Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Địa chủ phong kiến việt nam qua hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (788.3 KB, 63 trang )

1

ỌC
N N
ỌC SƯ P
M
K OA LỊC SỬ

K ÓA LUẬN TỐT N

ỆP

ỌC

ịa chủ phong kiến Việt Nam qua hai cuộc khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp

Sinh viên thực hiện : Lê Thị Thúy
Người hướng dẫn : Nguyễn Hữu Giang

Đà Nẵng, tháng 5/ 2013


2

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Bước vào thời cận đại, khi sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ngày càng cao
và trở thành một hệ thống ở phương Tây thì đồng thời nó cũng địi hỏi vốn, nguyên
liệu, nhân công và thị trường để phát triển. Để đáp ứng nhu cầu này, các nước
phương Tây đã hướng sang các nước Phương Đơng và bắt đầu chính sách xâm lược


của mình trong đó Việt Nam. Việt Nam cũng nằm trong sự nhịm ngó của các nước
phương Tây như Pháp, Tây Ban Nha, Anh. Thực tế lịch sử đã diễn ra vào ngày
1/9/1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam sau một thời gian dài chuẩn
bị. Sau gần 30 năm chiến tranh với điều ước Pa-tơ-nốt (1884) thực dân Pháp đã
buộc triều đình nhà Nguyễn đầu hàng và thừa nhận nền bảo hộ của chúng ở Việt
Nam. Nhưng trước sự kháng cự quyết liệt của nhân dân ta, phải đến năm 1897,
cơng cuộc bình định về qn sự của chúng mới kết thúc. Như vậy sau hơn 40 năm
thực dân Pháp mới hoàn thành việc xâm lược và bình định nước ta. Từ đây, thực
dân Pháp mới thực sự bắt tay vào tổ chức việc cai trị và khai thác thuộc địa với 2
cuộc khai thác từ 1897 – 1929.
Trong q trình đó đã làm cho nền chính trị - kinh tế - xã hội Việt Nam có
những chuyển biến to lớn. Bên cạnh các giai cấp cũ trong xã hội bị phân hóa sâu thì
các giai cấp mới ra đời. Trong đó phải nói đến giai cấp địa chủ phong kiến Việt
Nam đây vốn dĩ là một giai cấp ra đời sớm trong lịch sử Việt Nam trãi qua hàng
ngàn năm nhưng nay dưới tác động của chính sách khai thác thuộc địa của Pháp mà
giai cấp này cũng có những chuyển biến mạnh mẽ theo những hướng khác nhau.
Giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam dưới chế độ thuộc địa không những không
bị thanh toán mất đi mà ngược lại thế lục của chúng ngày càng được củng cố với số
lượng tăng lên, diện tích sở hữu ruộng đất ngày càng mở rộng. Tuy nhiên vẫn có
một bộ phận nhỏ đứng trước cảnh chèn ép của thực dân Pháp đã tham gia vào
phong trào dân tộc chống Pháp đó là điểm mới của giai cấp địa chủ phong kiến
Việt Nam giai đoạn này. Do vậy khi nghiên cứu địa chủ phong kiến Việt Nam đặc
biệt là địa chủ phong kiến Việt Nam qua hai cuộc khai thác thuộc địa giúp chúng ta
đi sâu tìm hiểu lịch sử của cả quá trình từ khi thực dân Pháp xâm lược cho đến khi
cuộc khai thác thuộc địa lần thừ hai kết thúc. Nó sẽ giúp chúng ta thấy được những


3

chính sách thâm độc của Pháp đối với nhân dân ta, thấy được tình hình ruộng đất và

đời sống nơng dân để từ đó dẫn đến việc xuất hiện các giai cấp, tầng lớp mới trong
xã hội…
Ngoài ra nghiên cứu vấn đề địa chủ phong kiến giúp làm sáng tỏ một số vấn
đề trong lịch sử Việt Nam thời cận đại đặc biệt là cuộc xâm lược và thống trị của
thực dân Pháp. Mặt khác ta cũng thấy được những tác động từ chính sách đó của
Pháp đối với xã hội Việt Nam giai đoạn này. Trong đó có một vai trị khơng nhỏ là
của giai cấp địa chủ phong kiến đã tác động đến tình hình ruộng đất, đời sống nông
dân và phong trào yêu nước chống Pháp lúc bấy giờ. Nghiên cứu đề tài này giúp
chúng ta có một cái nhìn khách quan về sự phân hóa của bộ phận giai cấp này cũng
như vai trò của họ đối toàn bộ cuộc khai thác thuộc địa ở Việt Nam mà Pháp thực
hiện. Bên cạnh đó nó cịn giúp chúng ta có những đánh giá khách quan về những
cơng tội của giai cấp địa chủ phong kiến đối với cuộc kháng chiến chống Pháp cứu
nước. Với việc nghiên cứu đề tài này cịn giúp cho bản thân tơi tìm hiểu sâu hơn về
lịch sử lịch sử việt nam thời cận đại, giúp tơi có thể nắm vững kiến thức để giảng
dạy và phương pháp nghiên cứu trong những đề tài sau này.
Thông qua việc nghiên cứu đề tài này chúng ta có những đánh giá khách quan
về giai cấp địa chủ phong kiến cũng như chế độ sở hữu ruộng đất hiện nay để có
những chính sách đúng đắn nhất là tránh hiện tượng quy nạp “địa chủ” vào một số
thành phần kinh tế hiện nay.Xuất phát từ những nguyên nhân trên đây nên tôi chọn
đề tài: “Địa chủ phong kiến Việt Nam qua hai cuộc khai thác thuộc địa của thực
dân Pháp” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề ruộng đất và giai cấp là một trong những vấn đề lớn trong lịch sử Việt
Nam trung - cận đại. Nghiên cứu về địa chủ Việt Nam nói chung và địa chủ phong
kiến Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đã được nhiều tác giả quan tâm
nghiên cứu trong đó một số tác phẩm đã được xuất bản cơng bố. Chúng ta có thể
nói đến một số tác phẩm như:
Trong cuốn “Cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam thời thuộc địa 1858 – 1945”, của
Nguyễn Văn Khánh xuất bản năm 2004 của nhà xuất bản sự thật. Trong tác phẩm



4

này tác giả đã có đề cập đến vấn đề cơ cấu kinh tế và xã hội Việt Nam giai đoạn từ
1858 đến 1945 trong đó có trình bày về giai cấp địa chủ phong kiến qua hai cuộc
khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Tuy nhiên, tác giả chỉ mới trình bày về tình
hình phân hóa của bộ phận giai cấp này chứ chưa đi sâu nghiên cứu trình bày đặc
điểm và vai trị của họ đối với cuộc khai thác thuộc địa của Pháp cũng như tác động
đối với xã hội và phong trào yêu nước giai đoạn này.
Trong tác phẩm “ Vấn đề ruộng đất ở Việt Nam” cuả tác giả Lâm Quang
Huyên xuất bản năm 2002, nhà xuất bản khoa học xã hội tác gỉa đã trình bày một
cách có hệ thống về chế độ sở hữu ruộng đất ở Việt Nam. Từ chế độ sở hữu ruộng
đất tư nhất là gia đoạn cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX thì tác giả đã trình bày về các
phương thức bóc lột của giai cấp địa chủ đối với nơng dân qua đó tối cáo tội ác bóc
lột của giai cấp địa chủ phong kiến. Tuy có trình bày về tình hình giai cấp địa chủ
cũng như tối cáo chính sách bóc lột của giai cấp đị chủ mà ở đây là địa chủ phong
kiến nhưng tác giả chưa có một cái nhìn đúng đắn, đánh giá khách quan chưa thấy
được những đặc điểm cũng như vai trò của giai cấp địa chủ phong kiến.
Trong bài nghiên cứu “ Nông thôn Việt Nam thời cận đại” của tác giả Đinh
Xuân Lâm đăng trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 232 – 233, năm 1987. Trong bài
nghiên cứu này tác giả đã đi sâu nghiên cứu phân tích làm rõ về chuyển biến của
nơng thơn Việt Namthời Pháp thuộc. Trong đó tác giả có nêu lên tác động của cuộc
khai thác thuộc địa đến sự phân hóa giai cấp ở nơng thơn mà ở đây là giai cấp nông
dân và địa chủ phong kiến. Bộ phận giai cấp này đã được Pháp dung dưỡng và trở
thành tay sai đắc lực của Pháp ở nông thôn. Nhưng tác giả cũng chưa đi sâu đi sâu
phân tích về đặc điểm cũng như đánh giá vai trò của giai cấp này.
Trong cuốn “Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ” của tác giả Nguyễn Thế Anh đã
dành cả một phần để nói về chế độ thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đó là
chính sách đầu tư khai thác thuộc địa và những tác động của nó đến tình hình kinh
tế - xã hội Việt Nam dẫn đến sự phân hóa của các giai cấp trong xã hội Việt Nam

trong đó có giai cấp địa chủ phong kiến. Tuy nhiên việc đi sâu tìm hiểu về giai cấp
này lại chưa được tác giả chú ý đề cập nhiều ngồi những số liệu cho chúng ta biết
về tình hình phân hóa của giai cấp này.


5

Nhìn chung, các tác phẩm của các tác giả đi trước trên chỉ mới đề cập tới một
số khía cạnh về sự phân hóa giai cấp trong đó có giai cấp địa chủ dưới tác động của
chính sách khai thác thuộc địa của Pháp tại Việt Nam chứ chưa có cơng trình nào đi
sâu nghiên cứu để thấy được sự chuyển biến của giai cấp địa chủ phong kiến nhất
là về vai trò, tác động của họ. Đặc biệt chưa có tác phẩm nào đánh giá đúng , khách
quan về vai trò của giai cấp địa chủ phong kiến trong cuộc kháng chiến chống
Pháp. Tuy nhiên trên đây là những nguồn tài liệu tham khảo q để chúng tơi có
thể đi sâu nghiên cứu đề tài “Địa chủ phong kiến Việt Nam qua hai cuộc khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp” một cách đầy đủ và hệ thống hơn.
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Đối với đề tài này mục đích khi nghiên cứu là làm rõ được những chuyển biến
cũng như bản chất của giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam nửa sau thế kỉ XIX và
đầu thế kỉ XX trước những tác động của bên ngoài cũng như từ 2 cuộc khai thác
thuộc địa của Pháp. Từ sự phân hóa của giai cấp địa chủ phong kiến theo những
hướng khác nhau đó để đánh giá một cách khách quan về vai trò của họ trong 2
cuộc khai thuộc địa của Pháp ở Việt Nam đồng thời thấy được vai trò của giai cấp
này trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là: giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam
trong 2 cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp trong q trình phân hóa và vai
trị của họ trong 2 cuộc khai thác thuộc địa.
3.3. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của đề tài này là trong 2 cuộc khai thác thuộc địa của thực
dân Pháp giai đoạn từ 1897 - 1929.
3.4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này nhiệm vụ đặt ra là làm rõ được những tác động của
2 cuộc khai thác thuộc địa đối với sự phân hóa của bộ phận giai cấp địa chủ phong
kiến. Từ sự phân hóa đó để làm sáng tỏ vai trò của một bộ phận giai cấp địa chủ có
tinh thần dân tộc tham gia phong trào chống Pháp. Mặt khác thấy được vai trò của


6

giai cấp này đối với cuộc khai thác thuộc địa của Pháp và tình hình xã hội Việt
Nam.
4. Nguồn tư liệu
Để nghiên cứu đề tài: “Địa chủ phong kiến Việt Nam qua hai cuộc khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp” tôi đã dự vào các nguồn tài liệu sau đây.
- Các sách chuyên khảo về lịch sử Việt Nam trung - cận đại.
- Các bài viết trên các tạp chí như: tạp chí lịch sử, tạp chí xưa và nay…
- Các cơng trình nghiên cứu khoa học, các luận văn, khóa luận tốt nghiệp.
- Các website có liên quan đến lịch sử Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài này tôi sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu dựa trên quan điểm
chủ nghĩa Mac – Lênin và quan điểm đường lối của Đảng.
Từ các cơng trình của các tác giả đi trước đã nghiên cứu từ đó tơi tập hợp,
phân tích, so sánh, và đi đến tổng hợp hệ thống hóa các tài liệu theo phương pháp
logic lịch sử.
Từ thu thập và xử lý các nguồn tài liệu dựa trên các nguồn tài liệu khác nhau
như: sách, báo, website….để đi đến những kết luận đánh giá về vấn đề.
6. óng góp của khóa luận
Nghiên cứu đề tài: “Địa chủ phong kiến qua hai cuộc khai thác thuộc địa của

thực dân Pháp” tác giả mong muốn có một số đóng góp nhỏ khi nghiên cứu về một
giai cấp trong lịch sử xã hội Việt Nam.
Thứ nhất, khóa luận này có thể góp phần khơi phục lại một mảng bức tranh về
xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX và nửa đầu thế kỉ XX từ đó giúp người chúng
ta thấy được sự khác biệt của xã hội Việt Nam dưới chế độ phong kiến và dưới chế
độ thực dân nửa phong kiến
Thứ hai, thơng qua việc tìm hiểu, khai thác nguồn tư liệu gốc và tư liệu tham
khảo người viết cố gắng dựng lại một cách cụ thể, đầy đủ và tồn diện tình hình đất
nước Việt Nam về chính trị, kinh tế, văn hóa – giáo dục dưới chính sách thống trị
và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, trong đó có giai cấp địa chủ phong kiến


7

phân hóa ra sao và có vai trị như thế nào trong xã hội cũng như trong phong trào
dân tộc.
Thứ ba, thông qua việc nghiên cứu đề tài này chúng ta có những đánh giá
khách quan về giai cấp địa chủ phong kiến cũng như chế độ sở hữu ruộng đất hiện
nay để có những chính sách đúng đắn nhất là tránh hiện tượng quy nạp “địa chủ”
vào một số tầng lớp thành phần kinh tế hiện nay.
Ngoài ra, đề tài cũng là nguồn tài liệu bổ ích phục vụ cho quá trình học tập,
giảng dạy và nghiên cứu lịch sử Việt Nam trung đại nói chung và về tình hình Việt
Nam dưới thời đơ hộ của thực dân Pháp.
7. Bố cục của đề tài
Đề tài nghiên cứu này bao gồm 3 phần, ngoài phần mở đầu và phần kết luận
thì phần nội dung bao gồm 2 chương:
Chương 1: Tổng quan về giai cấp địa chủ phong kiến và hai cuộc khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp
Chương 2: Sự phân hóa và vai trị của giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam
qua hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp



8

P ẦN NỘ DUN
Chương 1: Tổng quan về giai cấp địa chủ phong kiến và hai cuộc khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp
1.1. ịa chủ phong kiến - Một số thuật ngữ liên quan
1.1.1. ịa chủ
Theo từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thơng thì “địa chủ là người chiếm hữu
ruộng đất rất lớn sống bằng phát canh thu tơ, bóc lột nơng dân dưới chế dộ phong
kiến, thực dân.” [17; tr: 170]
Xét về tên gọi ta thấy “địa chủ” là những người chủ đất họ nắm giữ trong tay
mình một số lượng diện tích đất rất lớn và sống nhờ bằng biệc phát canh thu tô.
Nguồn gốc đất đai của địa chủ thường có hai hướng đó là nhờ đất đai mình tự khai
hoang mà có hoặc là do nhà nước ban cấp. Như vậy họ chỉ “ngồi mát ăn bát vàng”
họ hưởng hoa lợi từ ruộng đất của mình và do người nơng dân một nơng dân một
nắng hai sương cày cấy mà có. Về hình thức bóc lột thì họ bóc lột nhân dân mà chủ
yếu là nông dân lĩnh canh ruộng đất của địa chủ theo hai hình thức là tơ và thuế. Về
tơ thì bao gồm tô tiền, tô hiện vật và tô lao cơng.
Ngồi tơ thì địa chủ cịn bóc lột về thuế mà cụ thể ở đây là thuế điền (thuế
ruộng đất)
Như vậy, chúng ta thấy khi nhắc đến địa chủ thì ta thường hay nói về người sở
hữu một diện tích ruộng đất lớn do đó họ bóc lột giai cấp nơng dân lĩnh canh trên
mãnh đất đó chủ yếu là về kinh tế.
1.1.2. Phong kiến
Đây là một chế độ xã hội được “xây dựng trên cơ sở quan hệ sản xuất phong
kiến và thượng tầng kiến trúc Nhà nước phong kiến, trong đó giai cấp địa quý tộc,
chủ chiếm hữu đất đai bóc lột nơng dân bằng nhiều hình thức phát canh thu tơ,
chúng nắm tồn bộ chính quyền và thống trị tồn xã hội”. [17; tr: 326].

Nếu tính về chế độ phong kiến Việt Nam thì từ thời Ngơ Quyền khởi nghĩa
đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938 cho đến khi vị vua cuối


9

cùng của triều Nguyễn là Bảo Đại thoái vị trước cổng Ngọ Môn năm 1945 đã tồn
tại trong khoảng 1000 năm. Cùng với quá trình phát triển của chế độ phong kiến là
q trình phong kiến hóa về ruộng đất với việc qui định vè ruộng đất trong cả nước
cũng như việc ban cấp phân chia ruộng đất. Do đó với vai trị của mình giai cấp
thống trị chiếm hữu một diện tích đất đai đủ lớn để phát canh thu tơ bóc lột nhân
dân và tách ra khỏi sản xuất từ đó hình thành nên giai cấp địa chủ phong kiến. Hoặc
có khi giai cấp địa chủ hình thành trước khi nhà nước phog kiến ra đời do vậy để
đảm bảo lợi ích của giai cấp mình họ đã dựng nên bộ máy nhà nước phong kiến mà
đại diện là vua quan, là giai cấp thống trị trong xã hội. Từ đó họ nắm quyền cai trị
nhân dân trong cả nước. Như vậy nhà nước phong kiến về thực chất nó đại diện cho
giai cấp địa chủ thống trị nhân dân về mặt chính trị để đảm bảo lợi ích kinh tế của
mình cũng như quyền lợi của mình không bị ai xâm phạm.
1.1.3. ịa chủ phong kiến
Từ hai khái niệm “địa chủ” và “phong kiến” như đã trình bày ở phần trên thì
chúng ta có thể hiểu phần nào về giai cấp địa chủ phong kiến - là giai cấp vừa có
thế lực về kinh tế trong xã hội vừa có thế lực và chính trị trong bộ máy nhà nước.
Và tất nhiên họ sẽ dùng quyền lực chính trị để bảo vệ quyền lực kinh tế của mình
như trong việc bóc lột nơng dân hay cai trị nhân dân đàn áp những người có tư
tưởng nổi dậy chống lại họ. Hoặc để bảo vệ quyền chiếm hữu ruộng đất của mình
đồng thời để đảm bảo sự bóc lột nơng dân về mặt kinh tế thì giai cấp địa chủ đã đặt
ra bộ máy nhà nước phong kiến chuyên chế với quyền hành tập trung vào trong tay
bọn đại diện cho giai cấp địa chủ mà cao nhất là vua, dưới vua là hệ thống quan lại
và dưới cùng là cường hào.
Qua đó chúng ta phần nào hiểu về giai cấp địa chủ phong kiến, nói nơm na địa

chủ phong kiến là một giai cấp tồn tại cùng với chế độ phong kiến. Để giai cấp địa
chủ phong kiến khi chiếm hữu ruộng đất của nông dân sẽ biến ruộng đất từ sở hữu
của nhà nước sang sở hữu tư nhân và họ sẽ trở thành người chủ trên mãnh đất đó.
Giai cấp địa chủ phong kiến là địa chủ quan lại làm quan trong triều đình được nhà
nước phong cấp ruộng đất và cho chuyển thành ruộng đất thế nghiệp hay còn gọi là


10

ruộng tư. Mặt khác họ cũng có thể bỏ tiền mua thêm ruộng hoặc dùng quyền lực
của mình để cướp đoạt chấp chiếm thêm ruộng đất của người khác.
Tóm lại, giai cấp địa chủ phong kiến là những người vừa có quyền lực về
chính trị nắm quyền cai trị nhân dân trong cả nước nhưng lại vừa sở hữu một lượng
ruộng đất lớn trong tay bao gồm cả sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân. Qua đó
chúng tiến hành cai trị nhân dân bằng chính trị pháp luật đồng thời bóc lột nhân dân
bằng nhiều thứ tơ thuế khác nhau.
1.2. Khái quát về giai cấp địa chủ phong kiến Việt nam qua các thời kỳ
đến cuối thế kỷ X X.
1.2.1.

iai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam đến trước khi thực dân Pháp

xâm lược
Chế độ phong kiến Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược đã tồn tại hơn
1000 năm lịch sử đi liền với chế độ phong kiến là một bộ phận không nhỏ là giai
cấp địa chủ. Về cơ bản đây là giai cấp thống trị trong xã hội do vậy chúng ln tìm
cách để bóc lột và đàn áp các giai cấp khác mà ở đây cụ thể là giai cấp nông dân.
Do vậy trước khi thực dân Pháp xâm lược quan hệ xã hội của Việt Nam bao trùm
và chi phối là quan hệ giữa giai cấp địa chủ phong kiến và nông dân. Vậy giai cấp
địa chủ hình thành như thế nào? Họ là chủ đất là người chiếm hữu một số lượng

ruộng đất trong xã hội nhất định nhưng họ lại không trực tiếp lao động sản xuất mà
sống nhờ vào việc phát canh thu tô. Và để bảo vệ quyền lợi của mình họ đã dựng
lên bộ máy chính quyền chuyên chế mà chúng ta gọi là nhà nước phong kiến.
Trong hơn 1000 năm tồn tại của mình thì nhà nước phong kiến đã trãi qua nhiều
triều đại khác nhau như: Lý, Trần, Hồ, Lê Sơ, Trịnh – Nguyễn, Triều Nguyễn với
hơn 10 thế kỉ qua đó thì giai cấp địa chủ phong kiến cũng có những đặc điểm khác
nhau.
Thế kỷ X- XV: Chế độ sở hữu lớn về ruộng đất ở nước ta xuất hiện rất sơm
ngay từ trước thời Lý – Trần với những danh thừ nhân xưng “hào hữu” để chỉ về
những người này. Trong thời kì chịu 1000 năm đô hộ của các triều đại phong kiến
phương Bắc một số địa chủ giàu có đã bỏ tiền xây dựng chùa chiền, cho con đi
học.... Sau khi đất nước giành được độc lập vào thế kỉ X thì giai cấp địa chủ đã đưa


11

con em họ vào hàng ngũ quan lại phục vụ cho đất nước. Kể từ đây trãi qua các triều
đại Ngô - Đinh- Tiền Lê – Lý – Trần – Hồ - Lê Sơ nhà nước phong kiến ngày một
hoàn thiện và phát triển. Đặc biệt với đặc điểm của một quốc gia được hình thành
trên nền văn minh lúa nước – văn minh sơng Hồng do đó việc chăm lo cho phát
triển nền kinh tế nông nghiệp rất được quan tâm mà cụ thể là qua chính sách của
các triều đại như: ngay từ khi mới xác lập thì nhà Lý - Trần đã có những chính
sách khuyến khích các thân vương, quý tộc khai hoang và cho biến thành đất tư
như thực ấp, thái ấp, thang mộc ấp đã tạo ra một tầng lớp là các điền chủ lớn quý
tộc và quan lại. Cũng như căn cứ vào các tài liệu ruộng đất đang có chúng ta hồn
tồn có thể khẳng định rằng việc sở hữu ruộng đất tư và biến mình thành tầng lớp
nơng dân tiểu tư hữu hay là địa chủ bình dân đã xuất hiện từ dưới thời Trần với qui
định cho bán ruộng công của nhà nước, của quan lại bị tịch thu cho dân mua làm
ruộng với giá rẻ đã tạo điều kiện cho nhiều người mua ruộng và trở thành tầng lớp
nông dân tiểu tư hữu. Theo cuốn chế độ ruộng đất Việt Nam từ thế kỉ X- XV của

Trương Hữu Quýnh cho biết “Ở thời Lý - Trần chế độ sở hữu lớn về ruộng đất phát
triển lên một bước cao hơn. Một số quan lại cao cấp cấp nhà Lý đã trở thành địa
chủ” [30; tr: 144]. Cụ thể là việc cúng ruộng cho nhà chùa trong thời kỳ Lý – Trần
rất phát triển như ngự sử Bùi Quốc Khái sau khi đỗ Thái Học sinh dưới thời vua Lý
Anh Tơng do nhà có nhiều ruộng nên hai người con gái đã đem cúng cho chùa
Thiên Niên 5 mẫu. Hoặc “Theo bia Thần Quang tự bi, công chúa tiểu Quân thời
Trần đã cúng cho chùa trên 50 mẫu ruộng ở các huyện Đại An, Mỹ Lộc (Hà Nam
Ninh)” [30; tr: 146]. Như vậy chúng ta có thể thấy rằng giai cấp địa chủ phong kiến
thời kỳ này đã rất phát triển với việc sở hữu một lượng lớn ruộng đất trong tay. Tuy
nhiên mâu thuẫn xã hội giữa nông dân với địa chủ phong kiến thời lỳ vẫn chưa gay
gắt như ở các thế kỷ sau sở dĩ có được điều đó là do đâu. Thứ nhất, để có được như
vậy là vì ở giai đoạn này do tiềm năng đất đai chưa được khai phá hết do đó đất thì
ruộng nhưng dân số thì ít cho nên vẫn đảm bảo quỹ đất phục vụ cho việc sản xuất
nuôi sống bản thân, hay nói cách khác lúc này ruộng cơng vẫn còn chiếm ưu thế
trong cả nước do vậy sự lệ thuộc của người nơng dân vào ruộng đất cịn khiêm tốn.
Do vậy giai cấp địa chủ phong kiến chưa bóc lột và cai trị nơng dân một cách tàn


12

bạo được. Mặt khác với quy định đẳng cấp của nhà nước thời Lý – Trần thì những
người khơng phải là con em quan lại được tập ấm thì dù có giàu, tài sản đến bao
nhiêu đi nữa cũng chỉ là lính mà thơi. Do vậy giữa địa chủ - tá điền vẫn có sự bình
đẳng và nương tựa vào nhau để chống lại địa chủ quan lại. Thứ 3, lúc này ngồi
việc chăm lo xây dựng đất nước thì toàn thể nhân dân ta cùng nhau chống giặc
ngoại xâm để bảo vệ Tổ quốc như chống Tống năm 1075 hay 3 lần thắng quân
Nguyên – Mông dưới thời Trần. Như vậy ở đây chúng ta thấy mâu thuẫn giữa tầng
lớp với nông dân vẫn chưa xảy ra gay gắt quyết liệt như ở giai đoạn sau này bởi các
lý do trên. Có được kết quả như vừa phân tích trên chúng ta phải ghi nhận những
mặt tiến bộ của địa chủ vẫn có những điểm tích cực vì đất nước vì nhân dân mà

chống giặc ngoại xâm hay chăm lo phát triển đất nước.
Thời nhà Hồ có cuộc cải cách của Hồ quý Ly năm 1396 với chính sách hạn
điền nhằm thu hẹp diện tích chiếm giữ đất đai của quý tộc Trần và giải quyết vấn
đề đất đai cho nông dân đồng thời tăng nguồn kinh tế cho nhà nước. Với chính sách
này đã hạn chế việc chiếm hữu đất đai của các quý tộc Trần thì cũng đồng thời xóa
bỏ ách áp bức nặng nề của tầng lớp này đối với giai cấp nông dân từ đây chế độ
nơng nơ cũng bị xóa bỏ. Với chính sách này nó đánh mạnh vào giai cấp địa chủ qúy
tộc Trần đang lên do đó nó hạn chế bớt giai cấp địa chủ phong kiến lũng đoạn cuối
thời nhà Trần. Tuy nhiên hiện nay chúng ta vẫn chưa có số liệu chính xác cho việc
Hồ Qúy Ly đã thu hồi đất của địa chủ, quý tộc Trần là bao nhiêu để sung cơng và
việc làm đó đã đưa lại những tác dụng tích cực gì. Nhưng một tác dụng tích cực mà
chúng ta có thể nhận thấy với cuộc cải cách này đã hạn chế độ sở hữu tư nhân về
ruộng đất khơi phục lại vai trị sở hữu ruộng đất của nhà nước đảm bảo cho nơng
dân có ruộng đất cày cấy sản xuất để chống lại quân Minh đang nhịm ngó nước ta.
Ở triều Lê sơ, điều đầu tiên mà chúng ta có thể ghi nhận tính tích cực của một
bộ phận giai cấp địa chủ thời kỳ này là việc họ đứng ra tập hợp lực lượng lãnh đạo
nhân dân kháng chiến chống quân Minh mà nhân vật tiêu biểu là Lê Lợi do đó sau
khi thắng lợi đã tạo ra một lượng lực địa chủ phong kiến đơng đảo. Ơng vốn là một
địa chủ binh dân sống trong cảnh mất nước, bị bọn quan lại nhà Minh chèn ép, bóc
lột khơng chịu được đã đứng ra lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa. Tuy nhiên bên cạnh


13

đó vẫn có một bộ phận địa chủ phương, cường hào nhân cơ hội chiến tranh, ly tán
đã tăng cường cướp đoạt xâm chiếm ruộng đất của nhân dân do vậy trong 20 năm
chiến tranh đã hình thành nên một tầng lớp địa chủ đơng đảo. Do đó nhận thấy tầm
quan trọng của vấn đề ruộng đất đối với nông dân nên ngay trong thời kỳ chống
ngoại xâm cũng như sau khi giành lại được độc lập triều Lê Sơ đã có nhiều chính
sách về vấn đề ruộng đất. Mà cụ thể ở đây với hai chính sách lớn là ban cấp ruộng

đất cho công thần và lộc điền được ban hành dưới triều vua Lê Thánh Tơng. Với
chính sách lộc điền bên cạnh các tác dụng của nó như góp phần khơi phục sản xuất
trên một khoảng đất hoang khơng có người sản xuất, ổn định đời sống nhân dân thì
nó cũng góp phần tích cực vào việc mở rộng thêm số lượng địa chủ kiêm quan lại
mà trước đây đã bị Hồ Qúy Ly hạn chế. Cùng với xu thế phát triển của chế độ tư
hữu về đất đai cùng với chính sách lộc điền đã biến một bộ phận quan liêu quý tộc
thành địa chủ với số lượng ruộng đất chiếm hữu ngày càng lớn bao gồm hai loại:
một loại là sở hữu tư nhân và loại kia là thu tô thuế theo quy định của nhà nước. Từ
đây quan hệ bóc lột địa chủ -tá điền và chế độ bóc lột địa tơ được xác lập và tầng
lớp địa chủ này sử dụng hai hình thức bóc lột là vừa bóc lột theo kiểu tá điền – địa
chủ vừa bóc lột theo kiểu thu tơ thuế theo quy định của nhà nước điều này đã làm
cho đời sống người nơng dân nhận ruộng ngày một khó khăn cịn giai cấp địa chủ
ngày một giàu có thêm. Do đó hai bộ phận là địa chủ quý tộc và địa chủ quan lại
cùng nhau hòa làm một và trở thành giai cấp địa chủ phong kiến đồng thời phương
thức sản xuất phong kiến được xác lập. Tuy nhiên là triều đại do giai cấp địa chủ
phong kiến xây dựng nên cho nên nó khơng tránh khỏi những hạn chế bởi vì vào
lúc này giai cấp địa chủ phong kiến đã bộc lộ những mặt tiêu cực của mình và mâu
thuẫn với giai cấp nông dân cũng đã gay gắt hơn. Do đó một số chính sách của triều
đại khơng thể đi ngược hay chống lại lợi ích của giai cấp địa chủ điều đó cũng đã
góp phần làm cho địa chủ thâu tóm ruộng đất vào trong tay mình ngày càng nhiều
và phong trào đấu tranh của nơng dân vào các thế kỉ sau.
Thế kỉ XVI – XVIII: Thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh thế kỉ XVII đây là
thời kỳ giai cấp địa chủ phong kiến phát triển mạnh mẽ nhất bởi chế độ chiếm hữu
tư nhân về ruộng đất do đó thời kì này giai cấp địa chủ phong kiến phát triển về số


14

lượng và chất lượng. Nhân cơ hội chiến tranh liên tiếp giữa các phe phái đã làm cho
chính quyền trung ương suy yếu đến mức khơng thể kiểm sốt được vấn đề ruộng

đất giai cấp địa chủ phong kiến đã tăng cường bao chiếm cướp đoạt ruộng đất trong
cả nước từ các nguồn như ruộng bỏ hoang không người cày cấy, ruộng của người
tuyệt tự....Hay là người nơng dân có ruộng sản xuất cũng bị bọn địa chủ cường hào
o ép để phải bán ruộng hay bỏ ruộng mà đi xiêu tán. Chính sự quản lý lỏng lẻo của
nhà nước đã tạo điều kiện cho giai cấp địa chủ phong kiến ra sức chiếm đoạt ruộng
đất của nông dân, chấp chiếm ruộng đất cơng để làm giàu thêm cho mình với các
hình thức như lấn chiếm ruộng đất sơng hồ, đường sá của chung, hay ruộng đất
công để phụng sự lăng mộ các vị đế vương thời trước. Do vậy các điền trang được
hình thành dưới thời Trần nay lại có cơ hội tái lập ở các vùng xa xơi hẻo lánh và
những khu vực mà Nhà nước không kiểm sốt được. Với những việc làm đó đã
chứng tỏ rằng quyền hành của bọn địa chủ phong kiến ở địa phương trong từng
làng là rất lớn và chứng tỏ rằng phương thức sản xuất phong kiến ra đời từ thời Lê
sơ đến nay đã thống trị vững chắc ở nông thôn.
Nếu chúng ta cho ruộng đất tư nhân thời kỳ này là 100% thì: “ruộng đất thuộc
cung vua phủ chúa chiếm 42%, quan lại (kể cả hoạn quan) chiếm 42 % còn ruộng
đất tư của giai cấp địa chủ chiếm 16%” [31; tr: 67]. Như vậy qua số liệu đó chúng
ta thấy giai cấp địa chủ ở Đàng Ngoài thế kỉ XVI – XVIII chiếm một vai trò cực
lớn trong xã hội phong kiến Việt Nam họ không chỉ là những người có số lượng
ruộng đất lớn mà ở trong các làng xã vốn mang tính tự trị cao thì quyền hành của
họ cũng rất lớn. Tuy nhiên bên cạnh việc ra sức chiếm đoạt ruộng đất của giai cấp
địa chủ nói chung thì vẫn có một bộ phận nhỏ trong số họ có đem ruộng cúng cho
làng và cho chùa nhưng con số thì rất hạn chế.
Cịn ở Đàng Trong sau năm 1558 Nguyễn Hoàng vào trấn giữ đất Thuận Hóa
vào phân chia ranh giới thành Đàng Trong và Đàng Ngồi năm 1672 thì giai cấp
địa chủ Đàng Trong cũng bắt đầu hình thành và phát triển. Lúc này ở Đàng Trong
đất rộng mà cư vẫn còn thưa thớt ngồi ra các chúa Nguyễn cũng đã có những
chính sách khuyến khích khai hoang và cho biến đất đó thành đất thuộc sở hữu tư
nhân do đó thời kỳ này hình thức sở hữu địa chủ vừa và nhỏ chiếm vai trò thống trị



15

trong tồn bộ ruộng đất. Theo như Lê Qúy Đơn trong phủ biên tạp lục khi miêu tả
về đời sống nhân dân ở Nam Kỳ lúc “Bấy giờ người giàu ở địa phương hoặc 40 50 nhà, hoặc 20 – 30 nhà mỗi nhà đều nuôi 50 – 60 điền nơ, trâu bị 300 – 400 con,
cày bừa gặt hái rộn ràng không lúc nào rỗi” [7; tr: 345]. Vào cuối thế kỷ XVIII,
chính lực lượng địa chủ này đã giúp Nguyễn Ánh đánh bại quân Tây Sơn thành lập
nên vương triều Nguyễn năm 1802 và cũng chính bộ máy phận này sau này làm
việc cho triều đình trỏe thành giai cấp địa chủ phong kiến. Tuy nhiên do chịu ảnh
hưởng của quan hệ sản xuất phong kiến ở Đàng Ngồi nên giai cấp địa chủ ở Đàng
Trong vẫn cịn bộc lộ những tính chất bảo thủ, lỗi thời do đó sễ dần đi vào con
đường suy vong như ở Đàng Ngoài.
Triều Nguyễn cuối thế kỉ XVIII giai cấp địa chủ đã phát triển mạnh và bành
trướng thế lực của mình và đã giúp đỡ Nguyễn Ánh xây dựng căn cứ chuẩn bị hậu
cần để chống lại nhà Tây Sơn. Với sự giúp đỡ của địa chủ miền Nam và cầu cứu
các thế lực bên ngoài đã thành lập nên một vương triều Nguyễn vào năm 1802.
Tuy nhiên sau khi thành lập nhà Nguyễn thấy được cái hại của địa chủ, cường hào
và việc cấp thiết trong việc giải quyết vấn đề ruộng đất cho giai cấp nông dân do đó
triều Nguyễn đã ban hành chính sách nhằm hạn chế thế lực của địa chủ nhưng nhìn
chung khơng có kết quả gì đáng kể. Do đó và đầu thế kỉ XIX chế độ sở hữu lớn về
ruộng đất của nhà nước khơng cịn là bao nhiêu chỉ chiếm khoảng 17,08% còn lại là
sở hữu tư nhân về ruộng đất. Trong khi đó chế độ sở hữu vừa và nhỏ của địa chủ lại
tiếp tục được mở rộng. Tuy nhiên, việc chiếm hữu tư nhân về ruộng đất giữa các
vùng có sự khác nhau trong khi ở miền Bắc và miền Trung diễn ra chậm và muộn
hơn so với ở miền Nam. Có thể nói rằng giai cấp địa chủ phong kiến nửa đầu thế kỉ
XIX đã phát triển rất mạnh về cả thế và lực ở cả trung ương cho đến tận làng xã do
vậy nhà Nguyễn khơng thể có được một hành động can thiệp hiệu quả và đôi khi
cịn gặp phải sự chống trả quyết liệt từ phía các địa chủ. Tóm lại đến nửa đầu thế kỷ
XIX triều Nguyễn vẫn không hạn chế hay giải quyết được sự phát triển của địa chủ
bởi vì: Thứ nhất họ là những người có cơng đầu tiên trong việc giúp nhà Nguyễn
khơi phục lại vương quyền của mình, thứ hai giai cấp địa chủ thời kỳ này nắm

trong tay không chỉ thế lục về kinh tế mà còn chi phối đến cả chính trị từ trung


16

ương cho đến tận làng xã do vậy buộc nhà Nguyễn phải kiêng nể và có các chính
sách nhằm né tránh không đụng chạm đến giai cấp này. Từ việc tập trung một khối
lượng ruộng đất trong tay một số ít người (địa chủ) như vậy cịn lại số đơng nơng
dân khơng có ruộng để sản xuất, sinh hoạt chính nó là nguyên nhân đưa đến các
cuộc nổi dậy của nông dân ngay từ khi triều Nguyễn vừa mới thành lập. Điều đó nó
làm cho triều đình nhà Nguyễn lung lay đến tận gốc và khơng cịn đủ sức chống lại
cuộc xâm lược của Pháp để nước ta rơi vào vịng nơ lệ hơn 80 năm.
Như vậy, trước khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta thì giai cấp địa
chủ phong kiến ra đời và tồn tại cách đây hàng ngàn năm song song với sự hình
thành của nhà nước phong kiến gắn liền việc bóc lột giai cấp nông dân một cách
nặng nề thông qua hệ thống tơ thuế gay gắt chính nó đã làm cho mâu thuẫn giữa địa
chủ và nông dân ngày thêm sâu sắc, do đó giai cấp địa chủ phong kiến là giai cấp
cần phải đánh đổ. Tuy nhiên trong lịch sử dân tộc đơi khi giai cấp này cũng đã có
những đóng góp to lớn có những lúc một bộ phận giai cấp địa chủ phong kiến đi
theo phong trào đấu tranh của nơng dân chống phong kiến nước ngồi xâm lược để
giành độc lập dân tộc, bảo vệ Tổ quốc như Trần Hưng Đạo, Lê lợi. Việc Lê Lợi
lãnh đạo nông dân thực hiện cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi xây
dựng nên một triều đại mới triều Lê Sơ với những đóng góp to lớn trong lịch sử dân
tộc là điều không thể phủ nhận. Nhưng đến nửa đầu thế kỷ XIX thì địa chủ phong
kiến vẫn là giai cấp trung tâm của trong xã hội Việt Nam nó phát triển mạnh từ thế
kỉ X đến nay và có xu hướng mở rộng tuy nhiên thì nó đang bước vào giai đoạn
lũng đoạn cần phải đánh đổ.
1.2.2.

iai cấp địa chủ phong kiến nửa sau thế kỉ X X


Giai cấp địa chủ giai đoạn này trở thành một lực lượng đơng đảo trong xã hội
vừa có thế trong quan trường vừa có quyền uy ở làng xã, xu thế phát triển của chế
độ ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân thời kỳ này đã tạo ra một tầng lớp địa chủ đông
đảo từ Bắc vào Nam “theo Nguyễn Công Tiệp là 2.861.221 mẫu, chiếm tỉ lệ là
82,92% [27;35]. Như vậy, nửa đầu thế kỉ XIX hình thức sở hữu của địa chủ vẫn
phát triển mạnh nhất là ở Nam bộ quá trình tập trung ruộng đất này diễn ra một
cách nhanh chóng do đó đã hình thành nên tầng lớp địa chủ có trong tay số lượng


17

ruộng đất lớn như “chủ ruộng Lê Văn Hiệu (ở thơn Bình Xn, tổng Hịa Lạc,
huyện Tân Hịa, tỉnh Gia Định) có tới 1.841 mẫu 5 sào 12 thước 1 tấc ruộng tư”
[32; tr: 36]. Do đó giai cấp địa chủ vừa là cơ sở xã hội của nhà nước triều Nguyễn
vừa là lực lượng hào lý ở địa phương đã lũng đoạn bộ máy nhà nước họ dựa vừa là
trung gian giữa nhà nước và làng xã một mặt họ nhân dân về mặt làng xã để bảo vệ
lợi ích của giai cấp mình nhưng mặt khác họ lại nhân danh Nhà nước để tăng cường
các thủ đoạn vơ vét, bóc lột nhân dân nghèo. Cho đến trước khi thực dân Pháp nổ
súng chính thức xâm lược nước ta thì trong xã hội giai cấp địa chủ phong kiến
chiếm một vị trí vai trị quan trọng – là người đại diện cho nhà nước phong kiến
trong cả đối nội và đối ngoại đó là xây dựng và bảo vệ đất nước. Do đó khi thực
dân Pháp nổ súng xâm lược chúng ta vào ngày 1/9/1858 tại Đà Nẵng thì giai cấp
địa chủ phong kiến cũng đã thực hiện nhiệm vụ của mình là lãnh đạo nhân dân
chống lại ngoại xâm mà minh chứng cụ thể ở đây là quân dân ta đã giam chân địch
ở Đà Nẵng, Gia Định cũng như trong các trận chiến đấu sau này ở cả Bắc và Trung
Kỳ làm chúng thất bại trong kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh và buộc phải
chuyển sang kế hoạch đánh từng phần trong cuộc chiến xâm lược Việt Nam. Tuy
nhiên, dưới chính sách xâm lược của thực dân Pháp nhận thấy được sức mạnh quân
sự của Pháp, cũng như để bảo vệ lợi ích của mình thì giai cấp địa chủ Việt Nam lúc

này diễn ra sự phận hóa thành các xu hướng khác nhau.
Nếu như trước khi Pháp xâm lược nhắc đến giai cấp địa chủ thì ta biết trằng
đó là giai cấp nắm giữ một số lượng ruộng đất lớn trong tay, là giai cấp nằm trong
giai cấp thống trị của xã hội nhưng đến nay thì có sự phân hóa như sau: Một bộ
phận giai cấp địa chủ do lo sự trước chính sách thực dân, lo sợ quyền lợi của mình
bị tổn hại đã chấp nhận đầu hàng, đồng ý làm tay sai cho Pháp mà ở đây chúng ta
nói đên phe chủ hịa trong nội bộ triều đình. Bộ phận này được thực dân Pháp ưu
đãi về kinh tế và chính trị do đó đã làm tay sai đàn áp nhân dân trong các cuộc nổi
dậy chống Pháp, hoặc là đưa ra các ý kiến điều đình với Pháp, nhượng bộ trước
thực dân Pháp trong các hiệp ước đầu hàng. Do vậy sau khi chiếm được nước ta
thực dân Pháp đã duy trì bộ phận này để làm công cụ tay sai đàn áp nhân dân thông
qua bộ phận này. Đối lập với bộ phận bán nước làm tay sai này là bộ phận yêu


18

nước thương dân mà đại diện là phái chủ chiến trong triều đình. Bộ phận này đi
cùng nhân dân trong cuộc kháng chiến ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược
nước ta và tiếp tục cho đến sang thế kỉ XX với các cuộc duy tân đất nước. Nhờ đó
mà cuộc chiến tranh do pháp gây ra những tưởng sẽ đánh nhanh thắng nhanh ấy đã
phải mất hơn 40 năm mới hồn thành đó là do gặp phải sự chống cự quyết liệt của
nhân dân ta trong đó có một bộ phận khơng nhỏ là giai cấp địa chủ phong kiến mà
cụ thể ở đây là phái chủ chiến trong triều đình. Ngồi ra cịn có một bộ phận địa
chủ thức thời nhạy bén chuyển hướng đầu tư do đó trở nên giàu có và được gọi là
tầng lớp sĩ phu tư sản hóa.
Tóm lại, vào cuối thế kỉ XIX do chưa bình định xong nước ta do đó Pháp vẫn
chưa có những đầu tư trên qui mơ lớn do vậy chưa đưa đến thay đổi lớn gì trong xã
hội mà có thể đốn định rằng “dân số của Việt Nam lúc khoảng 10.500.000 triệu
người” [11; tr: 34] nhưng lúc này xã hội Việt Nam vẫn chưa có những chuyển biến
gì sâu sắc mà vẫn là một xã hội thuần phong kiến giai cấp nông dân vẫn là giai cấp

chiếm vai trò chủ đạo trong xã hội còn các giai cấp tầng lớp khác vẫn chưa có điều
kiện ra đời. Ở đây chỉ mới diễn ra sự phân hóa trong giai cấp địa chủ theo những
chiều hướng khác nhau. Do đó lúc này chúng ta có thể đốn định được thế lực của
giai cấp địa chủ là “khoảng 3% dân số nhưng lại năm trong tay khoảng 40% ruộng
đất canh tác.” [11; tr: 35]. Như vậy, là giai cấp địa chủ lúc này chúng ta có thể ước
tính là khoảng 315.000 địa chủ trong toàn bộ cơ cấu dân số của Việt Nam. Với một
một con số chỉ có 3% nhưng lại chiếm gần một diện tích đất canh tác trong cả nước
nó đối lập với giai cấp nơng dân chiếm 90% dân số nhưng chỉ có chưa đến 20%
ruộng đất. Điều đó để sau này chúng ta có thể nhận thấy được bước phát triển
nhanh chóng của giai cấp địa chủ dưới chính sách khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp.
Giai cấp địa chủ phong kiến ở đây tính từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược
nước ta năm 1858 đến khi Pháp bình định xong các phong trào đấu tranh ở nước ta
và bắt tay vào công cuộc khai thác thuộc địa thứ nhất. Với đặc điểm của một giai
cấp thống trị tồn tại hàng ngàn năm trong lịch sử của một dân tộc có truyền thống
yêu nước sâu sắc do đó khi thực dân Pháp xâm lược và nước ta trở thành thuộc địa


19

của thực dân Pháp thì giai cấp này phân hóa với cường độ mạnh, tình trạng tập
trung ruộng đất diễn ra ngày càng nhiều vào trong tay các đại địa chủ, còn các địa
chủ nhỏ dần dần bị thu hẹp lại, có những địa chủ bị phá sản do chính sách cai trị và
chèn ép bóc lột của thực dân Pháp.
1.3. Xã hội Việt Nam qua hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp
1.3.1. Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp
1.3.1.1. Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất
Bước vào thế kỉ XIX việc các nước tư bản phương Tây nói chung trong đó có
cả Pháp đã tìm mọi cách xâm lược và biến các nước phương Đơng thành thuộc địa
của mình cũng chỉ nằm trong mục đích vơ vét, bóc lột thuộc địa để làm giàu cho

chính quốc. Do đó việc xâm lược và biến Việt Nam thành thuộc của thực dân Pháp
cũng khơng nhằm ngồi mục đích đó. Mặt khác sau hơn 40 năm thực hiện cuộc
chiến tranh xâm lược Việt Nam thì Pháp đã phải tiêu tốn một phần rất lớn về kinh
tế do vậy Pháp muốn thực hiện cuộc khai thác thuộc địa để bù lại những phí tổn
chiến tranh do đó pháp đã thực hiện cuộc khai thác thứ nhất ngay sau khi dập tắt
phong trào Cần Vương vào năm 1897 và kéo dài đến năm 1914.
Về chính trị: Trong cuộc khai thác thuộc địa làn thứ nhất, sau khi hoàn thành
việc xâm lược nước ta thực dân Pháp đã nghĩ đến việc xây dựng một hệ thống
chính trị thuộc địa để dễ bề cai trị. Do đó việc đầu tiên mà thực dân Pháp tiến hành
ở Đông Dương trong đó có Việt Nam là thành lập Liên Bang Đông Dương vào năm
1887. Đứng đầu Liên Bang Đông Dương là một viên chức cao cấp người Pháp
mang chức danh toàn quyền mà sau này trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất
là Paul Đume. Tồn quyền Đơng Dương là người có quyền lực ngày càng lớn “là
người được ủy nhiệm thi hành những quyền lực của nước Cộng hịa Pháp tại Đơng
Dương” [27]. Điều đó có nghĩa là tồn quyền Đơng Dương vừa là người đại diện
cho chính phủ Pháp tại Đông Dương thực thi mọi quyền hành lập pháp, hành pháp
và tư pháp đồng thời là người chỉ đạo tối cao, kiểm soát giới tư bản Pháp tại Đơng
Dương. Và mục đích cuối cùng là nhằm ổn định tình hình Đơng Dương về chính trị
và thu được những lợi nhuận tối đa về kinh tế. Để là được nhiệm vụ của mình thì
Tồn quyền Đơng Dương đã thực thi hai chính sách cai trị quan trọng là “ trung


20

ương tản quyền” và “địa phương phân quyền”. Nội dung của hai chính sách đó là
trên địa bàn Đơng Dương của mình bị chia làm 5 xứ theo những chế độ chính trị
khác nhau. Xứ Nam Kỳ do viên Thống đốc đứng đầu; còn ở Bắc Kỳ là do viên
Thống sứ đứng đầu; các xứ khác bao gồm Trung Kỳ, Lào và Campuchia tuy là xứ
bảo hộ nhưng mỗi xứ đều do một viên Khâm sứ đứng đầu. Toàn quyền Đơng
Dương chỉ cần nắm lấy năm viên quan này. Cịn ở dưới các viên quan mỗi xứ này

là mạng lưới các quan cai trị thực dân và chính quyền vua quan bù nhìn. Do đó
thực dân Pháp khơng tìm cách lật đổ hay tiêu diệt chế độ phong kiến mà chúng
từng bước tìm cách khuất phục để sử dụng làm công cụ cho sự thống trị của chúng
ở Việt Nam. Đó là chúng tìm cách vơ hiệu cũng như tước bỏ mọi quyền lực của vua
quan nhà Nguyễn biến nó thành một thứ bù nhìn, cịn quan lại địa phương từ cấp
tỉnh trở xuống thì được sử dụng làm cơng cụ tay sai thực hiện dưới sự chỉ đạo của
chính quyền thực dân. Để thực hiện được mục đích trên thực dân Pháp tìm mọi
cách để thay đổi dần dần hệ thống quan lại phong kiến và thay thế bằng hệ thống
quan lại gần gũi với chính quyền thực dân hơn với hàng loạt cuộc quy chế cải tạo
tầng lớp trí thức cũ thành tầng lớp trí thức tây học hay là để nắm được và can thiệp
đến tân làng xã mà tồn quyền Đơng Dương đã ban hành nghị định về việc tổ chức
lại bộ máy hành chính làng xã thường được gọi là cuộc cải lương hương chính làng
xã. Thông qua việc làm này thực dân Pháp muốn từng bước đưa giai cấp địa chủ
mới được tiếp thu chế độ giáo dục thực dân lên để thay thế cho tầng lớp địa chủ cũ
chịu ảnh hưởng của giáo dục phong kiến. Với việc làm này nó cho thấy âm mưu và
thủ đoạn của Pháp là nhằm tăng cường và củng cố mối dây liên hệ và hợp tác giữa
chính quyền thực dân với tầng lớp tay sai người bản xứ ở nơng thơn.
Cịn đối với các tầng lớp nhân dân lao động thì chúng thi hành chính sách cai
trị cực kì dã man với các chính sách cai trị khắt khe, tàn bạo thông qua hệ thống
quan lại và mật thám với hàng loạt các chính sách về kinh tế - xã hội riêng. Ngoài
ra chúng triệt để thi hành chính sách “chia để trị” chúng gây chia rẽ và thù hận giữa
Bắc, Trung, Nam, giữa các tôn giáo, các dân tộc, các địa phương, thậm chí là giữa
các dòng họ; giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương.
Về kinh tế:


21

Đối với chủ nghĩa thực dân, việc chiếm thuộc địa để khai thác bóc lột về kinh
tế là mục tiêu hàng đầu. Tất cả những chính sách trong các lĩnh vực chính trị, văn

hố, xã hội …cũng chỉ nhằm mục đích phục vụ cho mục tiêu bóc lột về kinh tế. Do
vậy suốt cả thời kì thống trị, mục tiêu căn bản thực dân Pháp là biến Việt Nam
thành một xứ thuộc địa phụ thuộc hoàn toàn vào nước Pháp. Việt Nam phải là nơi
cung cấp nguồn nguyên liệu béo bở, nguồn nhân công ngcông rẻ mạt cho tư bản
Pháp, là nơi Pháp độc quyền mua rẻ hàng nông sản, xuất cảng bán lời và bán đắt
hàng công nghiệp, là mảnh đất tự do cho những nhà tư bản tài chính tha hồ cho vay
nặng lãi.
Ngày 22-3-1897, Tồn quyền Đơng Dương Pôn Đume (Paul Doumer) gửi cho
Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp dự án chương trình hoạt động. Chương trình khai thác
do Đume vạch ra để thi hành ở Đông Dương (chủ yếu ở Việt Nam) từ những năm
đầu thế kỉ XX có mục đích tối thượng là biến gấp Đông Dương thành một thuộc địa
bậc nhất, bảo đảm siêu lợi nhuận cao nhất cho nước Pháp. Về đầu tư khai thác
thuộc địa lần thứ nhất này số vốn đầu tư còn khiêm tốn với 426 triệu France của nhà
nước trong thời gian (1896 – 1914), còn về tư bản tư nhân thì vốn đầu tư của họ có
khoảng 500 triệu (1888 – 1920) và nguồn vốn đó được đầu tư theo tỷ lệ như sau:
Đầu tư khai mỏ

: 249 triệu

Đầu tư vào giao thông

: 128 triệu

Đầu tư vào nông nghiệp

: 40 triệu

Cùng với việc đầu tư khai thác thì hàng loạt các công ty khai mỏ được thành
lập như: Công ty than Hồng Gai (1883) và đến năm 1913 thì đã thu về 2,5 triệu
France tiền lãi. Rồi Pháp cịn chiếm thêm các mỏ khống sản như: Đơng Triều và

Phấn Mễ ở Thái Nguyên, Nông Sơn ở Quảng Nam, mỏ thiếc ở Tĩnh Túc (Cao
Bằng)...Ngoài ra tư bản Pháp cịn chiếm mỏ Đơng Triều, Phấn Mễ (Thái Ngun),
Nơng Sơn (Quảng Nam). Ngoài than, từ năm 1904, tư bản Pháp cũng đã khai thác
các mỏ thiếc ở Tĩnh Túc (Cao Bằng), kẽm ở Bắc Kạn, vàng ở Cao Bằng, Tuyên
Quang…
Việc đầu tư vào giao thông và xây dựng đô thị cũng rất lớn. Tính đến năm
1919, đường sắt xun Đơng Dương đã xong một số loại quan trọng, đã hoàn tất 21


22

tuyến “đường thuộc địa”, trong đó có con đường xuyên Việt và đặc biệt là hệ thống
cảng và các cây cầu quan trọng.
Việt Nam là một nước nông nghiệp. Ngay sau khi thực dân Pháp chiếm được
Sài Gòn, một trong những biện pháp đầu tiên chúng ban hành là bỏ lệ cấm xuất
cảng gạo ở Nam kì mà trước đây triều đình Huế ban hành, gắn thị trường lúa gạo,
mặt hàng quan trọng nhất của Nam Kì với thị trường thế giới. Ngồi ra thực dân
Pháp cịn ban hành nhiều nghị định quy định về việc chiếm đoạt ruộng ruộng đất
lập đồn điền như các nghi định : ngày 6/10/1889. và nghị định ngày 15/10/
1890....Với các nghị định này thì Pháp đã chiếm đoạt một số ruộng đất quy mô lớn
của chúng ta. Chính nó đã tạo điều kiện để thực dân Pháp yên tâm bỏ vốn đầu tư.
Ngay sau đó tư bản Pháp và những đại địa chủ Việt Nam đã mở rộng diện tích canh
tác ở những vùng đất hoang.
Như vậy, với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất thì phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa đã từng bước du nhập vào Việt Nam tuy nhiên với đặc điểm là một
nước thuần nông nghiệp cùng với việc Pháp vẫn cịn duy trì chế độ phong kiến làm
tay sai do đó lúc này ở Việt Nam tồn tại hai phương thức sản xuất là tư bản chủ
nghĩa và phương thức sản xuất phong kiến. Việc pháp duy trì hai phương thức bóc
lột này đã đưa lại một lợi nhuận rất lớn là siêu lợi nhuận. Đồng thời nó cịn kìm hãm
sự phát triển của nước ta.

Về văn hóa - giáo dục: Để đánh lừa dư luận Pháp và thế giới và có thể cai trị
thuộc địa một cách êm thấm các nhà cầm quyền Pháp đã đưa ra hàng loạt các chính
sách “văn minh” để khai hóa cho nhân dân thuộc địa bằng rượu, thuốc phiện và
chính sách ngu dân.
Theo đó thì năm 1898 Pháp ban hành sắc lệnh về báo chí bản xứ muốn xuất
bản thì phải chịu sự kiểm duyệt trước khi in và đều có thể bị cấm bởi quan Tồn
quyền. Hoặc là thực dân Pháp cho xuất bản một số tờ báo nhưng nó phải làm cơng
cụ tun truyền cho chính sách xâm lược, bình định và bóc lột của Pháp.Cịn trong
tác phẩm bản án chế độ thực dân Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần những tội ác
của những người đi khai hóa văn minh cho dân tộc khác như thế nào. Trong khi
nhân dân khẩn khoản địi chính phủ mở thêm trường học để phục vụ nhu cầu học


23

tập của con em bản xứ thì các quan chức cầm quyền lại lờ đi. Vì sao lại như vậy?
Họ bảo là khơng đủ kinh phí nhưng thực chất đâu phải như vậy một năm ngân sách
Nam Kỳ chi cho việc mở trường học là 12 triệu đồng nhưng 10 triệu đã tìm cách
chui vào túi của mấy viên quan chức rồi thì bảo làm sao mà đủ kinh phí. Với lại với
chính sách ngu dân thì họ dễ bề cai trị hơn, họ mở trường học cốt chỉ đào tạo nên
một bộ phận tay sia trung thành có thể giúp ích cho cơng cuộc cai trị mà thơi. Và
họ cũng tìm mọi cách để ngăn chặn khơng cho thanh niên Việt Nam du học nước
ngồi vì họ sợ nhiễm phải chủ nghĩa cộng sản. Do đó, “làm cho ngu dân để dễ trị
đó là chính sách mà các nhà cầm quyền ở các thuộc địa của chúng ta ưa dùng
nhất.” [26; tr: 123]
Để truyền bá tiếng Pháp phục vụ cho mục đích đào tạo nên tầng lớp tay sai trí
thức tây học họ cho mở một số trường làng vừa học chữ quốc ngữ vừa học tiếng
Pháp và do chính quyền địa phương trực tiếp quản lí. Năm 1898 Pháp đưa thêm
vào chương trình thi hương hai mơn là tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ đồng hời xúc
tiến thêm cho việc cải cách giáo dục. Năm 1905, pháp thành lậ Hội đồng cải cách

giáo dục tồn Đơng Dương và ấn định chính thức ba bậc học phổ thơng là ấu học,
tiểu hoc, và trung học từ đây nền giáo dục của việt Nam bước vào quy cũ. Cho đến
năm 1913 các trường Pháp – Việt theo kiểu này đã đào tạo khoảng 10 vạn học sinh.
Và “đến năm 1889 đã thành lập được 200 trường kiểu này” [22;104]. Ngoài ra, tại
các tỉnh và thị trấn lớn thực dân Pháp còn cho mở một số trường tiểu học còn ở khu
vực Sài Gịn – Chợ Lớn có 3 trường trung học. Tuy nhiên thì hệ thống giáo dục
Pháp - Việt chỉ mới phát triển mạnh ở Nam kỳ còn ở Bắc và Trung kỳ thì chỉ mới ở
giai đoạn thể nghiệm.
Như vậy, để ổn định tình hình trong nước thực dân Pháp đã thi hành chính
sách văn hóa nơ dịch nhằm gây tâm lý tự ti trong nhân dân đồng thời chúng còn
dùng các thủ đoạn khác nhằm làm mất đi tinh thần dân tộc trong tầng lớp thanh
niên bằng rượu, thuốc phiện...Bên cạnh những việc làm đó thì chúng chỉ mở các
trường học một cách nhỏ giọt nhằm đào tạo nên tầng lớp tay sai phục vụ cho chính
quốc.


24

1.3.1.2. Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của Pháp
Về chính trị: Trong khi cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất đang diễn ra thì
nước Pháp bị lôi cuốn vào cuộc chiến tranh đế quốc do vậy Pháp tạm thời không
thể trực tiếp tam gia vào các hoạt động cai trị ở thuộc địa như trước đây. Do đó để
phục vụ cho mục đích duy trì an ninh trật tự ở thuộc địa và đảm bảo guồng máy
chính trị kinh tế cũng như đóng góp nhân tài vật lực cho cuộc chiến tranh phi nghĩa
của mình thực dân Pháp đã lợi dụng, nới lỏng quyền lợi cho bộ máy tay sai của
mình. Trước tiên thực dân Pháp nới rộng quyền hạn cho chính phủ Nam Kỳ, đưa
Khải Định lên ngôi vao năm 1916. Hay là ban hành bộ luật mới gọi là Hoàng Việt
tân luật với một số điều sử đổi về xử án còn các phần cịn lại thì chép lại của bộ
luật Gia Long trước đó nhằm bảo vệ lợi ích của thực dân và địa chủ phong kiến.
Thực dân Pháp còn mở rộng các cơ quan chuyên môn cao cấp cho người Việt tham

gia để mua chuộc sử dụng họ để ổn định bộ máy chính trị thuộc địa thực hiện
những yêu cầu của chúng trong thời chiến. Như vậy những cải cách chính trị của
thực dân Pháp ở thuộc địa trong thời gian thế chiến thứ nhất là nhằm ổn định tình
hình chính trị, huy động mọi tìm năng để phục vụ cho cuộc chiến tranh phi nghĩ
của chúng ở châu Âu. Để thực hiện được mục đích đó chúng đã mua chuộc tầng
lớp quan lại tay sai người bản xứ xây dựng hệ thống cơ cấu xã hội vững chắc đến
tận làng xã. Ngồi chính sách về chính trị thì Pháp cịn thay đổi, điều chỉnh chính
sách về kinh tế nhằm đảm bảo nguồn cung cấp nhân lực cho cuộc chiến tranh của
Pháp đồng thời duy trì mối quan hệ bn bán giữa chính quốc và thuộc địa.
Bước ra khỏi cuộc chiến tranh thế giới, Pháp quay trở lại thống trị nước ta thì
các chính sách cai trị của Pháp so với thời kì trước chiến tranh cũng khơng có gì
thay đổi. Về chính trị mọi quyền hành đều bị thâu tóm trong tay người Pháp, vua
quan thì bù nhìn, nhân dân không được hưởng chút quyền tự do dân chủ nào, mọi
hành động yêu nước đều bị chúng thẳng tay đàn áp, khủng bố. Bộ máy cường hào
của giai cấp địa chủ phong kiến ở nông thôn bị triệt để lợi dụng vào việc củng cố
uy quyền và bảo vệ sự thống trị của bọn thực dân.
Tuy nhiên để đối phó với một số biến động có thể xảy ra và hỗ trợ cho việc
tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Đông Dương cũng như ở Việt Nam


25

thực dân Pháp đã thay đổi một số chính sách cai trị như: thành lập các viện dân
biểu ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ cho người Việt tham gia vào các phịng canh nơng và
phịng thương mại ở các thành phố lớn. Ở nông thôn, thực dân Pháp tiến hành cơng
cuộc cải lương hương chính nhằm từng bước can thiệp từng bước vào công việc nội
bộ của làng xã cũng như phá vỡ một phần nào đó tính tự trị của nó để kiểm sốt về
mặt tài chính cũng như nhân sự.
Tóm lại, chính sách của thực dân Pháp trong những năm thế kỷ 20 là nới rộng
một số quyền lực chính trị cho các tầng lớp trên, tạo ra mảnh đất tốt cho chủ

nghĩa Pháp-Việt đề huề tạo sự ổn định chính trị để thu hút vốn đầu tư vào
Đơng Dương nhằm thực hiện có hiệu quả chương trình khai thác thuộc địa lần thứ
hai 2.
Về kinh tế
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đế quốc Pháp tuy là nước thắng trận
nhưng lại bị tàn phá nặng nề nền kinh tế thì kiệt quệ. Mặt khác, Pháp muốn biến
Đông Dương thành bàn đạp để làm chủ khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, đồng
thời đứng trước nguy cơ đe dọa của các nước đế quốc mà tiêu biểu là Mỹ và Nhật.
Do đó Pháp đã chọn một hướng có lợi nhất là đẩy mạnh cơng cuộc khai thác thuộc
địa mà trong đó có Đơng Dương.
Để tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa làn thứ hai ở Việt Nam thực dân
Pháp đã tăng cường vốn đầu tư với qui mô lớn và tốc độ nhanh gấp nhiều lần so với
thời kì trước chiến tranh. Với số vốn đầu tư vào Việt Nam tăng lên qua các năm chỉ
tính riêng vào năm 1920 số vốn mà tư bản Pháp đầu tư vào Việt Nam là khoảng đạt
255 triệu Fr. Trong khi đó nếu tính từ năm 1888 đến 1918 thì Pháp đã đầu tư vào
Đơng Dương khoảng 1 tỷ Frace thì chỉ riêng trong 6 năm từ năm 1924 – 1930 số
vốn đó đã tăng lên 4000 triệu Frace. Nổi bật là sự tăng cường vốn đầu tư và đẩy
mạnh khai thác vào các ngành nông nghiệp và khai mỏ. Trong nơng nghiệp thì Pháp
tiến hành cướp đoạt ruộng đất để phát triển các đồn điền cao su cịn trong khai mỏ
chủ yếu là mỏ than. Ngồi ra, Pháp cịn bóc lột bằng thuế khóa.
Nếu như ở giai đoạn trước, số vốn đầu tư mang tính chất rời rạc thì trong
cuộc khai thác thuộc địa lần hai này hình thành những tổ chức tài chính và các cơng


×