắc tất cả mọi người đều
bình đẳng trước pháp luật) làm cho mọi thành viên trong xã hội có thể tự
do phát huy khả năng sáng tạo của mình trong mơi trường lành mạnh mơi trường vận hành có trật tự, nền nếp, kỷ cương của một xã hội năng


động, phát triển và văn minh. Đó cũng chính là nhu cầu tình cảm, là
trách nhiệm và yêu cầu đạo đức đối với mỗi công dân trong giai đoạn

mới. Việt Nam đang, đã và sẽ khơng ngừng cải cách, hồn thiện , đổi
mới hệ thống pháp luật để pháp luật có thể phát huy tối đa vai trị của nó
giúp nhà nước thực hiện tốt chức năng của mình. Là một người dân Việt
Nam chúng ta hãy thực hiện tốt quy định pháp luật,qua đó giúp pháp luật
phát huy được tối đa vai trị của nó đối với nhà nước, góp xây dựng nhà
nước Việt Nam phát triển vững mạnh.



×