Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Vấn đề xâm phạm quyền tác giả trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4 0 tại Việt Nam. hực trạng và những giải pháp kiến nghị hoàn thiện Pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.32 KB, 29 trang )

“Vấn đề xâm phạm quyền tác giả trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 tại
Việt Nam – thực trạng và những giải pháp kiến nghị hoàn thiện thể chế chính
sách pháp luật”
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN


MỤC LỤC
“Vấn đề xâm phạm quyền tác giả trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
tại Việt Nam – thực trạng và những giải pháp kiến nghị hoàn thiện thể chế
chính sách pháp luật”..............................................................................................1
MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................2
Chương 1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA QUYỀN TÁC GIẢ...................2
1.1. Khái niệm quyền tác giả...............................................................................................................2
1.2. Đặc điểm của quyền tác giả..........................................................................................................3

a. Đối tượng của quyền tác giả ln mang tính sáng tạo, được bảo hộ không phụ thuộc vào giả trị nội dung và
giả trị nghệ thuật.............................................................................................................................................. 3
b. Quyền tác giả thiên về việc bảo hộ hình thức thể hiện tác phẩm...................................................................4
e. Hình thức xác lập quyền theo cơ chế bảo hộ tự động.................................................................................... 4
d. Quyền tác giả không được bảo hộ một cách tuyệt đối................................................................................... 5

1.3. Ý nghĩa của việc bảo hộ quyền tác giả...........................................................................................6

Chương 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI
XÂM PHẠM QUYỀN TÁC GIẢ THEO PHÁP LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ
VIỆT NAM...............................................................................................................7
2.1. Căn cứ xác định hành vi xâm phạm quyền tác giả.........................................................................7
2.2. Hành vi xâm phạm quyền nhân thân..........................................................................................11

Chương 3. THỰC TIỄN XÂM PHẠM QUYỀN TÁC GIẢ Ở VIỆT NAM VÀ


KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN THỂ CHẾ, CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT...........19
3.1. Thực tiễn xâm phạm quyền tác giả trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 tại Việt Nam......19
3.1.1. Tình hình xâm phạm quyền tác giả........................................................................................................ 19
3.1.2. Một số hành vi xâm phạm quyền tác giả cụ thể..................................................................................... 19

3.2. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng xâm phạm quyền tác giả.........................................................23
3.3. Những giải pháp kiến nghị hoàn thiện thể chế chính sách pháp luật nhằm khắc phục tình trạng
xâm phạm quyền tác giả...................................................................................................................24

KẾT LUẬN.............................................................................................................26
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................27


MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh tồn cầu hóa là mục tiêu phấn đấu của Việt Nam, việc quan
tâm đến vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả nói riêng là
điều cấp thiết. Bên cạnh việc tiếp thu, học hỏi các tinh hoa văn hóa, công nghệ từ
các quốc gia trên thế giới, chúng ta cũng cần tôn trọng và đảm bảo quyền sở hữu trí
tuệ của các chủ thể có quyền. Trong đó, quyền tác giả là một trong những đối tượng
dễ bị xâm phạm khi công cuộc cách mạng thông tin điện tử phát triển ngày càng
nhanh chóng ở Việt Nam.
Đặc biệt hơn, trong môi trường giảo dục đại học, vấn đề bảo vệ quyền tác giả
đang nhận được sự quan tâm mạnh mẽ hơn, chẳng hạn như Trường Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh đã cố gắng ra sức để bảo vệ các tài sản trí tuệ của nhà
trường hay Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh cũng ban hành quy định về
sở hữu trí tuệ trong nhà trường… bởi đây là nơi hình thành rất nhiều các tác phẩm
chứa đựng sự sáng tạo cũng như là môi trường cần thiết tiếp cận các tài sản trí tuệ
ấy. Chính vì vậy, yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải có sự quản lý hiệu quả cũng như
những biện pháp cụ thể cho mỗi trường đại học trong việc tạo lập hành lang quy
chế tác động vào nhận thức của mỗi người, nhất là giảng viên và sinh viên để đảm

bảo việc bảo hộ quyền tác giả được tốt nhất. Điều này cũng góp phần tích cực trong
cơng cuộc bảo vệ tài sản trí tuệ nói chung tại các cơ sở giảo dục đại học nói riêng
và quyền tác giả đối với tác phẩm tại Việt Nam nói chung.
Đó cũng là lý do em lựa chọn đề tài: “Vấn đề xâm phạm quyền tác giả
trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 tại Việt Nam – thực trạng và những
giải pháp kiến nghị hồn thiện thể chế chính sách pháp luật” để làm bài tập của
mình.

1


NỘI DUNG
Chương 1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA QUYỀN TÁC GIẢ
1.1. Khái niệm quyền tác giả
Điều 19, Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2019 quy định quyền tác giả bao
gồm quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm. Căn cứ vào những quy
định của pháp luật về quyền tác giả thì quyền tác giả được hiểu theo hai phương
diện:
Phương diện khách quan: Quyền tác giả là tổng hợp các quy phạm pháp luật
về quyền tác giả nhằm xác nhận và bảo vệ quyền của tác giả, của chủ sở hữu quyền
tác giải, xác định các nghĩa vụ của các chủ thể trong việc sáng tạo và sử dụng các
nghĩa vụ của các chủ thể trong việc sáng tạo và sử dụng các tác phẩm văn học,
nghệ thuật, khoa học. Quy định trình tự thực hiện và bảo vệ các quyền đó khi có
hành vi xâm phạm.
Phương diện chủ quan: Quyền tác giả là quyền dân sự cụ thể (quyền tài sản
và quyền nhân thân) của các chủ thể với tư cách là tác giả hoặc chủ sở hữu quyền
tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, cơng trình khoa học và quyền khởi
kiện hay khơng khởi kiện khi quyền của mình bị xâm phạm.
Quyền tác giả còn được hiểu là quan hệ pháp luật dân sự. Đó là quan hệ xã
hội giữa tác giả, giữa chủ sở hữu quyền tác giả với các chủ thể khác trong xã hội

thông qua tác phẩm, dưới sự tác động của quy phạm pháp luật, quan hệ giữa các tác
giả, chủ sở hữu quyền tác giả với các chủ thể khác được xác định. Tác phẩm văn
học, nghệ thuật, khoa học được sáng tạo ra và được thể hiện dưới hình thức khách
quan và được các quy phạm pháp luật điều chỉnh, theo đó quan hệ về quyền tác giả
được xác lập. Quan hệ pháp luật quyền về tác giả là quan hệ pháp luật dân sự tuyệt
đối với các chủ thể của quyền được xác định và các chủ thể khác còn lại trong xã
hội có nghĩa vụ tơn trọng quyền đó của các chủ thể mang quyền được xác định bao
gồm ba yếu tố, đó là:

2


+ Chủ thể của quyền tác giả là tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả có những
quyền nhất định đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học khi đã được thể
hiện dưới hình thức vật chất nhất định.
+ Khách thể của quyền tác giả là các tác phẩm văn học, nghệ thuật, cơng
trình khoa học do tác giả sáng tạo ra bằng lao động trí tuệ.
+ Nội dung quyền tác giả là tổng hợp các quyền nhân thân và quyền tác giả
của các chủ thể trong quan hệ pháp luật về quyền tác giả. Các quyền này phát sinh
từ tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học kĩ thuật được pháp luật ghi nhận và bảo
hộ.
1.2. Đặc điểm của quyền tác giả
Ngoài các đặc điểm chung của quyền sở hữu trí tuệ là tính vơ hình của các
đối tượng; các đối tượng này chỉ được bảo hộ trong thời hạn nhất định.
Quyền sở hữu trí tuệ khơng những được bảo hộ ở tại nước có cơng dân sáng
tạo ra sản phẩm trí tuệ đó mà cịn được bảo hộ ở các nước thành viên của các điều
ước quốc tế về sở hữu trí tuệ; các thành quả của lao động trí tuệ đều có tác dụng
nâng cao trình độ hiểu biết và quyền tác giả cịn có những đặc điểm riêng sau:
a.


Đối tượng của quyền tác giả ln mang tính sáng tạo, được bảo hộ khơng
phụ thuộc vào giả trị nội dung và giả trị nghệ thuật
Đối tượng của quyền tác giả là các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học.

Tác phẩm là thành quả lao động sáng tạo của tác giả được thể hiện dưới hình thức
nhất định. Mọi cá nhân đều có quyền sáng tạo văn học, nghệ thuật, khoa học và khi
cá nhân tạo ra tác phẩm trí tuệ, khơng phụ thuộc vào giả trị nội dung và nghệ thuật
đều có quyền tác giả đối với tác phẩm. Pháp luật về quyền tác giả khơng bảo hộ
hình thức thể hiện dưới dạng nào đó mà khơng phán ánh hay khơng chứa đựng nội
dung nhất định. Tác phẩm phải do tác giả trực tiếp thực hiện bằng lao động trí tuệ
của mình mà không phải sao chép từ tác phẩm của người khác. Mặt khác, quyền tác
giả cũng được bảo hộ theo nguyên tắc chung của luật dân sự. Những nội dung thể
hiện trong tác phẩm đi ngược lại lợi ích dân tộc, bôi nhọ vĩ nhân, xúc phạm danh
3


dự, nhân phẩm của người khác, có nội dung trái pháp luật, đạo đức xã hội... sẽ
không được bảo hộ. Bản thân sản phẩm của lao động trí tuệ mang tính tích lũy khá
cao, nó khơng bị hao mịn, khơng cạn kiệt như khi sử dụng tài sản hữu hình. Tác
phẩm sẽ được nhiều người biết đến, sử dụng nếu có nội dung phong phú và hình
thức thể hiện sáng tạo được kết hợp bởi giả trị nghệ thuật, khoa học và kinh nghiệm
nghề nghiệp của tác giả. Đây là đặc trưng dễ nhận biết nhất của quyền tác giả.
b.

Quyền tác giả thiên về việc bảo hộ hình thức thể hiện tác phẩm
Pháp luật về quyển tác giả chi bảo hộ hình thức chứa đựng tác phẩm khi nó

được tạo ra và thể hiện dưới hình thức nhất định mà không bảo hộ nội dung sáng
tạo tác phẩm.
Quyền tác giả đối với tác phẩm chỉ được giới hạn trong phạm vi thể hiện cụ

thể của tác phẩm mà không bao gồm ý tưởng của tác giả thể hiện trong tác phẩm
bởi vì khơng một ai có thể biết được một vấn để đang nằm trong suy nghĩ của
người khác. Những ý tưởng, kể cả cách sắp xếp, trình bày đã “có” trong suy nghĩ
của tác giả nhưng chưa được thể hiện ra bên ngồi bằng hình thức nhất định thì
khơng có căn cử để cơng nhận và bảo hộ những điều chưa được bộc lộ ra bên ngồi
đó. Sự sáng tạo của tác giả không chỉ đem lại cho tác giả quyền tác giả đối với tác
phẩm mà còn nhằm chống lại sự sao chép nó hoặc lấy và sử dụng hình thức trong
tác phẩm gốc đã được thể hiện.
Pháp luật về quyền tác giả không quy định điều kiện về nội dung đối với tác
phẩm được bảo hộ, trong khi đó quyền sở hữu cơng nghiệp bảo hộ nội dung của đối
tượng. Đối tượng sở hữu công nghiệp phải đáp ứng được các điều kiện nhất định.
Điều này lí giải nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học có cùng nội dung
nhưng có sự sáng tạo trong hình thức thể hiện đều được pháp luật bảo vệ.
e.

Hình thức xác lập quyền theo cơ chế bảo hộ tự động
Quyền tác giả được xác lập dựa vào chính hành vi tạo ra tác phẩm của tác

giả, không phụ thuộc vào thể thức, thủ tục nào. Nhưng đối với quyền sở hữu công
nghiệp, được xác lập dựa trên quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
4


thông qua việc xét và cấp văn bằng bảo hộ cho chủ sở hữu các đối tượng đó (trử
các đối tượng sở hữu công nghiệp được xác lập một cách tự động).
Từ thời điểm tạo ra tác phẩm, tác giả được bảo hộ về mặt pháp lí và có các
quyền của người sáng tạo mà không phụ thuộc vào thể thức, thủ tục đăng kí nào.
Quyền tác giả phát sinh một cách mặc nhiên và nó được thiết lập từ thời điểm tác
phẩm đó được thể hiện dưới hình thức khách quan mà người khác có thể nhận biết
được. Luật bảo hộ quyền tác giả của các nước đều quy định về việc bảo hộ tự động

(bảo hộ không phụ thuộc vào thu tục đăng kí). Như vậy, pháp luật về quyền tác già
không quy định bắt buộc đối với các tác gia nghĩa vụ đăng kí và nộp dơn yêu cầu
bảo ho quyển tác gia, bởi quyền này là một loại quyền “tuyên nhận”, quyền tự động
phát sinh khi ý tưởng của tác giả đã được thể hiện dưới hình thức nhất định - tác
phẩm. Việc đăng ký quyền tác giả không phải là căn cứ làm phát sinh quyền tác giả,
mà chỉ có giả trị là chứng cứ chứng minh của đương sự khi có tranh chấp về quyền
tác giả và một bên khởi kiện tại toà án nhân dân hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có
thẩm quyền giải quyết.
d.

Quyền tác giả không được bảo hộ một cách tuyệt đối
Đối với các tác phẩm đã được công bố, phổ biến và tác phẩm không bị cấm

sao chụp thì cá nhân, tổ chức được phép sử dụng tác phẩm của người khác nếu việc
sử dụng đó khơng nhằm mục đích kinh doanh, khơng làm ảnh hưởng đến việc sử
dụng, khai thác bình thường của tác phẩm, khơng xâm hại đến các quyền, lợi ích
hợp pháp khác của tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả, chẳng hạn như việc sử dụng
tác phẩm nhằm mục đích tuyên truyền, cổ động; phục vụ cho chính sách kinh tế,
văn hóa, chính trị cho người dân ở vùng sâu, vùng xa; cá nhân đọc truyện, nghe
nhạc, xem phim để thưởng thức nghệ thuật, âm nhạc, hiểu biết khoa học, cuộc sống
v...v... thì khơng bị coi là hành vi xâm phạm quyền của tác giả và của chủ sở hữu
quyển tác giả.

5


1.3. Ý nghĩa của việc bảo hộ quyền tác giả
Để tạo điều kiện cho công dân phát huy được tài năng trong việc sáng tạo
những tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học có giả trị, Bộ luật dân sự và Luật sở
hữu trí tuệ đều có những quy định nhằm giải phóng mọi năng lực sáng tạo trí tuệ

của mọi cá nhân. Các quyền nhân thân và các quyền tài sản của tác giả, của chủ thể
quyền liên quan và của chủ sở hữu quyền tác giả ở Việt Nam được pháp luật bảo
đảm thực hiện.
Luật sở hữu trí tuệ và Bộ luật dân sự quy định về quyền tác giả, quyền liên
quan là cơ sở pháp li bảo vệ quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả, chủ sở
hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan. Tạo điều kiện cho tác giả, chủ thể
quyền liên quan có ý thức và trách nhiệm sáng tạo ra các tác phẩm văn học, nghệ
thuật, cơng trình khoa học có chất lượng về nội dung và nghệ thuật cao phục vụ cho
sự nghiệp giảo dục và phát triển khoa học, cơng nghệ của đất nước trong thời kì đổi
mới. Những quy định của Luật sở hữu trí tuệ, Bộ luật dân sự về quyền tác giả,
quyền liên quan là môi trường pháp lý để cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động
trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học, bảo đảm quyền bình đẳng của cá
nhân, tổ chức và loại trừ những hoạt động văn hố khơng lành mạnh làm tổn hại
đến lợi ích văn hố, truyền thống của dân tộc. Những quy định của pháp luật thực
định về quyền tác giả, quyền liên quan đã tạo ra những cơ hội cho mỗi cá nhân thực
sự có tài năng phát huy được năng khiếu của mình, để cống hiến cho dân tộc, cho
nhân loại những tác phẩm đậm nét nhân văn phục vụ mục tiêu bình đẳng, bác ái và
hợp tác vì sự phát triển chung của nhân loại trong thời kỳ khoa học, công nghệ trên
thế giới phát triển không ngừng.

6


Chương 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI
XÂM PHẠM QUYỀN TÁC GIẢ THEO PHÁP LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ
VIỆT NAM
2.1. Căn cứ xác định hành vi xâm phạm quyền tác giả
Quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả, chủ sở
hữu quyền tác giả quy định tại Điều 19 và Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005
sửa đổi, bổ sung năm 2009 và năm 2019. Bảo hộ quyền SHTT nói chung và quyền

tác giả nói riêng khơng chỉ tôn vinh, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tác giả, chủ sở
hữu mà cịn đóng vai trị quan trọng trong sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội.
Tuy nhiên, tại Việt Nam, hành vi xâm phạm quyền tác giả vẫn đang diễn ra phổ
biến và phức tạp. Đây là những hành vi thông thường dưới dạng hành động, làm
ảnh hưởng đến sự toàn vẹn tác phẩm, xâm phạm những giả trị nhân thân, uy tín,
danh tiếng của tác giả hoặc khai thác, sử dụng tác phẩm bất hợp pháp. Từ bản chất
quyền nhân thân và quyền tài sản, các hành vi xâm phạm các quyền này trên thực tế
rất đa dạng và chủ thể bị xâm phạm cũng khác nhau, nhất là khi chủ sở hữu không
đồng thời là tác giả. Luật SHTT và các văn bản hướng dẫn thi hành như: Nghị định
của Chính phủ số 100/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2006 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật đân sự. Luật SHTT về quyền tác giả,
quyền liên quan (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 85/2011/NĐ-CP ngày
209/2011): Nghị định của Chính phủ số 105/2006/NĐ-CP ngày 229/2006 quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật SHTT về bảo vệ quyền SHTT
và quản lí nhà nước về SHTT (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số
119/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010): Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLTTANDTC-VKSNDTC-BVHTT&DL-BKH&CN-BTP ngày 03/4/2008 hướng dẫn
áp dụng một số quy định của pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp về
quyền SHTT tại toà án nhân dân (sau đây gọi tắt là Thông tư liên tịch số 02) đã ghi
nhận các cơ sở pháp lí để xác định hành vi trái pháp luật xâm phạm quyền tác giả.
Gần đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 23/02/2018
7


quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật SHTT năm 2005 và Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT năm 2009 về quyền tác giả, quyền
liên quan để thay thế Nghị định số 100/2006/NĐ-CP. Các quy định của pháp luật về
cơ bản đã tạo hành lang pháp lí để giải quyết một số bất cập về lĩnh vực này.
Hành vi trái pháp luật là hành vi thực hiện không đúng quy định của pháp
luật như không làm việc mà pháp luật yêu cầu, làm việc mà pháp luật cấm hoặc tiến
hành hoạt động vượt quá giới hạn, phạm vi cho phép của pháp luật 1. Chủ sở hữu

được độc quyền sử dụng và khai thác tài sản trí tuệ cũng như chuyển giao tài sản
này cho chủ thể khác để thu lợi hợp pháp trong thời hạn bảo hộ tác phẩm đó 2. Bản
chất của hành vi xâm phạm là sự khai thác bất hợp pháp, tức là sử dụng tài sản của
người khác (ở đây là nhữmg quyền thuộc độc quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền
tác giả)3 mà không được phép, không tôn trọng quyền của chủ sở hữu. Đây là
nguyên tắc được sử dụng trong Luật quyền tác giả Hoa Kỳ 4. Bằng việc quy định
các độc quyền và ngoại lệ của độc quyền (như học thuyết sử dụng hợp lí) 5, văn bản
này xác định, nếu chủ thể khai thác các độc quyền không phải là chủ sở hữu quyền
tác giả hoặc không được chủ sở hữu cho phép. người này đã xâm phạm quyển tác
giả.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, hành vi bị xem xét bị coi là xâm
phạm quyền tác giả khi có đủ các căn cứ sau (Điều 5 Nghị định số 105/2006/NĐCP):
Thứ nhất, đối tượng bị xem xét thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo
hộ quyền tác giả. Đối tượng bị xem xét phải là những loại hình tác phẩm được bảo
hộ theo quy định tại Điều 14 Luật SHTT. Điểm đặc biệt của quyền SHTT so với
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giảo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb. Công an nhân
đân, Hà Nội, 2013, tr. 206
2
Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2019
3
Nguyễn Bình và Nguyễn Thị Chính, Bình luận về quyền tác giả theo pháp luật Việt Nam, Nxb.
Tư pháp. Hà Nội 2005, tr. 104
4
Luật quyền tác giả Hợp chúng quốc Hoa Kỳ (UNITED STATES CODE TITLE 17). dược sửa
đối, bổ sung ngày 13/12/2003. htp:lwww.wipo.int/ wipole entest jpfie_id-130040, truy cập ngày
10/1/2022
5
“Fair use”, trong vụ việc Folsom v. Marsh, 9. F.Cas 342, No. 4,901 (CCD. Mass. 1841)
1


8


những tài sản hữu hình là việc bảo hộ khơng phải là đương nhiên và cũng không
kéo đài vĩnh viễn. Các đối tượng này phải đáp ứng các điều kiện về căn cứ xác lập
quyền theo quy định pháp luật. Khoản 1 Điều 6 Luật SHTT quy định cụ thể:
“Quyền tác giả phát sinh kế từ khi tác phẩm được sáng tạo ra và thể hiện dưới hình
thức vật chất nhất định, khơng phụ thuộc vào thủ tục đăng kí hay cơng bố”. Bên
cạnh đó, bảo hộ quyền SHTT là bảo hộ có thời hạn. Quy định thời hạn bảo hộ nhằm
bảo vệ lợi ích cá nhân và lợi ích cơng cộng 6, khuyến khích thúc đẩy hoạt động sáng
tạo. Hầu hết các quyền nhân thân thuộc quyền tác già được bảo hộ vô thời hạn, trừ
quyền công bố tác phẩm quy định tại khoản 3 Điều 19 được bảo hộ giới hạn theo
thời hạn bảo hộ tương ứng của quyền tài sản tại Điều 20 căn cứ vào loại hình tác
phẩm theo quy định tại Điều 27 Luật SHTT. Ngồi ra, nội dung tác phẩm được bảo
hộ khơng vi phạm điều cấm của pháp luật hay trái đạo đức xã hội (Điều 8 Luật
SHTT).
Thứ hai, có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét. Nghị định số
105/2006/NĐ- CP định nghĩa “yếu tố” là “sản phẩm, quy trình hoặc là một phần, bộ
phận cấu thành sản phẩm hoặc quy trình” và “yếu tố xâm phạm" là “yếu tố được
tạo ra từ hành vi xâm phạm”, Những yếu tố xâm phạm phổ biến trong hành vi xâm
phạm quyền tác giả là việc sửa chữa, cắt xén tác phẩm làm ảnh hưởng đến tính
nguyên gốc, sao chép tác phẩm bất hợp pháp hay sử dụng tác phẩm mà không xin
phép cũng như không trả tiền cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.
Thứ ba, chủ thể thực hiện hành vi bị xem xét không phải là chủ thể quyền
SHTT và không phải là người được pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền cho
phép theo các trường hợp sử dụng hạn chế theo Điều 25, Điều 26 Luật SHTT (các
trường hợp sử dụng tác phẩm không phải xin phép, không phải trả tiền hoặc không
phải xin phép nhưng phải trả tiền). Theo nguyên tắc độc quyền, khi một đối tượng
được bảo hộ thì chỉ chủ sở hữu quyền được phép sử dụng hoặc cho phép người
khác khai thác, sử dụng đối tượng SHTT (trừ một số trường hợp nhất định). Do đó,

Jeanne C. Fromert, Claiming Intellectual Property", The University of Chicago Law Review,
Number 76, 2009, p. 730.
6

9


nếu không phải là chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu chuyển giao quyền hoặc
người được hưởng quyền theo phương thức hợp pháp thì việc thực hiện những
hành vi khai thác, sử dụng đối tượng SHTT sẽ là hành vi xâm phạm quyền SHTT7.
Thứ tư, hành vi bị xem xét xảy ra tại Việt Nam. Sự phát triển thương mại
hàng hoá, dịch vụ làm cho việc mua bán, kinh doanh sản phẩm không chi giới hạn
trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Hơn nữa, các tác phẩm là đối tượng quyền tác giả
không chi giới hạn phạm vi sử dụng trong quốc gia đó, mà cịn mở rộng ra nhiều
nơi trên thế giới nhằm góp phần nâng cao trình độ phát triển khoa học cơng nghệ
của nhân loại. Do đó, nếu chỉ giới hạn hành vi bị xem xét trên lãnh thổ Việt Nam là
chưa hợp lí. Trên thực tế, toà án Việt Nam đã giải quyết các tranh chấp về hành vi
xâm phạm diễn ra tại quốc gia khác8. Đặc biệt, hiện nay môi trường kĩ thuật số và
mạng internet đang là kênh truyền tải rất tốt các tác phẩm, mang tác phẩm đến gần
hơn với công chúng đồng thời cũng là kênh tạo ra nguy cơ xâm phạm quyền tác giả
cao. Như vậy, liệu rằng việc giới hạn hành vi xem xét xảy ra tại Việt Nam có cịn
phù hợp khơng và khái niệm “tại Việt Nam” phải được hiểu như thế nào, chẳng hạn
khi xem xét trên môi trường kĩ thuật số? Trên môi trường Internet, việc sao chép và
lưu trữ tác phẩm được tiến hành một cách dễ dàng, nhanh chóng với số lượng rất
lớn các bản sao nhưmg chi phí rất thấp và chất lượng tốt. Việc sao chụp truyền
thống thường cho chất lượng không thực sự tốt, đặc biệt nếu sao chụp tác phẩm từ
các bản sao. Nhưng trên môi trường internet, có thể sao nhiều lần từ bản sao mà
chất lượng đảm bảo như bản gốc9. Điều này làm cho vấn đề bảo vệ quyền tác giả
trên các mạng điện tử trở nên phức tạp hơn.
Trên cơ sở các căn cứ trên, có thể kết luận một hành vi bị xem là xâm phạm

quyền tác giả của người khác khi xâm phạm đến các lợi ích mà pháp luật bảo hộ
Lê Thị Nam Giang, “Nguyên tắc cân bằng lợi ích của chủ sở hữu trí tuệ và lợi ích xã hội”, Tạp
chí khoa học pháp lí, số 22009, tr. 16
8
Bản án số 173/2010/KDTM-PT ngày 28/9/2010 của Toà án nhân dân tỉnh Tiền Giang.
9
Lê Thị Nam Giang, Những thách thức về mặt pháp lí trong việc bảo hộ quyền tác giả trong môi
trường Internet, K yếu Hội thảo: Bảo vệ quyển tác giả trong môi trường kỹ thuật số tại Việt Nam,
Tnường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, 2015, tr. 10.
7

10


bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. Có nhiều cách tiếp cận phân loại hành
vi xâm phạm quyền tác giả khác nhau. Tác giả Trần Văn Nam phân chia hành vi
xâm phạm dựa trên loại chủ thể, bao gồm trường hợp các tác giả xâm phạm quyền
của nhau và trường hợp các bên khai thác, sử dụng tác phẩm xâm phạm bản quyền
của nhau10. Cách phân loại này nêu lên bản chất hành vi xâm phạm thông qua việc
xác định lợi ích mà các bên hướng đến. Cách phân loại thứ hai theo tác giả Nguyễn
Hồ Bích Hằng11 dựa trên nội dung quyền bị xâm phạm, phân chia thành: hành vi
xâm phạm quyền nhân thân, hành vi xâm phạm quyền tài sản và hành vi vừa xâm
phạm quyền nhân thân và vừa xâm phạm quyền tài sản. Dưới đây, em phân tích
một số hành vi xâm phạm quyền nhân thân và quyền tài sản phổ biến và điển hình
trên thực tế mà trong các tranh chấp về quyền tác giả hiện nay gặp phải nhiều vấn
đề bất cập.
2.2. Hành vi xâm phạm quyền nhân thân
Quyền nhân thân là quyền gắn với mỗi cá nhân, cụ thể là tác giả - người sáng
tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm. Có tác giả gọi đây là “các quyền tinh thần”
để nhấn mạnh các yếu tố về mặt tinh thần thay vì các quyền về kinh tế (tài sản) 12.

Các quyền nhân thân thuộc quyền tác giả được quy định tại Điều 19 Luật SHTT,
bao gồm bốn nhóm quyền: 1) Đặt tên cho tác phẩm: tác giả của tác phẩm văn học,
nghệ thuật, khoa học có quyền đặt tên cho tác phẩm của mình. Tác giả tuỳ ý lựa
chọn tên gọi cho tác phẩm mà tác giả đã sáng tạo: “Tên” theo nghĩa đen, nghĩa
bóng và có thể là “vơ đề”, tuỳ thuộc vào ý chí của tác giả 13; 2) Đứng tên thật hoặc
bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công
bố, sử dụng: 3) Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm:
Trần Văn Nam, Quyền tác giả ở Việt Nam - Pháp lmật và thực thi. Nxb. Tư pháp. Hà Nội, 2014,
tr. 206.
11
Nguyễn Hồ Bích Hằng (chủ biên), Sách tình huống Luật SHTT Việt Nam, Nxh. Hồng Đúc, Hà
Nội, 2016, r. 129
12
Lê Hồng Hạnh và Đinh Thị Mai Phương (chủ biên), Bảo hộ quyển SHTT ở Việt Nam, những
vấn để lý luận và thực tiễn, nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 36.
13
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giảo trình luậr dân sự Việt Nam - Tập 2, Nxh. Công an nhân dân,
Hà Nội, 2008, tr. 376
10

11


phất hành tác phẩm đến công chúng với số lượng bản sao đủ để đáp ứng nhu cầu
hợp lí của công chúng tuỷ theo bản chất của tác phẩm, do tác giả, chủ sở hữu quyền
tác giả thực hiện hoặc do cá nhân, tổ chức khác thực hiện với sự đồng ý của tác giả,
chủ sở hữu quyền tác giả; 4) Bảo vệ sự tồn vẹn của tác phẩm, khơng cho người
khác sửa chữa, cát xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kì hình thức nào gây
phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả. Tương tự, Điều 6Bis Công ước Berne
về bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật cũng quy định quyền nhân thân cho phép

tác giả được yêu cầu thừa nhận mình là tác giả của tác phẩm, phản đối bất kỳ sự
xuyên tạc, cắt xén hay sửa đổi nào làm phương hại đến danh tiếng của tác giả.
Một trong những hành vi xâm phạm quyền nhân thân thường gặp là trường
hợp quy định tại khoản 5 Điều 28 Luật SHTT: sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác
phẩm dưới bất kì hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
Đây là hành vi xâm phạm quyền nhân thân không gắn với tài sản. Tác phẩm là sản
phẩm sáng tạo tinh thần của tác giả và không dễ dàng có được. Một số chủ thể bằng
hành vi bất hợp pháp đã lợi đụng tác phẩm của người khác để sửa chữa, cắt xén với
mục đích khơng tốt, gây phương hại đến tác giả. Mặc dù đã có quy định cụ thể của
Luật SHTT và các văn bản hướng dẫn nhưng hành vi này vẫn diễn ra trên thực tế
xuất phát từ khâu thực thi và bảo vệ quyền SHTT chưa hiệu quả. Bên cạnh đó, tốc
độ phát triển của mạng Internet với khả năng lan truyền cao khiến cho lượng hành
vi xâm phạm nàyngày càng nhiều và rơi vào tình trạng khơng thể kiểm sốt. Bên
cạnh đó, trong điều luật có nhắc đến yêu cầu về phạm vi “gây phương hại đến danh
dự và uy tín của tác giả”, nội dung này cần được bàn thêm. Quyền tác giả là đối
tượng được bảo hộ hình thức, do vậy bắt kì hành vi sửa chữa, cắt xén tác phẩm đều
làm ảnh hưởng tới ý tưởng ban đầu của tác giả và tính nguyên gốc của tác phẩm, do
vậy đều là hành vi xâm phạm. Liệu rằng quy định thêm yếu tố gây phương hại đến
danh dự, uy tín tác giả là có cần thiết hay khơng? Nếu đã ghi nhận thì tác giả phải
chứng minh sự cắt xén đó gây phương hại thực tế đến quyền của mình. Nghị định
số 22/2018/NĐ-CP vừa ra đời quy định chi tiết về quyền tác giả, quyền liên quan
12


đã hướng đẫn: Quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa
chữa, cắt xén tác phẩm quy định tại khoản 4 Điều 19 của Luật SHTT là việc không
cho người khác sửa chữa, cắt xén tác phẩm hoặc sửa chữa, nâng cấp chương trình
máy tính, trừ trường hợp có thoả thuận của tác giả, mà khơng nói đến u cầu “gây
phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả”. Có thể coi đây là hướng sửa đổi,
giải thích khá phù hợp (khoản 3 Điều 20 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP). Tương tự

quy định này, Điều 106A Luật quyền tác giả Hoa Kỳ cũng quy định về quyển tuyên
bố và bảo vệ sự toàn vẹn, trong đó tác giả có quyền khẳng định quyền tác giả đối
với tác phẩm, ngăn cản mọi sự bóp méo, cắt xén hay những cải biên cố ý. Công
ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật cũng có các quy định tương tự
tại khoản 1 Điều 6Bis. Theo đó, độc lập với quyền kinh tế của tác giả và cả sau khi
quyền này đã được chuyển nhượng tác giả vẫn giữ ngun quyền được địi thừa
nhận mình là tác giả của tác phẩm và phân đối bất kà sự xuyên tạc, cắt xén hay sửa
đổi hoặc những hành vi xâm phạm khác đối với tác phẩm có thể làm phương hại
đến danh dự và tiếng tăm tác giả
Liên quan đến vấn đề này, điểm a khoản 1 Điều 20 có quy định một trong
những quyền tài sản là quyền làm tác phẩm phái sinh. Trong một vụ việc, ông
Nguyễn Kim Ánh là tác giả kịch bản phim truyện “Hôn nhân không giả thứ” được
Cục bản quyền tác giả cấp Giấy chứng nhận bản quyền. Ơng đã kí hợp đồng kinh tế
với Hãng phim truyện I để đưa kịch bản nêu trên vào sản xuất phim nhựa. Sau đó,
ơng Ánh phát hiện nội dung phim hồn tồn khác với kịch bản của ơng. Ơng khởi
kiện u cầu Hãng phim truyện I không được phép phát hành bộ phim “Hơn nhân
khơng giả thú”. Giải quyết vụ việc trên, Tồ án nhận định: “Khi làm phim, Hãng
phim truyện I có sửu chữa, bổ sung kịch bản nhưng không đến mức thay đổi hoàn
toàn chủ đề, nội dung như đánh giả của ơng Ánh. Do đó, Hãng phim truyện 1
khơng vượt quá quyển quy định tại Điều 4 của hợp đồng và tuyên bố bác các yêu
cầu của ông Ánh”14.
Quyết định giảm đốc thẩm số 123/GĐT-Ds ngày 26/6/2002 Toà đân sự Toà án nhân dân tối cao.
Vụ án: Kiện về quyền tác giả kịch bản phim “Hôn nhân không giả thú” (Bản án dân sự sơ thẩm
14

13


Khi tiến hành tạo ra tác phẩm phái sinh, mà cụ thể là chuyển thể tác phẩm
gốc, rắt có thể người chuyển thể phải sửa đổi tác phẩm ở mức độ nào đó nhằm phù

hợp với hình thức mới. Ranh giới “sửa đổi phù hợp” và “xâm phạm quyền tác giả”
đôi khi rất mong manh. Để phân định vấn đề này, có thể dựa vào những thay đổi
được coi là “thơng lệ”: nhà xuất bản sửa lỗi chính tả, chấm câu; chuyển “tông” bài
hát cho phù hợp với ca sĩ; tác giả kịch bản làm phim có thể phải chấp nhận những
sửa đổi để phù hợp với ngân sách làm phim, để phim có thể được kiểm đuyệt hoặc
những sửa đổi rút gọn để đám bảo thời lượng bộ phim 15... Những sự thay đổi làm
ảnh hưởng đến ý nghĩa, khuynh hướng hay làm lu mờ các yếu tố mang dấu ấn cá
nhân mà không được sự đồng của tác giả mới dẫn đến hành vi xâm phạm.
2.3.

Hành vi xâm phạm quyền tài sản
Quyền tài sản là cơ sở quan trọng để khai thác các giả trị vật chất của tác

phẩm được bảo hộ. Về mặt nguyên tắc, khi một đối tượng quyền SHTT được bảo
hộ một cách hợp pháp, chủ sở hữu có quyền ngăn cản những chủ thể khác sử dụng
đối tuợng quyền SHTT khi chưa được sự đồng ý. Bởi lẽ, quyền sở hữu (trong đó có
sở hữu các tài sản trí tuệ) là một trong những quyền đầu tiên và cơ bản của công
dân. Pháp luật quyền tác giả trao cho chủ sở hữu một độc quyền có giới hạn trong
việc khai thác thành quả sáng tạo của họ nhằm khuyến khích các hoạt động sáng
tạo cũng như để công chúng tiếp cận những sản phẩm trí tuệ sau khi thời hạn nắm
giữ độc quyền chấm dứt16. Xâm phạm các độc quyền này là xâm phạm quyền tác
giả, mà chủ yếu là các quyền tài sản liên quan đến khai thác, sử dụng, chuyển giao
tác phẩm17. Hành vi xâm phạm quyền này rất đa đạng, theo nguyên tắc chung là
việc sử đụng tác phẩm mà không được phép, không trả tiền cho chủ sở hữu quyền
tác giả, trừ một số ngoại lệ được ghi nhận trong văn bản quy phạm pháp luật. Các
số 41/ST-DS ngày 19 tháng 10 năm 1998 của TAND thành phố Hà Nội
15
Nguyễn Văn Nam, Quyền tác giả - Đường hội nhập không trải hoa hồng, NXB. Trẻ, Thành phố
Hồ Chí Minh, 2017, tr. 149.
16

Nguyễn Ngọc Xuân Thảo, Luật sở hữu trí tuệ - Án lệ, lí thuyết và bài tập vận dụng. Nxb. Đại
học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2013, tr. 360.
17
Nguyễn Hồ Bích Hằng (chủ biên), tldd, tr. 137.
14


hành vi xâm phạm quyền tác giả có thể kể đến như sao chép tác phẩm bất hợp
pháp, làm tác phẩm phái sinh mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu, nhân
bản, phân phối, truyền đạt tác phẩm đến công chúng mà không được phép... Cụ thể,
trong số các hành vi xâm phạm được quy định tại Điều 28 Luật SHTT, hai nội đung
thường bị xâm phạm nhất là: 1) hành vi sao chép tác phẩm mà không được phép
của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm đ
khoản 1 Điều 25 Luật SHTT; 2) sử dụng tác phẩm mà không được phép của chủ sở
hữu quyền tác giả, không trả tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác theo
quy định của pháp luật, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 25 Luật SHTT.
Hai hành vi xâm phạm quyền tác giả này diễn ra phổ biến trên thực tế xuất phát từ
nhiều nguyên nhân: quy định của pháp luật chưa chặt chẽ trong việc xác định nội
hàm hành vi xâm phạm; vấn đề thực thi trên thực tế chưa tốt và quan trọng là các
biện pháp bảo vệ chưa đủ tính răn đe. Các hành vi xâm phạm hiện nay chủ yếu
được xử lí bằng biện pháp hành chính với mức phạt quá thấp, các biện pháp dân sự
chưa được chú trọng vì bản thân chủ thể quyền không ý thức được việc tự bảo vệ
quyền của mình.
2.3.1. Hành vi sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu
quyền tác giả
Trước hết, cần phải xác định rõ nội hàm hành vi “sao chép” tác phẩm. Theo
tác giả Nguyễn Mạnh Bách, sao chép là “việc tái tạo tác phẩm nguyên thuỷ bằng
mọi cách thức để đưa tác phẩm đến với cơng chúng” 18.) Định nghĩa này địi hỏi
mục đích của việc sao chép là “đưa tác phẩm đến với công chúng”, vậy trong
trường hợp tái tạo tác phẩm nhưng không đưa đến cơng chúng thì có thoả mãn hành

vi sao chép hay không? Tác giả bài viết cho rằng để xác định hành vi sao chép xâm
phạm quyền tác giả khơng nhất thiết phải ràng buộc mục đích của việc tái tạo tác
phẩm. Điều này sẽ gây khó khăn cho việc xác định hành vi xâm phạm, kể cả khi tác
phẩm chưa được đưa đến cơng chúng thì vẫn có thể trở thành hành vi xâm phạm
18

Nguyễn Mạnh Bách, Luật SHTT, Nxb. Giao thông vận tải, 2007, tr. 28.
15


quyền tác giả. Theo khoản 10 Điều 4 Luật SHTT, “sao chép là việc tạo ra một hoặc
nhiều bản sao của tác phẩm hoặc bản ghi âm, ghi hình bằng bất kì phương tiện hay
hình thức nào, bao gồm cả việc tạo bản sao dưới hình thức điện tử”. Bản sao của
tác phẩm là bản sao chép trực tiếp hoặc giản tiếp một phần hoặc toàn bộ tác phẩm
bằng bất kì phương tiện hay hình thức nào19. Có thể nói, quyền sao chép tác phẩm
là một trong những độc quyền quan trọng nhất thuộc khía cạnh quyền tài sản của
quyền tác giả thể hiện ngay chính trong thuật ngữ “bản quyền” (Copyright - quyền
sao chép). Theo khoản 2 Điều 21 Nghị định số 22/2018/NĐ--CP. quyền sao chép
tác phẩm quy định tại điểme khoản 1 Điều 20 Luật SHTT là quyền của chủ sở hữu
quyền tác giã độc quyển thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc tạo ra
bản sao tác phẩm bằng bắt kì phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc tạo
ra bản sao đưới hình thức điện tử.
Hành vi sao chép bất hợp pháp tác phẩm diễn ra khá phố biến. Khi ra mắt hồi
tháng 9/2009, tiểu thuyết "The lost symbol" (Biểu tượng thất truyền) của tác giả
Dan Brown đã trở nên rất nổi tiếng. Tuy nhiên, chưa đầy 24 giờ sau khi “The lost
symbol” có mặt trên thị trưởng, các bản sao chép lậu đã xuất hiện tràn ngập trên
những trang web chia sẽ. Chỉ trong vài ngày, phiên bản số hoá của “The lost
symbol” bị “tải lậu” hơn 100.000 lần. Ngày nay, việc tạo ra một hay nhiều bản sao
của tác phẩm trở nên quá đễ dàng, nhất là thông qua các công cụ điện tử và mạng
Internet và đường như các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa xây dựng được

phương thức kiểm phạm quyền tác giả trên các phương tiện này.
Để xác định hành vi sao chép tác phẩm bắt hợp pháp, cần phải có sự so sánh,
đối chiếu giữa sản phẩm bị cho là xâm phạm với tác phẩm được bảo hộ quyền tác
giả. Chẳng hạn, đối với tác phẩm văn học, khi tác phẩm của nguyên đơn được
khẳng định là đã bị tác phẩm của bị đơn xâm phạm, thường nguyên đơn phải chuẩn
bị một bảng so sánh những điểm tương tự trong hai tác phẩm. Nếu trật tự của sự
trình bày, việc lựa chọn các từ ngữ trong phần tương ứng là gần giống hoặc là hoàn
19

Khoản 5 Điều 3 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP.
16


tồn tương tự thì tồ án có thể kết luận rằng, theo kinh nghiệm, rõ ràng là những thể
hiện tương tự rất rõ nét này không thể là một công việc do tiến hành độc lập được
và việc giả thiết bị đơn đã sử dụng tác phẩm của nguyên đơn là rất dễ dàng xảy ra 20.
Với dạng tác phẩm âm nhạc, có thể xem xét các vấn đề về nhịp điệu, thiết kế, cầu
trúc bản nhạc và khả năng nhằm lẫn của người nghe khi cũng được thưởng thức hai
sản phẩm đó. Điểm cơ bản nhất để xác định có hay khơng có sự sao chép là dựa
trên dấu ấn cá nhân của chủ thể ở mỗi tác phẩm, tức là đối tượng bị xâm phạm có
sử đụng lại một phần quan trọng tác phẩm được bảo hộ mà khơng có sự đồng ý của
chủ sở hữu cũng như khơng thuộc các trường hợp sử dụng hợp lí khơng.
Một tranh chấp khác được giải quyết theo pháp luật Nhật Bản: K.K
International Music Publishers kiện Dorei Suzuki về bài hát của bị đơn có tên là
“Một đêm mưra ở Tokyo”. Tồ án đã kết luận là khơng có sự xâm phạm bài hát
trước đó trên cơ sở so sánh hai tác phẩm âm nhạc về những khía cạnh như giai
điệu, hồ âm, nhịp điệu, hình thức và xác định khơng có một sự tương tự cơ bản
nào giữa hai tác phẩm âm nhạc.
2.3.2. Hành vi sử dụng tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác
giả không trả tiền nhuận bút, thù lao

Khoản 3 Điều 20 Luật SHTT quy định, tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử
dụng một. một số hoặc toàn bộ các quyền quy định ở Điều 20 và khoản 3 Điều 19
(quyền công bố tác phẩm) phải xin phép và trà tiền nhuận bút, thù lao, các quyền
lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả. Nội dung “quyền sử dụng" tài sản
quy định tại Điều 189 Bộ luật dân sự năm 2015 cũng quy định chủ sở hữu có quyền
khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Nếu không thuộc các trường
hợp ngoại lệ mà luật cho phép, mọi hành vi sử dụng tác phẩm đều phải được sự
đồng ý của chủ thể quyền, ngoài ra sẽ phải thanh toán khoản nhuận bút, thù lao
tương ứng Thực tế, hành vi sử dụng tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu
Trương Hồng Quang và Lê Thị Hoàng Thanh, Bồi thường thiệt hại đối với hành vi xâm phạm
quyền tác giả và nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật Nhật Bản và thục tiễn áp dụng, Tap chí nhà
nước và pháp luật, số 6/2011, tr.19.
20

17


quyền tác giả, không trả tiền nhuận bút, thù lao diễn ra rất phổ biến, làm ảnh hưởng
đến quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu. Khác với tài sản hữu hình,
quyền tác giả hay quyền SHTT nói chung rất dễ bị xâm phạm bởi tính chất vơ hình,
vào cùng một thời điểm khơng giới hạn các chủ thể cùng khai thác, sử dụng tác
phẩm. Chính vì thể, nhiều tổ chức, cá nhân chấp nhận sử dụng “lậu”, “chui” tác
phẩm của người khác, vì nếu có bị phát hiện cũng chỉ chịu mức phạt tương đối thấp
(và trong nhiều trường hợp là khơng thể xử lí nổi). Có thể kể đến một vài tranh
chấp đã được giải quyết tại toà án: Ca sĩ Thiên Đăng đã tự ý sử dụng hai ca khúc
“Mật đắng tình yêu” và “Giấc mơ vô vọng” của ông Điền Kim Trọng nhưng không
xin phép, không trả tiền nhuận bút, thù lao. Tồ án xác định ơng Thiên Đăng có
hành vi xâm phạm quyền tác giả, buộc bị đơn phải xin lỗi, cải chính cơng khai, trả
tiền nhuận bút và bồi thường thiệt hại 21. Tương tự, bà Phạm Thị Hà phát hiện Nhà
xuất bản văn hố – thơng tin cho xuất bản cuốn sách “Doanh nhân thành đạt và bài

học kinh nghiệm thương trường” có sử dụng 8 bài viết của bà nhưng khơng xin
phép. Tồ án đã xác định đây là hành vi xâm phạm, buộc bị đơn phải công khai xin
lỗi và không được tái bản cuốn sách trên nếu khơng có sự đồng ý của bà Hà22.
Khi có hành vi xâm phạm quyền tác giả, đặc biệt là các hành vi xâm phạm
quyền tài sản, một trong những biện pháp dân sự thường được áp dụng là buộc bồi
thường thiệt hại. Tuy nhiên, hiện nay Luật SHTT chưa có nhiều quy định về vấn để
này, đặc biệt là liên quan đến việc xác định thiệt hại và mức bồi thường, bởi lẽ các
đối tượng quyền SHTT nói chung và quyền tác giả nói riêng mang tính chất trừu
tượng và đơi khi rất khó xác định. Cơ chế xử lí hành vi xâm phạm chưa tốt cũng
chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng xâm phạm quyền tác giả.

21

22

Bản án số 1549/2010/KDTM-ST ngày 279/2010 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
Bản án số 237/2006/DS-PT ngày 17/11/2006 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà

Nội.
18


Chương 3. THỰC TIỄN XÂM PHẠM QUYỀN TÁC GIẢ Ở VIỆT NAM VÀ
KIẾN NGHỊ HỒN THIỆN THỂ CHẾ, CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT
3.1. Thực tiễn xâm phạm quyền tác giả trong bối cảnh cách mạng cơng nghiệp
4.0 tại Việt Nam
3.1.1. Tình hình xâm phạm quyền tác giả
Theo Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chi thị số 36/2008/CT-TTg về việc
tăng cường quản lí thực thi và bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan của Bộ văn
hoá, thể thao và du lịch, trong năm 2009, lực lượng thanh tra chuyên ngành văn

hoá, thể thao và du lịch đã thu giữ 649.324 băng đĩa các loại và 3.885 bản sách.
Tổng số tiền xử phạt vi phạm hành chính là 11.500.510,000 VNĐ. Trong hai năm
2010 - 2011, thanh tra Bộ văn hoá, thể thao và du lịch đã xử phạt vi phạm hành
chính với tổng số tiền 227.000.000 VNĐ đối với các cơng tỉ có các website lưu trữ,
cung cấp và phổ biến đến công chúng số lượng lớn các bản ghi âm không được sự
cho phép của chủ sở hữu quyền. Trong năm 2013, thanh tra Bộ đã tiến hành xử phạt
vi phạm hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với chương trình
máy tính với số tiền 2.033.000.000 VNĐ và yêu cầu ba website tháo gỡ hàng nghìn
bộ phim xâm phạm bản quyền của sáu hãng phim lớn của Mỹ. Thanh tra Bộ cũng
đã tiếp nhận 60 đơn thư khiếu nại có liên quan đến tranh chấp quyền tác giả đối với
142 đầu sách của 25 nhà xuất bản. Đó là chưa kể đến các trường hợp xử lí ở các địa
phương23.
3.1.2.

Một số hành vi xâm phạm quyền tác giả cụ thể

* Hành vi sao chép tác phẩm không đúng quy định
Theo quy định tại khoản 10 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ thì sao chép là việc
tạo ra một hoặc nhiều bản sao của tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức
nào, bao gồm cả việc lưu trữ thường xuyên hoặc tạm thời tác phẩm dưới hình thức
điện tử. Từ đó, sao chép là độc quyền của chủ sở hữu quyền tác giả, trừ trường hợp
). Báo cáo của Bộ văn hoá, thể thao và du lịch tại Hội nghị Tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị
36/2008/CT-TTg về việc tăng cường quản lí thực thi và bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan, tr.
9, 10.
23

19


tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân

và sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu thì hành vi
sao chép tác phẩm mà khơng hỏi ý kiến chủ sở hữu quyền tác giả, bị coi là hành vi
xâm phạm quyền tác giả theo Điều 28 Luật SHTT. Như vậy, theo quy định trên, sao
chép tác phẩm để phục vụ mục đích học tập của sinh viên không thuộc trường hợp
không phải xin phép, không phải trả tiền cho chủ sở hữu quyền tác giả. Bởi vì, theo
quy định pháp luật thì “nghiên cứu khoa học là hoạt động khám phá, phát hiện, tìm
hiểu bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy, sáng tạo
giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn”. 24Vì thế, việc sao chụp tác phẩm bằng các
phương tiện như máy photocopy, máy scan, máy chụp ảnh... vẫn phải trả tiền nhuận
bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả, kể cả việc sao chép nhằm mục đích học
tập.
Theo số liệu thống kê từ liên minh quốc tế về sở hữu trí tuệ, mức độ vi phạm
về tác phẩm ngôn ngữ ở nước ta chiếm tới 85-90% và Việt Nam được xếp vào một
trong những nước có mức vi phạm cao nhất thế giới 25. Bên cạnh đó, số liệu khảo sát
của Hiệp hội Quyền sao chép Việt Nam VIETPRO tại hơn 60 cơ sở giảo dục trên cả
nước cũng cho thấy tình trạng xâm phạm quyền tác giả ngày càng gia tăng mà
trong đó hành vi xâm phạm phổ biến nhất là sao in tác phẩm. Mức độ sao chụp có
xu hướng gia tăng từ bậc trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng đến đại học. Theo quy
định của Luật SHTT, các tổ chức hay cá nhân khi truyền đạt tác phẩm đến công
chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ
phương tiện kỹ thuật nào khác,… thì đều phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù
lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả theo Điều 20 Luật
SHTT. Thế nhưng, việc rao bán luận văn trên mạng này hoàn toàn khơng có sự xin
phép hay trả tiền nhuận bút, thù lao. Cho nên, việc các website đăng và rao bán
luận văn trên mạng có thể bị xử lý theo quy định. Cụ thể: “Hành vi truyền đạt tác
24

Khoản 4 Điều 3 Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013.
Bùi Loan Thùy: “Hướng giải quyết vấn đề sao chép tài liệu trong thư viện để thực thi quyền tác
giả và quyền liên quan ở Việt Nam”, Tạp chí Thư viện Việt Nam, Số 6 (2014): 8-13, trang 7.

25

20


phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện
tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà không được phép của chủ sở hữu
quyền tác giả sẽ bị phạt tiền từ 15 - 30 triệu đồng và buộc phải dỡ bỏ tác phẩm vi
phạm”26.
Thực tế tại một số trường đã cố gắng để bảo vệ tốt nhất quyền tác giả đối với
các thành quả sáng tạo của nhà trường như nghiêm cấm sinh viên sử dụng và phát
hành các tài liệu học tập của nhà trường biên soạn, xuất bản, in ấn và phát hành như
giảo trình, tập bài giảng, sách chuyên khảo,… với hình thức photocopy và in lậu.
Nhà trường đã có những biện pháp xử lí nhằm răn đe các hành vi xâm phạm quyền
tác giả. Cụ thể như vụ việc nữ sinh N.A tàng trữ và đưa vào trường trái phép 8
quyển giảo trình photo vi phạm bản quyền là điển hình cho hành vi xâm phạm
quyền tác giả trong việc sao chép tác phẩm trong môi trường giảo dục. Trường Đại
học Luật thành phố Hồ Chí Minh đã đình chỉ học một năm với nữ sinh sử dụng tài
liệu photo từ giảo trình của Trường là đúng về Luật Giảo dục, Luật Sở hữu trí tuệ
và quy chế riêng của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh27.
* Hành vi trích dẫn khơng hợp lý và hành vi đạo văn
Ở Việt Nam, trích dẫn và đạo văn là một trong những vấn nạn xảy ra tại hầu
hết các trường đại học. Hầu như, mỗi trường đại học đều có chính sách riêng về
trích dẫn và đạo văn để ngăn chặn sinh viên xâm phạm quyền tác giả đối với luận
văn và tài liệu học thuật. Tuy nhiên, việc trích dẫn trái phép và đạo văn vẫn cịn tồn
tại và có chiều hướng gia tăng trong học đường ở Việt Nam. Thực tế hiện nay, một
số trường vẫn chưa có quy định cụ thể về trích dẫn và chống đạo văn. Quy định về
trích dẫn và đạo văn chỉ được tìm thấy trong một số văn bản của trường, cụ thể tại
Quyết định số 3054/QĐ-ĐHCT ngày 28/8/2015 của Hiệu trưởng Trường Đại học
26


Điều 17 Nghị định số 131/2013/NĐ/CP ngày 16 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định
xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan.
27
Lê Phương: “Quyết định đình chỉ học nữ sinh mang tài liệu photo vào trường gây nhiều tranh
cãi”, Trang thơng tin điện tử Báo Dân trí, />21


Cần Thơ là “những nội dung được trích dẫn trong tài liệu tham khảo để biên soạn
giảo trình, tài liệu học tập phải có nguồn gốc và chú thích rõ ràng, đáp ứng đầy đủ
các yêu cầu về quyền tác giả theo quy định hiện hành”. Bên cạnh đó, trích dẫn được
xem là một trong những việc rất quan trọng khi thực hiện bài viết khoa học, báo
cáo, nghiên cứu, luận văn nếu sử dụng thông tin của người khác mà khơng ghi rõ
nguồn trích dẫn thì thơng thường gọi là đạo văn. Như vậy, tại Trường Đại học Cần
Thơ việc trích dẫn khơng ghi rõ nguồn thì thơng thường sẽ được xem là đạo văn.
Tuy nhiên, việc xác định hành vi đạo văn dựa theo quy định như trên là chưa đầy
đủ, đòi hỏi nhà trường cần phải ban hành một văn bản riêng để điều chỉnh vấn đề
về trích dẫn và đạo văn, quy định hình thức xử lí giúp ngăn chặn các hành vi xâm
phạm một cách hiệu quả.
Để giải quyết vấn nạn này, một số trường đại học đã sử dụng phần mềm kiểm
tra sự tương đồng. Theo đó, các bài báo, cơng trình nghiên cứu, giảo trình, luận
văn... sẽ được đưa vào phần mềm này. Với dữ liệu toàn thế giới, phần mềm sẽ đọc
và so sánh sự tương đồng của bài viết với các bài viết đã cơng bố chính thức trước
đó trong nguồn dữ liệu, từ đó đưa ra kết quả tương đồng. Phần mềm cũng chỉ rõ
phần tương đồng này đã được trích trong tài liệu nào. Tùy vào đặc thù của mình,
mỗi trường sẽ quy định tỉ lệ phần trăm bao nhiêu thì bị xem là đạo văn. Bên cạnh
đó, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh cũng có những hình thức để xử lí
hành vi đạo văn. Theo đó, tùy vào hình thức và mức độ, hành vi đạo văn có thể bị
xử lí bởi một trong những biện pháp như: Khiển trách; Trừ điểm từ 25% đến 50%
đối với tác phẩm vi phạm; Đình chỉ có thời hạn việc bảo vệ, đánh giả, nghiệm thu

tác phẩm từ 03 tháng đến 12 tháng; Không cho bảo vệ, nghiệm thu tác phẩm; Hủy
bỏ kết quả bảo vệ khóa luận tốt nghiệp đối với luận văn, luận án, các công trình
nghiên cứu khoa học28.

28

Điều 7 Điều 6 Quy định về trích dẫn và chống đạo văn của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh, ban hành kèm theo Quyết định số 250/QĐ-ĐHL ngày 03 tháng 3 năm 2015 của Hiệu
trưởng Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
22


Như vậy, để ngăn chặn hành vi trích dẫn trái quy định và đạo văn đang diễn
ra vô cùng phổ biến như hiện nay, bên cạnh việc áp dụng phần mềm kiểm tra đạo
văn, Trường Đại học Cần Thơ cần phải xây dựng quy định cụ thể về việc trích dẫn
và đạo văn của nhà trường. Từ đó, tạo cơ sở để bảo hộ quyền tác giả một cách chặt
chẽ, chống lại các hành vi xâm phạm quyền tác giả.
3.2. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng xâm phạm quyền tác giả
Tình trạng xâm phạm quyền tác giả do nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan, trong đó trước hết phải kế đến ý thức của người dân trong việc tôn trọng
quyền tác giả. Hành vi sao chép tác phẩm bắt hợp pháp. sử đụng tác phẩm mà
không xin phép, không trả tiền cho tác giả, chủ sở hữu phố biến tới mức trở thành
điều bình thưởng. Bên cạnh đó, chính chủ thể quyền - tác giả và chủ sở hữu quyền
tác giả cũng chưa thực sự ý thức tốt trong việc tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình. Trong một số trường hợp, chủ thể quyền khơng nắm rõ các quy định
pháp luật nên có xu hướng e ngại trong việc khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự.
Việc xác định tồ án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp liên quan đến SHTT nói
chung và quyền tác giả nói riêng trong nhiều trường hợp khơng đơn giản, nhất là
khi hành vi xâm phạm xảy ra trên mơi trưởng Internet. Tại nhiều quốc gia, tồ án
khơng có thẳm quyền giải quyết tranh chấp đối với hành vi xâm phạm quyền tác

giả trong môi trưởng Internet nếu chủ sở hữu website đặt tại nước ngồi và khơng
có chi nhánh, văn phòng đại diện hay tài sản ở quốc gia sở tại. Trong trưởng hợp
này, cần khởi kiện tại tồ án nước ngồi29.
Dưới góc độ quy định pháp luật, vấn đề quyền tác giả đã được ghi nhận từ rất
lâu. Trước Luật SHTT, các quy định về bảo hộ quyền tác giả đã hiện diện trong Bộ
luật dân sự năm 1995, năm 2005. Thực tế, luật về quyền tác giả đã được xây dựng
từ những năm 1970 và kết quả đầu tiên là Nghị định số 84CP về quyền tác giả ra
đời năm 1989. Sau đó, Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả năm 1994 được ban hành,
trong đó các điều luật được điều chỉnh phù hợp với Công ước Berne, mặc đù thời
29

Lê Thị Nam Giang, tldd, tr.11
23


×