READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 11
CONQUER
IELTS TEST
READING SKILL
CAMBRIDGE IELTS
11
Mrs. Trang Ielts
/>
Contents
Trồng Cây Trên Những Tòa Nhà Cao Tầng ...........................................................1
Thang Máy Falkirk .................................................................................................2
Giảm Thiểu Tác Động Của Biến Đổi Khí Hậu ......................................................3
Sự Trỗi Dậy Của Chiến Hạm Mary Rose ...............................................................5
Điều Gì Đã Phá Hủy Nền Văn Minh Trên Đảo Phục Sinh? ..................................6
Thẩm Mỹ Thần Kinh Học.......................................................................................8
Lịch Sử Tơ Lụa .....................................................................................................10
Cuộc Di Trú Vĩ Đại ..............................................................................................11
Lời Tựa Cuốn Sách “Nửa Não Còn Lại Nghĩ Gì: Chuyến Du Hành Vào Luận
Điểm Tốn Học” ...................................................................................................12
Nghiên Cứu Những Cặp Sinh Đôi ........................................................................14
Về Âm Thanh Trong Phim Ảnh ...........................................................................15
“Phát Minh Kỳ Diệu Này” ....................................................................................17
READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 11
Trồng Cây Trên Những Tòa Nhà Cao Tầng
Đến năm 2050, sẽ có gần 80% dân số địa cầu sống ở các trung tâm thành thị. Theo đánh giá thận
trọng nhất về xu hướng nhân khẩu học hiện nay, dân số sẽ tăng thêm ba tỉ người vào năm 2050. Để có thể
gieo trồng đủ lượng lương thực cho số người này áp dụng các phương pháp canh tác nông nghiệp truyền
thống như hiện tại, ước tính cần có thêm 109 héc ta đất (bằng khoảng 20% diện tích Brazil). Trên khắp thế
giới ngày nay, có hơn 80% diện tích đất đang được sử dụng để canh tác. Trước đó, khoảng 15% số đất này
đã bị bỏ hoang do quản lý kém hiệu quả. Vậy có thể làm gì để đảm bảo đáp ứng đủ nguồn lương thực cho
dân số thế giới?
Trang trại trong nhà không còn là một khái niệm xa lạ kể từ khi cà chua và các nông sản khác được
trồng trong nhà kính đã có lúc trở nên thịnh hành. Điều mới mẻ ở đây là nhu cầu cấp thiết cần phổ biến công
nghệ này để phục vụ cho thêm ba tỉ người nữa. Nhiều người tin rằng cần có một phương pháp hồn tồn
mới, khai thác các cơng nghệ hàng đầu đối với các trang trại trong nhà. Một trong các kế hoạch này là
“Trang trại chiều dọc”. Khái niệm này chỉ việc gieo trồng lương thực trong điều kiện môi trường được kiểm
sốt ngay trong các tịa nhà cao tầng. Tọa lạc tại trung tâm đơ thị, các tịa nhà này sẽ giúp giảm đáng kể
lượng phương tiện cần dùng để chuyên chở lương thực đến nơi người tiêu dùng. Các trang trại chiều dọc
này phải ít tốn kém nhưng có hiệu quả trong xây dựng và an tồn trong thực hiện. Các nhà đề xuất tuyên bố
nếu được thực hiện thành công, trang trại chiều dọc hứa hẹn sẽ giúp hồi phục đời sống đô thị, tạo ra các sản
phẩm mang tính bền vững về mặt an tồn và đa dạng thực phẩm (nhờ các nông sản quanh năm), và sau cùng
là phục hồi hệ sinh thái đã bị phá hủy bởi canh tác truyền thống.
Nhân loại đã phải mất đến 10.000 năm để học cách trồng trọt mà ngày nay chúng ta đang tận dụng.
Khi đó, ta cũng đang bóc lột phần lớn số đất đai ta đang canh tác, biến các vùng sinh thái tự nhiên, tươi tốt
thành những sa mạc bán khô hạn. Trong cùng khoảng thời gian ấy, chúng ta đã tiến hóa thành lồi sống ở đơ
thị, nơi hiện thời có 60% dân số đang sống trong những tòa nhà cao tầng ở các thành phố. Đồng nghĩa với
việc phần đông con người phải tìm nơi trú ẩn khỏi mơi trường tự nhiên cịn các cây lương thực thì được
trồng dưới mơi trường khắc nghiệt bên ngồi, và chúng ta chẳng làm được gì ngồi hy vọng có được một
năm thời tiết thuận hịa. Tuy nhiên, hơn bao giờ hết do khí hậu thay đổi thất thường, nên điều đó chẳng thể
xảy ra. Những trận lụt lớn, hạn hán kéo dài, mưa bão và gió mùa khắc nghiệt cứ luân phiên diễn ra, làm phá
hủy hàng tấn mùa màng quý giá.
Những người ủng hộ trang trại chiều dọc khẳng định vơ số ích lợi tiềm tàng của hệ thống này. Ví dụ
như mùa màng sẽ được sản xuất quanh năm do chúng được trồng trong các điều kiện sinh trưởng thuận lợi,
được kiểm soát nhân tạo. Sẽ khơng có những vụ mùa thất bát liên quan đến thời tiết như hạn hán, lũ lụt hay
cơn trùng. Những thực phẩm này có thể sẽ được trồng trọt theo cách sinh học, loại trừ sử dụng các loại
thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu hay phân bón. Hệ thống này sẽ giảm thiểu tối đa tình trạng các loại bệnh lây lan
trên diện tích rộng thường thấy trong nông nghiệp. Tuy hệ thống này sẽ tiêu tốn năng lượng nhưng cũng sẽ
hoàn trả năng lượng qua việc sản xuất khí mê tan từ việc ủ phân những phần không ăn được của thực vật.
Hệ thống cũng làm giảm đáng kể việc sử dụng các nguồn nhiên liệu hóa thạch, nhờ việc cắt giảm nhu cầu sử
dụng các loại máy kéo, máy cày và các phương tiện vận chuyển.
Thế nhưng một hạn chế chính của trang trại theo chiều dọc là cây trồng sẽ cần ánh sáng nhân tạo.
Nếu khơng có ánh sáng nhân tạo, những cây trồng gần cửa sổ nhất sẽ được hứng nhiều ánh nắng hơn và sẽ
phát triển nhanh hơn, làm giảm đi hiệu quả của hệ thống. Ngay cả những ngơi nhà kính một tầng có lợi thế
về ánh sáng tự nhiên trên mái nhà cũng vẫn cần có ánh sáng nhân tạo. Một ngơi nhà kính cao tầng khơng có
ánh sáng tự nhiên bên trên do đó sẽ cịn cần nhiều ánh sáng nhân tạo hơn nữa. việc tạo ra đủ ánh sáng có thể
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3
Page 1
READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 11
rất đắt đỏ, trừ khi có sẵn các nguồn năng lượng tái tạo, ít tốn chi phí. Tuy nhiên điều này có vẻ chỉ là một
khát vọng thay vì có tính khả thi trong tương lai gần.
Một biến thể của trang trại thẳng đứng đã được phát minh ra là việc trồng cây thành cụm trong thùng
được đặt trên những băng chuyền. Việc di chuyển những thùng cây này giúp câu hứng đủ ánh nắng. Hệ
thống này đang trong quá trình vận hành và hoạt động trơn tru trong nhà kính một tầng nơi có ánh sáng
chiếu ở phía trên: tuy khó xác định nhưng có thể hệ thống này được tạo ra nhằm hoạt động bất kể có ánh
sáng tự nhiên hay khơng.
Trang trại thẳng đứng là một nỗ lực nhằm giải quyết những khó khăn rõ ràng mà chúng ta đang đối
mặt trong việc sản xuất đủ lượng thực phẩm cho một nền đang phát triển. Tuy nhiên, hiện nay, cần phải thực
hiện nhiều biện pháp để giảm thiểu những tác động bất lợi lên môi trường, đặc biệt là trong việc sử dụng
năng lượng. Có thể các nguồn thực phẩm trong tương lai của chúng ta sẽ được trồng trong các tòa nhà cao
tầng, nhưng nhiều chuyên gia hiện nay cho rằng cịn lâu chúng ta mới có thể chỉ đơn giản là tận dụng
khoảng khơng sẵn có trên tầng thượng những tòa nhà thành thị để trồng trọt.
Thang Máy Falkirk
Một thành tựu kỹ thuật độc đáo
Thang máy Falkirk ở Scotland là hệ thống nâng tàu xoay duy nhất và đầu tiên trên thế giới. Đưa vào
hoạt động năm 2002, đây là dự án trung tâm của dự án đầy tham vọng gọi là Kết nối Thiên niên kỷ trị giá
84,5 triệu bảng Anh hướng đến sự hồi phục giao thông đường thủy nội địa Scotland bằng việc tái lưu thông
giữa kênh đào nổi tiếng Forth & Clyde với kênh đào Union.
Thử thách lớn nhất của dự án này nằm ở chỗ kênh đào Forth & Clyde nằm thấp hơn mực nước của
kênh đào Union đến 35 mét. Trước kia, hai kênh đào này đã được nối liền gần thị trấn Falkirk nhờ một
chuỗi gồm 11 cửa cống – những khu vực bao quanh kênh đào có mực nước có thể lên hoặc xuống – kéo dài
1,5 kilo mét. Những cống này đã bị tháo gỡ vào năm 1933, đồng thời phá vỡ kết nối này. Khi dự án này
được phát động vào năm 1994, chính quyền đường thủy Anh hăng hái tạo ra một cột mốc đáng nhớ của thế
kỷ 21, không chỉ là một dự án kỷ niệm sự chuyển giao thiên niên kỷ, mà còn là một biểu tượng vĩnh cửu của
việc phục hưng nền kinh tế khu vực.
Nhiều ý tưởng thực hiện được trình bày, từ kiểu cuộn đến tạo các thùng chứa nghiêng, từ các ván
bập bênh khổng lồ đến các đường một ray trên cao. Ý tưởng chiến thắng sau cùng thuộc về một dự án hệ
thống nâng tàu thép khổng lồ có thể xoay được, về sau trở thành Thang máy Falkirk. Hình dạng đặc biệt của
kết cấu này được cho là lấy cảm hứng từ nhiều nguồn, cả nhân tạo lẫn thiên nhiên, đặc biệt là hình ảnh chiếc
rìu hai lưỡi của người Xen-tơ, hay chân vịt tàu thủy, lồng ngực cá voi hoặc xương sống cá.
Những bộ phận khác nhau của Thang máy Falkirk đều được xây dựng và lắp ráp, tựa như một bộ đồ
chơi xây dựng khổng lồ, tại xưởng cán thép của Butterley Engineering ở Derbyshire, cách Falkirk khoảng
400 kilo mét. Ở đây có một nhóm lắp ráp tỉ mỉ 1.200 tấn thép, cẩn thận lắp ráp từng bộ phận với nhau với sự
chính xác chỉ 10 milimét nhằm bảo đảm sự hoàn thiện sản phẩm cuối cùng. Vào mùa hè năm 2001, cơng
trình này được tháo dỡ và vận chuyển đến Falkirk trên 35 toa tàu. Sau đó mọi thứ được lắp ghép lại trên bờ,
cuối cùng được cần cẩu nâng vào đúng vị trí 5 bộ phận lớn. Thang máy này cần chống chịu được ứng suất
lực liên tục và mạnh mẽ của cần trục khi xoay, vì thế nhằm giúp kết cấu cơng trình này cứng cáp hơn, các
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3
Page 2
READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 11
bộ phận bằng thép được cài chốt thay vì hàn lại với nhau. Có hơn 45.000 chốt được cài với nhau, mỗi chốt
đều được xiết chặt.
Thang máy gồm hai bộ cánh quạt hình lưỡi rìu đối nhau, được lắp cách trục xoay cố định khoảng 25
mét. Hai khoang chứa đối phương với sức chứa 360.000 lít nước, được lắp vừa vặn giữa hai đầu quạt. Trọng
lượng những khoang này luôn luôn bằng nhau, bất kể chúng có đang chở tàu hay khơng. Điều này là do theo
lực đẩy Ác-si-mét, những vật nổi sẽ thay thế trọng lượng của chúng trong nước. Vì vậy, khi một tàu đi vào
khoang chứa, lượng nước khoang chứa thải ra sẽ bằng chính xác trọng lượng con tàu. Điều này giúp thang
máy cân bằng và, bất chấp trọng lượng cực lớn của mình, thang máy xoay 180 độ chỉ trong năm phút rưỡi
và tiêu tốn rất ít năng lượng. Thang máy chỉ tốn mức năng lượng là 1,5 kw/h (5,4 MJ) khi xoay – bằng năng
lượng cần dùng khi đun sơi tám bình nước nóng cỡ nhỏ.
Tàu thuyền cần được nâng lên để tiến vào kênh đào với mực nước của kênh Forth & Clyde, sau đó
tiến vào mực nước thấp hơn ở khoang chứa. Hai cổng thép chạy bằng sức nước được nâng lên, ngăn nước ở
kênh đào tràn vào khoang. Nước giữa các cổng được tháo ra. Một khóa thủy lực, giúp ngăn sự chuyển động
của cánh quạt của thang máy khi khoang chứa đưa tàu qua kênh đào, mở ra cho phép cánh quạt hoạt động.
Ở buồng máy trung tâm, một hàng gồm 10 động cơ thủy lực bắt đầu xoay quanh trục chính. Trục này nối
liền các tay quay ngoài của thang máy, những tay quay này bắt đầu xoay với vận tốc 1/8 vòng/phút. Khi
cánh quạt xoay, các khoang chứa được giữ thẳng đứng nhờ hệ thống bánh răng đơn giản. Hai răng cưa bán
kính 8 mét xoay quanh một răng cưa cố định bên trong có cùng bán kính, được nối với nhau nhờ hai răng
cưa nhỏ hơn chuyển động ngược hướng với các răng cưa ngồi – do đó ln giữ mực nước trong khoang
chứa cân bằng. Khi khoang chứa chuyển động lên đến đỉnh, tàu thuyền sẽ đi thẳng vào cống dẫn nước nằm
ở độ cao 24 mét so với kênh đào.
Một cặp khóa giúp thang máy nâng lên cao 11 mét bằng với độ cao kênh đào Union. Do sự hiện diện
của bức tường lịch sử Antonine, được người La Mã xây dựng vào thế thứ hai sau công nguyên nên thang
máy không được thiết kế để nâng những tàu thuyền vượt quá 35 mét đi qua hai kênh đào. Tàu thuyền vượt
qua bức bằng bằng cách đi vào một đường hầm, sau đó băng qua các cửa cống, cuối cùng vào đến kênh đào
Union.
Giảm Thiểu Tác Động Của Biến Đổi Khí Hậu
Mark Rowe tường trình về dự án geo-engineering (thay đổi trái đất bằng kỹ thuật) đầy tham vọng
đang được các nhà khoa học nghiên cứu
A.
Chúng ta ngày càng phụ thuộc vào các nguồn năng lượng hóa thạch, và thải ra vơ số khí cácbon điơ-xít vào khí quyển đến nỗi nhiều chun gia đồng tình rằng việc nóng lên tồn cầu hiện nay là khơng thể
tránh khỏi. Họ cho rằng cách tốt nhất mà nhân loại có thể làm là duy trì nhiệt độ ở mức chấp nhận được,
ngày nay thì lựa chọn quan trọng nhất là cắt giảm các nguồn khí thải cácbon. Tuy nhiên, trong lúc vài quốc
gia đang tiến bộ trong việc thực thi điều này thì phần lớn những quốc gia cịn lại lại gặp nhiều trở ngại…
Kết quả là ngày càng nhiều nhà khoa học tham gia khám phá các khả năng khác của geo-engineering – một
thuật ngữ thường dùng để chỉ sự kiểm sốt mơi trường có mục đích trên quy mơ lớn. Theo các nhà đề
xướng, geo-engineering là sự cân bằng của các thiết bị dự phòng: nếu kế hoạch A – nhằm giảm sự phụ
thuộc của con người vào các nhiên liệu hóa thạch – thất bại, ta cần triển khai kế hoạch B, khai thác các
phương án lớn nhằm làm chậm hoặc đảo ngược q trình nóng lên tồn cầu.
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3
Page 3
READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 11
B.
Geo-engineering đã được đưa vào vận hành, ít nhất là trên phạm vi địa phương nhỏ lẻ. Trong nhiều
thập niên qua, các cuộc diễu hành mừng ngày Quốc tế Lao động ở Moscow đã diễn ra dưới khoảng trời
trong xanh nhờ việc các máy bay rải đá khô, bạc iodide và xi măng để xua mây. Nhiều kế hoạch đề xuất
việc thực hiện điều ngược lại, và giảm lượng ánh sáng mặt trời chiếu vào trái đất. Ý tưởng thu hút nhiều
người nhất được Giáo sư Roger Angel thuộc Đại học Arizona đề xướng. Kế hoạch này đòi hỏi sử dụng đến
16 tỷ tỷ máy bay, mỗi chiếc có trọng lượng khoảng một gram, để tạo ra một chiếc ô trong suốt, khúc xạ ánh
nắng, hoạt động cách trái đất 1,5 triệu kilo mét. Theo Angel thì việc này sẽ làm giảm 2% lượng ánh nắng
chiếu xuống trái đất.
C.
Phần lớn các dự án về geo-engineering được thực hiện – kể cả việc trồng rừng nơi hoang mạc và đưa
sắt xuống lịng đại dương nhằm kích thích sự phát triển của tảo biển – đều chú trọng vào việc làm nguội bớt
trái đất. Tuy nhiên cũng có vài dự án đặc biệt chú trọng việc đảo ngược quá trình tan băng ở hai cực, cụ thể
là Bắc Cực. Lập luận đưa ra là nếu ta bổ sung các mảng băng và nước đóng băng ở các vùng vĩ độ cao thì
ánh sáng sẽ được phản xạ trở lại khơng gian, do đó làm giảm sự nóng lên của đại dương và khí quyển.
D.
Vài nhà khoa học đề xuất ý tưởng dùng các bình xịt phun vào tầng bình lưu của Bắc cực. Điều này
bao hàm việc sử dụng bình phun chứa lưu huỳnh hoặc sunfua hiđro tạo ra lưu huỳnh đi-ơ-xít để hình thành
mây, giúp trái đất râm mát. Ý tưởng này bắt nguồn từ những vụ núi lửa phun trào trong lịch sử, như trường
hợp núi Pinatubo ở Phi-líp-pin phun trào năm 1991 đã làm khí hậu trái đất giảm xuống 0,5 độ C trong thời
gian ngắn. Các nhà khoa học cũng nghiên cứu tính khả thi của việc dùng những dây cáp cường lực bảo vệ
những mảng băng ở Đan Mạch, không cho những băng sơn này rơi xuống biển. Cùng lúc đó ở Bắc cực
thuộc địa phận của Nga, các dự án geo-engineering đề ra việc trồng hàng triệu cây phong. Khi những cây
thông bản địa trong vùng che tuyết và hấp thụ bức xạ, thì cây phong sẽ rụng lá vào mùa đơng, làm phóng xạ
bị tuyết phản xạ lại. Theo các nhà khoa học khí hậu thì những con sơng ở Nga hoạt động trở lại làm tăng
lượng dòng chảy lạnh cho những vùng tạo băng cũng có thể giúp cản trở sự nóng lên.
E.
Nhưng những dự án có thể thành cơng hay khơng? Nói chung, các nhà khoa học trong những nghiên
cứu này là những người cẩn trọng nhất với geo-engineering. Angel phát biểu rằng kế hoạch của ông là
“không thể thay thế các nguồn năng lượng tái tạo: giải pháp bền vững duy nhất.” Và tiến sĩ Phil Rasch của
phịng thí nghiệm quốc gia Tây bắc Thái Bình Dương trụ sở tại Mỹ cũng thận trọng khi nói về vai trị của
geo-engineering: “Tơi cho rằng chúng ta đều đồng tình rằng nếu ta kết thúc geo-engineering vào một ngày
nhất định thì hành tinh này sẽ nhanh chóng quay trở lại với các điều kiện tiền công nghệ chỉ trong vịng 10
đến 20 năm. Đó quả thật là một vấn đề đáng ngại.”
F.
Trung tâm quốc gia về nghiên cứu khí quyển ở Mỹ đã ám chỉ việc phun lưu huỳnh vào khí quyển có
hể ảnh hưởng đến các kiểu mưa ở vùng nhiệt đới và Biển Bắc. Rasch nói, “dự án geo-engineering nhằm
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3
Page 4
READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 11
phun hóa chất vào tầng bình lưu hoặc tạo mây có thể làm giảm nhiệt độ trái đất và tăng diện tích băng trên
biển. Nhưng mọi mơ hình đều cho thấy những ảnh hưởng lên sự phân bố lượng mưa.”
G.
“Một nguy cơ sâu xa hơn của các dự án geo-engineering là bạn có thể “quá trớn””, Tiến sĩ Dan Lunt
từ khoa Khoa học địa vật lý thuộc trường Đại học Bristol, người đang nghiên cứu về những tác động lên khí
hậu của việc tạo bóng râm và phun hóa chất, phát biểu. “Bạn có thể đưa nhiệt độ tồn cầu trở về thời tiền
cơng nghiệp, nhưng rủi ro là các cực sẽ vẫn ấm hơn và các vùng nhiệt đới sẽ lạnh hơn trước thời cơng
nghiệp hóa.” Để tránh xảy ra viễn cảnh này, Lunt cho rằng dự án của Angel sẽ phải hoạt động với một nửa
sức mạnh; tất cả điều này củng cố quan điểm của ông về lựa chọn tốt nhất là tránh việc phụ thuộc hồn tồn
vào cơng nghệ tồn cầu.
H.
Lý do chủ yếu tại sao cơng nghệ tồn cầu được nhiều cộng đồng khoa học ủng hộ là bởi hầu hết các
nhà nghiên cứu không tin tưởng năng lực của các chính khách trong việc tán đồng – và thực hiện – cắt giảm
lượng các-bon cần thiết. Theo Tiến sĩ Martin Sommerkorn, chuyên gia tư vấn biến đổi khí hậu cho chương
trình Bắc cực Quốc tế của quỹ Động vật hoang dã Thế giới, thì “Tác động của biến đổi khí hậu lên con
người đã đặt nhân loại vào tình thế không thể không suy nghĩ cặn kẽ về vấn đề này cũng như những khả
năng của nó.”
Sự Trỗi Dậy Của Chiến Hạm Mary Rose
Làm thế nào một chiến hạm từ thế kỷ 16 được khai quật từ đáy biển
Vào ngày 19 tháng 7 năm 1545, hạm đội Anh và Pháp giao chiến trên vùng biển thuộc bờ biển phía
nam nước Anh, tên gọi Solent, nằm giữa thị trấn Portsmouth và đảo Wight. Trong số tàu chiến của Anh có
một chiến hạm mang tên Mary Rose. Được đóng ở Portsmouth khoảng 35 năm trước, chiến hạm này có mơt
chiến tích dài lâu và thành công, đồng thời cũng là chiến hạm u thích của Vua Henry VIII. Có nhiều ý
kiến trái chiều về những việc xảy ra với con tàu: vài người cho rằng chiến hạm này không bị Pháp đánh bại,
số khác lại cho rằng do chiến hạm bị xuống cấp, quá tải và dong buồm thấp ngoài biển, những người khác
lại chê trách sự quản lý kém cỏi của đội ngũ thủy thủ vô tổ chức. Tuy nhiên một điều không thể phủ nhận là
chiến hạm Mary Rose đã bị đắm trong vùng biển Solent và mang theo ít nhất 500 người. Sau trận chiến,
nhiều nỗ lực đã được thực hiện nhằm trục vớt con tàu nhưng đều thất bại.
Tàu Mary Rose đã ngủ yên nơi đáy biển, nghiêng về phía mạn phải một góc xấp xỉ 60 độ. Thân tàu
trở thành nơi chứa bùn cát do các dòng chảy của biển Solent cuốn vào. Cuối cùng, mạn phải bị bùn cát
nhanh chóng lấp đầy, cịn mạn trái bị tàn phá bởi hệ sinh vật biển và máy móc bị hủy hoại. Do phương thức
đắm tàu nên gần như mọi phần ở mạn phải đều còn nguyên vẹn. Trong suốt thế kỷ 17 và 18, toàn bộ khu
vực đắm tàu được bao phủ một lớp đất xám cứng làm giảm thiểu sự xói mịn.
Sau đó, vào ngày 16 tháng 6 năm 1836, vài ngư phủ ở Solent phát hiện ra ngư cụ của họ vướng phải
vật gì dưới nước, và vật đó chính là chiến hạm Mary Rose. Thợ lặn John Deane đang thám hiểu một chiếc
tàu đắm khác gần đó, được các ngư phủ tìm gặp và nhờ anh gỡ vướng giúp. Deane lặn xuống và phát hiện
ngư cụ vướng phải một thanh gỗ nhô ra từ đáy biển. Lặn xuống sâu hơn, anh nhận thấy có vài thanh gỗ khác
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3
Page 5
READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 11
và một khẩu pháo đồng. Deane thực hiện vài cuộc lặn ở vùng này đến năm 1840, anh phát hiện ra thêm
nhiều khẩu pháo, hai mũi tàu, vô số cột gỗ, các phần của một máy bơm và nhiều bộ phận nhỏ khác.
Một trăm năm nữa trơi qua mà chiến hạm Mary Rose vẫn cịn chìm dưới đáy đại dương tăm tối. Cho
đến năm 1965, nhà sử học quân sự và thợ lăn nghiệp dư Alexnder McKee, cùng Hội thợ lặn Anh đã thực
hiện một dự án tên gọi “những chiến hạm biển Solent”. Về mặt lý thuyết, kế hoạch này nhằm kiểm chứng
những tàu đắm đã được phát hiện ở vùng biển Solent, nhưng thực chất McKee mong muốn sẽ phát hiện
được chiến hạm Mary Rose. Do các phương pháp tìm kiếm thơng thường khơng có hiệu quả nên McKee đã
cộng tác với giáo sư kỹ thuật điện Harol E. Edgerton, viện Công nghệ Massachusetts. Vào năm 1967, hệ
thống quét ảnh sườn đáy biển của Edgerton đã phát hiện ra một vật thể lớn, có hình dạng khác thường,
McKee cho rằng đây chính là chiến hạm Mary Rose.
Tiến hành khai quật sâu hơn ông phát hiện những mảnh gỗ rải rác và một khẩu đại bác bằng đồng.
Cuộc khai quật lên đến đỉnh điểm khi một phần khung tàu được phát hiện vào ngày 05 tháng 5 năm 1971.
McKee và đồng đội khi đó biết chắc rằng họ đã tìm được xác con tàu đắm, nhưng không biết rằng con tàu
cũng chứa đựng một kho báu về những tạo tác tuyệt đẹp đã được gìn giữ. Dự án ngày càng thu hút sự quan
tâm, vào năm 1979, Hiệp hội Mary Rose Trust được thành lập do Hoàng tử Charles làm Chủ tịch và tiến sĩ
Margaret Rule làm giám đốc khảo cổ. Quyết định có trục vớt con tàu hay không không phải chuyện đơn
giản, dù rằng cuộc khai quật năm 1978 đã chứng tỏ tính khả thi trong việc trục vớt con tàu. Trong khi mục
tiêu chính là phải trục vớt con tàu bằng mọi khả năng thì kế hoạch này vẫn giậm chân tại chỗ mãi cho đến
tháng 01 năm 1982, khi mọi thơng tin cần thiết được cung cấp thì kế hoạch mới được tiếp tục tiến hành.
Một yếu tố trọng tâm trong nỗ lực vớt chiến hạm Mary Rose là phần thân tàu cịn sót lại có dạng vỏ
sị mở. Điều này dẫn đến một quyết định quan trọng là chia tiến trình trục vớt tàu ra thành ba giai đoạn riêng
biệt. Thân tàu được nối với một khung đỡ nhờ mạng lưới chốt và dây chằng. Việc thân tàu bị hút chặt xuống
bùn được giải quyết bằng cách dùng 12 đòn bẩy thủy lực. Các đòn bẩy này nâng thân tàu lên vài centi-mét
trong vài ngày, khi đó khung đỡ sẽ từ từ nâng bốn chân trụ lên. Chỉ khi thân tàu được treo lơ lửng trên giá
đỡ, thoát khỏi đáy biển và khỏi lực hút của bùn cát xung quanh thì giai đoạn hai của cơng cuộc trục vớt mới
được tiến hành. Trong giai đoạn này, khung đỡ được cố định với móc cần cẩu, và thân tàu hồn toàn được
nâng lên khỏi đáy biển và được chuyển dưới nước đến giàn nâng tàu. Giàn cần được bố trí kỹ lưỡng nhằm
đặt đúng các cọc nhọn của giàn nâng vào các chân trụ. Giàn được thiết kế phù hợp với bản vẽ thân tàu theo
nghiên cứu khảo cổ học, và được trang bị các túi khí để cung cấp lớp đệm dự phòng cho khung tàu bằng gỗ
đang mục nát. Giai đoạn ba và bốn là nâng toàn bộ tàu lên khỏi mặt nước, nhờ sự hỗ trợ dưới nước. Cuối
cùng, vào ngày 11 tháng 10 năm 1982, hàng triệu người trên thế giới cùng hồi hộp khi chứng kiến thân tàu
Mary Rose được nâng lên khỏi mặt nước, sẵn sàng rời thị trấn Portsmouth trở lại cố hương.
Điều Gì Đã Phá Hủy Nền Văn Minh Trên Đảo Phục Sinh?
A.
Đảo Phục Sinh, hay theo tiếng địa phương là Rapu Nui, là nơi có hàng trăm tượng đá về người cổ người Moai. Khi người Polynesian đến định cư trên hịn đảo nằm tách biệt với Thái Bình Dương này thì hịn
đảo vẫn cịn bị cơ lập trong nhiều thế kỷ. Mọi nguồn tài nguyên và sức lực nhằm tạo nên những tượng Moai
– có tượng cao đến 10 mét và nặng hơn 7.000 kí lơ – là do tự người trên đảo tạo nên. Tuy nhiên khi các nhà
thám hiểm Hà Lan đặt chân lên vùng đất này vào năm 1722, họ đã bắt gặp một nền văn hóa thời kỳ đồ đá.
Những tượng Moai được chạm khắc bằng những cơng cụ làm từ đá, sau đó được vận chuyển hàng ki lô mét
đến những bệ đá lớn mà không sử dụng sức kéo của động vật hay xe đẩy. Danh tính của những người xây
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3
Page 6
READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 11
dựng nên các tượng Moai vẫn nằm trong màn bí ẩn mãi cho đến thế kỷ 20. Thor Heyerdahl, nhà thám hiểm
và dân tộc học người Na uy cho rằng những tượng này được người tiền Inca đến từ Peru tạo nên. Tác giả
những cuốn sách đắt hàng người Thụy Sĩ, Erich von Daniken lại tin rằng chúng được người ngoài hành tinh
đi ngang qua xây dựng. Các bằng chứng về gen, khảo cổ học và ngôn ngữ học khoa học đã chứng minh rằng
những thợ xây Moai là người Polynesian, nhưng không lý giải được phương thức vận chuyển những tác
phẩm này. Người điạ phương cho rằng những tượng đá này biết di chuyển, cịn những nhà nghiên cứu lại
phỏng đốn rằng tổ tiên ngày xưa đã dùng dây thừng và gỗ để kéo những tượng này.
B.
Khi người châu Âu đến đây, Rapa Nui cịn là vùng đồng cỏ, chỉ có vài cây cằn cỗi trơ trọi. Nhưng
vào những năm 70 và 80 của thế kỷ 20, các nhà nghiên cứu phát hiện có phấn hóa hóa thạch trong lớp trầm
tích dưới đáy hồ, điều này cho thấy hòn đảo đã từng được bao phủ bởi những rừng cọ xanh tươi trong hàng
trăm năm. Chỉ sau khi người Polynesian đến đây thì những cánh rừng này mới biến mất.Nhà khoa học Mỹ
Jared Diamond tin rằng người Rapanui – hậu duệ của những người Polynesian đã phá hủy chính mơi trường
sống của họ. Khơng may là họ đã sinh sống trên một hòn đảo cực kỳ khắc nghiệt – hanh khô, nguội lạnh, và
quá xa vùng đất màu mỡ do bụi núi lửa bay tới. Khi người trên đảo phá rừng làm gỗ và canh tác, những khu
rừng ngừng sinh trưởng. Khi cây cối quá hiếm hoi để xẻ xuống làm tàu gỗ để bắt cá thì người ta ăn thịt
chim. Sói mịn đất làm giảm năng suất trồng trọt. Trước khi người châu Âu đến đây thì người Rapanui đã
lâm vào tình trạng nội chiến và ăn thịt đồng loại, Diamond viết. Ơng nói, sự sụp đổ của nền văn minh cô lập
này là một “trường hợp xấu nhất có thể đang chờ đợi chúng ta trong tương lai.”
C.
Người Moai, theo ông, đã đi đến tình trạng tự diệt vong. Diamond giải thích điều này là do sự phô
bày sức mạnh của thủ lĩnh phe đối địch, người bị kẹt trên một hòn đảo nhỏ hoang vắng, thiếu phương tiện
nhằm khẳng định sự thống trị của mình. Họ thi nhau xây nên những bức tượng lớn chưa từng có. Diamond
cho rằng họ đặt tượng Moai trên những xe kéo bằng gỗ, trượt trên đường ray gỗ, nhưng điều này đồng nghĩa
với việc phải huy động vơ số gỗ và nhân lực. Để tìm kiếm thức ăn, người ta tàn phá nhiều đất đai hơn nữa.
Khi rừng biến mất và nội chiến bắt đầu, những cư dân trên đảo bắt đầu lật đổ những những tượng Moai. Vào
thế kỷ 19, khơng cịn bức tượng nào ở tư thế đứng.
D.
Hai nhà khảo cổ học là Tery Hunt thuộc Đại học Hawaii và Carl Lipo thuộc Đại học bang California
đồng tình với việc đảo Phục sinh đã mất đi những khu rừng bạt ngàn, đây là một “thảm họa sinh thái” –
nhưng họ cũng cho rằng cư dân trên đảo là vô tội. Và dĩ nhiên các tượng Moai lại càng không liên quan.
Các khai quật khảo cổ cho thấy người Rapanui vô cùng nỗ lực bảo vệ các nguồn tài nguyên cho các cánh
đồng cằn cỗi lộng gió của họ. Họ xây dựng hàng ngàn rào đá chắn gió hình trịn và trồng trọt trong đó, rồi
dùng đá từ núi lửa đã phun trào để tạo độ ẩm cho đất. Tóm lại, Hunt và Lipo tranh luận rằng những người
Rapanui thời tiền sử là những người tiên phong trong việc trồng trọt bền vững.
E.
Hunt va Lipo khẳng định việc xây dựng tượng đá Moai là một hoạt động giúp duy trì hịa bình giữa
những người trên đảo. Họ cũng cho rằng việc vận chuyển tượng Moai khơng cần nhiều người hay gỗ vì
chúng được di chuyển theo tư thế thẳng đứng. Tranh luận về vấn đề này, Hunt và Lipo nói rằng các bằng
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3
Page 7
READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 11
chứng khảo cổ ủng hộ truyền thuyết của người Rapanui. Những thử nghiệm gần đây cho thấy chỉ cần 18,
với ba sợi thừng chắc khỏe và sự tập luyện, có thể dễ dàng di chuyển một mơ hình tượng Moai nặng 1.000
kg xa vài trăm mét. Phần bụng phệ của tượng làm tượng nghiêng về trước và phần bệ hình chữ D giúp
người điều khiển lăn và lắc tượng từ bên này qua bên kia.
F.
Hơn nữa, Hunt và Lipo tin tưởng rằng những cư dân ở đây khơng hồn tồn phải chịu trách nhiệm về
việc cây cối trên đảo biến mất. Phát hiện khảo cổ về hạt cây cọ đã tuyệt chủng trên đảo Phục sinh cho thấy
những vết lõm nhỏ do răng chuột sống cùng người Polynesian tạo ra. Lũ chuột sống chung với cư dân trên
đảo, và chỉ trong vài năm, theo tính tốn của Hunt và Lipo, chúng đã sinh sơi tràn lan trên đảo. Có thể
chúng đã ngăn cản sự nảy mầm của những cây cọ sinh trưởng chậm, do đó tận diệt những khu rừng của đảo
Rapa Nui, bất kể người dân trên đảo có phá rừng hay khơng. Rõ ràng là chuột cũng ăn cả trứng chim nữa.
Hunt và Lipo khơng tìm thấy bằng chứng cho thấy nền văn minh Rapanui sụp đổ đồng thời với sự biến mất
của rừng cọ. Họ cho rằng dân số tăng trưởng nhanh và khá bền vững cho đến khi người châu Âu đổ bộ,
mang theo những dịch bệnh chết người cho cư dân đảo khơng hề được miễn dịch. Sau đó vào thế kỷ 19, các
thương lái nơ lệ góp phần làm giảm dân số, chỉ còn 111 người vào năm 1877.
G.
Theo quan điểm của Hunt và Lipo thì đây là một hịn đảo có những cư dân xây dựng tượng Moai
thật thà và thân thiện và là người quản lý tử tế của hịn đảo, chứ khơng phải những kẻ hủy diệt liều lĩnh tự
phá hủy môi trường sống và cộng đồng của mình. Theo họ, “Khơng phải là trường hợp một thất bại thảm
hại, mà đảo Rapa Nui tựa như một câu chuyện thành công mơ hồ”. Bât kể trường hợp nào, thì cũng có vài
bài học đáng giá mà cả thế giới có thể rút ra từ câu chuyện của Rapa Nui.
Thẩm Mỹ Thần Kinh Học
Một ngành học mới có tên thẩm mỹ thần kinh học đang tìm cách đưa tính khách quan khoa học vào
hội họa, và đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn về nhiều kiệt tác. Thí dụ như những hình ảnh mờ ảo trong tác phẩm
của các họa sĩ thuộc trường phái ấn tượng có vẻ đã kích thích chất xám trong bộ não. Do chất xám đóng vai
trị chính yếu trong cảm xúc con người nên phát hiện này có thể giải thích được lý do nhiều người thường
thấy những tác phẩm này thật xúc động.
Phải chăng cách tiếp cận tương tự cũng sẽ làm sáng tỏ nhiều tác phẩm trừu tượng của thế kỷ 20, từ
những khối màu hình học của cảu Mondrian đến những mảng màu tung tẩy lộn xộn trên những tranh sơn
dầu của Pollock? Những người hoài nghi tin rằng người ta cho rằng họ yêu thích những tác phẩm này chẳng
qua là do đây là những tác phẩm nổi tiếng. Chắc rằng trong chúng ta ai cũng tâm lý hùa theo đám đơng. Ví
như khi được u cầu quyết định những vấn đề mang tính cảm quan đơn giản như nối một hình với hình bị
xoay của chúng, người ta thường có những lựa chọn sai lầm do nhìn thấy người khác cũng chọn hình đó.
Khơng khó để tưởng tượng ra việc trạng thái tâm lý này càng có tác động lên những khái niệm không rõ
ràng như đánh giá nghệ thuật, do trong nghệ thuật khơng có câu trả lời đúng hay sai.
Angelina Hawley-Dolan, thuộc trừ đại học Boston, Massachusetts, đã hưởng ứng sự tranh cãi bằng
việc yêu cầu những tình nguyện viên quan sát các cặp tranh vẽ - từ những kiệt tác của các họa sĩ trừu tượng
trứ danh đến các bức vẽ nghệch ngoạc về trẻ em, tinh tinh hay voi. Sau đó các tình nguyện viên phải đánh
giá xem họ thích bức vẽ nào. Một phần ba số tranh khơng có chú thích, số cịn lại được chú thích sai lệch –
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3
Page 8
READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 11
tình nguyện viên có thể cho rằng mình đang xem một bức vẽ lộn xộn về một con tinh tinh trong khi trên
thực tế họ đang chiêm ngưỡng một kiệt tác đã được công nhận. Ở mỗi phần thử nghiệm, các tình nguyện
viên nhìn chung đều thích tác phẩm của những họa sĩ nổi tiếng, dù rằng họ cho rằng tác phẩm đó nói về một
động vật hay một đứa trẻ nào đó. Có vẻ như người quan sát có thể cảm nhận được hình ảnh mà họa sĩ truyền
tải trong tranh, ngay cả khi họ không thể lý giải được.
Robert Pepperell, một họa sĩ thuộc Đại học Cardiff, đã sáng tác các tác phẩm mơ hồ nhập nhằng
giữa trừu tượng và hiện thực. Trong một nghiên cứu, Pepperell và đồng sự đã yêu cầu các tình nguyện viên
quyết định xem họ cho rằng một tác phẩm nghệ có “sức mạnh” như thế nào và họ có nhìn thấy thứ gì giống
nhau trong tranh hay không.Càng dành nhiều thời gian trả lời câu hỏi, họ càng đánh giá cao những tác phẩm
được quan sát tỉ mỉ, và các hoạt động thần kinh của họ diễn ra nhiều hơn. Dường như bộ não nhìn những
hình ảnh này như các mảnh ghép, mảnh ghép nào càng khó giải nghĩa thì khi giải mã được não bộ lại càng
thỏa mãn.
Thế còn những họa sĩ như Mondrian, tác giả những tác phẩm hội họa chuyên chứa các đường ngang
dọc được bao phủ bởi những khối màu? Các tác phẩm của Mondrian có vẻ đơn giản, nhưng các nghiên cứu
theo dõi hành vi mắt cho thấy bố cục những tác phẩm này được sắp xếp một cách tinh tế, mà chỉ cần xoay
bức tranh thơi cũng thay đổi hồn tồn phương thức ta chiêm ngưỡng. Với tác phẩm ban đầu, mắt các tình
nguyện viên có xu hướng dừng lại lâu hơn trên những phần nhất định của bức tranh, nhưng với phiên bản
đảo của tác phẩm họ chỉ nhìn lướt qua các mảng hình. Kết quả là khi đánh giá các tác phẩm, tình nguyện
viên cho rằng các bức tranh đảo ngược ít thú vị.
Trong một nghiên cứu tương tự, Oshin Vartanian thuộc Đại học Toronto đã yêu cầu các tình nguyện
viên so sánh những tác phẩm gốc với những tác phẩm đã được sửa đổi bằng cách di chuyển vị trí các vật thể
trong tranh. Ơng phát hiện ra đa phần mọi người đều thích bản gốc hơn, dù có là tranh tĩnh vật của Van
Gogh hay tranh trừu tượng của Miró. Vartanian cũng nhận thấy sự thay đổi bố cục của các bức họa làm
giảm sự họat hóa trong các vùng não bộ có liên kết với ý nghĩa và kiến giải.
Trong một thử nghiệm khác, Alex Forsythe thuộc trường Đại học Liverpool đã phân tích sự tinh vi
thị giác trong các tác phẩm hội họa khác nhau, và kết quả cho thấy nhiều họa sĩ tận dụng các chi tiết nhằm
làm thỏa mãn bộ não. Theo Forsythe, quá ít chi tiết sẽ làm bức họa chán ngắt, còn quá nhiều lại gây ra sự
“quá tải cảm giác”. Hơn nữa, các tác phẩm lôi cuốn thuộc trường phái trừu tượng hay hiểu hiện đều có các
dấu hiệu hình học trùng lặp – cùng một chủ đề cứ tái diễn dưới nhiều mức độ khác nhau. Những dấu hiệu
hình học trùng lặp này rất phổ biến trong tự nhiên, như hình dạng đỉnh núi hay nhánh cây. Rõ ràng hệ thống
thị giác của chúng ta, tiến triển từ thế giới bên ngoài, nhận thấy việc xử lý những kiểu hình này dễ dàng hơn.
Một điều thú vị là bộ não xử lý các chuyển động khi ta nhìn thấy một lá thư tay, như thể ta đang xem
lại quá trình viết của tác giả. Điều này làm vài người hồi nghi các tác phẩm của Pollock có cảm giác rất
phấn khích do bộ não tái hiện các hành động sinh động của họa sĩ khi ông đang vẽ. Điều này có thể làm kiệt
quệ các tế bào thần kinh phản chiếu trong não bộ, tế bào giúp mô phỏng hành động của người khác. Tuy
nhiên giả thiết này cần được kiểm chứng tồn diện. Thậm chí có thể dẫn đến trường hợp chúng ta áp dụng
các nghiên cứu về thẩm mỹ thần kinh học để nhận biết tuổi thọ của một số tác phẩm hội họa. Khi các phong
cách thời trang của thời đại định hình xu hướng đại chúng thì chỗ đứng của các bức họa phù hợp với thị giác
chúng ta có thể bị lung lay một khi xu hướng của thế hệ trước bị lãng quên.
Giờ đây vẫn còn là thời kỳ sơ khai của lĩnh vực thẩm mỹ thần kinh học – và các nghiên cứu trên rất
có thể chỉ là phần trong đó. Tuy nhiên, sẽ rất dại dột khi hạ thấp sự thưởng thức nghệ thuật thành một bộ
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3
Page 9
READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 11
phép tắc khoa học. Chúng ta không nên đánh giá thấp tầm quan trọng của phong cách nghệ thuật của một
tác giả nào đấy, cũng như vị trí của họ trong lịch sử và hồn cảnh nghệ thuật thời bấy giờ. Nghệ thuật trừu
tượng cung ứng cả những thách thức và sự tự do khi bộc lộ nhiều cách lý giải khác nhau. Theo cách nào đó,
nghệ thuật khơng khác khoa học là mấy, khi chúng ta đang khơng ngừng tìm kiếm phương pháp và giải mã
ý nghĩa tác phẩm để ta có thể chiêm ngưỡng và trọng vọng thế giới theo một cách hoàn toàn mới.
Lịch Sử Tơ Lụa
Lịch sử của loại vải xa xỉ bậc nhất thế giới, bắt nguồn từ Trung Quốc cổ đại đến ngày nay
Lụa là một loại vải mềm mượt, sang trọng được làm từ tơ tằm – lớp kén mềm của loại tằm ăn dâu
(nhộng tằm). Truyền thuyết kể rằng Lei Tzu, hoàng hậu của một hoàng đế cai trị Trung Quốc vào khoảng
năm 3000 trước công nguyên, là người đã phát hiện ra con tằm. Truyền thuyết thuật lại rằng khi đang đi dạo
trong ngự hoa viên, hoàng hậu đã phát hiện ra con tằm đang ăn những lá dâu trên cây. Bà bắt một vài con
rồi ngồi nghỉ. Khi bà đang uống trà thì đột nhiên một con tằm rơi vào trong cốc trà nóng và nhả ra một sợi
chỉ mảnh. Lei Tzu phát hiện rằng bà có thể cuốn sợi chỉ này quanh ngón tay. Sau đó, bà thuyết phục hồng
đế cho phép ni tằm trong rừng dâu. Bà cũng chế tạo ra một guồng quay đặc biệt dùng để kéo sợi tơ từ kén
tằm thành từng sợi đủ chắc để dệt vải. Không rõ truyền thuyết này có đúng hay khơng, nhưng chắc chắn
rằng tơ lụa đã xuất hiện ở Trung Quốc trong vài thế kỷ.
Vào buổi đầu, chỉ có phụ nữ được phép nuôi tằm, họ phải chịu trách nhiệm nuôi tằm, thu hoạch kén,
và dệt vải. Lụa nhanh chóng trở thành một biểu tượng của địa vị, và ngày xưa, chỉ có thành viên hồng tộc
mới có đặc quyền mặc y phục bằng tơ lụa. Luật lệ này dần được nới lỏng theo thời gian, cuối cùng đến thời
nhà Thanh (1644-1911 sau cơng ngun) thì ngay cả nơng dân, tầng lớp thấp nhất cũng được mặc lụa. Có
thời trong thời nhà Hán (206 trước công nguyên – 220 sau công nguyên), lụa có giá đến nỗi được dùng làm
đơn vị tiền tệ. Quan lại được hưởng bổng lộc là lụa, và nông dân phải đóng thuế bằng ngũ cốc và lụa. Lụa
cũng được dùng để tiến cống trong các triều đại. Dây câu, dây cung, dây cho các nhạc cụ và giấy cũng đều
được làm từ lụa. Bằng chứng sớm nhất về giấy lụa được khai quật từ lăng mộ một quan lại đã chết vào
khoảng năm 168 sau công nguyên.
Nhu cầu sử dụng loại chất liệu đẹp đẽ này sau cùng đã tạo ra một con đường thương mại đầy lợi
nhận được gọi là Con đường tơ lụa, chuyên chở tơ lụa đến phương tây và vận chuyển vàng, bạc và len về
phương đông. Con đường tơ lụa lấy tên theo món hàng có giá trị nhất được vận chuyển, tức tơ lụa còn quý
hơn vàng. Con đường tơ lụa kéo dài hơn 6.000 ki-lơ-mét từ phía đơng Trung Quốc đến Địa Trung Hải, dọc
theo Vạn lý Trường thành ở Trung Quốc, băng qua dãy núi Pamir, vượt qua Afghanistan ngày nay và đi tới
vùng Cận Đông, tới thị trường thương mại chính ở Damacus. Từ đây, hàng hóa được vận chuyển vượt Địa
Trung Hải. Vài thương nhân đi hết con đường; hàng hóa được bốc dỡ qua trung gian.
Do lồi tằm ăn dâu chỉ có ở Trung Quốc, nên quốc gia này là nhà sản xuất tơ lụa độc nhất trên thế
giới trong hàng trăm năm. Cuối cùng, bí mật dệt lụa cũng được thế giới biết đến nhờ Đế quốc Đông La Mã,
đế quốc đã thống trị khu vực Địa Trung Hải ở nam Âu, Bắc Phi và Trung Đông trong suốt khoảng thời gian
330-1453 sau công nguyên. Theo một truyền thuyết khác, các nhà sư của dưới thời Đế quốc Đơng La Mã do
hồng đế Justinian trị vì đã lén giấu trứng tằm trong thân gậy tre đi đường đưa về Constantinople (tức
Istanbul thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) vào năm 550 sau công nguyên. Thế nhưng giống như Trung Quốc, Đế
quốc Đơng La Mã giữ kín bí mật này, và trong nhiều thế kỷ, bí quyết chế tạo và trao đổi lụa bị giới hạn
trong phạm vi của đế quốc này. Sau đó, vào thế kỷ thứ bảy, người A-rập xâm chiếm Ba tư và chiếm đoạt tơ
lụa lộng lẫy. Theo đà chiến thắng của người A-rập, các sản phẩm từ tơ lụa đã lan ra khắp châu Phi, Sicily và
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3
Page 10
READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 11
Tây Ban Nha. Andalusia ở miền Nam Tây Ban Nha là trung tâm sản xuất tơ lụa chính của châu Âu vào thế
kỷ thứ mười. Nhưng đến thế kỷ 13, Ý đã dẫn dầu châu Âu về sản xuất và xuất khẩu lụa. Các thương gia
Venice đã buôn bán rộng rãi tơ lụa và khuyến khích người trồng dâu ni tằm đến Ý định cư. Cho đến bây
giờ, loại tơ lụa được sản xuất ở tỉnh Como thuộc miền Bắc Ý vẫn rất nổi tiếng.
Vào thế kỷ 19, nền công nghiệp tơ lụa của châu Âu bắt đầu xuống dốc. Lụa Nhật Bản giá thành rẻ
hơn, cùng sự thuận tiện giao thương khi kênh đào Suez mở cửa, là một trong nhiều yếu tố dẫn đến tình trạng
này. Sau này, vào thế kỷ 20, các chất liệu nhân tạo mới như ni-lông được sử dụng thay cho các sản phẩm
làm từ lụa truyền thống như vớ và dù. Sau Thế chiến thứ II, các sản phẩm từ lụa của Nhật Bản được phục
hồi từ thành phẩm đến chất lượng lụa thô. Nhật Bản tiếp tục giữ vị trí là đầu mối sản xuất lụa thơ lớn nhất
thế giới đồng thời là nơi xuất khẩu lụa thô chủ chốt mãi đến những thập niên 1970. Tuy nhiên, trong những
thập niên gần đây, Trung Quốc đã dần chiếm lại vị thế của mình khi là nơi sản xuất và xuất khẩu lụa thô
cùng sợi tơ lớn nhất thế giới. Ngày nay có khoảng 125.000 tấn lụa tính theo mét được sản xuất trên thế giới
và gần 2/3 số đó bắt nguồn từ Trung Quốc.
Cuộc Di Trú Vĩ Đại
Theo định nghĩa thì cuộc di trú của các lồi động vật đơn thuần không chỉ là sự di chuyển của đàn
động vật. Nó thể được xem là chuyến đi diễn ra vào những thời điểm nhất định – thường là theo chu kỳ
hàng năm – có thể gồm nhiều loài khác nhau, và chỉ dừng lại sau một chuyến đi dài. Điều này cho thấy động
vật có bản năng kế thừa. Nhà Sinh vật học Hugh Dingle đã tìm ra năm đặc trưng, với cấp độ và sự kết hợp
khác nhau, của mọi cuộc di trú. Đó là những chuyến đi kéo dài đưa động vật thốt khỏi mơi trường sống
quen thuộc; có xu hướng di chuyển theo chiều dọc chứ khơng phải theo hình zíc-zắc; những chuyến di trú
thường mang những hành vi đặc thù liên quan đến sự chuẩn bị (như quá nhiều thức ăn) và địa điểm đến; các
chuyến đi cần sự phân phối năng lượng đặc biệt. Và thêm nữa là: động vật di trú duy trì sự tập trung cao độ
đối với sự mệnh vĩ đại của chúng, không bị xao lãng trước những cám dỗ và ít nản lịng trước những thách
thức mà ít động vật nào làm được.
Loài nhạn biển Bắc cực, trên quãng đường bay 20.000 ki-lô-mét từ cực nam của Nam Mỹ đến Bắc
cực, sẽ phớt lờ mùi cá trích hấp dẫn từ một thuyền theo dõi chim dọc tuyến đường bay. Chúng bay ngang
mặc cho lồi mịng biển bản địa sẽ ngốn sạch món ngon trời cho này. Tại sao lại như vậy? loài nhạn biển
Bắc cực chống lại ham muốn này do khi đó chúng bị chi phối bởi một thứ bản năng tự nhiên mà con người
chúng ta sẽ vơ cùng ngưỡng mộ: vì mục đích cao cả hơn. Nói cách khác, chúng nhất quyết phải bay đến nơi.
Lồi chim biết chúng có thể ăn uống, nghỉ ngơi và tìm bạn sau. Cịn hiện giờ chúng tập trung tồn lực vào
chuyến hành trình; điểm đến mới là dự định của chúng. Bay đến bờ biển Bắc cực sỏi đá, nơi những con
nhạn biển Bắc cực khác cùng đổ về, sẽ phục vụ cho mục đích lớn hơn trong chu trình tiến hóa: tìm đúng địa
điểm, thời điểm, và hồn cảnh để ấp trứng và ni dưỡng thành công con non.
Nhưng di trú cũng là một vấn đề phức tạp, các nhà sinh vật học định nghĩa di trú theo cách khác, một
phần dựa trên loài động vật họ nghiên cứu. Joel Berger thuộc trường Đại học Montana, chuyên nghiên cứu
loài linh dương gạc nhiều nhánh châu Mỹ và những lồi động vật có vú sống trên cạn khác, thích gọi cuộc
di trú của những lồi thú của ông bằng một khái niệm đơn giản và thực tế là: “những di chuyển theo mùa từ
quê nhà này đến quê nhà khác và ngược lại.” Lý do thường thấy cho những chuyến di cư theo mùa này là để
tìm kiếm nguồn thức ăn khơng có sẵn quanh năm ở một khu vực nào đó.
Nhưng những chuyển động theo chiều dọc thường nhật của sinh vật phù du dưới đại dương – ban
đêm bơi lên lên gần mặt nước tìm thức ăn, ban ngày lại bơi xuống đáy biển tránh những loài ăn thịt – cũng
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3
Page 11
READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 11
được xem là di trú. Vì thế những chuyển động của lồi rệp cây cũng vậy, chúng ăn mịn lá non của cây chủ,
sau đó con cháu chúng bay đến những cây chủ khác, và không quay lại cây chủ ban đầu nữa.
Dingle là một nhà sinh vật học tiến hóa chuyên nghiên cứu về cơn trùng. Định nghĩa của ơng phức
tạp hơn Berger, trích dẫn năm đặc trưng giúp phân biệt di trú với những hình thức di chuyển khác. Những
đặc trưng này cho phép một thực tế là, ví dụ lồi rệp sẽ trở nên mẫn cảm với ánh sáng xanh dương (từ bầu
trời) vào thời điểm chúng khởi hành chuyến đi lớn, và mẫn cảm với ánh sáng vàng (do lá non phản chiếu)
thích hợp với đất. Nhờ những chuyến bay di trú dài, chim chóc sẽ tự vỗ béo với nguồn thức ăn dồi dào đó.
Dingle cho rằng giá trị trong định nghĩa của ông là tập trung chú ý vào hiện tượng di trú của lồi linh dương
đầu bị và lồi rệp cây, do đó hướng dẫn các nhà nghiên cứu nhận biết được q trình tiến hóa đã tạo ra
những điều này như thế nào.
Hành vi của con người thế nhưng lại gây bất lợi cho các cuộc di trú của động vật. Loài linh dương
gạc nhiều nhánh, tương tự linh dương dù khơng có mối liên hệ nào với nhau, là lồi động vật có vú trên
cạnh nhanh nhất tân thế giới. Một quần thể, suốt mùa hè sinh sống ở Cơng viên Quốc gia Grand Teton nơi
có nhiều núi non của vùng Tây Mĩ, đi theo một lộ trình nhỏ từ các dãy núi mùa hè, băng qua sông, đi xuống
vùng đồng bằng. Tại đây, chúng chờ đợi qua những tháng băng giá, chủ yếu ăn cây ngải đắng đã được giũ
sạch tuyết. Loài linh dương gạc nhiều nhánh này nổi tiếng về sự cố định trong lộ trình di trú của mình cũng
như sự khắc nghiệt trên tuyến đường có ba nơi có địa thế thắt chặt. Nếu chúng không thể vượt qua bất kỳ
địa điểm nào trong suốt chuyến di cư mùa xuân, chúng không thể có những bữa tiệc mùa hè thịnh soạn; nếu
chúng lại không thể vượt qua những điểm này vào mùa thu, trốn khỏi miền nam để đi lên vùng đồng bằng
lộng gió, chúng có nguy cơ bị chết khi phải trải qua mùa đơng nhiều tuyết. Lồi linh dương gạc nhiều nhánh
phụ thuộc vào thị lực và tốc độ để thốt khỏi những lồi ăn thịt, băng qua vùng đất mở rộng, nơi chúng có
thể quan sát và chạy trốn. Tại một trong những nút thắt trên lộ trình di cư, những ngọn đồi hình chữ V rậm
rạp, tạo ra một hành lang có khoảng đất mở chỉ rộng 150 mét, có nhiều ngơi nhà riêng. Sự phát triển đang
dẫn đến một sự suy thoái trong bầy linh dương gạc nhiều nhánh, đe dọa cắt đứt lộ trình của chúng.
Các nhà khoa học bảo tồn, cùng vài nhà sinh vật học và quản lý đất đai thuộc Cơ quan Công viên
Quốc gia Hoa Kỳ và các cơ quan khác hiện đang nghiên cứu việc bảo tồn hành vi di trú, khơng riêng gì việc
bảo tồn giống lồi hay mơi trường sống. Trong Rừng quốc gia đã công nhận đa phần quãng đường di cư của
linh dương gạc nhiều nhánh cắt ngang đất rừng nhằm bảo vệ lộ trình di cư. Nhưng kể cả Cơ quan Rừng lẫn
Cơ quan Công viên đều khơng thể kiểm sốt được những chuyện xảy ra ở vùng đất tư nhân thuộc đoạn lộ
trình thắt nút. Và với những loài di trú khác, thách thức càng phức tạp hơn nữa – do khoảng cách di trú xa
hơn, nhiều giới hạn và nguy hiểm hơn dọc tuyến đường di trú. Chúng ta sẽ cần phải khôn ngoan và kiên
quyết để đảm bảo việc các loài di trú có thể tiếp tục cuộc hành trình của chúng lâu hơn.
Lời Tựa Cuốn Sách “Nửa Não Cịn Lại Nghĩ Gì: Chuyến Du Hành Vào Luận Điểm
Tốn Học”
Đơi khi, trong các bản nhạc khó chơi lại có những phần rất hay nhưng lại cực dễ - những phần đơn
giản mà những người mới tập có thể chơi được. Điều này cũng tương tự với tốn học. Có một vài khám phá
trong tốn học tiến bộ khơng dựa vào kiến thức chun mơn, hay đại số, hình học, thậm chí lượng giác.
Thay vào đó đa phần chúng có thể gồm một ít kiến thức số học, như “tổng hai số lẻ là một số chẵn” và kiến
thức thường thức. Mỗi phần trong tám chương của cuốn sách này này chứng minh hiện tượng đó. Mọi
người đều có thể từng bước lập luận.
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3
Page 12
READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 11
Cách tư duy trong mỗi chương thường chỉ là số học sơ cấp, có khi cịn chưa đến sơ cấp. Vì thế mọi
độc giả sẽ có cơ hội tham dự vào trải nghiệm tốn học, để trân trọng vẻ đẹp của toán học và quen dần với
cách tư duy lô-gic nhưng trực quan này.
Một trong những mục khi viết nên cuốn sách này của tôi là giúp những độc giả chưa từng có cơ hội
được quan sát và cảm nhận toán học thật sự một lần thưởng thức phương pháp tư duy tốn học. Tơi không
những muốn truyền tải những khám phá thú vị mà quan trọng hơn, còn muốn truyền đạt lối lập luận sau
những khám phá này.
Trên tinh thần đó, cuốn sách này khác những sách tốn học viết cho cơng chúng chung chung. Có
những cuốn trình bày về cuộc đời những nhà tốn học. Những cuốn khác lại mơ tả ứng dụng quan trọng của
toán học. Vài cuốn nọ đi sâu vào q trình giải tốn, nhưng địi hỏi độc giả phải giỏi môn đại số.
Tôi mong rằng cuốn sách này sẽ giúp nối những cách biệt khét tiếng trong việc chia tách hai nền văn
hóa: nhân văn và khoa học, hoặc tơi phải nói là não phải (trực giác) và não trái (phân tích, tính tốn). Các
chương sách sẽ chứng minh, tốn học khơng bị giới hạn trong sự phân tích hay tính tốn mà trực giác cũng
đóng một vai trị trọng yếu. Ai cũng có thể thu hẹp hoặc hồn hồn xóa bỏ khoảng cách trên, một phần là
do mỗi người chúng ta cịn chưa tận dụng hết tồn bộ năng lực của hai bán cầu não. Để minh họa cho tiềm
năng con người, tôi đã dẫn chứng về một kĩ sư kiến trúc là một họa sĩ, kỹ sư điện là một ca sĩ ô-pê-ra, một
ca sĩ ô-pê-ra xuất bản các nghiên cứu toán học, và một nhà toán học lại cho xuất bản những mẩu truyện
ngắn.
Các nhà khoa học khác đã viết sách nhằm giải thích cho lĩnh vực phi khoa học của mình, nhưng nhất
thiết phải từ bỏ toán học, dù toán học là nền tảng cho các học thuyết của họ. Độc giả phải duy trì vị thế
người đọc hơn là một thành viên tham gia vào đó, do bất kể chủ đề có là vũ trụ mở rộng, các hạt hạ nguyên
tử hay nhiễm sắc thể thì ngơn ngữ thích hợp trong việc mơ tả các chi tiết trong khoa học là toán học. Mặc dù
đặc điểm chung của một học thuyết khoa học có thể được trình bày bằng trực giác, khi cuối cùng một phần
của vũ trụ vật đã được thấu hiểu, thì các mơ tả của nó thường trơng như một trang trong sách tốn.
Tuy nhiên, những độc giả khơng rành tốn học có thể hiểu hơn về lập luận tốn học. Cuốn sách này
trình bày những chi tiết chứng minh cách tư duy tốn học, bao gồm sự phân tích liên tục, từng bước, các thí
nghiệm, và đặc trưng bên trong. Bạn sẽ lật từng trang của cuốn sách này chậm hơn cả khi đọc tiểu thuyết
hay một tờ báo. Bạn sẽ cần có sẵn một cây bút chì và giấy để kiểm tra lập luận và tiến hành thí nghiệm.
Khi viết sách, tơi ln nhắc nhở mình về hai dạng độc giả: những người thích tốn học cho đến khi
họ cụt hứng vì đọc đến một phần gây khó chịu, thường là những phần toán lớp năm; và những người say mê
toán học, họ sẽ khám phá được nhiều điều mới mẻ trong cuốn sách này.
Cuốn sách cũng dành cho những độc giả đơn thuần chỉ muốn củng cố kỹ năng phân tích. Nhiều
nghành nghề như luật và dược cần sự phân tích tỉ mỉ, chuyên sâu. Mỗi chương sách đều có phần thực hành
giúp theo kịp, theo sát dịng tư duy biện luận. Tốn học có thể phát triển kỹ năng này được trình bày bằng
hai luận điểm:
Một nhà vật lý viết, “Nguyên tắc của quá trình tư duy phân tích (trong tốn học) là hành trang đầy đủ
cho tôi thi vào trường y. Trong y dược, một người phải đối mặt với một vấn đề cần được phân tích đầy đủ
trước khi tìm ra hướng giải quyết. Q trình này tương tự việc làm tốn.”
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3
Page 13
READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 11
Một luật sư có cùng quan điểm, “Dù rằng tơi khơng có nền tảng học luật – cả khóa học về khoa học
chính trị cũng không – nhưng tôi học rất tốt ở một trong những trường luật tốt nhất. Với tôi, thành công đến
từ việc học toán học, cụ thể hơn là học các định lý, cách phân tích những định lý phức tạp. Các luật sư đang
nghiên cứu tốn học có thể kiểm soát những quy tắc luật lệ theo cách mà nhiều người khác không thể làm
được.”
Tôi hy vọng rằng bạn sẽ chia sẻ đam mê của tôi trong việc dõi theo những câu hỏi đơn giản, có phần
ngây ngơ lại đưa đến những đáp án nổi bật và những phát hiện chỉ là giả thiết lại tạo ra những ứng dụng bất
ngờ.
Nghiên Cứu Những Cặp Sinh Đôi
Với các nhà nghiên cứu y sinh trên khắp thế giới thì các cặp sinh đôi đem lại một cơ hội quý giá
nhằm giải mã tầm ảnh hưởng của hệ gen và môi trường – cả tự nhiên lẫn nuôi dưỡng. Do các cặp sinh đơi
cùng trứng hình thành khi trứng sau khi được thụ tinh thì phân chia thành hai phơi, những cặp này thường
có chung mã gen. Bất kỳ khác biệt nào giữa các cặp này – như việc một trong hai có làn da trắng hơn – là do
các yếu tố môi trường như ít được phơi nắng.
Một lựa chọn khác là so sánh những trải nghiệm của những cặp sinh đôi cùng trứng với các cặp sinh
đôi khác trứng, xuất hiện khi có hai sự thụ tinh riêng biệt và cùng có một nửa DNA, các nhà nghiên cứu có
thể định lượng mức độ ảnh hưởng của gen đối với đời sống chúng ta. Nếu các cặp sinh đôi cùng trứng
thường có các triệu chứng đau ốm giống nhau nhiều hơn các cặp sinh đơi khác trứng, thì việc dễ bị bệnh
một phần nằm ở sự di truyền.
Hai hướng nghiên cứu này – nghiên cứu sự khác biệt giữa các cặp sinh đôi cùng trứng để xác định
sức ảnh hưởng của môi trường và so sánh các cặp sinh đôi cùng trứng với các cặp sinh đơi khác trứng để
tính tốn vai trò của sự kế thừa – rất quan trọng trong việc thấu hiểu tác động của tự nhiên và ni dưỡng
trong việc định hình nhân cách, hành vi và việc dễ bị bệnh của chúng ta.
Ý tưởng nghiên cứu dựa trên các cặp sinh đơi để tính tốn tầm ảnh hưởng của sự kế thừa xuất hiện
từ năm 1875, khi nhà khoa học Anh Francis Galton đưa ra phương hướng này (đồng thời đặt ra cụm từ “tự
nhiên và nuôi dưỡng”). Thế nhưng vào những năm 1980, nghiên cứu các cặp sinh đôi bất ngờ thay đổi khi
xuất hiện những nghiên cứu về các cặp sinh đôi cùng trứng bị tách ra khi mới chào đời và gặp lại nhau khi
đã lớn. Trong hơn hai mươi năm, có 137 trường hợp sinh đơi đã đến phịng thí nghiệm của Thomas
Bouchard để tiến hành thí nghiệm sau này gọi là Nghiên cứu Minnesota về các cặp sinh đôi được nuôi
dưỡng khác nhau. Nhiều thí nghiệm được tiến hành với cặp sinh đôi, và từng người họ được hỏi hơn 15.000
câu hỏi.
Bouchard và các cộng sự đã đào xới núi dữ liệu này nhằm xác định các cặp sinh đôi bị gen tác động
như thế nào. Chìa khóa trong cách tiếp cận của họ là một khái niệm thống kê tên gọi sự thừa kế. Nói rộng ra
thì sự thừa kế tính cách đo đạc mức độ khác nhau giữa các thành viên trong xã hội bằng sự khác biệt kiểu
gen của họ. Và bất cứ khi nào Bouchard và các nhà khoa học khác nhìn lại, có vẻ như họ phát hiện có một
bàn tay vơ hình của gen đã tác động lên việc hình thành cuộc sống của chúng ta.
Tuy nhiên, sau đó, nghiên cứu về các cặp sinh đôi đã giúp các nhà khoa học đi đến một kết luận mới:
rằng tự nhiên và việc nuôi dưỡng không phải là những nhân tố duy nhất ảnh hưởng các cặp sinh đôi. Theo
một lĩnh vực mới xuất hiện là biểu sinh học, có 1/3 yếu tố góp phần ảnh hưởng, trong vài trường hợp, một
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3
Page 14
READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 11
yếu tố là cầu nối giữa môi trường và gen của chúng ta, trong những trường hợp khác yếu tố này tự vận hành
nhằm định hình tính cách chúng ta.
Q trình biểu sinh học là các phản ứng hóa học biệt lập với tự nhiên hoặc sự nuôi dưỡng và đại diện
cho điều mà các nhà nghiên cứu gọi là “nhân tố thứ ba”. Những phản ứng này tác động lên phương thức
biểu hiện của mã gen con người: Cách từng gen được củng cố hay bị suy yếu, khóa hay mở trong việc hình
thành xương, não và các bộ phận khác trên cơ thể người.
Nếu bạn cho rằng DNA của chúng ta là một bàn phím dương cầm to rộng và gen của ta là những
phím đàn – từng phím biểu hiện một đoạn DNA chịu trách nhiệm cho một nốt hoặc tính cách cụ thể, và các
phím này kết hợp lại sẽ tạo nên tính cách chúng ta – sau đó q trình biểu sinh học sẽ quyết định thời gian
và cách thức từng phím được đánh nhằm biến đổi giai điệu đang chơi.
Một phương pháp mà nghiên cứu biểu sinh học đang cách mạng hóa tư duy sinh học của ta là tiết lộ
cơ chế ảnh hưởng trực tiếp của môi trường lên hệ gen. Ví dụ, các nghiên cứu trên động vật cho thấy khi một
con chuột bị trầm cảm trong khi mang thai có thể gây ra những thay đổi biểu sinh học trong bào thai dẫn
đến các vấn đề về hành vi khi thai trưởng thành. Các quá trình biểu sinh khác diễn ra khá ngẫu nhiên, lại có
vài q trình diễn ra bình thường, ví dụ như các q trình định hướng cho tế bào phơi phát triển thành tim,
não hay các tế bào gan.
Nhà di truyền học Danielle Reed đã làm việc với nhiều cặp sinh đôi trong nhiều năm và có hiểu biết
sâu sắc về những nghiên cứu trên các cặp sinh đơi giúp gì cho ta. Bà phát biểu, “Rõ ràng là khi bạn nhìn vào
các cặp sinh đôi bạn nhận ra đa phần các điểm giống nhau của họ được lập trình. Có nhiều thứ về họ cực kỳ
tương đồng và khó thay đổi. Nhưng hiển nhiên, khi bạn tìm hiểu họ, bạn sẽ thấy họ có những điểm khác
nhau. Theo tơi, biểu sinh học là nguyên nhân của nhiều khác biệt trên.”
Reed công nhận ảnh hưởng của cơng trình của Thomas Bouchard đối với làn sóng nghiên cứu các
cặp sinh đơi hiện nay. Bà nói, “Ơng là người tiên phong. Chúng ta qn rằng 50 năm trước những thứ như
bệnh tim hoàn toàn bị cho là do cách sống gây ra. Tâm thần phân liệt bị cho là thiếu dưỡng dục. Các nghiên
cứu về sinh đôi cho phép ta suy ngẫm nhiều hơn về những gì con người sinh ra đã có và những gì người ta
phải trải qua mới có. ”
Tuy nhiên, Reed bổ sung thêm, cơng trình gần đây nhất về biểu sinh học hứa hẹn sẽ nâng tầm hiểu
biết của chúng ta lên cao hơn. Bà nói, “Tơi thường thích nói rằng có vài thứ được tự nhiên viết nên bằng bút
chì, số khác bằng bút mực. Bạn khơng thể thay đổi những thứ được viết bằng bút mực. Như DNA. Nhưng
bạn có thể thay đổi những thứ viết bằng bút chì. Như biểu sinh học. Giờ đây chúng ta thật sự có khả nhìn
vào DNA và nhận thấy dấu vết của viết chì, đó là một loại thế giới hoàn toàn mới.”
Về Âm Thanh Trong Phim Ảnh
Tuy chúng ta thường cho rằng hình ảnh đóng vai trị trọng yếu trong phim nhưng ta cũng không thể
đánh giá thấp giá trị của âm thanh trong phim. Một bản nhạc nền đầy hàm ý cũng phức tạp như hình ảnh
xuất hiện trên màn hình và cũng quan trọng như vai trị của đạo diễn. Toàn bộ nhạc nền gồm ba yếu tố
chính: giọng nói con người, hiệu ứng âm thanh và âm nhạc. Ba phần này phải được phối và cân chỉnh sao
cho tạo ra những nhấn nhá cần thiết để đạt được hiệu quả mong muốn. Chủ đề thường chỉ ba yếu tố đề cập ở
trên sẽ được phân tích tiếp sau đây. Chủ đề bao gồm hội thoại, hiệu ứng âm thanh đồng bộ và không đồng
bộ, và âm nhạc.
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3
Page 15
READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 11
Đầu tiên là hội thoại. Trong một đoạn kịch diễn trên sân khấu, hội thoại là kể lại câu chuyện và diễn
đạt tâm tư tình cảm của nhân vật. Thông thường trong phim, khán giả nhận thấy tính cách của nhân vật và
diễn viễn khơng khác nhau là mấy. Vì thế, ví dụ như diễn viên Humphrey Bogart đóng vai Dam Spade; thì
tính cách của nhân vật và tính cách ngồi đời của nam diễn viên gần như hịa nhập vào nhau. Điều này có
thể là do lời thoại của diễn viên hỗ trợ yếu tố nhân cách.
Khi lời thoại phù hợp với diện mạo và cử chỉ diễn viên thì tồn bộ tính cách nhân vật cũng sẽ lồng
ghép vào đó. Khán giả khơng chỉ xem một diễn viên đang đóng mà cịn chứng kiến một con người khác
đang đấu tranh với cuộc sống.. Cũng rất thú vị khi nhận thấy cách đối thoại và lượng lời thoại biến đổi đa
dạng trong phim. Ví dụ như trong một bộ phim khoa học viễn tưởng rất thành cơng tên 2001, có rất ít lời
thoại, và hầu như mọi lời thoại đều sáo rỗng và thiếu lơi cuốn. Theo đó, nhà sản xuất phum có thể khắc họa
điều mà Thomas Sobochack và Vivian Sobochack viết trong cuốn Bàn về Phim, là “sự khập khiễng trong
phản ứng của con người khi so sánh giữa công nghệ tuyệt vời do con người tạo ra với vẻ đẹp của vũ trụ.”
Tuy nhiên, bộ phim hài Dạy dỗ trẻ con lại chứa các đoạn hội thoại liên tiếp được trình bày với tốc độ
chóng mặt. Việc dùng những lời thoại này khơng chỉ nhấn mạnh sự ngớ ngẩn trong tính cách nhân vật do
Katherine Hepburn đóng mà cịn tạo ra sự ngây ngơ cho bộ phim, nhờ đó gây ra tiếng cười. Khán giả bất
ngờ từ trị khơi hài đến trị khơi hài khác, từ đoạn thoại này đến đoạn thoại khác; họ khơng có thời gian suy
nghĩ. Khán giả bị ngắt mạch suy nghĩ trong một loạt những hành động chỉ để cố theo kịp cảnh phim. Bộ
phim này đơn thuần mơ tả khuynh hướng thốt ly thực tế - chủ yếu dựa vào các đoạn thoại liên tiếp.
Hiệu ứng âm thanh đồng bộ là những âm thanh được đồng bộ hóa hay phù hợp với hình ảnh trình
chiếu. Thí dụ nếu bộ phim minh họa một nhân vật đang chơi đàn dương cầm, tiếng đàn được lồng vào. Âm
thanh đồng bộ góp phần hiện thực hóa bộ phim, đồng thời cũng giúp tạo ra bầu khơng khí nhất định. Như
tiếng “click” của một cánh cửa được mở làm khán giả tin rằng hình ảnh trên màn hình là thật, và trong tiềm
thức khán giả có thể chỉ chú ý đến âm thanh họ mong được nghe thấy. Song nếu tiếng “click” mở cửa báo
hiệu hành động như trộm vào nhà, thì để thu hút sự chú ý, âm thanh “click” được trộn với cường độ tăng
dần; điều này nhằm tạo ra sự ngờ vực cho khán giả.
Ngược lại, hiệu ứng âm thanh không đồng bộ không đồng nhất với âm thanh có trên màn hình.
Những âm thanh này được lồng ghép nhằm tạo ra sắc thái cảm xúc phù hợp và có thể giúp hiện thực hóa bộ
phim. Như việc một nhà sản xuất phim có thể chọn lồng tiếng còi xe cứu thương làm âm thanh nền khi
chiếu hình ảnh và âm thanh cận cảnh một cặp đơi đang cãi vã. Tiếng cịi cứu thương khơng đồng bộ tăng
cường mức độ chấn động tinh thần trong cuộc tranh cãi; đồng thời tiếng ồn từ còi báo hiệu bối cảnh đoạn
phim ở thành phố làm tăng tính hiện thực trong phim.
Có thể chúng ta ai cũng qua quen với nhạc nền trong phim, thứ âm nhạc xuất hiện thường xuyên đến
nỗi thật đáng bận tâm thì thiếu vắng chúng trong phim. Chúng ta đều biết rằng nhạc phim giúp thêm cảm
xúc và nhịp điệu cho bộ phim. Nhưng hiếm ai chú ý rằng nhạc nền thường mang thanh điệu và thái độ cảm
xúc của câu chuyện và/hoặc của nhân vật. Hơn nữa, nhạc nền thường báo hiệu sự chuyển đổi tâm trạng. Ví
dụ như tiếng nhạc thiếu ổn định trong phim thường chỉ một mối đe dọa hoặc thảm họa mơ hồ (không rõ
ràng).
Nhạc nền cùng cảnh phim có liên quan có thể hỗ trợ nhận thức của khán giả. Ví dụ, một chủ đề âm
nhạc cụ thể nào đó có liên hệ với một nhân vật hoặc tình huống riêng biệt có thể được lặp đi lặp lại tại nhiều
thời điểm trong phim để khơi gợi thính giả nhớ đến những chủ đề hay ý tưởng nổi bật.
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3
Page 16
READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 11
Nhạc phim chứa đựng những quy tắc và sự đổi mới. Ta đã mong đợi tiếng nhạc dồn dập trong những
vụ rượt đuổi bằng xe hơi và tiếng cửa nghiến kẽo kẹt trong những bộ phim kinh dị, Thế nhưng, cũng cần
chú ý rằng âm thanh thường được nhận định rõ ràng. Các hiệu ứng âm thanh thường rất tinh tế và chỉ có
tiềm thức của ta mới phát hiện được. Chúng ta cần nâng cao nhận thức về âm thanh trong phim cũng như
không gian của phim nhằm đánh giá chính xác hình thức nghệ thuật đã xuất hiện trong đời sống trong suốt
thế kỷ 20 – hình thức phim hiện đại.
“Phát Minh Kỳ Diệu Này”
A.
Trong tất cả những phát minh choáng ngợp của nhân loại thì ngơn ngữ có một vị trí đáng nể. Các
phát minh khác như bánh xe, nông nghiệp, bánh mì xắt lát có thể đã làm biến đổi những giá trị vật chất của
chúng ta, nhưng chính phát minh ra ngôn ngữ lại làm chúng ta trở thành con người. So với ngơn ngữ thì mọi
phát minh khác đều cực kỳ lu mờ, do mọi thứ ta đạt được đều dựa vào ngôn ngữ và bắt nguồn từ ngôn ngữ.
Thiếu nó, ta sẽ khơng bao giờ chạm đến sức mạnh vơ song vượt lên mọi lồi động vật khác, thậm chí cịn
vượt qua cả bản thân tự nhiên nữa.
B.
Song vị trí dẫn đầu của ngơn ngữ khơng chỉ vì chúng xuất hiện trước tiên. Ngơn ngữ tự thân nó đã là
một công cụ tinh tế phi thường, dù dựa trên một ý tưởng đơn giản tài tình: “Phát minh kỳ diệu kết hợp 25
đến 30 loại âm thanh để tạo ra vô số cách biểu đạt không giống chút nào so với những gì mà chúng ta đang
nghĩ này đã cho phép ta tiết lộ tồn bộ bí mật với người khác, và truyền đạt mọi điều ta tưởng tượng hay
những thứ khuấy đảo tâm hồn ta với những người khơng thể hiểu chúng.” Đó là lời mà vào năm 1660,
những nhà ngữ pháp học nổi tiếng người Pháp thuộc tu viện Cảng Hoàng gia, gần Versailles đã rút ra được
về cốt lõi của ngôn ngữ, và tới tận nay khơng có ai tán dương thành tựu của ngơn ngữ thuyết phục hơn lời
đó. Tuy thế, có một sai sót trong những lời tán tụng này, đó là lịng tơn kính thành tựu độc đáo của ngơn ngữ
đã che dấu một điều đơn giản nhưng được xem là phi lý. Ngôn ngữ là phát minh vĩ đại nhất của nhân loại –
tuy nhiên, nó khơng phải được phát minh ra. Nghịch lý hiển nhiên này là tâm điểm của niềm đam mê ngôn
ngữ của chúng ta, và ẩn chứa trong đó mn vàn bí mật.
C.
Ngơn ngữ thường có vẻ được phác thảo điêu luyện đến nỗi người ta khó lịng tưởng tượng được rằng
chúng khơng phải là một cơng trình hồn hảo của một nghệ nhân bậc thầy. Làm thế nào mà cơng cụ này có
thể được việc hơn nhiều dù chỉ đơn thuần bắt nguồn từ vài ba mẩu âm thanh vụn vặt? Tự bản thân ngôn
ngữ, những kết cấu của miệng gồm p, f, b, v, t, d, k, g, sh, a, e vân vân chẳng hơn gì những tiếng húng hắng
và khục khặc lung tung, những âm thanh ngẫu nhiên vô nghĩa, không thể mô tả, khơng thể giải thích. Nhưng
khi đi qua bánh răng và guồng quay của bộ máy ngôn ngữ, chúng lại được sắp xếp theo những thứ tự rất đặc
biệt, và không có gì mà những dịng khí vơ nghĩa này lại không làm được: từ thở dài chán ngán vô cùng sự
tồn tại đến tháo gỡ trật tự cơ bản của vũ trụ.
D.
Nhưng điều kỳ diệu nhất về ngôn ngữ lại là người ta không cần phải là thiên tài mới vận
hành được bánh xe ngôn ngữ. Bộ máy ngôn ngữ cho phép gần như mọi người – từ những người cắt cỏ cổ
đại trên những thảo nguyên cận nhiệt đới, đến những nhà triết học chống hiện đại trong những khu ổ chuột
ngoại ô – kết nối những âm thanh vô nghĩa này với nhau thành vô vàn ý nghĩa tinh vi, và rõ ràng là không
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3
Page 17
READING SKILL – CAMBRIDGE IELTS 11
cần phải đổ một giọt mồ hơi. Tuy nhiên chính sự dễ dãi lừa lọc này đã biến ngơn ngữ thành một nạn nhân
của chính thành cơng của nó, do trong đời sống thường nhật, chiến tích của ngơn ngữ thường được cho là tự
nhiên mà có. Bánh xe ngơn ngữ lăn q êm làm người ta hiếm khi bận tâm đến việc dừng lại và suy ngẫm
về mọi công sức và sự thành thạo đã phải bỏ ra để vận hành ngôn ngữ. Ngôn ngữ ẩn chứa nghệ thuật.
E.
Thường thì chỉ có sự khác biệt của ngôn ngữ ngoại quốc, với những đặc trưng khác lạ và kỳ dị, đã
mang đến kỳ quan về sự sáng tạo ngơn ngữ. Một trong những trị lố nhất mà vài ngơn ngữ có thể lộ ra là khả
năng tạo từ với tốc độ nghẹt thở, và vì thế tiếng Anh cần cả câu mới mô tả được một từ. Như trường hợp
một từ tiếng Thổ Nhĩ Kỳ sehirlilistiremediklerimizdensiniz có nghĩa “bạn là một trong những người chúng
tơi không thể thay đổi thành cư dân thị trấn.” (trong trường hợp bạn đang thắc mắc, thì từ kỳ quái này lại
thực chất chỉ là một từ, không phải một tập hợp từ khác nhau – hầu như mọi thành phần trong từ này không
thể đứng riêng lẻ.)
F.
Và nếu điều đó có vẻ dị hợm thì với trường hợp của Sumerian, ngôn ngữ được những người phát
minh ra chữ viết - giúp tạo ra những tài liệu lịch sử - đã sử dụng trong các ngân hàng dọc sông Euphrates
khoảng 5000 năm trước. Một từ Sumerian là munintuma’a (Khi anh đã khiến nó phù hợp với cơ ấy) có vẻ là
một dạng rút gọn của cụm từ Thổ Nhĩ Kỳ ở trên. Song điều ấn tượng về từ này không phải là độ dài của nó
mà ngược lại – là sự chặt chẽ trong cấu trúc của nó. Từ này gồm nhiều phần khác nhau, mỗi phần từ tương
ứng với một phần nghĩa cụ thể. Thiết kế trơn tru này cho phép những âm thanh đơn lẻ truyền tải thông thích
hữu ích, và thực tế ngay cả khi việc thiếu mất một âm thanh cũng diễn tả được điều gì đó riêng biệt. Nếu
bạn phải hỏi đơn vị từ Sumerian nào tương ứng với đại từ “nó” trong câu dịch sang tiếng Anh “Khi anh đã
khiến nó phù hợp với cơ ấy”, thì câu trả lời có thể là khơng có gì. Bạn phải lưu ý là, đó là một cái khơng rất
cụ thể: khơng có gì đứng ở phần trống ở giữa câu hết. Kỹ thuật này tối ưu tới mức ngay cả một từ vô thanh,
khi được cẩn thận đặt vào một vị trí rõ ràng, cũng được giao một chức năng cụ thể. Ai có thể tạo ra một bộ
máy hữu hiệu như vậy chứ?
Mrs Trang Ielts
Fb: />Phone: 098 904 02 82
Add: 12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3
Page 18