Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

ỔN ĐỊNH TÀI CHÍNH QUỐC GIA TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHỆ 4.0 THÔNG QUA SỰ HỢP TÁC NGÂN HÀNG FINTECH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.97 KB, 13 trang )

ỔN ĐỊNH TÀI CHÍNH QUỐC GIA TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG
CÔNG NGHỆ 4.0 THÔNG QUA SỰ HỢP TÁC NGÂN HÀNG - FINTECH
Với sự phát triển công nghệ, hoạt động ngân hàng đang có sự dịch chuyển mạnh mẽ từ
các giao dịch sản phẩm, dịch vụ truyền thống sang ngân hàng kỹ thuật số và cũng
chứng kiến sự thay đổi của môi trường cạnh tranh với sự xuất hiện của nhiều yếu tố
mới, gồm cả chủ thể và sản phẩm dịch vụ, nổi bật nhất là sự xuất hiện của các công ty
công nghệ tài chính (Fintech). Xu hướng hợp tác thay cho cạnh tranh giữa ngân hàng
và Fintech là xu hướng tất yếu và quan trọng để đạt được sự ổn định tài chính quốc gia
trong bối cảnh cách mạng công nghệ 4.0. Bài nghiên cứu phân tích những yếu tố liên
quan đến ổn định tài chính khi có sự phát triển của các công ty Fintech, các vấn đề về
khả năng hấp thụ, chịu đựng và vượt qua rủi ro của hệ thống tài chính khi có sự hợp tác
giữa ngân hàng và Fintech. Bài viết cũng nêu lên các vấn đề về ổn định tài chính tại
Việt Nam và nhấn mạnh sự hỗ trợ từ phía chính phủ đối với quá trình hợp tác ngân
hàng – Fintech nhằm ổn định tài chính quốc gia.
1. Sự cần thiết của việc thúc đẩy quá trình hợp tác Ngân hàng và Fintech tại

Việt Nam
Trong bối cảnh cách mạng công nghệ 4.0, nổi bật là sự phát triển mạnh mẽ của các
công nghệ tài chính, Việt Nam là quốc gia có tiềm năng lớn để phát triển các khởi sự
về công nghệ với cấu trúc dân số trẻ, tỷ lệ dân số kết nối với Internet cũng như sử dụng
smartphone khá cao. Trong khi đó, độ phổ cập của các dịch vụ ngân hàng ở Việt Nam
hạn chế, với 30,86% dân số Việt Nam trên 15 tuổi có tài khoản ngân hàng – thấp hơn
rất nhiều so với con số trung bình 60% của thế giới. Tỷ lệ này còn thấp hơn nhiều ở
khu vực nông thôn (16%). Chính vì vậy, có thể thấy lĩnh vực công nghệ tài chính với
các sản phẩm dịch vụ ngân hàng điện tử được cung cấp bởi ngân hàng và các công ty
Fintech, là một lĩnh vực mới đầy tiềm năng và hoàn toàn có cơ hội phát triển rộng rãi
tại Việt Nam. Năm 2016 là một cột mốc khá đáng nhớ cho các công ty làm trong lĩnh
vực công nghệ tài chính (Fintech) khi lĩnh vực này chứng kiến sự bùng nổ về cả số
lượng khởi nghiệp (startup), ý tưởng lẫn khoản đầu tư. Tuy nhiên, 83% định chế tài



chính truyền thống lo ngại rằng một phần hoạt động kinh doanh của họ có nguy cơ rơi
vào tay công ty công nghệ tài chính Fintech (PWC, 2016). Trong vòng 5 năm tới, 24%
thị phần các ngân hàng trong mảng chuyển tiền và thanh toán sẽ được thực hiện bởi
các công ty Fintech, con số này sẽ là 22% trong lĩnh vực quản lý tài sản và 21% trong
lĩnh vực bảo hiểm (PWC, 2016). Tuy nhiên, Fintech có nền tảng kỹ thuật, công nghệ
hiện đại nhưng thiếu tính bảo mật và lòng tin về hệ thống an ninh mạng của khách
hàng, trong khi đó, ngân hàng có khách hàng nhưng lại thiếu công nghệ (Mocker, V., et
al., 2015). Có thể thấy, tại Việt Nam, việc Fintech phát triển giúp cung ứng các sản
phẩm, dịch vụ tài chính một cách hiệu quả đến số đông những khách hàng nhỏ lẻ, lấp
đầy khoảng trống mà các định chế tài chính truyền thống còn bỏ ngỏ. Fintech cũng
giúp cho hoạt động của hệ thống tài chính Việt Nam hiệu quả hơn thông qua việc minh
bạch hóa thông tin, tăng tốc xử lý các giao dịch, tiết kiệm chi phí, gia tăng cạnh tranh.
Mặt khác, Fintech tại Việt Nam cũng không thể tránh khỏi việc tạo ra những rủi ro mới
cho hệ thống tài chính, ảnh hưởng đến ổn định tài chính quốc gia. Một trong những lý
do quan trọng khiến cho sự phát triển của Fintech tiềm ẩn những rủi ro lớn đối với ổn
định tài chính là việc Fintech không phải chịu sự quản lý và giám sát chặt chẽ của ngân
hàng nhà nước khi hoạt động và cung cấp những dịch vụ tài chính tương tự ngân hàng
và các định chế tài chính khác. Trong khi đó, hệ thống ngân hàng thương mại, mặc dù
hoạt động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận nhưng cũng là một công cụ giúp cho ngân
hàng nhà nước quản lý, giám sát và can thiệp vào hệ thống tài chính khi cần thiết, bảo
vệ ổn định tài chính quốc gia. Tuy nhiên, NHTM cũng như các định chế tài chính
truyền thống cũng có những nhược điểm gây nên tác động tiêu cực đối với sự ổn định
tài chính mà ví dụ minh họa rõ ràng nhất là cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm
2008 với nguyên nhân chính xuất phát từ hoạt động của hệ thống NHTM và các định
chế tài chính của Mỹ. Nếu khuyến khích sự hợp tác ngân hàng-Fintech, NHNN sẽ có
thể có trong tay một công cụ quản lý hiện đại hơn, hiệu quả hơn, kết hợp ưu điểm của
hệ thống NHTM và các công ty Fintech trong việc duy trì ổn định tài chính quốc gia.
Đồng thời, với đặc điểm của NHTM và Fintech, khi kết hợp lại có thể giúp giảm thiểu
các nguy cơ của mỗi bên đối với sự ổn định tài chính. Như vậy, có thể thấy sự cần thiết



của việc thúc đẩy quá trình hợp tác Ngân hàng và Fintech tại Việt Nam để góp phần
củng cố ổn định tài chính quốc gia.
2. Ổn định tài chính trong bối cảnh cách mạng công nghệ 4.0

Ổn định tài chính là vấn đề đã được đề cập đến đầu tiên bởi NHTW Anh (the Bank of
England) vào năm 1994 để chỉ ra những mục tiêu khác của tổ chức này ngoài mục tiêu
ổn định giá và đảm bảo hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính (Allen, 2006). Tuy
nhiên, ổn định tài chính là khái niệm mới mẻ hơn trong hoạt động quản lý vĩ mô của
NHTW so với ổn định tiền tệ và ổn định giá (Crockett, 1997). Trong gần một thập kỷ
trở lại đây, với những dấu hiệu sớm của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, cùng
với xu hướng phát triển của công nghệ và kỹ thuật tài chính, vấn đề này đặc biệt được
quan tâm bởi các nhà kinh tế học, cũng như ngân hàng trung ương các nước. NHTW
các nước đã thành lập Ủy ban về ổn định tài chính, thực hiện các báo cáo về ổn định tài
chính hàng năm để đánh giá những rủi ro tác động đến ổn định tài chính quốc gia
(Cihak, 2006 và Oosterloo, et al, 2007). Định nghĩa về ổn định tài chính ngày càng
được phát triển và cụ thể hóa. Các định nghĩa này được tiếp cận từ hai hướng khác
nhau: định nghĩa trực tiếp về ổn định tài chính và gián tiếp qua định nghĩa về bất ổn tài
chính (Alawode and Sadek, 2008).
Trường phái trực tiếp định nghĩa ổn định tài chính thông qua khả năng hấp thụ, chịu
đựng và vượt qua các biến động trên thị trường tài chính của hệ thống tài chính. Theo
đó, ngay cả khi những biến động xảy ra trên thị trường, hệ thống tài chính vẫn luôn
đảm bảo được việc thực hiện thanh toán một cách trơn tru, an toàn; cung ứng nguồn
vốn một cách thỏa mãn các nhu cầu về vốn cho các chủ thể; đồng thời thực hiện đầy đủ
các chức năng điều tiết vĩ mô cho nền kinh tế. Cách định nghĩa này được lựa chọn bởi
nhiều NHTW các nước như NHTW Châu Âu, NHTW Argentia, Áo, Phần Lan, Nauy,
Thụy Sỹ, Úc, Nhật Bản, Nam Phi, Sri Lanka (Alawode và Sadek, 2008). Như vậy, khái
niệm “ổn định tài chính” cần được phân biệt rõ với khái niệm “an ninh tài chính”. Khái
niệm “an ninh tài chính” được biết đến nhiều hơn, trong đó, an ninh tài chính nhằm
mục đích giảm thiểu và/hoặc kiểm soát những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động của



hệ thống tài chính (như rủi ro thanh khoản, biến động lãi suất, giá cả, rủi ro trong hoạt
động của hệ thống NHTM,…) thì ổn định tài chính lại hướng đến khả năng hấp thụ,
chịu đựng và vượt qua những cú sốc kinh tế, tài chính gây ra bởi các rủi ro này. Trong
bối cảnh nền kinh tế hội nhập toàn cầu, các nền kinh tế và các thị trường tài chính có
nhiều mối liên quan và tác động qua lại lẫn nhau, cùng với bối cảnh cách mạng công
nghệ 4.0, nổi bật là sự phát triển nhanh chóng của công nghệ tài chính, nền kinh tế thế
giới nói chung và nền kinh tế của các quốc gia nói riêng luôn đối mặt với những cơ hội
phát triển lớn, đi kèm với sự thay đổi nhanh chóng. Do đó, rủi ro là không thể tránh
khỏi, ngày càng gia tăng và khó kiểm soát. Vấn đề ổn định tài chính, về khả năng hấp
thụ, chịu đựng và vượt qua rủi ro của hệ thống tài chính, vì thế, ngày càng được các
NHTW quan tâm. Mặc dù vậy, an ninh tài chính vẫn đóng vai trò hỗ trợ đối với việc
tăng cường ổn định tài chính.
Trường phái gián tiếp định nghĩa bất ổn tài chính là khi những biến động trên thị
trường tài chính có nhiều khả năng gây nguy hại đến nền kinh tế thông qua những tác
động tiêu cực của nó đến hoạt động của hệ thống tài chính. Hay nói cách khác, bất ổn
tài chính là rủi ro xảy ra khủng hoảng tài chính có khả năng xuất hiện cao. Trong đó,
khủng hoảng tài chính được miêu tả bởi ba đặc điểm: sự sụp đổ hàng loạt của các định
chế tài chính, không có khả năng thực hiện, cung cấp các dịch vụ thanh toán và không
có khả năng cấp tín dụng cho những cơ hội đầu tư tiềm năng (Mishkin, 1999; Chant,
2003; Allen and Wood, 2006).
Mặc dù có nhiều định nghĩa về ổn định tài chính nhưng những điều kiện cần thiết để
duy trì sự ổn định tài chính đều được thống nhất. Những điều kiện này bao gồm: thứ
nhất, sự ổn định của các định chế tài chính then chốt, tiêu biểu là hệ thống ngân hàng
(Crockett, 1997); (DeBandt and Hartmann, 2000); (Hoelscher and Quintyn, 2003);
(Summer, 2003); (Padoa‐Schioppa, 2002); (Chant, 2003); (Foot, 2003); (Allen and
Wood, 2006); (Adrian and Shin, 2008). Thứ hai, sự tham gia đông đảo của những cá
nhân, tổ chức riêng lẻ như những doanh nghiệp vừa và nhỏ (Allen and Wood, 2006).
Thứ ba, việc đảm bảo khả năng hoạt động liên tục, trơn tru của hệ thống thanh toán

(DeBandt and Hartmann, 2000; Padoa‐Schioppa, 2002; Houben, Kakes, and Schinasi,


2004). Thứ tư, một điều kiện quan trọng, đó là niềm tin của công chúng vào hệ thống
tài chính (Crockett, 1996; Crockett, 1997; Large, 2003; Foot, 2003; Nier, 2005). Quan
điểm này đã được NHTW các nước như Nhật, Sri Lanka, Nam Phi áp dụng trong việc
thực hiện đảm bảo ổn định tài chính (Alawode, 2008). Trong phát biểu của Nier (2005)
và Kohn (2011), thông tin minh bạch đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố mức
độ ổn định của các định chế tài chính, ví dụ như các NHTM, từ đó tăng cường ổn định
tài chính. Hay nói cách khác, thông tin bất cân xứng là nguồn gốc của sự bất ổn tài
chính (Mishkin, 1997, 2000).
3. Vấn đề ổn định tài chính tại Việt Nam

Trải qua hơn 3 thập kỷ đổi mới toàn diện, Việt Nam nhận thức được sâu sắc tầm quan
trọng của ổn định tài chính như một điều kiện cần thiết để ổn định kinh tế vĩ mô do sự
gắn kết chặt chẽ giữa hai mục tiêu này. Có thể nói, ổn định tài chính gồm nhiều thành
tố, nhưng quan trọng nhất là ổn định hoạt động của các trung gian tài chính, hạ tầng tài
chính (hệ thống thanh toán và hệ thống thông tin tín dụng) và thị trường tài chính (Thu
Hương, 2014). Theo báo cáo của Qũy Tiền tệ quốc tế IMF (2017), hệ thống tài chính
Việt Nam có quy mô tương đối lớn đối với một quốc gia ở mức thu nhập trung bình,
trong đó các tổ chức tín dụng chiếm tỷ trọng lớn nhất. Trong năm 2016, ngành Ngân
hàng có tổng tài sản lên đến 194% GDP và chiếm hơn 96% tổng tài sản của toàn bộ
lĩnh vực tài chính ngân hàng. Bốn tổ chức tín dụng lớn nhất có tài sản chiếm 45% tổng
tài sản của ngành ngân hàng và cung ứng một nửa nguồn vốn tín dụng cho khu vực
kinh tế quốc doanh. Mức vốn hóa thị trường chứng khoán tăng từ 27% năm 2015 lên
33% GDP năm 2016 (Báo cáo quốc gia IMF số 17/191, 2017). Ổn định hoạt động của
các tổ chức tín dụng đóng vai trò chủ chốt trong ổn định tiền tệ và ổn định tài chính, là
điều kiện tiên quyết để ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng bền vững và phải được đảm
bảo bằng sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa
và các chính sách vĩ mô khác, cùng sự phát triển hài hòa, cân đối giữa khu vực ngân

hàng, chứng khoán và bảo hiểm (Minh Đức, 2018).


Với quy mô hệ thống tài chính Việt Nam, việc ổn định tài chính đóng vai trò quan
trọng không chỉ trong ổn định giá cả, kiểm soát lạm phát mà còn góp phần hỗ trợ phát
triển kinh tế bền vững. Sự ổn định tài chính tạo ra môi trường thuận lợi hơn cho cả nhà
đầu tư và người gửi tiền, tăng hiệu quả của hoạt động trung gian tài chính, tăng các
chức năng của các thị trường tài chính và cải thiện phân phối nguồn lực để phát triển
hệ thống tài chính lành mạnh và minh bạch, giảm đi các cú sốc và rủi ro hệ thống.
Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, một hệ thống tài chính ổn định là hệ thống hoạt
động lành mạnh, tin cậy và hiệu quả, ít biến động và có khả năng hấp thụ các cú sốc vĩ
mô. Ngược lại, tình trạng kém ổn định tài chính kéo theo những tình trạng như giảm
tính hiệu quả của chính sách tiền tệ; làm suy yếu chức năng trung gian của hệ thống tài
chính do phân phối nguồn lực không hợp lý, làm trì trệ sự phát triển của nền kinh tế;
làm mất niềm tin của người dân vào hệ thống tài chính; và tốn kém chi phí để giải
quyết sự yếu kém của hệ thống tài chính. Ngoài ra, sự bất ổn của hệ thống ngân hàng –
tài chính sẽ ảnh hưởng đáng kể đối với quá trình truyền tải tác động của chính sách tiền
tệ đến nền kinh tế. Với những lý do đó, trên cơ sở quy định của Luật Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam năm 2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 156/2013/NĐ-CP
(ngày 11/11/2013) quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Ngân hàng Nhà nước, trong đó quy định rõ Ngân hàng Nhà nước có chức năng tổng
hợp, phân tích, dự báo tình hình tiền tệ, tài chính; đề xuất các biện pháp ngăn ngừa rủi
ro có tính hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, tài chính; và xây dựng chính sách, biện pháp
ứng phó với khủng hoảng, đảm bảo ổn định hệ thống tiền tệ, ngân hàng, tài chính như
một chức năng quan trọng mà một Ngân hàng Trung ương cần phải có sau cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu vừa qua. Như vậy, với đặc thù của Việt Nam là hệ thống ngân
hàng và các công ty tài chính do NHNN quản lý chiếm hơn 90% tổng tài sản của các tổ
chức tài chính, NHNN đóng vai trò chủ đạo trong thực hiện chức năng ổn định tiền tệ –
tài chính và kiểm soát ổn định hệ thống các tổ chức tín dụng. Như vậy, có thể thấy rằng
công cụ để NHNH Việt Nam nói riêng và NHTW các nước nói chung có trong tay để

giám sát và duy trì ổn định tài chính quốc gia chính là hệ thống NHTM.


4. Fintech và những tác động đến ổn định tài chính quốc gia.

Sau khủng hoảng tài chính năm 2008, vấn đề về đạo đức và minh bạch thông tin trong
lĩnh vực tài chính, ngân hàng càng được quan tâm vì đây là một trong những nguyên
nhân dẫn đến khủng hoảng. Trong bối cảnh đó, “blockchain”, một công nghệ cho phép
truyền tải và lưu trữ dữ liệu một cách an toàn, minh bạch dựa vào hệ thống mã hóa
phức tạp, được giới thiệu và trở thành nền tảng cho công nghệ tài chính (Fintech) phát
triển và được chấp nhận rộng rãi. Công nghệ blockchain đã phát triển từ hình thức sơ
khai blockchain 1.0 - tiền kỹ thuật số đến blockchain 2.0 - các loại hợp đồng kỹ thuật
số (hợp đồng thông minh, tài sản thông minh), tiếp theo là blockchain 3.0 và
blockchain 4.0 với các ứng dụng phục vụ quản lý tiền tệ, kinh tế và thị trường (hồ sơ y
tế, quản lý giao dịch, truy xuất nguồn gốc, quản lý hộ tịch, bỏ phiếu bầu cử) (Swan,
2015). Hiện nay, ứng dụng Fintech đã được phát triển trong năm lĩnh vực, ở cả phạm
vi bán lẻ và bán buôn, bao gồm (i) thanh toán và thanh toán bù trừ; (ii) tiền gửi, cho
vay và huy động vốn; (iii) bảo hiểm; (iv) quản lý đầu tư; và (v) các hoạt động hỗ trợ thị
trường (FSB, 2017). Việc sử dụng Fintech trong các hoạt động tài chính cho phép các
bên tham gia giao dịch trực tiếp mà không cần thông qua các định chế trung gian tài
chính truyền thống, qua đó, góp phần gia tăng ổn định tài chính (Weller, 2013;
Schimel, 2016; Velde, 2016; FSB, 2017; CGFS, 2017; Carney, 2017). Đóng góp của
Fintech thể hiện qua bốn phương diện như sau: thứ nhất, Fintech tạo ra sự phân tán và
đa dạng hóa trong hệ thống tài chính. Sự phân tán và đa dạng này giúp giảm bớt tác
động của những “cú sốc” xảy ra trong hệ thống tài chính. Thứ hai, Fintech gia tăng
hiệu quả vận hành thông qua gia tăng khả năng cạnh tranh, hỗ trợ hoạt động ổn định
của các định chế tài chính. Thứ ba, Fintech đảm bảo tính minh bạch của thông tin,
giảm thiểu tình trạng thông tin bất cân xứng, qua đó giúp đánh giá đúng rủi ro và hỗ
trợ định giá chính xác. Cuối cùng, Fintech tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia của
cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức kinh tế khác nhau, bao gồm doanh nghiệp nhỏ và

vừa. Tuy nhiên, Fintech phát triển và được sử dụng rộng rãi cũng tạo nên những nguy
cơ mới, ở cả phạm vi vi mô và vĩ mô, đối với ổn định tài chính (Dermine, 2016;
Schimel, 2016; Pauget, 2016; Foucault, 2016; Velde, 2016; FSB, 2017; Minto, 2017).


Những rủi ro ở mức độ vi mô có thể xuất phát từ sự mất cân đối về thời hạn, khi các
khoản vay (trực tiếp giữa các chủ thể thông qua các sàn giao dịch (lending platform)
kéo dài hơn so với các nguồn tài trợ đã được ký kết. Rủi ro thanh khoản cũng gia tăng
và nghiêm trọng khi tiền ảo được phép sử dụng và trở nên phổ biến. Fintech gia tăng
hiệu quả cung ứng vốn, giúp tăng tỷ lệ đòn bẩy trong nền kinh tế. Tuy nhiên, điều này
cũng khiến hệ thống tài chính suy yếu do vốn chủ sở hữu không đủ để hấp thụ những
biến động tài chính trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, sự thiếu giám sát từ nhà nước đối
với các giao dịch tài chính thông qua Fintech cũng dẫn đến các rủi ro đạo đức, từ đó,
ảnh hưởng đến niềm tin của công chúng vào hệ thống. Mặt khác, rủi ro về luật pháp
cũng sẽ gia tăng khi Fintech cho phép khả năng thực hiện các giao dịch toàn cầu diễn
ra một cách dễ dàng. Việc Fintech trở nên phổ biến giúp hạn chế những rủi ro trung
gian từ các định chế tài chính nhưng lại dẫn đến sự phụ thuộc vào các trung gian công
nghệ. Cuối cùng, việc sử dụng công nghệ trong tài chính sẽ tạo ra những nguy cơ tấn
công mạng vào những lỗ hổng công nghệ, gây ra tổn thất và hoảng loạn trong hệ
thống.
Rủi ro ở tầm vĩ mô có thể kể đến đầu tiên là khả năng ảnh hưởng dây chuyền của các
công ty Fintech. Việc thiếu sự giám sát của nhà nước và kết nối hỗ trợ như trong hệ
thống các ngân hàng thương mại có thể khiến rủi ro uy tín của một công ty Fintech lây
lan và gây bất ổn trong toàn hệ thống. Thứ hai, khi mọi chủ thể kinh tế đều có thể tham
gia vào các hoạt động tài chính, ngoài lợi ích đa dạng hóa, có tác dụng như tấm đệm
giảm chấn như đã đề cập thì cũng dẫn đến rủi ro cộng hưởng (procyclicality), khiến
cho những biến động gây ra tác động mạnh hơn đến hệ thống tài chính. Thứ ba, với
việc tăng tốc các giao dịch, Fintech có thể khiến gia tăng bất ổn, ví dụ bất ổn về giá,
khi các nhà đầu tư có thể ngay lập tức phản ứng với các thông tin kinh tế. Cuối cùng,
khi mọi thông tin, mọi thực thể đều được kết nối với nhau bởi một số ít hệ thống tư

nhân thì rủi ro đạo đức là rất lớn. Ngoài ra, cạnh tranh được xem là một nhân tố tiềm
năng góp phần tạo nên sự bất ổn tài chính, mặc dù là một yếu tố giữ cho hệ thống ổn
định thông qua việc giảm thiểu sự thay đổi và méo mó về giá cả của các loại tài sản,


(Crockett, 1997; Foot, 2003). Cạnh tranh quá mức cũng dẫn đến các hành vi tiêu cực,
đe dọa sự ổn định tài chính.
5. Sự hỗ trợ từ phía chính phủ đối với quá trình hợp tác ngân hàng - Fintech

nhằm ổn định tài chính quốc gia.
Để khuyến khích sự hợp tác ngân hàng-Fintech, bên cạnh việc mỗi bên đối tác nhận
thấy động lực tham gia vào quá trình hợp tác thì việc tạo điều kiện thuận lợi cho quá
trình hợp tác đạt hiệu quả cao cũng là vấn đề phải được quan tâm và chú ý. Do đó, thái
độ khuyến khích của các cơ quan quản lý nhà nước đối với sự hợp tác cũng rất quan
trọng, bởi vì, thái độ ủng hộ này sẽ được cụ thể hóa thành các quy định, chính sách và
thậm chí là sự hỗ trợ về các nguồn lực cần thiết cho sự hợp tác thành công. Tuy nhiên,
sự ủng hộ này chỉ có thể có được khi cơ quan quản lý nhà nước đã nhận thức đúng về
ổn định tài chính quốc gia cũng như vai trò của việc NHTM hợp tác với các công ty
Fintech đối với sự ổn định này. Về vấn đề này, hiện nay, chính phủ Việt Nam đã phê
duyệt một số đề án nhằm ứng dụng và phát triển công nghệ, qua đó tạo điều kiện cho
các công ty Fintech phát triển cũng như khuyến khích việc sử dụng công nghệ tài chính
trong lĩnh vực ngân hàng. Một số đề án như chương trình phát triển thương mại điện tử
quốc gia giai đoạn 2014 - 2020 (Quyết định số 689/QĐ-TTg ngày 11/5/2014), đề án
Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025 (Quyết định
số 844/QĐ-TTg ngày 18/5/2016), đề án nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng
cho nền kinh tế (Quyết định số 1726/QĐ-TTg ngày 05/9/ 2016), đề án phát triển thanh
toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020 (Quyết định số
2545/QĐ-TTg ngày 30/12/ 2016 ), đề án ứng dụng khoa học và công nghệ trong quá
trình tái cơ cấu ngành Công Thương giai đoạn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030
(Quyết định số 754/QĐ-TTg ngày 31/5/2017), thành lập Ban Chỉ đạo về lĩnh vực công

nghệ tài chính (Quyết định số 328/QĐ-NHNN ngày 16/3/ 2017, đề án Hoàn thiện
khung pháp lý để quản lý, xử lý đối với các loại tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo (Quyết
định số 1255/QĐ-TTg ngày 21/8/2017) (Hà & ctg, 2018).


Kết luận
Như vậy, có thể thấy sự quan tâm của chính phủ Việt Nam đối với vấn đề đảm bảo ổn
định tài chính quốc gia và đối với sự phát triển, ứng dụng công nghệ tài chính đối với
hoạt động của NHTM. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế, cách mạng công nghệ 4.0, sự
ra đời và phát triển của các công ty Fintech, cùng với công nghệ tài chính và ngân hàng
điện tử, thì việc cạnh tranh cũng như tiến tới hợp tác giữa ngân hàng và công ty
Fintech là một khuynh hướng tất yếu. Vì vậy, cần có những chính sách can thiệp vĩ mô
của ngân hàng nhà nước và môi trường cạnh tranh, hợp tác lành mạnh để phát huy hết
lợi thế cũng như giảm thiểu rủi ro của hoạt động kinh doanh tiền tệ, tài chính của ngân
hàng và công ty Fintech, thúc đẩy khuynh hướng hợp tác phát triển và ổn định tài
chính, kinh tế vĩ mô.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Adrian, T., & Shin, H. S. (2008). Financial intermediaries, financial stability, and

monetary policy.
2. Alawode, A. A., & Al Sadek, M. (2008). What is financial stability. Financial

Stability Paper Series, 1.
3. Allen, W. A., & Wood, G. (2006). Defining and achieving financial

stability. Journal of Financial Stability, 2(2), 152-172.
4. Carney, M. (2017). Chair of the Financial Stability Board. Governor of the Bank of

England.The Promise of Fintech – Something New Under the Sun?. Speech

presented at Deutsche Bundesbank G20 conference on “Digitising finance,
financial inclusion and financial literacy”, Wiesbaden
5. Chant, J. (2003), “Financial Stability as a Policy Goal”, in Essays on Financial

Stability, Technical Report No. 95, Bank of Canada, September.
6. Cihak, M., (2006), “Central Banks and Financial Stability: A Survey of Financial

Stability Reports”, Paper presented to the Seminar on Current Developments in
Monetary and Financial Law, Washington, D.C., October 23‐27.
7. Committee on the Global Financial System (CGFS) and the Financial Stability

Board (FSB), (2017). Fintech credit: Market structure, business models and
financial stability implications


8. Crockett, A. (1996). The theory and practice of financial stability. De

Economist, 144(4), 531-568.
9. Crockett, A., (1997), “Why is Financial Stability a Goal of Public Policy?”, in

Maintaining Financial Stability in a Global Economy, Symposium Proceedings,
Federal Reserve Bank of Kansas City, August, pp. 55‐96.
10. De Bandt, O., & Hartmann, P. (2000). Systemic risk: a survey.
11. Dermine, J. (2016). Digital banking and market disruption: a sense of déjà

vu?. FSR FINANCIAL, 17
12. Foucault, T. (2016). Where are the risks in high frequency trading?. FSR

FINANCIAL, 53.
13. Foot, M., (2003), “What is “financial stability” and How do we get it?” The Roy


Bridge Memorial Lecture, Financial Services Authority, April.
14. Financial stability board (FSB) (2017). Financial stability implications from

Fintech supervisory and regulatory issues that merit authorities' Attention.
15. Hà at.el. (2018). FINTECH: Hệ sinh thái ở các nước và vận dụng tại Việt Nam. Tạp
chí Ngân hàng.
16. Hoelscher and Quintyn, (2003), “A framework for managing systemic banking

crises”, IMF Occasional Paper, forthcoming, Washington DC.
17. Houben, A. C., Kakes, J., & Schinasi, G. J. (2004). Toward a framework for

safeguarding financial stability (Vol. 4). International Monetary Fund.
18. IMF (2017). Vietnam Selected Issues; IMF Country Report No. 17/191. Truy cập

tại . Ngày truy cập 6/10/2018.
19. Kohn, D., External Member of the Financial Policy Committee, Bank of England.

(2011, July 11). Enhancing Financial Stability: The Role of Transparency. Speech
presented in London School of Economics.
20. Large, A., 2003, ‘Financial stability: maintaining confidence in a complex world’,

Financial Stability Review, pp. 170-174, Bank of England, London.
21. Mishkin, F., (1997), “The Causes and Propagation of Financial Instability: Lessons

for Policymakers”, in Maintaining Financial Stability in a Global Economy,
Symposium Proceedings, Federal Reserve Bank of Kansas City, August, pp. 55‐96.
22. Mishkin, F., (2000), “Financial Stability and the Macroeconomy”, Central Bank of

Iceland Working Paper No. 9, May



23. Minto, A., Voelkerling, M., & Wulff, M. (2017). Separating apples from oranges:

identifying threats to financial stability originating from Fintech. Capital Markets
Law Journal, 12(4), 428-465.
24. Mohan, D. (2016). How banks and Fintech startups are partnering for faster

innovation. Journal of Digital Banking, 1(1), 13-21.
25. Nier, E. W. (2005). Bank stability and transparency. Journal of Financial

Stability, 1(3), 342-354.

26. Nghị định 156/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

27. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2016). Ổn định tài chính và vai trò ổn định tài
chính. Truy cập tại www.sbv.org. Ngày truy cập: 6/10/2018.
28. Ngân hàng nhà nước Việt Nam (2017). Quyết định số 328/QĐ-NHNN ngày
16/3/ 2017 và Quyết định số 1255/QĐ-TTg ngày 21/8/2017. Đề án hoàn thiện
khung pháp lý để quản lý, xử lý đối với các loại tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo.
29. Padoa‐Schioppa, T., (2002), “Central Banks and Financial Stability: Exploring a

Land in Between”, paper presented at the Second ECB Central Banking
Conference, Frankfurt am Main, 24‐25 October.
30. Pauget, G. (2016). Systemic risk in payments. FSR FINANCIAL, 37.

31. PWC (2017). Global Fintech Report 2017
32. Schimel, N. (2016). Digital risk: a strategic challenge and a growth opportunity for


insurers. Financial Stability Review, (20), 25-36.
33. Summer, M. (2003). Banking regulation and systemic risk. open economies

review, 14(1), 43-70.
34. Swan, M. (2015). Blockchain: Blueprint for a new economy. " O'Reilly Media,

Inc.".
35. Thu Hương (2014). Ổn định tiền tệ tài chính nâng cao sức cạnh tranh cho nền kinh
tế. Tạp chí tài chính điện tư
36. Velde, F. (2016). Money and payments in the digital age: innovations and

challenges. FSR FINANCIAL, 103.
37. Weller, C. E., & Zulfiqar, G. (2013). Financial market diversity and macroeconomic

stability. Political Economy Research Institute Working Paper, (332).


38. Uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia (2016). Báo cáo tổng quan thị trường tài chính.

Truy cập tại: Ngày truy cập 10/10/2018.



×