Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Tham gia TPP - cơ hội, thách thức và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.6 KB, 11 trang )

THAM GIA TPP - CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ
GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG NƠNG SẢN
CỦA VIỆT NAM1
PGS.TS. Ngơ Thị Tuyết Mai
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Tóm tắt
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic
Economic Partnership Agreement - TPP) được coi là hiệp định của thế kỷ XXI sẽ
có những tác động rất lớn đối với phát triển kinh tế của Việt Nam nói chung, đối
với phát triển sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam nói riêng. Bài
viết này tập trung nghiên cứu tình hình xuất khẩu hàng nơng sản của Việt Nam
trong những năm gần đây, nhận diện rõ những cơ hội và thách thức đối với xuất
khẩu nông sản của Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm tranh thủ
những cơ hội, vượt qua những thách thức để góp phần thúc đẩy xuất khẩu hàng
nơng sản của Việt Nam khi tham gia TPP.
Từ khóa: TPP, xuất khẩu nông sản, cơ hội, thách thức.
1. Tổng quan về xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam
Trong những năm gần đây, cùng với xu thế hội nhập quốc tế, tăng trưởng
xuất khẩu hàng nông sản đã phản ánh nền nông nghiệp Việt Nam đang chuyển
sang nền sản xuất hàng hóa hướng về xuất khẩu (Biểu đồ 1).
Biểu đồ 1. Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng nông sản Việt Nam

Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT)
1

Trong bài viết này, xuất khẩu hàng nông sản được hiểu theo nghĩa rộng xuất khẩu nông lâm thủy sản

655


Biểu đồ trên cho thấy, giá trị xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam đã tăng


liên tục, từ 25 tỷ USD năm 2011, tăng lên đến 27,764 tỷ USD năm 2013 và tiếp
tục tăng đến 30,1 tỷ USD năm 2015 (giảm nhẹ 0,8% so với năm 2014). Giá trị
xuất khẩu hàng nông sản luôn chiếm khoảng 20-27% tổng kim ngạch xuất khẩu
của cả nước trong giai đoạn 2001-2015.
Về cơ cấu xuất khẩu, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính của
Việt Nam ln giữ vị trí dẫn đầu, đạt khoảng 13-15 tỷ USD, chiếm khoảng 50%
tổng kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam (Biểu đồ 2).
Biểu đồ 2. Cơ cấu xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam

Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Năm 2015, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính giảm nhẹ so với
năm 2014, đạt 13,95 tỷ USD, giảm 2,6%. Trong đó, giá trị một số mặt hàng nơng
sản xuất khẩu chính của Việt Nam giảm rất mạnh như cà phê - giảm 28,1%, cao
su - giảm 14,4%, chè -giảm 7,4% và gạo -giảm 2,9%. Đứng vị trí thứ hai trong
tổng giá trị xuất khẩu hàng nơng lâm thủy sản là nhóm thủy sản. Tuy nhiên, giá
trị xuất khẩu nhóm hàng này năm 2015 chỉ đạt 6,52 tỷ USD, giảm 16,5% so với
năm 2014, giảm rất mạnh ở thị trường xuất khẩu lớn nhất là Hoa Kỳ - giảm tới
23,81%. Giá trị xuất khẩu lâm sản chính tăng 8,2% so với năm 2014, ước tính đạt
gần 7,1 tỷ USD.
Nhiều mặt hàng nông sản của Việt Nam hiện đứng vị trí cao trên thị trường
thế giới trong nhiều năm trở lại đây (Hạt điều, tiêu đen - đứng thứ nhất thế giới cả
về khối lượng và giá trị; cà phê nhân và sắn lát khô - đứng vị trí thứ 2 và 2; gạo đứng vị trí thứ 3 và 4; cao su - đứng vị trí thứ 4 và 4; chè - đứng vị trí thứ 5 và 7).
Điểm chú ý là trong số 10 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của cả nước năm 2015 thì
có tới 4 mặt hàng nông sản (hàng thủy sản, gỗ và sản phẩm đồ gỗ, cà phê và gạo).
656


Thị trường xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam chủ yếu tập trung tại các
nước trong khu vực, trong khi thị trường các nước TPP có tiềm năng lớn chưa
thực sự được chú trọng. Theo số liệu của USDA năm 2012 cho thấy Việt Nam

xuất khẩu nông sản sang các nước này chỉ đạt khoảng 2,9 tỷ USD, chiếm khoảng
11% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam. Trong đó, các thị
trường lớn, có sức mua và có mức độ cạnh tranh cao như Hoa Kỳ, Nhật Bản.v.v..,
thì thị phần hàng nơng sản Việt Nam cịn chiếm tỷ lệ rất thấp, không ổn định.
Thực tế, năm 2012, Hoa Kỳ là nước nhập khẩu nông sản lớn nhất, chỉ đạt 1,2 tỷ
USD (chiếm tới 41% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam vào thị
trường các nước TPP, chiếm 0,4-0,5% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng nơng sản
của Hoa Kỳ). Đứng vị trí thứ ba về nhập khẩu hàng nông sản từ Việt Nam là Nhật
Bản, đạt 409 triệu USD (sau Malaysia - nhập khẩu 622 triệu USD), nhưng cũng
chỉ chiếm 0,3-0,5% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng nông sản của Nhật Bản.
Chất lượng hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam tuy có được cải thiện
trong những năm gần đây, nhưng vẫn còn ở mức thấp so với đối thủ cạnh tranh.
Cho đến nay chúng ta chưa có những mặt hàng nơng sản xuất khẩu chủ lực tạo ra
giá trị gia tăng lớn trên cơ sở áp dụng công nghệ cao và sử dụng lao động có trình
độ, kỹ năng. Bộ NN&PTNT cho biết hiện gần 90% hàng nông sản của Việt Nam
xuất khẩu dưới dạng thơ, sơ chế, mang thương hiệu nước ngồi. Do đó, khi xuất
khẩu hàng nơng sản, phần giá trị gia tăng thấp và dễ gặp rủi ro trong hoạt động
kinh doanh do giá cả sản phẩm thô trên thị trường thế giới đang có xu hướng
giảm mạnh và thường xuyên biến động với biên độ cao. Một số mặt hàng nơng
sản của ta tuy đang được xếp ở vị trí cao trên thị trường thế giới nhưng do chất
lượng thấp nên thường bán với giá thấp hơn giá thế giới.
2. Cơ hội đối với xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam
khi tham gia TPP
Thứ nhất, tham gia TPP sẽ giúp Việt Nam điều chỉnh linh hoạt cơ cấu và
mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản, giảm áp lực phụ thuộc vào thị trường
Trung Quốc. Với 600 triệu dân có sức mua cao, đóng góp 40% GDP thế giới và
chiếm tới hơn 20% giao dịch thương mại toàn cầu, TPP được xem là thị trường
tiêu thụ nông sản lớn trên thế giới và đang có xu hướng mở rộng hơn, đặc biệt là
đối với thị trường Hoa Kỳ, Nhật Bản, Australia và Singapore. Kết quả nghiên cứu
của Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (IPSARD)

cho thấy các mặt hàng chịu sự tác động tích cực của TPP gồm thủy sản, rau quả
(mức độ cao), gạo, cà phê, điều, cao su, gỗ (mức độ trung bình). Hiện tại một số
657


mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam phụ thuộc quá lớn vào thị trường
Trung Quốc (nước này nhập tới 85% lượng sắn và sản phẩm từ sắn, 64% lượng
rau quả, 48% lượng cao su và 35% lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam)2. Sự tập
trung xuất khẩu quá mức vào Trung Quốc chứa đựng rủi ro tiềm ẩn khi thị trường
này có những biến động gây bất lợi cho hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt
Nam, trong khi bỏ lỡ cơ hội khai thác tiềm năng xuất khẩu to lớn do TPP đem lại.
Thứ hai, tham gia TPP, hàng nơng sản Việt Nam sẽ có lợi thế cạnh tranh do
được hưởng lợi từ những cam kết cắt giảm thuế quan. Đặc biệt, ngay sau khi TPP
có hiệu lực, việc Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada, Australia… giảm ngay thuế nhập
khẩu về 0% đối với nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực mà Việt Nam có
lợi thế cạnh tranh tại các nước TPP sẽ mở cho Việt Nam một thị trường xuất khẩu
nông sản rộng lớn hơn. Chẳng hạn, các doanh nghiệp xuất khẩu tôm, bạch tuộc,
cá ngừ của Việt Nam sẽ được hưởng lợi xuất khẩu vào thị trường Nhật do thuế
nhập khẩu sẽ được giảm về 0% so với mức trung bình là 6,4% đến 7,2% 3. Bên
cạnh đó, Việt Nam cịn có lợi thế cạnh tranh rất lớn so với các nước xuất khẩu
những mặt hàng nông sản cùng loại gồm thủy sản, đồ gỗ, cao su, điều, tiêu,…,
nhưng không phải là thành viên của TPP (cụ thể về mặt hàng gạo, do các đối thủ
Thái Lan và Ấn Độ chưa tham vào TPP nên sẽ là cơ hội lớn cho gạo Việt Nam
xâm nhập thị trường các nước thành viên TPP khi thuế xuất khẩu gạo của Việt
Nam vào các nước này sẽ giảm, cụ thể tại Hoa Kỳ sẽ giảm từ 7% xuống 0%).
Kết quả điều tra khảo sát gần đây về tác động của điều chỉnh thuế suất theo
TPP tác động đến doanh nghiệp do Vietnam Report phối hợp với cộng đồng các
doanh nghiệp lớn cho thấy có đến 77% doanh nghiệp ngành nông nghiệp tham
gia trả lời phỏng vấn cho rằng sẽ có ảnh hưởng tích cực4.


2

Số liệu thống kê của Bộ NN&PTNT
Với Hoa Kỳ và Canada, Việt Nam đạt được thỏa thuận tiếp cận thị trường đáng kể với khoảng 98%
và 99% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa nơng sản; 92,68% và 100% kim ngạch xuất khẩu thủy sản;
100% kim ngạch xuất khẩu gỗ được xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực với Việt
Nam…(Nguồn: Bộ NN&PTNT).
4
Kết quả điều tra khảo sát do Vietnam Report phối hợp với cộng đồng các doanh nghiệp lớn trong
bảng xếp hạng V1000-1000 doanh nghiệp nộp thuế thu nhập doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam và
VNR500-500 doanh nghiệp tăng trưởng nhanh nhất Việt Nam.
3

658


Biểu đồ 3. Đánh giá tác động điều chỉnh thuế suất theo TPP
đến cộng đồng doanh nghiệp lớn Việt Nam

Nguồn: Khảo sát các doanh nghiệp V1000 và VNR500 do Vietnam Report
thực hiện, tháng 9/2015
Thứ ba, TPP sẽ mở ra cơ hội thu hút đầu tư trực tiếp từ các nước TPP vào
nông nghiệp Việt Nam để tận dụng ưu đãi thuế quan, góp phần nâng cao năng
suất và chất lượng hàng nơng sản xuất khẩu. Tính chung cả năm 2014, vốn đầu
tư trực tiếp nước ngồi vào nơng nghiệp cịn rất ít với 513 dự án, chỉ chiếm
khoảng 1,4% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam5. Việc thu hút
dịng vốn từ nhiều nước thành viên có trình độ phát triển cao như Hoa Kỳ, Nhật
Bản, Úc, Niu-Di -lân vào lĩnh vực nơng nghiệp Việt Nam có thể mang lại những
lợi ích lan tỏa đáng kể về công nghệ và kỹ năng quản lý tiên tiến đem lại giá trị
gia tăng cao hơn cho xuất khẩu hàng nông sản trong chuỗi sản xuất khu vực. Mức

tăng đầu tư sẽ giúp thúc đẩy sự hình thành vốn cố định và tạo cơ hội cho Việt
Nam khai thác có hiệu quả hơn các lợi thế tiềm năng và cơ hội để thúc đẩy xuất
khẩu nông sản.
Thứ tư, TPP sẽ tạo động lực thúc đẩy quá trình tái cơ cấu sản xuất và xuất
khẩu hàng nông sản Việt Nam khi tiếp cận được các thị trường của các nước
thành viên. Trong đó, Hoa Kỳ và Nhật Bản là hai thị trường được dự báo sẽ gia
tăng nhanh khối lượng nhập khẩu các mặt hàng nông sản của Việt Nam. Sức ép
cạnh tranh khi tham gia TPP sẽ buộc các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong
ngành nông nghiệp Việt Nam phải tăng cường đầu tư nguồn nhân lực, ứng dụng
công nghệ và quản lý tiên tiến trong sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản để nâng
cao sức cạnh tranh. Việc tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng sẽ
5

Số liệu của Bộ NN&PTNT

659


giúp Việt Nam đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp, với trọng tâm
tái cấu trúc là đưa công nghệ mới, quản lý mới vào phát triển nông nghiệp để thực
hiện chủ trương lớn của chính phủ hiện nay.
3. Thách thức đối với xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam
khi tham gia TPP
Bên cạnh những cơ hội, việc tham gia TPP cũng đặt ra khơng ít những thách
thức cần phải giải quyết cho xuất khẩu nông sản của Việt Nam.
Thứ nhất, việc cắt giảm thuế quan theo TPP sẽ dẫn đến các doanh nghiệp
Việt Nam phải chịu sức ép cạnh tranh lớn với hàng nông sản nhập khẩu, dẫn đến
giảm khả năng xuất khẩu. Khi TPP có hiệu lực, Việt Nam phải mở cửa thị trường
trong nước, trong khi nhiều rào cản kỹ thuật chưa có hoặc không cao, nên các mặt
hàng nông sản trên thị trường nội địa sẽ gặp bất lợi6. Bởi vì, nhiều mặt hàng nông

sản Việt Nam, do quy mô sản xuất nhỏ lẻ, hộ gia đình là chủ yếu, việc áp dụng
tiến bộ khoa học còn hạn chế, năng suất lao động cịn thấp nên chất lượng nơng
sản khơng đồng đều, giá thành sản phẩm cịn cao. Hiện cả nước chỉ có khoảng
3.500 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, chiếm 1,01% tổng số
doanh nghiệp cả nước7. Đa số là doanh nghiệp này thuộc loại nhỏ và vừa, thường
sử dụng dưới 10 lao động với số vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm tới 65%, điều kiện sản
xuất còn hạn chế nên sẽ gặp khó khăn khi cạnh tranh trên thị trường thế giới8.
Trong khi đó, đối với một số loại nông sản mà Hoa Kỳ, Úc, Niu-di lân, Chi lê có
sức cạnh tranh mạnh (thịt lợn, thịt gà, thịt bị,…) sẽ gây sức ép cạnh tranh lớn cho
các doanh nghiệp Việt Nam khi thuế đưa đưa về 0%. Đây là những mặt hàng mà
Việt Nam sản xuất được nhưng sức cạnh tranh còn yếu. Hệ quả là, các doanh
nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt, thị phần nội địa sẽ
bị thu hẹp nếu như không cải thiện chất lượng và giá cả…
Thứ hai, những quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm
ngày càng cao từ các nước TPP đã đặt ra những rào cản lớn đối với xuất khẩu
nông sản Việt Nam. Khi thực hiện TPP, những rào cản này sẽ ngày càng khắt khe
hơn từ các nước thành viên, trong khi đây lại là điểm yếu đối với nơng sản xuất
khẩu của Việt Nam, rất có thể sẽ vơ hiệu hóa lợi ích từ việc giảm thuế quan.
Thống kê của Bộ NN&PTNT cho thấy, trong thời gian qua, nhiều mặt hàng nông
sản xuất khẩu của Việt Nam đã bị cản trở bởi các hàng rào kỹ thuật nghiêm ngặt
6

Trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, Việt Nam cam kết đưa khoảng hơn 98,3% mặt hàng vào lộ
trình xóa bỏ ngay và xóa bỏ theo dần theo lộ trình đến năm thứ 13 tùy loại sản phẩm.
7
Theo số liệu thống kê của Bộ NN&PTNT
8
Theo số liệu thống kê của Bộ NN&PTNT

660



từ các thị trường nhập khẩu chính như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Mê-hi-cơ...Tính
riêng 4 tháng đầu năm 2015, cả nước đã có 36 lơ tơm xuất khẩu bị trả về từ ba thị
trường nhập khẩu chính là Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản do có chứa hóa chất, kháng
sinh thuộc loại chất cấm, chiếm tới 40% so với con số của cả năm 2014 (Trong
đó, có tới 25 lơ tôm xuất khẩu bị trả về từ thị trường Hoa Kỳ, chiếm hơn 50% so
với cả năm 2014). Ủy ban châu Âu và Nhật Bản cũng đã nhiều lần đưa ra các
cảnh báo đối với các mặt hàng rau, củ quả của Việt Nam, điển hình là mặt hàng
tiêu, thanh long, mướp đắng, gạo… thậm chí gỗ làm bao bị đóng hàng xuất khẩu
cũng bị vi phạm các quy định vệ sinh an toàn thực phẩm của các nước này. Kết
quả nghiên cứu của IPSARD cho thấy một số mặt hàng nông sản xuất khẩu của
Việt Nam sẽ phải đối mặt với thách thức lớn khi tham gia TPP gồm rau quả (đáp
ứng các quy định về SPS, công nghệ chế biến), thủy sản (SPS, TBT, công nghệ
chế biến), gạo (SPS, TBT), cà phê, điều, cao su (công nghệ chế biến).
Thứ ba, thách thức liên quan đến tiêu chuẩn lao động và môi trường cao
của TPP. Hiện nay, về cơ bản, pháp luật Việt Nam đã có những quy định cụ thể
về tiền công tối thiểu, thời gian làm việc và an toàn vệ sinh lao động, lao động trẻ
em. Nhưng hiệu quả thực hiện những chuẩn mực này trên thực tế vẫn còn nhiều
điểm chưa đáp ứng được yêu cầu theo TPP, do đó, hàng nơng sản xuất khẩu của
Việt Nam sẽ không được hưởng mức thuế nhập khẩu 0% từ các nước thành viên
nếu như các tiêu chuẩn này không được cải thiện. Hiện nay, thu nhập của người
lao động Việt Nam trong nơng nghiệp nhìn chung cịn thấp, mức lương tối thiểu
chỉ đáp ứng khoảng 70% nhu cầu tối thiểu và có đến 80% lao động Việt Nam
khơng có tích lũy tiết kiệm hoặc chỉ có mức tích lũy dưới 2 triệu đồng mỗi người
một tháng9. Vấn đề tăng ca quá mức tại một số doanh nghiệp sản xuất và xuất
khẩu hàng nông sản vẫn thường xuyên diễn ra. Việc đảm bảo an toàn, vệ sinh lao
động tại đa số các doanh nghiệp này hiện vẫn chưa được đảm bảo, các trang thiết
bị, công cụ bảo hộ an tồn cho người lao động cịn thiếu thốn. Trong khi đó, chế
tài xử phạt của nhà nước đối với các doanh nghiệp vi phạm an toàn, vệ sinh lao

động chưa có tính răn đe cao. Ngồi ra, với quy mơ sản xuất nơng nghiệp hộ gia
đình là phổ biến có sự tham gia của lao động trẻ em nơng thơn, thì việc bị trả lại
tồn bộ hàng xuất khẩu được làm từ lao động trẻ em tại biên giới rất dễ bị xảy ra
khi thực thi TPP .

9

Theo PGS.TS Nguyễn Tiến Dũng, Hiệu trưởng Đại học Kinh tế – Luật (Đại học quốc gia TP HCM).
đăng ngày 9/11/2015

661


Thứ tư, mặc dù Việt Nam có lợi thế đối với sản xuất nông nghiệp, song đáng
lo ngại nhất là ngành chăn ni và ngành mía đường cho dù việc giảm thuế đối
với ngành này trong TPP có lộ trình. Thực tế Hoa Kỳ, Úc, Niu-Di-lân hiện đang
là những nước có ngành chăn ni rất phát triển (chiếm tới 70%-80% sản xuất
nơng nghiệp), do đó, sẽ gây áp lực cạnh tranh khốc liệt cho ngành chăn nuôi Việt
Nam khi thuế nhập khẩu thịt bò, thịt gà, thịt lợn vào Việt Nam sẽ giảm từ 5%
xuống còn 0% khi thực hiện TPP. Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, giá thành
thức ăn chăn nuôi của Việt Nam cao hơn khoảng 10% so với các nước trong khu
vực. Khi tham gia TPP, Việt Nam có cơ hội nhập khẩu những mặt hàng nguyên
liệu như thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y… từ các nước TPP với giá rẻ hơn do thuế
nhập khẩu giảm xuống cho tới 0%. Tuy nhiên, hiện thuế nhập khẩu đối với những
mặt hàng này đã rất thấp nên kỳ vọng sau khi TPP có hiệu lực, giá thành thức ăn
chăn ni sẽ giảm sâu là khó. Đối với ngành mía đường, gia nhập TPP sẽ buộc
Việt Nam phải mở cửa ngành này, gỡ bỏ hạn ngạch thuế quan. Khi đó, ngành mía
đường sẽ gặp nhiều khó khăn nếu như khơng cải thiện chi phí sản xuất trong nước
hiện đang cao hơn đáng kể so với các nước trong khu vực và thế giới. Trong các
nước TPP, Úc đang là đối thủ cạnh tranh lớn nhất với chi phí sản xuất chỉ

khoảng 20USD/tấn đường, trong khi đó ở Việt Nam là 55-60 USD/tấn đường.
Ngồi ra, một số sản phẩm nơng nghiệp khác như sữa, đậu tương, ngô… mà
Việt Nam đang phải nhập khẩu với số lượng lớn, cũng sẽ gặp khó khăn dù
mức độ khơng lớn do quy mơ sản xuất nhỏ lẻ, ứng dụng công nghệ hạn chế và
không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Cuối cùng, tham gia TPP bắt buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải tuân
thủ các quy định rất chặt chẽ về bảo vệ bản quyền như giống, thuốc bảo vệ thực
vật, và quy tắc xuất xứ. Điểm đáng lưu ý là, quy tắc xuất xứ hàng hóa trong TPP
yêu cầu các sản phẩm nông sản xuất khẩu từ một thành viên của TPP sang các
thành viên khác phải có xuất xứ nội khối, khơng sử dụng các ngun liệu của
nước thứ ba ngồi thành viên TPP mới được hưởng ưu đãi thuế suất 0%. Đặc biệt
đối với gỗ và các sản phẩm gỗ xuất khẩu, để được hưởng mức thuế suất ưu đãi
trong TPP, doanh nghiệp phải đáp ứng được yêu cầu 55% nội địa, doanh nghiệp
chỉ được phép nhập tối đa 45% nguyên vật liệu từ nước ngoài.
4. Một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của
Việt Nam sang các nước TPP
Để tận dụng những cơ hội và giảm thiểu tác động của các thách thức mà
TPP mang lại, đòi hỏi phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và các
662


mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam. Muốn vậy, cần phải thực hiện đồng
bộ các giải pháp sau đây:
Một là, cần phải nâng cao chất lượng hàng nông sản xuất khẩu đáp ứng
các yêu cầu của các thị trường lớn và tiềm năng như Hoa Kỳ, Nhật Bản. Muốn
vậy, trước hết, đòi hỏi nhà nước cần tập trung đầu tư nghiên cứu lai tạo ra những
giống cho năng suất, chất lượng cao phù hợp với điều kiện vùng miền; đồng thời
mạnh dạn chuyển đổi, thậm chí loại bỏ những loại giống kém chất lượng; cần có
những chính sách chỉ khuyến khích các cơ sở thực hiện nghiên cứu và chuyển
giao khoa học công nghệ gắn với yêu cầu của thị trường; chú trọng khuyến khích

các doanh nghiệp đầu tư, áp dụng các quy trình sản xuất, cơng nghệ chế biến và
bảo quản tiên tiến để nâng cao giá trị gia tăng cho hàng nông sản xuất khẩu trong
chuỗi cung ứng khu vực TPP. Ngoài nguồn vốn từ ngân sách nhà nước đầu tư cho
các hoạt động này, nên huy động nguồn vốn từ các doanh nghiệp trong nước, các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, từ các quỹ khuyến nông, khuyến công...
Đồng thời, Nhà nước cần sớm hồn chỉnh hệ thống chính sách quản lý, kiểm tra
chất lượng hàng nông sản xuất khẩu phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế để các doanh
nghiệp lấy đó làm mục tiêu hướng tới trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Hai là, nhà nước cần tăng cường đầu tư xây dựng và phát triển hệ thống
thông tin về thị trường hàng nông sản do tác động của TPP. Trong bối cảnh tồn
cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tình hình kinh tế thế giới có
nhiều biến động, giá cả vật tư, giá hàng nơng sản ln có sự dao động theo hướng
tăng hoặc giảm rất khó dự đoán. Khi thực thi TPP, các nước thành viên sẽ có
những sự điều chỉnh về pháp luật, chính sách thương mại hoặc chính sách điều
hành kinh tế để phù hợp với cam kết trong khuôn khổ Hiệp định, đồng thời đối
phó với sự thay đổi về diễn biến cung cầu nơng sản trên thị trường. Để có thể chủ
động nắm bắt với những thay đổi đó, việc nhà nước cung cấp thơng tin đầy đủ,
kịp thời và dự báo chính xác diễn biến thị trường để từ đó giúp các doanh nghiệp
xuất khẩu hàng nơng sản có những biện pháp phù hợp để khai thác những cơ hội
và vượt qua khó khăn là rất quan trọng. Muốn vậy, nhà nước cần phải tăng cường
đầu tư xây dựng hệ thống thông tin thống kê, phân tích và dự báo giá cả, cung
cầu... hàng nông sản để tránh những thiệt hại và giảm bớt những rủi ro khơng
đáng có đối với doanh nghiệp xuất khẩu nông sản và nông dân.
Ba là, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động xúc tiến thương mại để
tăng khả năng tiếp cận thị trường nông sản các nước TPP. Việc đẩy mạnh các
hoạt động xúc tiến thương mại hàng nông sản phải dựa trên cơ sở phối hợp có
663


hiệu quả giữa các cơ quan quản lý nhà nước, hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp,

nơng dân để tìm kiếm cơ hội phát triển thị trường xuất khẩu sang các nước TPP,
tránh những lãng phí khơng cần thiết. Bên cạnh đó, cần đổi mới các hình thức xúc
tiến thương mại hàng nông sản gắn với hiệu quả xuất khẩu, đặc biệt là những mặt
hàng nông xuất khẩu chủ yếu mà Việt Nam có lợi thế xuất khẩu sang thị trường
các nước TPP như tôm, cá ba sa, cà phê, chè, đồ gỗ, hạt tiêu,... Ngoài ra, cần tiếp
tục củng cố công tác tổ chức và tăng cường trách nhiệm cho các cơ quan đại diện
Việt Nam ở nước ngoài trong hoạt động giới thiệu, quảng bá và trợ giúp các
doanh nghiệp tiếp cận và thâm nhập được những thị trường lớn như Hoa Kỳ,
Nhật Bản...
Bốn là, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực nông
nghiệp. Muốn vậy, trước hết, Nhà nước cần phải xây dựng chiến lược đào tạo
nguồn nhân lực làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp có chất lượng cao, thích ứng
với bối cảnh hội nhập TPP. Nhà nước cần đổi mới cơ chế chính sách tuyển dụng
và chế độ đãi ngộ thỏa đáng để thu hút những cán bộ quản lý có năng lực, tâm
huyết và có nhiều kinh nghiệm tham gia vào hoạt động nghiên cứu, sản xuất và
kinh doanh hàng nông sản xuất khẩu. Đồng thời, nhà nước cần tăng cường đầu tư
và xây dựng năng lực cho đội ngũ cung cấp thơng tin, phân tích và dự báo thị
trường hàng nơng sản thường xuyên, hiệu quả thông qua công tác sắp xếp, đào
tạo và bồi dưỡng nhiều mặt, kể cả kiến thức về TPP, ngoại ngữ và đạo đức nghề
nghiệp. Chú trọng hơn nữa hệ thống đào tạo nghề ở nông thôn, hệ thống khuyến
nông, khuyến nông và chuyển giao khoa học kỹ thuật và kiến thức về kinh tế thị
trường cho người lao động tại chỗ, trong đó có lao động làm việc trong lĩnh vực
nông nghiệp.
Năm là, cần nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thu hút đầu tư trực tiếp
từ các nước TPP vào lĩnh vực nông nghiệp. Để đón đầu những cơ hội thu hút đầu
tư từ các tập đồn cơng ty đa quốc gia khi thực hiện TPP, về phía Nhà nước, cần
xây dựng chiến lược quốc gia về xúc tiến đầu tư vào lĩnh vực nơng nghiệp trong
tình hình mới. Chú trọng xúc tiến thu hút, chọn lọc các dự án đầu tư vào sản xuất
nông nghiệp theo hướng ứng dụng công nghệ cao, phát triển bền vững, đặc biệt là
những dự án chọn tạo nhân giống cho năng suất, chất lượng cao, sử dụng công

nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường v.v.. Về phía các các địa phương, cần
nâng cao tính chủ động trong hoạt động xúc tiến đầu tư để lựa chọn và tiếp nhận
nguồn vốn đầu tư từ các nước TPP vào lĩnh vực nông nghiệp cho phù hợp với lợi
thế và điều kiện của địa phương mình. Đồng thời, tăng cường và phối hợp chặt
chẽ hơn nữa với các cơ quan trung ương, các tỉnh trong vùng, các tổ chức nước
664


ngồi trong cơng tác xúc tiến đầu tư theo vùng để nâng cao tính hiệu quả, tiết
kiệm chi phí và tăng cơ hội tiếp cận thông tin của các doanh nghiệp có nhu cầu
đầu tư.
Cuối cùng, trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, khi Nhà nước hầu như
không can thiệp vào hoạt động kinh doanh, thì vai trị của các Hiệp hội ngành
hàng ngày càng quan trọng và cần thiết trong việc định hướng, phối hợp có hiệu
quả các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trên thị trường. Để nâng cao hơn nữa
vai trò của các hiệp hội và để có thể tăng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản
trên thị trường các nước TPP, các hiệp hội cần phải có cơ chế quản lý chuyên
nghiệp với các quy định chặt chẽ về hội viên, về tổ chức bộ máy quản lý giám sát
và tài chính của hiệp hội; phối hợp hành động giữa các hội viên về cung cấp, dự
báo, trao đổi và xúc tiến thương mại thông qua việc tổ chức hội thảo, hội nghị
khách hàng, hội chợ, triển lãm, khảo sát các thị trường lớn; đẩy mạnh hoạt động
hợp tác quốc tế với các hiệp hội ngành hàng trên thế giới nhằm tranh thủ hỗ trợ
tài chính, kỹ năng chun mơn, cơng nghệ và kinh nghiệm hoạt động.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ERS/USDA (2014), Agriculture in the Trans-Pacific Partnership,
Economic Research Report No. (ERR-176) 62 pp.
2. Hội nghị, Việt Nam gia nhập Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP) - Triển vọng và giải pháp cho ngành nông nghiệp, Bộ NN&PTNT
tổ chức tại Hà Nội ngày 6/11/2015.

3. Hội thảo “Nông Nghiệp Việt Nam và TPP: Cơ hội và thách thức” do
Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh tổ chức ngày 17/11/2015.
4. The office of the United States Trade Representative (2015), TPP Full
Text, partnership/tpp-full-text.

665



×