Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản tại Công ty cổ phần Intimex Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.46 KB, 73 trang )

Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Xu©n Thu - TC25D
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, với mục tiêu đẩy mạnh quá trình công nghiệp
hóa - hiện đại hóa đất nước, đồng thời từng bước tham gia hội nhập nền kinh tế
khu vực và thế giới, việc đẩy mạnh xuất khẩu được Nhà nước đặc biệt coi trọng.
Xuất khẩu phát triển đã đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước, giải quyết
công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, thúc đẩy các ngành công nghiệp khác
phát triển.
Ngành nông nghiệp nước ta là một ngành mũi nhọn trong quá trình công
nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước. Công ty cổ phần Intimex Việt Nam là một
trong những doanh nghiệp xuất khẩu của Nhà nước đứng đầu trong lĩnh vực
xuất khẩu, đã có những thành tựu đáng kể trong công cuộc đổi mới. Trong thời
gian qua Công ty cổ phần Intimex Việt Nam ngày càng chiếm lĩnh các thị
trường khó tính như Nhật Bản, EU, Mỹ…đồng thời tạo được uy tín của công ty
trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, trong bối cảnh tự do hoá thương mại ngày
nay, công ty đang vấp phải sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ cạnh tranh lớn
mạnh trong xuất khẩu nông sản là Trung Quốc, Thái Lan, Indonexia…đặc biệt
là Trung Quốc. Đây là thách thức to lớn đòi hỏi công ty phải có biện pháp giải
quyết, nhằm tăng sức cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao uy tín của công
ty trên trường quốc tế.
Sau một thời gian thực tập tại công ty và những kiến thức tích luỹ được ở
nhà trường đã giúp em viết khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Giải pháp thúc đẩy
xuất khẩu hàng nông sản tại Công ty cổ phần Intimex Việt Nam”. Em hy vọng
rằng những giải pháp mà em đề xuất dưới đây có thể phần nào giúp ích cho công
ty đưa ra những biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản trên thị trường thế
giới, đưa kim ngạch xuất khẩu của công ty ngày càng tăng và đóng góp nhiều
hơn vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Ngoài lời mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, bản khóa luận này có ba
chương chính:
- 1 -
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Xu©n Thu - TC25D


- Chương 1: Khái quát chung về hoạt động xuất khẩu và thị trường
nông sản thế giới.
- Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản tại Công ty cổ
phần Intimex Việt Nam
- Chương 3: Định hướng và giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu
của Công ty cổ phần Intimex Việt Nam.
- 2 -
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Xu©n Thu - TC25D
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU VÀ
THỊ TRƯỜNG NÔNG SẢN THẾ GIỚI
I. Khái quát chung về hoạt động xuất khẩu:
1. Khái niệm hoạt động xuất khẩu:
Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh thu lợi bằng cách bán sản phẩm hoặc
dịch vụ ra thị trường nước ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh
toán theo nguyên tắc ngang giá, và sản phẩm hay dịch vụ đó phải di chuyển qua
biên giới của một quốc gia, tiền tệ được sử dụng ở đây phải là ngoại tệ đối với
một, hai hay nhiều bên tham gia trong hoạt động này.
Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của hoạt động ngoại thương đã
xuất hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển. Hoạt động này diễn ra trên mọi lĩnh
vực, trong mọi điều kiện từ sản xuất hàng tiêu dùng cho đến máy móc thiết bị, tư
liệu sản xuất và cả công nghệ kỹ thuật cao. Dù ở lĩnh vực nào thì hoạt động xuất
khẩu cũng đều nhằm mục đích mang lại lợi nhuận cho các quốc gia tham gia.
Hoạt động xuất khẩu thể hiện sự kết hợp chặt chẽ và tối ưu giữa khoa học
quản lý và nghệ thuật kinh doanh của doanh nghiệp, giữa nghệ thuật kinh doanh
và các yếu tố khác như: pháp luật, văn hóa, khoa học kỹ thuật,
Hoạt động xuất khẩu hàng hóa không phải là những hành vi mua bán
riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức ở cả
bên trong và bên ngoài đất nước nhằm thu được ngoại tệ, những lợi ích kinh tế
xã hội thúc đẩy hoạt động sản xuất hàng hóa trong nước phát triển góp phần
chuyển đổi cơ cấu kinh tế và từng bước nâng cao đời sống nhân dân.

Hơn nữa, mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế so
sánh của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế qua đó phát huy được
lợi thế bên trong và tận dụng được những lợi thế bên ngoài. Từ đó đẩy nhanh
quá trình Công nghiệp hóa – hiện đại hóa, rút ngắn khoảng cách giữa các nước
đang phát triển và các nước phát triển, mặt khác tạo ra doanh thu và lợi nhuận
giúp cho doanh nghiệp ngày càng phát triển.
- 3 -
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Xu©n Thu - TC25D
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu:
2.1 Đối với một quốc gia:
Xuất khẩu tạo nguồn thu ngoại tệ để đảm bảo nhu cầu nhập khẩu. Sự tăng
trưởng của một quốc gia phụ thuộc vào 4 nhân tố là: Vốn, công nghệ, nhân lực
và tài nguyên. Nhưng không phải quốc gia nào cũng có đầy đủ cả 4 yếu tố trên,
đặc biệt là các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển.
Hầu hết các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển đều thiếu vốn nên
họ không có cơ hội để nhập khẩu công nghệ hiện đại và không thể đầu tư nâng
cao trình độ nguồn nhân lực do đó trình độ sản xuất của họ rất thấp. Và vì trình
độ sản xuất thấp chính là nguyên nhân làm cho quốc gia này thiếu vốn, vì vậy
đây chính là một vòng luẩn quẩn của các quốc gia đang phát triển và chậm phát
triển. Để thoát khỏi vòng luẩn quẩn này các quốc gia buộc phải có vốn để nhập
khẩu công nghệ tiên tiến mà trong nước chưa sản xuất được và nâng cao trình độ
nguồn nhân lực qua đó nâng cao khả năng sản xuất. Nhưng một câu hỏi được
đặt ra với các quốc gia này là: Làm thế nào để có được lượng ngoại tệ cần thiết
đáp ứng cho nhu cầu này?
Thực tiễn cho thấy, để có đủ được lượng ngoại tệ đáp ứng cho nhu cầu
này, các quốc gia có thể sử dụng các nguồn huy động vốn chính sau:
- Nguồn thu từ các hoạt động xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ
- Nguồn từ các dịch vụ thu ngoại tệ như ngân hàng, du lịch
- Nguồn vay nợ, viện trợ
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài.

Trên thực tế thì các quốc gia này gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy
động được nguồn vốn từ các hoạt động đầu tư, vay nợ, viện trợ và các dịch vụ
thu ngoại tệ. Hơn nữa, với các nguồn vốn này các quốc gia phải chịu những thiệt
thòi và những ràng buộc về chính trị nhất định. Vì vậy, nguồn vốn quan trọng
nhất mà các quốc gia này có thể trông chờ là nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu.
- 4 -
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Xu©n Thu - TC25D
Hoạt động xuất khẩu phát huy được lợi thế của các quốc gia. Để hoạt
động xuất khẩu có hiệu quả thì các quốc gia phải lựa chọn các mặt hàng sản xuất
mà các quốc gia đó có lợi thế hơn các quốc gia khác. Đây chính là những mặt
hàng có sử dụng nguồn nguyên liệu dồi dào, lao động rẻ, ứng dụng nền sản xuất
trong nước. Chính vì vậy mà hoạt động xuất khẩu phát huy được lợi thế của
quốc gia.
Theo qui luật lợi thế so sánh, cả hai quốc gia sẽ cùng có lợi nếu chuyên
môn hóa vào sản xuất mặt hàng mà mình có lợi thế, sau đó hai nước sẽ mang
trao đổi sản phẩm cho nhau, tỷ lệ trao đổi phải lớn hơn tỷ lệ trao đổi nội địa.
- Hoạt động xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất.
Thông thường các quốc gia xuất khẩu sẽ tập trung vào xuất khẩu những
mặt hàng mà quốc gia đó có lợi thế. Khi lợi nhuận thu được từ xuất khẩu mặt
hàng ấy càng lớn thì số người tập trung và sản xuất mặt hàng đó càng nhiều. Do
vậy, cơ cấu sản xuất trong nước sẽ thay đổi, sự thay đổi này không chỉ diễn ra
trong ngành mà còn diễn ra ở cả những ngành phụ trợ cho ngành xuất khẩu. Ví
dụ: Khi hoạt động xuất khẩu hàng nông sản phát triển kéo theo sự phát triển của
ngành sản xuất phân bón, ngành vận tải; ngành công nghiệp thực phẩm phát
triển kéo theo ngành trồng trọt, chăn nuôi phát triển; ngành dệt may phát triển
kéo theo ngành trồng bông đay, ngành nhuộm, ngành thiết kế thời trang phát
triển.
Hoạt động xuất khẩu góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, tạo nguồn thu nhập
nâng cao đời sống và trình độ người lao động.
Hoạt động xuất khẩu là một trong những hoạt động mang lại nguồn lợi

nhuận lớn trong các hoạt động kinh doanh, chính vì vậy số lượng lao động hoạt
động trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu hàng hóa không ngừng tăng, hàng
năm ngành xuất khẩu giải quyết việc làm cho một số lượng lớn lao động trong
khu vực. Thêm vào đó, do có điều kiện tiếp xúc với thị trường mới, phương thức
quản lý mới, khoa học công nghệ tiên tiến nên trình độ của người lao động cũng
được cải thiện để đáp ứng yêu cầu chung của thị trường quốc tế.
- 5 -
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Xu©n Thu - TC25D
Hoạt động xuất khẩu nâng cao uy tín của quốc gia trên trường quốc tế. Để
đánh giá uy tín của một quốc gia người ta thường dựa vào 4 yếu tố đó là: GDP,
lạm phát, thất nghiệp và cán cân thanh toán . Hoạt động xuất khẩu đem lại
nguồn thu ngoại tệ, góp phần làm cân bằng cán cân thanh toán và đó là một
trong bốn điều kiện đánh giá sự phát triển kinh tế của một quốc gia, hơn nữa,
hoạt động xuất khẩu làm tăng tích lũy ngoại tệ của một quốc gia và có thể biến
quốc gia đó thành một quốc gia xuất siêu và tạo sự đảm bảo trong thanh toán
cho đối tác, tăng được uy tín trong kinh doanh. Thông qua hoạt động xuất khẩu,
hàng hóa của quốc gia này được bày bán trên thị trường thế giới, khuếch trương
tiếng vang và sự hiểu biết từ nước ngoài. Ngoài ra, hoạt động xuất khẩu làm tiền
đề cho các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như: Dịch vụ, ngân hàng, đầu tư,
hợp tác liên doanh... và làm cho mối quan hệ giữa các quốc gia trở nên chặt chẽ
hơn.
2.2 Đối với doanh nghiệp:
Hoạt động xuất khẩu tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tham gia vào cuộc
cạnh tranh về giá cả, chất lượng, mẫu mã hàng hóa trên thị trường thế giới.
Chính yếu tố này buộc doanh nghiệp phải năng động sáng tạo hơn, phải không
ngừng nâng cao trình độ quản trị kinh doanh, tăng cường đầu tư đổi mới trang
thiết bị để tự hoàn thiện mình.
Hoạt động xuất khẩu tạo cơ hội cho các doanh nghiệp mở rộng quan hệ
buôn bán với các đối tác nước ngoài từ đó người lao động trong doanh nghiệp có
thể nâng cao năng lực chuyên môn, tiếp thu học hỏi kinh nghiệm quản lý của các

đối tác.
Hoạt động xuất khẩu tạo nguồn thu ngoại tệ cho doanh nghiệp để mở rộng
và nâng cao trình độ sản xuất đồng thời tạo việc làm và thu nhập ổn định cho
người lao động trong doanh nghiệp.
3.Các hình thức xuất khẩu chủ yếu.
3.1 Xuất khẩu trực tiếp:
- 6 -
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Xu©n Thu - TC25D
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức xuất khẩu các hàng hóa dịch vụ do doanh
nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước tới các khách
hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của mình. Ưu điểm của hình thức xuất
khẩu này là: Các doanh nghiệp có thể giao dịch trực tiếp và đều đặn với khách
hàng, với thị trường nước ngoài, biết được yêu cầu của khách hàng và tình hình
bán hàng ở đó nên có thể chủ động trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Ngoài
ra, hình thức xuất khẩu này làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp do giảm chi
phí trung gian.
3.2. Xuất khẩu ủy thác:
Trong hình thức này đơn vị xuất khẩu (bên nhận ủy thác) nhận xuất khẩu
một lô hàng nhất định với danh nghĩa của mình và nhận được một khoản thù lao
theo thỏa thuận với đơn vị có hàng xuất khẩu (bên ủy thác). Ưu điểm của hình
thức này là: Bên ủy thác không phải bỏ ra một khoản vốn lớn để đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài do đó giảm được rủi ro trong kinh doanh. Tuy nhiên họ lại không
trực tiếp giao dịch với khách hàng và thị trường nước ngoài nên không chủ động
trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra họ còn phải đáp ứng những yêu
sách của bên nhận ủy thác.
3.3 Buôn bán đối lưu:
Là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập
khẩu, bên bán hàng đồng thời cũng là bên mua hàng và lượng hàng hóa mang
trao đổi thường có giá trị tương đương. Mục đích ở đây không nhằm thu về một
khoản ngoại tệ mà là nhằm mục đích có được lô hàng có giá trị tương đương với

lô hàng xuất khẩu. Hình thức xuất khẩu này giúp doanh nghiệp tránh được sự
biến động của tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối, đồng thời có lợi khi các
bên không có đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình.
3.4. Giao dịch qua trung gian:
- 7 -
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Xu©n Thu - TC25D
Là phương thức giao dịch mà mọi việc thiết lập quan hệ giữa người bán
và người mua đều thông qua người thứ ba còn gọi là người trung gian buôn bán.
Trung gian buôn bán trên thị trường phổ biến là môi giới và đại lý.
Do quá trình trao đổi giữa người bán và người mua phải thông qua một
bên thứ ba nên tránh được những rủi ro như: do không am hiểu thị trường hoặc
do sự biến động của nền kinh tế. Tuy nhiên, phương thức giao dịch này phải qua
trung gian và phải mất một tỷ lệ hoa hồng nhất định làm cho lợi nhuận của
doanh nghiệp bị giảm xuống.
Hình thức ngày thường áp dụng ở những doanh nghiệp mới vươn ra thị
trường nước ngoài, sản phẩm xuất khẩu thường là những sản phẩm mới hoặc
những sản phẩm mang tính cạnh tranh cao.
3.5. Gia công quốc tế:
Là một hình thức kinh doanh, trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công)
nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên (đặt gia công) để chế
biến ra thành phẩm và giao lại cho bên đặt gia công để thu lại một khoản phí gọi
là phí gia công.
Hình thức này áp dụng chủ yếu cho các doanh nghiệp ở các nước đang
phát triển có nhiều tài nguyên, lao động dồi dào với giá rẻ nhưng lại thiếu vốn
và yếu kém về công nghệ và thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Gia công quốc tế đem lại lợi ích cho cả hai bên. Bên đặt gia công tận dụng
được giá rẻ về nhân công, nguyên phụ liệu của nước gia công. Bên nhận gia
công tạo được việc làm cho lao động trong nước, nhập được máy móc thiết bị,
công nghệ mới. Tuy nhiên, họ dễ bị phụ thuộc vào nước đặt gia công về số
lượng, chủng loại, mẫu mã hàng hóa gia công và đặc biệt là dễ bị ép giá gia

công.
3.6 Tái xuất khẩu:
- 8 -
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Xu©n Thu - TC25D
Là xuất khẩu trở lại nước ngoài những hàng hóa trước đây đã nhập khẩu,
chưa qua chế biến ở nước tái xuất.
Ưu điểm của hình thức này là doanh nghiệp thực hiện nghiệp vụ có thể
thu được lợi nhuận cao mà không phải tổ chức sản xuất. Tuy nhiên nếu không
được kiểm soát tốt, việc lưu chuyển hàng hóa nhập về nước tái xuất nhằm tránh
thuế có thể sẽ gây thông tin nhiễu về cung cầu trên thị trường, điều này tác động
trở lại các doanh nghiệp dễ có quyết định sai. Hình thức này được áp dụng rất
phổ biến, nhất là với những nước, những doanh nghiệp chuyên kinh doanh buôn
bán quốc tế.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu.
Bất kỳ một hoạt động thương mại nào cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi
môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh có thể tạo điều kiện thuận lợi
thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp, song cũng có thể tạo ra những
khó khăn, kìm hãm sự phát triển của hoạt động này.
Đối với hoạt động xuất khẩu – một trong những hoạt động quan trọng của
thương mại thì ảnh hưởng của môi trường kinh doanh đến hoạt động này càng
trở nên mạnh mẽ bởi trong thương mại quốc tế các yếu tố thuộc môi trường kinh
doanh rất đa dạng và phức tạp. Có thể phân chia các nhân tố thuộc môi trường
kinh doanh tác động đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp theo các nhóm
sau:
4.1 Các yếu tố thuộc phạm vi quốc gia:
Các công cụ của nhà nước trong quản lý kinh tế:
Các quốc gia khác nhau thường có những chính sách thương mại khác
nhau thể hiện ý chí và mục tiêu của nhà nước trong việc can thiệp và điều tiết
các hoạt động thương mại quốc tế có liên quan đến nền kinh tế của quốc gia đó.
Để nền kinh tế quốc dân vận hành có hiệu quả thì những chính sách thương mại

thích hợp là thực sự cần thiết. Trong lĩnh vực xuất khẩu, các công cụ chính sách
chủ yếu thường được sử dụng để điều tiết hoạt động này gồm:
a. Thuế quan:
- 9 -
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Xu©n Thu - TC25D
Trong hoạt động xuất khẩu, thuế quan là loại thuế đánh vào từng đơn vị
hàng xuất khẩu. Việc đánh thuế xuất khẩu được chính phủ ban hành nhằm quản
lý hoạt động xuất khẩu theo hướng có lợi nhất cho quốc gia. Công cụ này
thường chỉ được áp dụng với một số ít mặt hàng xuất khẩu nhằm bổ xung cho
ngân sách nhà nước, hạn chế xuất khẩu để đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng
mặt hàng trong nước.
Ngoài thuế quan xuất khẩu, thuế quan nhập khẩu cũng có tác động đến
hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Thuế quan nhập khẩu là thuế quan mà
nước nhập khẩu đánh vào một đơn vị hàng nhập khẩu. Do vậy nó sẽ làm tăng
giá bán hàng xuất khẩu của doanh nghiệp tại thị trường nhập khẩu. Vì vậy hàng
xuất khẩu của doanh nghiệp sẽ giảm sức cạnh tranh.
b. Hạn ngạch:
Hạn ngạch được hiểu như là qui định của nhà nước về số lượng nhiều
nhất một mặt hàng hay một nhóm mặt hàng mà doanh nghiệp được phép xuất
khẩu hay nhập khẩu. Quốc gia xuất khẩu sẽ qui định hạn ngạch xuất khẩu nhằm
điều chỉnh lượng hàng xuất khẩu, nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Quốc gia nhập
khẩu sẽ qui định hạn ngạch nhằm hạn chế lượng hàng nhập khẩu vào trong
nước, bảo hộ nền sản xuất trong nước, bảo vệ tài nguyên và cải thiện cán cân
thanh toán. Tương tự thuế quan, cả hạn ngạch xuất khẩu và nhập khẩu đều có
thể gây ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu của doanh nghiệp.
c. Tỷ giá hối đoái và các chính sách đòn bẩy có liên quan nhằm khuyến
khích xuất khẩu:
Tỷ giá hối đoái là sức mua của một đồng tiền so với đồng tiền khác. Sức
mua của đồng tiền là khả năng thanh toán của một đơn vị tiền tệ với một khối
lượng hàng xuất khẩu nhất định gắn liền với thanh toán quốc tế. Trong thanh

toán quốc tế, người ta sử dụng những đồng tiền mạnh như USD, EUR để thanh
toán. Nếu tỷ giá hối đoái tăng tương đương với giá trị ngoại tệ tăng so với nội tệ
khi đó hoạt động xuất khẩu sẽ được khuyến khích. Ngược lại nếu tỷ giá hối đoái
giảm sẽ kìm hãm sự phát triển của hoạt động xuất khẩu.
- 10 -
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Xu©n Thu - TC25D
Trợ cấp xuất khẩu cũng là một trong những biện pháp có tác dụng thúc
đẩy, mở rộng xuất khẩu đối với mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu. Biện
pháp này thường được nhiều quốc gia sử dụng vì: Khi xâm nhập vào thị trường
nước ngoài, doanh nghiệp sẽ gặp phải rủi ro cao hơn so với thị trường trong
nước. Việc trợ cấp xuất khẩu có thể được nhà nước sử dụng dưới nhiều hình
thức như: trợ giá, miễn giảm thuế xuất khẩu, hạ lãi xuất vốn vay, hoặc cho bạn
hàng nước ngoài vay ưu đãi để họ có điều kiện mua sản phẩm của nước mình.
d. Các chính sách đối với cán cân thanh toán và thương mại:
Việc đảm bảo cán cân thanh toán và cán cân thương mại sẽ góp phần củng
cố lòng tin của các đối tác nước ngoài với quốc gia, nâng cao uy tín của quốc gia
trên trường quốc tế. Biện pháp để các quốc gia có thể giữ cán cân thanh toán,
cán cân thương mại có thể là: Khuyến khích xuất khẩu, cấm nhập khẩu, hạn chế
nhập khẩu hoặc vay vốn. Tuy nhiên sự cân bằng theo các hình thức cấm nhập
khẩu là cân bằng tiêu cực gây tác động xấu đến sự phát triển kinh tế của quốc
gia.Chính vì vậy, để cải thiện cán cân thanh toán và cán cân thương mại các
quốc gia không còn con đường nào khác ngoài khuyến khích xuất khẩu, trong đó
chú trọng tới mặt hàng chủ lực.
Như vậy, nhìn chung việc giữ cân bằng cán cân thanh toán và cán cân
thương mại đã chứa đựng trong đó yếu tố thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của
quốc gia.
e. Các quan hệ kinh tế quốc:
Các mối quan hệ quốc tế sẽ có tác động cực kỳ mạnh mẽ tới hoạt động
thương mại quốc tế của một quốc gia nói chung và tác động tới hoạt động
thương mại của doanh nghiệp nói riêng. Hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp

là một trong những nội dung quan trọng trong hoạt động thương mại quốc tế
chính vì vậy nó cũng chịu sự tác động mạnh mẽ của các mối quan hệ này.
Khi hàng hóa của doanh nghiệp thâm nhập được vào thị trường của một
quốc gia thì nó sẽ được hưởng chính sách ưu đãi hoặc phải đối mặt với những
rào cản thương mại từ những quốc gia này như: thuế quan, hạn ngạch nhập
- 11 -
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Xu©n Thu - TC25D
khẩu, các tiêu chuẩn kỹ thuật sản phẩm...Mức độ ưu đãi mà doanh nghiệp được
hưởng hay các rào cản thương mại mà doanh nghiệp phải đối đầu, chặt chẽ hay
nới lỏng hoàn toàn phụ thuộc vào mối quan hệ kinh tế song phương giữa hai
quốc gia xuất khẩu và quốc gia nhập khẩu.
Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới như hiện nay, nhiều hiệp
định kinh tế song phương và đa phương đã được ký kết, nhiều liên minh kinh tế
đã được hình thành với mục tiêu là giảm bớt thuế quan giữa các nước tham gia,
giảm giá cả, thúc đẩy các hoạt động thương mại trong khu vực và trên thế giới.
Nếu là một thành viên trong liên minh kinh tế hoặc hiệp định thương mại ấy thì
quốc gia sẽ có cơ hội thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Nếu không thuộc, chính các
hiệp định thương mại, liên minh kinh tế này sẽ trở thành một rào chắn lớn cho
việc xâm nhập và mở rộng thị trường của doanh nghiệp.
f. Ảnh hưởng của nền sản xuất, thương mại trong nước và quốc tế:
Sản xuất trong nước là nhân tố chủ yếu quyết định đến cung hàng xuất
khẩu. Nếu nền sản xuất trong nước phát triển, khả năng cung ứng hàng xuất
khẩu sẽ tăng lên, giá cả thu mua hàng xuất khẩu sẽ giảm xuống, doanh nghiệp sẽ
gặp nhiều thuận lời trong khâu đầu vào. Ngược lại, khi nền sản xuất trong nước
bị giảm sút dẫn tới giá cả hàng xuất khẩu sẽ tăng, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn
để chọn được hàng hóa có chất lượng cao, đồng đều phục vụ cho xuất khẩu.
Đối với nền sản xuất nước ngoài thì ngược lại. Khi nền sản xuất nước
ngoài phát triển nhu cầu nhập khẩu sẽ ít đi, khả năng xuất khẩu của các doanh
nghiệp và thị trường của họ bị hạn chế. Ngược lại, khi nền sản xuất của họ bị
giảm sút, nhu cầu nhập khẩu của họ cao. Đây sẽ là thời cơ để doanh nghiệp thúc

đẩy hoạt động xuất khẩu của mình.
Vấn đề không đơn giản chỉ có các yếu tố cung, cầu, giá cả mới tác động
đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Rất nhiều các yếu tố khác cũng tác
động đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp như: chất lượng, mẫu mã,
chủng loại của sản phẩm. Khi các yếu tố này đều tốt thì khả năng cạnh tranh của
sản phẩm trên thị trường quốc tế sẽ cao. Đây là một sự thuận lợi cho hoạt động
xuất khẩu của doanh nghiệp.
- 12 -
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Xu©n Thu - TC25D
Ngoài ra, sự phát triển của hoạt động thương mại trong nước và quốc tế
cũng góp phần hạn chế hay khuyến khích xuất khẩu vì nó quyết định đến sự chu
chuyển hàng hóa trong nội bộ nền kinh tế của một quốc gia với nền kinh tế thế
giới.
g. Trình độ phát triển của hệ thống tài chính ngân hàng, thông tin liên lạc,
cơ sở hạ tầng quốc gia:
Hiện nay hệ thống tài chính ngân hàng đang phát triển khá mạnh và có
can thiệp rất lớn tới hoạt động của các doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực, dù
doanh nghiệp đó thuộc thành phần kinh tế nào và hoạt động trong lĩnh vực nào.
Một hệ thống ngân hàng phát triển không đơn thuần chỉ là nơi cấp vốn cho
doanh nghiệp mà nó còn giúp các doanh nghiệp trong việc thanh toán một cách
thuận tiện, nhanh chóng và chính xác. Đây là một trong những yếu tố thúc đẩy
hoạt đông xuất khẩu của doanh nghiệp.
Hệ thống thông tin liên lạc của một quốc gia cũng góp phần thúc đẩy hoạt
động xuất khẩu của doanh nghiệp thông qua việc cung cấp thông tin đầy đủ,
chính xác và nhanh chóng cho doanh nghiệp.
Hệ thống cơ sở hạ tầng quốc gia cũng có tác động lớn đến hoạt động xuất
khẩu của doanh nghiệp. Một quốc gia có hệ thống đường xá, cầu cống phát triển
sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất nâng cao khả năng tham gia của doanh nghiệp
vào thị trường thương mại quốc tế. Đặc biệt các bến bãi các nhà ga, các cảng
biển có tác động trực tiếp tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Nếu hệ

thống này được đầu tư xây dựng phù hợp với yêu cầu chung của thị trường quốc
tế sẽ là nhân tố tác động tích cực đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
Ngược lại, hệ thống cảng biển, nhà ga, bến dỡ không đạt yêu cầu tối thiểu về kỹ
thuật sẽ gây tâm lý nghi ngại từ phía đối tác nước ngoài và rất có thể doanh
nghiệp sẽ mất cơ hội kinh doanh.
- 13 -
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Xu©n Thu - TC25D
4.2. Các nhân tố thuộc phạm vi doanh nghiệp.
4.2.1 Nguồn nhân lực:
Con người là chủ thể của mọi hoạt động xã hội và hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp và suy đến cùng thì cũng là do con người và vì con người. Bởi vậy
con người luôn được đặt ở vị trí trung tâm khi xem xét đến các vấn đế liên quan
đến doanh nghiệp. Một đội ngũ lao động vững vàng trong chuyên môn, có kinh
nghiệm trong buôn bán quốc tế, có khả năng ứng phó linh hoạt trước biến động
của thị trường và đặc biệt có lòng say mê trong công việc luôn là đội ngũ lý
tưởng trong hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu nguồn nhân
lực của doanh nghiệp yếu kém về chất lượng và hạn chế về số lượng thì doanh
nghiệp sẽ luôn trong tình trạng bị động và kinh doanh kém hiệu quả. Như vậy,
nhân lực quyết định hoạt động của doanh nghiệp nên doanh nghiệp muốn hoạt
động có hiệu quả nhất thiết phải quan tâm đến vấn đề tuyển chọn đội ngũ lao
động thực sự có năng lực, đồng thời chú trọng đến công tác quản lý nhằm tạo
động lực cho người lao động trong doanh nghiệp làm việc có hiệu quả.
4.2.2. Khả năng tài chính:
Khả năng tài chính là một trong những nhân tố quyết định sức mạnh của
doanh nghiệp trong thời đại ngày nay. Nếu có tiềm lực tài chính mạnh, doanh
nghiệp có thể đầu tư đổi mới công nghệ, thu hút lao động có chất lượng cao, mở
rộng quy mô hoạt động. Ngoài ra, khi có tiềm lực về tài chính doanh nghiệp có
thể thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của mình thông qua việc cấp tín dụng cho
khách hàng qua hình thức trả chậm.
Như vậy có thể nói hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh

hưởng lớn bởi khả năng tài chính của doanh nghiệp.
4.2.3 Vị trí địa lý:
Nếu được bố trí ở gần nơi cung cấp các yếu tố đầu vào cho hoạt động sản
xuất kinh doanh hoặc vùng gần nhà ga, cảng biển, doanh nghiệp sẽ giảm được
chi phí vận chuyển – đây là cơ sở để doanh nghiệp giảm giá thành sản phẩm,
tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đặc biệt với ưu thế về khoảng
- 14 -
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Xu©n Thu - TC25D
cách địa lý doanh nghiệp có thể thường xuyên xuống cơ sở sản xuất tạo lập mối
quan hệ nhằm xây dựng chân hàng vững chắc phục vụ cho hoạt động xuất khẩu.
Như vậy để hoạt động xuất khẩu có hiệu quả, doanh nghiệp cần lựa chọn vị trí
tối ưu phù hợp với khả năng và điều kiện của mình.
4.2.4 Uy tín của doanh nghiệp:
Uy tín của doanh nghiệp chính là sự tin tưởng mà khách hàng dành cho
doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp đã có uy tín cao đối với khách hàng nhiều khi
họ mua hàng dựa trên uy tín của doanh nghiệp chứ không hoàn toàn dựa trên
chất lượng hàng của doanh nghiệp. Từ đó doanh nghiệp sẽ có được một hệ
thống khách hàng thân thiết và tạo nguồn thu ổn định cho doanh nghiệp trong
thời gian dài. Vì vậy, uy tín cũng góp phần quyết định đến vị thế của doanh
nghiệp trên thị trường.
II. Giới thiệu về mặt hàng nông sản và thị trường nông sản thế giới
1. Đặc trưng của hàng nông sản:
Quá trình sản xuất, thu hoạch, mua bán hàng nông sản luông mang tính
thời vụ. Vào những lúc chính vụ, hàng nông sản dồi dào phong phú về chủng
loại, chất lượng khá đồng đều và giá bán rẻ, ngược lại, vào những lúc trái vụ
hàng nông sản khan hiếm, chất lượng không đồng đều và giá bán thường cao.
Chính vì vậy, đối với mỗi doanh nghiệp tham gia xuất khẩu hàng nông sản, việc
nghiên cứu thị trường để từ đó đưa ra những dự báo phục vụ cho quá trình thu
mua dự trữ để đáp ứng những đơn đặt hàng vào lúc trái vụ là hết sức cần thiết.
Nếu doanh nghiệp đáp ứng được những đơn đặt hàng vào lúc trái vụ thì lợi

nhuận mà doanh nghiệp thu được so với lúc chính vụ lớn hơn rất nhiều. Ngoài ra
do đặc tính thu hoạch theo thời vụ nên hoạt động thu hoạch hàng nông sản
thường chỉ diễn ra trong thời gian ngắn. Với đặc tính này buộc doanh nghiệp
phải có mạng lưới thu mua nông sản rộng khắp và phải chuẩn bị đủ vốn để thực
hiện công tác thu mua có hiệu quả.
Hàng nông sản chịu ảnh hưởng nhiều bởi yếu tố khí hậu, thời tiết. Nếu
năm nào, khu vực nào có mưa thuận gió hòa thì cây cối phát triển cho năng suất
- 15 -
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Xu©n Thu - TC25D
cao hàng nông sản sẽ tràn ngập trên thị trường với giá rất rẻ, ngược lại, nếu năm
nào hoặc khu vực nào có khí hậu thời tiết khắc nghiệt, hạn hán lũ lụt xảy ra
thường xuyên thì hàng nông sản sẽ khan hiếm và chất lượng không cao nhưng
giá cả thường cao. Căn cứ vào đặc tính này các doanh nghiệp có thể tìm ra cơ
hội kinh doanh cho mình. Chẳng hạn: Khi một khu vực thị trường nào có các
doanh nghiệp xuất khẩu cùng một loại hàng với doanh nghiệp, là đối thủ cạnh
tranh của doanh nghiệp mà có thời tiết, khí hậu không thuận lợi cho sản xuất
hàng nông sản thì ở khu vực ấy sẽ bị mất mùa, doanh nghiệp phải tận dụng ngay
cơ hội này để đẩy mạnh xuất khẩu. Hàng nông sản chủ yếu phục vụ cho nhu cầu
thiết yếu của con người vì thế chất lượng của nó có tác động trực tiếp đến tâm lý
và sức khỏe con người, chính vì vậy, chất lượng hàng nông sản luôn là yếu tố
đầu tiên được người tiêu dùng quan tâm. Tại các quốc gia phát triển nhập khẩu
hàng nông sản ngày càng có nhiều các yêu cầu được đặt ra đối với hàng nhập
khẩu về tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh, an toàn thực phẩm, kiểm dịch, xuất
xứ...vì vậy để thâm nhập được các thị trường khó tính này, đòi hỏi hdoanh
nghiệp phải đáp ứng được các yêu cầu mà họ đặt ra. Theo đó, với các mặt hàng
nông sản thì khâu bảo quản và chế biến rất quan trọng, và vì giá cả hàng nông
sản xuất khẩu phụ thuộc vào chất lượng. Chất lượng hàng nông sản không chỉ
phụ thuộc vào khâu sản xuất mà còn phụ thuộc rất nhiều vào khâu bảo quản và
chế biến. Chính vì vậy, để nâng cao được giá hàng nông sản xuất khẩu thì khâu
bảo quản và chế biến phải được doanh nghiệp đặc biệt quan tâm. Ngoài ra, với

đặc tính dễ ẩm, mốc, biến chất của hàng nông sản buộc các doanh nghiệp tham
gia xuất khẩu phải quan tâm tới điều khoản thời hạn giao hàng bởi điều khoản
này sẽ qui định trách nhiệm của doanh nghiệp đối với chất lượng hàng nông sản
khi có vấn đề phát sinh.
Chủng loại hàng nông sản rất phong phú và đa dạng nên chất lượng của
một mặt hàng cũng phong phú và đa dạng. Thói quen tiêu dùng và sự đánh giá
về cùng một mặt hàng trên thị trường thế giới cũng rất khác nhau. Chẳng hạn
đối với mặt hàng gạo: trên thị trường thế giới hiện nay có 6 loại gạo chính, mỗi
loại gạo trên lại có thể phân chia thành hai hay nhiều nhóm. Mỗi nhóm thích ứng
với từng thị trường riêng, ví dụ: thị trường Châu Âu ưa chuộng loại gạo chất
- 16 -
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Xu©n Thu - TC25D
lượng ngon, hạt dài song thị trường Châu Á lại thường sử dụng loại gạo có chất
lượng trung bình, thị trường Châu Phi thường sử dụng gạo hấp (luộc sơ) có chất
lượng không cao song loại gạo này không được chấp nhận ở các thị trường còn
lại. Thị trường Trung Đông quen dùng gạo thơm, thị trường Lào quen dùng gạo
nếp...
Như vậy, có thể thấy với một loại hàng nông sản nó có thể được ưa thích
ở thị trường này song lại không được chấp nhận ở thị trường khác. Vì vậy, trong
kinh doanh hàng nông sản đối với một doanh nghiệp vấn đề xác định thị trường
tiềm năng, thị trường mục tiêu đóng vai trò đặc biệt quan trọng để quyết định sự
thành công của doanh nghiệp.
2. Thị trường nông sản thế giới:
Hầu hết các mặt hàng nông sản phục vụ cho nhu cầu ăn uống của con
người. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, nhu cầu về
hàng nông sản có chất lượng cao ngày càng tăng. Tuy nhiên hàng nông sản đáp
ứng nhu cầu thiết yếu của con người vẫn giữ vai trò quan trọng và không thể
thiếu được đối với sự tồn tại của con người.
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều quốc gia xuất khẩu hàng nông sản,
nhưng các nước đang phát triển là những nước xuất khẩu hàng nông sản chủ

yếu. Tuy nhiên hàng nông sản được xuất khẩu từ những nước này chủ yếu là
những mặt hàng nông sản thô hoặc mới chỉ qua sơ chế nên giá trị xuất khẩu
chưa cao.
Những nước không có điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp là
những nước chính nhập khẩu nông sản. Đây có thể là những nước chậm phát
triển, đang phát triển hoặc các nước phát triển. Tuy nhiên, nhu cầu của mỗi nước
về hàng nông sản là rất khác nhau. Thông thường các nước chậm phát triển và
đang phát triển có nhu cầu nhập khẩu số lượng lớn sản phẩm lương thực, những
sản phẩm này có yêu cầu về chất lượng không cao, giá rẻ và chỉ cần có sự thay
đổi nhỏ về giá cả sẽ dẫn đến sự thay đổi lớn trong hành vi tiêu dùng của người
dân tại các nước này. Ngược lại, tại các nước phát triển, người tiêu dùng chỉ
- 17 -
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Xu©n Thu - TC25D
chấp nhận sản phẩm có chất lượng mà không quan tâm nhiều đến sự thay đổi về
giá.
Thị trường nhập khẩu hàng nông sản đã và đang thu hẹp lại. Hiện tại, các
nước phát triển có nhu cầu nhập khẩu hàng nông sản lớn nhất thế giới. Tuy
nhiên các nước này đã và đang thực hiện một cách phổ biến và sâu rộng chế độ
trợ cấp cho sản xuất hàng nông nghiệp ở mức độ cao, bảo hộ thị trường nông sản
nội địa dưới nhiều hình thức. Cơ chế trợ cấp và trợ giá quá cao cho hàng nông
sản ở các nước phát triển đã gây sự bóp méo giá cả hàng nông sản xuất khẩu,
hạn chế tác động của qui luật thị trường và giảm đi ưu thế cạnh tranh hàng nông
sản ở các nước đang phát triển vốn nhờ và lao động rẻ. Cơ chế này không những
làm tăng khả năng xuất khẩu hàng nông sản ở các nước này mà còn hạn chế
nhập khẩu nông sản của các nước này. Đây là một bất lợi lớn đối với sản xuất
nông nghiệp và xuất khẩu nông sản của các nước đang phát triển.
Trong năm 2009 dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu, thương mại thế giới sụt giảm đáng kể (giảm 12,2% về
lượng và 23% về giá trị so với năm 2008). Đặc biệt, tại một số nền kinh tế lớn
và phát triển mức giảm thậm chí còn cao hơn như Mỹ giảm 13,9%; Liên minh

Châu Âu (EU) giảm 14,8%; Nhật Bản giảm 24,5%. Nguyên nhân là do phần lớn
các nền kinh tế phát triển và nhiều nền kinh tế đang phát triển rơi vào suy thoái
thậm chí tăng trưởng âm, kéo theo nhu cầu tiêu dùng trong nước và nhu cầu
nhập khẩu hàng hóa giảm mạnh. Tuy nhiên sang năm 2010 cùng với nhiều nền
kinh tế thoát ra khỏi khủng hoảng, trên đà khôi phục tăng trưởng kinh tế,
thương mại toàn cầu dự báo đạt mức tăng trưởng khá cao (khoảng 9,5%) chủ
yếu nhờ vào xuất khẩu của các nước đang phát triển. Tuy nhiên triển vọng phục
hồi của thương mại thế giới vẫn bị đe dọa bởi nguy cơ bảo hộ thương mại. Theo
WTO và Ngân hàng Thế giới (WB) các biện pháp bảo hộ thương mại đang có
xu hướng tăng lên vì vậy biện pháp áp dụng với các nước phụ thuộc nhiều vào
xuất khẩu để ngăn ngừa và giảm thiệt hại là: đa dạng hóa thị trường, giá bán
cạnh tranh, xuất khẩu các sản phẩm mà nước bạn không có...
- 18 -
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Xu©n Thu - TC25D
Trước sức ép của xu hướng tự do hóa thương mại buộc các nước phát
triển phải nhất trí sự cần thiết giảm trợ giá cho các mặt hàng nông sản xuất khẩu,
mở rộng tự do hóa thị trường nông sản thế giới. Điều này dẫn tới một tương lai
sáng sủa hơn cho sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu nông sản của các nước
đang phát triển. Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu nông sản lại phải
đối mặt với các rào cản khác, đó là những qui định chặt chẽ về vệ sinh an toàn
thực phẩm và môi trường sinh thái mà trong nhiều trường hợp người ta xem đó
là hình thức bảo hộ trá hình nhằm ngăn cản hàng nông sản của các đang phát
triển thâm nhập vào thị trường các nước phát triển.
Các nước Châu Phi cũng có nhu cầu về hàng nông sản lớn nhưng khả
năng thanh toán hạn hẹp. Trong khi đó liên hợp quốc chỉ còn hỗ trợ nhập khẩu
lương thực cho những nước có khủng hoảng chính trị.
Tình hình trên làm cho thị trường nông sản bị thu hẹp trong khi nguồn
cung cấp nông sản lại khá dồi dào tại các nước Châu Á, Mỹ La Tinh, Tây Âu,
Bắc Mỹ đã đẩy kinh doanh nông sản trên thị trường thế giới vào tình trạng cạnh
tranh quyết liệt khiến cho giá nông sản trên thị trường thế giới giảm, gây bất lợi

cho những người sản xuất nông nghiệp và cho những nước xuất khẩu nông sản.
Theo như đã phân tích, thị trường nông sản thế giới đang bị thu hẹp,
nguồn cung cấp hàng nông sản thế giới ngày càng dồi dào, cạnh tranh giữa các
nước xuất khẩu nông sản nguyên liệu diễn ra ngày càng gay gắt buộc các nước
đang phát triển phải xuất khẩu nông sản nguyên liệu cho các nước phát triển với
giá thấp. Mặt khác hàng nông sản chế biến của các nước đang phát triển lại phải
cạnh tranh với hàng nông sản xuất khẩu cùng loại của các nước phát triển ở thế
yếu hơn do hạn chế về công nghệ chế biến và khả năng đầu tư cho công nghệ
chế biến nông sản xuất khẩu. Trong những điều kiện này, ưu thế cạnh tranh trên
thị trường thế giới thuộc về các nước phát triển. Các nước này đã trở thành
người chi phối và chiếm ưu thế trong quan hệ buôn bán nông sản trên thị trường
thế giới.
Hiện tại thiệt thòi đang thuộc về các nước đang phát triển. Tuy
nhiên theo đánh giá của tổ chức Lương thực và nông nghiệp của Liên hợp quốc
- 19 -
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Xu©n Thu - TC25D
(FAO) với tốc độ phát triển như hiện nay (dân số thế giới tăng trưởng với tốc độ
cao nhưng đất đai sử dụng cho nông nghiệp lại giảm cùng với quá trình công
nghiệp hóa làm cho tốc độ tăng bình quân nhu cầu tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp lớn hơn tốc độ tăng bình quân sản lượng nông sản trên thị trường thế
giới) thì đến năm 2020 cầu về hàng nông sản trên thị trường thế giới sẽ vượt
cung. Điều này mở ra một cơ hội mới cho các nước đang phát triển xuất khẩu
nông sản nói chung và Việt Nam nói riêng để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản
trong tương lai.
- 20 -
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Xu©n Thu - TC25D
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN
TẠI CÔNG TY INTIMEX
I. Giới thiệu về công ty
Công ty cổ phần Intimex Việt Nam được thành lập ngày 10/08/1979 với

tên gọi ban đầu là Công ty xuất nhập khẩu nội thương, là doanh nghiệp đầu tiên
làm xuất nhập khẩu của Bộ Nội thương.
Trong những năm 1979 -1989, công ty là đơn vị chính cung cấp hàng tiêu
dùng của các nước XHCN cho nhân dân cả nước và tạo ra việc làm cho hàng
vạn người lao động sản xuất hàng hoá xuất khẩu. Công ty cổ phần Intimex Việt
Nam đã góp phần to lớn vào nhiệm vụ chính trị của Nhà nước giao phó và trở
thành doanh nghiệp nổi tiếng và cung cấp hàng tiêu dùng nhập khẩu của các
nước XHCN và thu mua hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu.
Thời kỳ 1989 -1990: Công ty cổ phần Intimex Việt Nam là doanh nghiệp
khởi xướng đề nghị chính phủ cho phép nhập khẩu hàng tiêu dùng của các nước
tư bản để thu hồi ngoại tệ cho người lao động, học tập, công tác ở nước ngoài
bước đầu tạo ra nguồn hàng tiêu dùng mới từ các nước tư bản để cung cấp cho
người tiêu dùng trong nước. Intimex đã trở nên nổi tiếng với mọi người đi lao
động, học tập, công tác ở nước ngoài trở về Việt Nam thời kỳ này và hoàn thành
nhiệm vụ được giao phó, thu về cho Nhà nước hàng chục triệu USD mỗi năm.
Sau nghị quyết của hội nghị trung ương 6 của trung ương năm 1986 về
việc mở cửa thị trường, công ty đã cho chuyển đổi kinh doanh theo cơ chế
khoán đến các đơn vị, phòng kinh doanh.
Thời kỳ sau năm 1998, Intimex bước sang trang mới với mục tiêu đẩy
mạnh xuất khẩu hàng nông sản tập trung xuất khẩu cà phê, hạt tiêu...Intimex đã
tạo ra đột biến về kim ngạch xuất khẩu. Sau 10 năm Intimex đã trở thành nhà
xuất khẩu cà phê, hạt tiêu hàng đầu cả nước, mỗi năm xuất khẩu từ 150.000 đến
- 21 -
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Xu©n Thu - TC25D
200.000 tấn cà phê, từ 10.000 đến 15.000 tấn tiêu, chiếm 20% xuất khẩu cà phê
ở Việt Nam và 15% tiêu của cả nước, trở thành doanh nghiệp xuất khẩu nổi
tiếng trong ngành thương mại cũng như trong và ngoài nước.
Từ năm 2000, Intimex lại bước sang một giai đoạn mới khi tham gia đầu
tư các nhà máy chế biến nông sản như: nhà máy tiêu sạch tại Bình Dương vào
năm 2002 với tổng số vốn đầu tư là 20 tỷ. Đến nay, nhà máy này đã thu hồi

được vốn và bắt đầu có lãi vào năm 2006. Tại Thanh Chương-Nghệ An, Công ty
đã xây dựng nhà máy chế biến tinh bột sắn vào năm 2003 với công suất ban đầu
50 tấn/ngày và đến nay công suất đã tăng lên 180 tấn/ngày, lượng xuất khẩu
hàng năm đạt 20.000 tấn. Đến năm 2007, nhà máy chế biến tinh bột sắn Intimex
đã thu hồi được vốn và bắt đầu có lãi đồng thời trở thành nhà máy lớn nhất Miền
Bắc. Hiện nay Công ty cổ phần Intimex Việt Nam cũng đang đầu tư xây dựng
hai nhà máy chế biến cà phê chất lượng cao tại Bình Dương và Buôn Ma Thuột
với công suất mỗi nhà máy 20.000 tấn/năm.
Ngoài ra, Intimex còn đầu tư vào nuôi trồng và chế biến thủy sản ở Diễn
Kim tỉnh Nghệ An và Đồng Ghép tỉnh Thanh Hóa. Với diện tích gần 100 ha
nuôi tôm công nghiệp và được VASEP đánh giá là đơn vị có diện tích nuôi tôm
thẻ chân trắng lớn nhất và hiện đại nhất Miền Bắc và nuôi tu hài ở Vân Đồn-tỉnh
Quảng Ninh với diện tích lên tới một triệu m
2
mặt biển.
Để mở rộng địa bàn hoạt động, Intimex đã thành lập thêm các chi nhánh,
xí nghiệp tại Tây Ninh, Bình Dương, Nghệ An, Đắc Lắc. Ngoài ra đơn vị còn
sáp nhập thêm các đơn vị khác có nhiều khó khăn, thua lỗ như: Công ty nông
sản 3 (Bộ Thương mại), xí nghiệp nuôi tôm Sầm Sơn, nhà máy thủy sản Hoằng
Trường (Tỉnh Thanh Hoá)....nhờ đó mà Intimex đã phát triển mở rộng thị trường
kinh doanh, sản xuất cả về lượng và chất.
Một trong những thế mạnh của Intimex nữa là với truyền thống kinh
doanh bán buôn, bán lẻ thời kỳ bao cấp của ngành nội thương với cơ sở vật chất
có sẵn, năm 2001 công ty lần đầu tiên xây dựng siêu thị đầu tiên của ngành
thương mại tại Hà Nội nói riêng và Miền Bắc nói chung. Việc đi tiên phong về
- 22 -
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Xu©n Thu - TC25D
phát triển siêu thị của một doanh nghiệp Nhà nước của ngành thương mại đã
thành công và đến nay Công ty đã có 14 siêu thị và Trung tâm thương mại tại
Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Hòa Bình, Hải Phòng, Nghệ An, Đà Nẵng,

Buôn Ma Thuột. Năm 2008 được người tiêu dùng bình chọn là siêu thị nổi tiếng:
Hệ thống chuẩn siêu thị và Trung tâm thương mại mở rộng trong cả nước là định
hướng chiến lược của Intimex trong thời gian tới.
Trong sự phát triển đổi mới hoạt động kinh doanh thì Intimex cũng là đơn
vị tiên phong của ngành thương mại trong công tác cổ phần hoá, trở thành các
công ty mẹ - con. Năm 2006 có 3 đơn vị của Intimex cổ phần hoá thành công và
phát triển mạnh trở thành doanh nghiệp có doanh thu lớn thứ 5 trong 500 doanh
nghiệp tư nhân lớn nhất Việt năm 2008.
Intimex không chỉ phát triển trong kinh doanh, sản xuất đứng hàng đầu
trong ngành và trong cả nước về một số ngành nghề sản xuất kinh doanh mà còn
là nơi cung cấp nhiều cán bộ lãnh đạo các cấp cho Bộ Công thương, cho tham
tán thương mại các nước, cho các doanh nghiệp khác và cho lãnh đạo các Hiệp
hội ngành hàng.
Ba mươi năm qua ngay từ khi mới thành lập đến nay trải qua những năm
tháng có lúc vinh quang nhưng cũng có lúc thăng trầm xong dù khó khăn đến
đâu Intimex vẫn vươn lên mạnh mẽ, đến nay với trên 2000 cán bộ công nhân
viên, địa bàn trải đều trên các vùng kinh tế trọng điểm của cả nước. Năm 2008
với kim ngạch xuất nhập khẩu trên 400 triệu USD, doanh thu trên 9.000 tỷ nộp
ngân sách trên 300 tỷ Công ty cổ phần Intimex Việt Nam được xếp hạng 49/500
doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam.
Công ty Intimex đã hoàn thành các thủ tục cổ phần hoá và đang tiếp tục
phát triển với mô hình mới Công ty cổ phần Intimex Việt Nam.
- 23 -
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Xu©n Thu - TC25D
II.Cơ cấu quản lý:
1. Sơ đồ tổ chức:
Bảng 1: Sơ đồ tổ chức
- 24 -
Đại hội đồng cổ đông
Hội đồng quản trị

Ban Tổng giám đốc
Ban kiểm soát
Khối các phòng quản

Khối các phòng KD
Khối các công ty liên
kết
Phòng tài chính kế toán
Phòng kế hoạch
Phòng tổ chức cán bộ
Phòng ĐT & XDCB
Phòng HC-QT
Phòng kinh doanh 1
Phòng kinh doanh 2
Công ty CP INTIME Hà Nội
Công ty CP INTIME Sài Gòn
Công ty CP XNK INTIMEX
Khối các đơn vị trực thuộc
Trung
tâm
thương
mại
Intimex
XN chế biến
nông sản –
thực phẩm
Intimex
Quang Minh
XN TM và
DV Intimex

Chi
nhánh
Intimex
Quảng
Ninh
Chi
nhánh
Intimex
Hải
Phòng
Chi
nhánh
Intimex
Thanh
Hóa
Chi
nhánh
Intimex
Nghệ
An
Chi
nhánh
Intimex
Đồng
Nai
Chi
nhánh
Intimex
Đà
Nẵng

Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Xu©n Thu - TC25D
2. Hội đồng quản trị:
Hội đồng quản trị là cơ quan đại diện cho các cổ đông để quản lý doanh
nghiệp. Các cuộc họp của hội đồng quản trị diễn ra hàng quý, trừ các cuộc họp
bất thường để giải quyết các vấn đề khẩn cấp của Công ty. Hội đồng quản trị
được bầu 5 năm một lần. Thành phần của hội đồng quản trị của Intimex bao
gồm 6 thành viên: Một là chủ tịch, một là tổng giám đốc và những thành viên
khác.
Ban kiểm soát là cơ quan có quyền giải quyết những vấn đề tài chính và
hành chính thông thường. Ban kiểm soát bao gồm 3 thành viên: Một trưởng ban
và hai hỗ trợ trưởng ban.
Đại hội đồng cổ đông bao gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết.
Các cổ đông bổ nhiệm các thành viên trong Hội đồng quản trị bằng cách bỏ
phiếu. Đây là cơ quan có quyền quyết định cao nhất của Intimex. Cuộc họp đại
hội đồng cổ đông được tổ chức mỗi năm một lần trừ những cuộc họp bất
thường.
3. Chức năng nhiệm vụ các phòng ban:
3.1 Ban Tổng giám đốc
Tổng giám đốc điều hành mọi hoạt động kinh doanh hàng ngày và cơ cấu
tổ chức của Intimex. Tổng giám đốc được hội đồng quản trị bổ nhiệm và chịu
trách nhiệm về tất cả các khía cạnh công việc của Công ty với hội đồng quản trị.
Hai phó tổng giám đốc sẽ chịu trách nhiệm trợ giúp tổng giám đốc trong
lĩnh vực tài chính và lập chiến lược kinh doanh của công ty.
3.2 Khối các phòng quản lý
* Phòng kế toán gồm 21 nhân viên:
Thực hiện toàn bộ công tác kế toán thống kê, thông tin kế toán, hạch toán
kế toán, báo cáo chế độ kế toán theo qui định của nhà nước theo định kỳ về chế
- 25 -

×