Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tiểu luận triết, Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.23 KB, 15 trang )

Tiểu luận Triết học

MỤC LỤC
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ............................................................................................2
PHẦN II. NỘI DUNG...............................................................................................3
I. Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng của xã hội.......................................................................................................3
1. Khái niệm:......................................................................................................3
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng...........4
II. Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở
Việt Nam hiện nay..................................................................................................5
1. Sự vận dụng quy luật này của Đảng ta trong đường lối đổi mới....................5
2. Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
ở Việt Nam hiện nay...........................................................................................6
PHẦN III. KẾT LUẬN...........................................................................................15

1


Tiểu luận Triết học

Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng của xã hội. Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay.
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong những phát kiến vĩ đại của Mác.
Cùng với học thuyết giá trị thặng dư, nó được coi là viên đá tảng của chủ nghĩa
Mác. Phát hiện ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng nghĩa với việc Mác phát hiện ra
những quy luật chi phối sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội loài người.
Bên cạnh quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất thì quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở


hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũng được coi là một trong những quy luật cơ bản
của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Quy luật này không những là một trong những quy
luật chi phối sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội loài người mà đây còn là
quy luật thể hiện rõ nhất, tập trung nhất mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Nói
một cách khác quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng là quy luật có tác động trực tiếp nhất đến đời sống kinh tế, chính trị, tư
tưởng của mỗi xã hội khác nhau. Nghiên cứu vấn đề này sẽ giúp chúng ta tìm ra
những cơ sở lý luận của những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng trong
cơng cuộc xây dựng và đổi mới đất nước hiện nay.

2


Tiểu luận Triết học
PHẦN II. NỘI DUNG
I. Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng của xã hội
1. Khái niệm
1.1.Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế
của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể được đặc trưng trước hết bởi kiểu quan hệ
sản xuất thống trị tiêu biểu cho xã hội ấy.
Dựa vào khái niệm đó, nó đã phản ánh chức năng xã hội của các quan hệ
xã hội của các quan hệ sản xuất với tư cách là cơ sở kinh tế của các hiện tượng
xã hội. Đúng vậy, mỗi một hình thái kinh tế - xã hội có một kết cấu kinh tế đặc
trưng là cơ sở hiện thực của xã hội, hình thành một cách quan trong q trình
sản xuất vật chất xã hội. Nó bao gồm không chỉ những quan hệ trực tiếp giữa
người với người trong sản xuất vật chất mà nó cịn bao gồm cả những quan hệ
kinh tế, trao đổi trong quá trình tái sản xuất ra đời sống vật chất của conngười.
1.2. Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm tư tưởng (chính trị, pháp

quyền, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, triết học,...) và những thiết chế xã hội
tương ứng (nhà nước, đảng phái, các tổ chức chính trị - xã hội khác...) được
hình thành trên một Cơ sở hạ tầng nhất định và phản ánh cơ sở hạ tầng đó.
Bởi vậy, kiến trúc thượng tầng là những hiện tượng xã hội, biểu hiện tập
trung đời sống tinh thần của xã hội, là bộ mặt tinh thần tư tưởng của hình thái
kinh tế -xã hội. Nó đóng vai trị quan trọng cùng các bộ phận khác trong xã hội
hợp thành cơ cấu hồn chỉnh của hình thái kinh tế-xã hội.

3


Tiểu luận Triết học
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
2.1. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng.
Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng
với nó. Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết
định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị kinh tế cũng chiếm địa vị
thống trị về chính trị và đời sống tinh thần của xã hội.
Mỗi khi cơ sở hạ tầng có sự biến đổi thì sớm hay muộn kiến trúc thượng tầng
cũng sẽ biến đổi theo, Mác viết: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì tồn bộ KTTT đó sẽ
cũng bị đảo lộn ít nhiều, nhanh chóng.”
Khi cơ sở hạ tầng phát triển đến một mức độ giới hạn nào đó gọi là điểm nút,
thì nó địi hỏi phải kéo theo sự thay đổi về kiến trúc thượng tầng. Q trình này
khơng chỉ đơn thuần là sự biến một hay nhiều bộ phận mà là sự chuyển đổi cả một
hình thái kinh tế chính trị và hình thái kinh tế chính trị ưu thế sẽ chiếm giữ giai
đoạn lịch sử này: trong giai đoạn hình thái kinh tế chính trị đó chiếm giữ thì cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có sự dung hồ với nhau hay đạt được giới hạn
độ.Tại đây, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng tác động biện chứng với nhau
theo cách thức bắt đầu sự thay đổi tuần tự về cơ sở hạ tầng (tăng hoặc giảm dần)
nhưng tại đây kiến trúc thượng tầng chưa có sự thay đổi.

Diễn đạt theo cách dễ hiểu hơn về mối quan hệ này chúng ta có thể cụ thể
hóa như sau:
Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng thể hiện ở chỗ:
-Cơ sở hạ tầng như thế nào thì kiến trúc thượng tầng dựng trên nó phải như thế ấy
để đảm bảo sự tương ứng. VD: Nếu quan hệ sản xuất là phong kiến thì tồn bộ
kiến trúc thượng tầng từ hệ tư tưởng chính trị, pháp quyền, đạo dức, triết học,...
đến các thiết chế xã hội đều của giai cấp phong kiến phản ánh và bảo vệ cho lợi ích
của giai cấp phong kiến.
4


Tiểu luận Triết học
- Nếu cơ sở hạ tầng biến đổi thì kiến trúc thượng tầng phải biến đổi theo cho phù
hợp với cơ sở hạ tầng.
2.2. Vai trò tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng
- Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng có thể thơng
qua nhiều phương thức, phụ thuộc vào bản chất của mỗi nhân tố trong kiến trúc
thượng tầng, phụ thuộc vào vị trí, vai trị của nó và những điều kiện cụ thể.Trong
đó nhà nước là nhân tố có tác động trực tiếp nhất và mạnh mẽ nhất tới cơ sở hạ
tầng kinh tế của xã hội.
- Sự tác động của kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng có thể diễn ra theo
nhiều xu thế, phản ánh tính chất mâu thuẫn lợi ích của các giai cấp, trong đó có 2
hướng cơ bản
+) Nếu kiến trúc thượng tầngtác động phù hợp với các quy luật kinh tế
khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển.
+) Nếu tác động khơng phù hợp, nó sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã
hội.
II. Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
ở Việt Nam hiện nay
1. Sự vận dụng quy luật này của Đảng ta trong đường lối đổi mới

- Xây dựng cơ sở hạ tầng vững mạnh
+ Để phù hợp với thời kỳ quá độ cơ sở hạ tầng khơng thuần nhất có nhiều quan
hệ sản xuất khác nhau tương ứng với nhiều thành phần kinh tế khác nhau cùng
cạnh tranh, liên kết, liên hợp với nhau để phát triển.
+ Nhưng các thành phần kinh tế đó phải cùng vận động theo định hướng đi lên
XHCN. Do đó cần có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, vai trò quản lý của nhà
nước và vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước đối với nền kinh tế.
- Xây dựng kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng, trong đó:

5


Tiểu luận Triết học
+ Hệ thống chính trị của nước ta phải mang bản chất giai cấp công nhân, Đảng
cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất, lấy học thuyết Mác- Lênin làm
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động và cho đời sống tinh thần
của nhân dân ta.
+ Các bộ phận trong cơ sở hạ tầng cần có nhiệm vụ và chức năng, phương thức
hoạt động riêng, song phải thực hiện mục tiêu chung là xây dựng xã hội CSCN
(mà giai đoạn đầu là CNXH)
+ Hệ thống chính trị XHCN mang bản chất giai cấp công nhân, do Đảng Cộng
Sản lãnh đạo, nhà nước quản lí và đảm bảo quyền làm chủ thực sự của nhân
dân.
2. Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
ở Việt Nam hiện nay.
Như trên đã phân tích, thực chất những vấn đề kinh tế của một quốc gia nó
thuộc về cơ sở hạ tầng. Những vấn đề về chính trị, tư tưởng trong xã hội thuộc về
trúc thượng tầng của xã hội đó. Tìm hiểu về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng chính là cơ sở lý luận của mối quan hệ giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay.

Cũng giống như Mác và Ăng Ghen, Lênin cũng luôn nhất quán với quan
điểm của các bậc tiền bối khi cho rằng: trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
thì kinh tế quyết định chính trị. Tuy nhiên, Lênin cũng là người nhận ra được vai
trị vơ cùng quan trọng của chính trị. Ơng đã từng khẳng định: “ Chính trị là biểu
hiện tập trung của kinh tế”. Qua đó để chúng ta thấy mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị khơng phải là mối quan hệ đơn giản, và vấn đề đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị ln được Đảng ta coi là hai nhiệm vụ không thể tách rời.
Đảng ta cho rằng việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị là một nội dung cốt lõi quan trọng trong các quan điểm, đường lối,
6


Tiểu luận Triết học
chính sách của Đảng ta từ khi đổi mới đến nay. Sự nhận thức và giải quyết đúng
đắn vấn đề này của Đảng cũng là khâu đột phá trong tư duy và thực tiễn lãnh đạo
sự nghiệp đổi mới của Đảng.
Về nhận thức của thời kỳ trước đổi mới, chúng ta đã nhấn mạnh quá mức vai
trò kiến trúc thượng tầng, coi chính trị là thống sối, quyết định kinh tế và tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội; chưa đánh giá đúng vai trò của kinh tế trong quan
hệ với chính trị. Về cơ chế, chúng ta cũng nhận thức một cách đơn giản về tác động
của kiến trúc thượng tầng chính trị đối với cơ sở kinh tế. Chính trị can thiệp quá
sâu vào các quá trình kinh tế - xã hội bằng hệ thống những mệnh lệnh chủ quan của
các cơ quan quản lý các cấp. Và thiết chế, bộ máy hành chính cịn quan liêu, cửa
quyền, cồng kềnh, kém hiệu quả.
Ngay trong đường lối đổi mới được đưa ra tại Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VI năm 1986, Đảng ta chủ trương “Kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi
mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới
chính trị” Đây là nhận thức đúng cả về mặt lý luận cả về mặt thực tiễn.
Khái niệm “đổi mới kinh tế” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là quá
trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp chủ yếu dựa trên chế độ

sở hữu toàn dân và tập thể sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam theo định hướng XHCN. Đó là bước chuyển từ nền kinh tế cơ
bản là “khép kín” sang nền kinh tế “mở” đối với khu vực và thế giới, kết hợp tăng
trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện cơng bằng xã hội, bảo vệ môi
trường sinh thái và từng bước đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Sự nhận thức về “đổi mới chính trị” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là
đổi mới tư duy chính trị về CNXH; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của
7


Tiểu luận Triết học
hệ thống chính trị, trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi mới,
nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước XHCN nhằm giữ vững ổn định chính trị
để xây dựng chế độ XHCN ngày càng vững mạnh; thực hiện tốt nền dân chủ
XHCN nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN và phát triển kinh tế-xã hội dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong suốt quá trình đổi mới, Đảng ta cho rằng ổn định chính trị khơng có
nghĩa là bảo thủ, trì trệ, ngược lại nó có vai trò quan trọng đảm bảo điều kiện cho
các lĩnh vực khác phát triển, làm cho quá trình đổi mới trở nên tồn diện hơn. Ổn
định chính trị cũng đồng thời góp phần tăng cường vai trị lãnh đạo của Đảng, hiệu
lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình
đổi mới đất nước.
Để giữ vững ổn định chính trị, tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân, Hội
nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khoá VI (3-1989) quyết định các
nguyên tắc cơ bản để chỉ đạo tồn bộ q trình đổi mới theo đúng định hướng
XHCN: “Đổi mới tư duy là nhằm khắc phục những quan niệm không đúng, làm
phong phú những quan niệm đúng về thời đại, về chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng
tạo vào phát triển chứ không phải xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lênin”.

Hội nghị lần 6 Ban Chấp hành Trung ương khoá VI đã chỉ rõ về mối quan hệ
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị,: “Chúng ta tập trung sức làm tốt đổi mới
kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ
chức chính trị. Khơng thể tiến hành cải cách hệ thống chính trị một cách vội vã khi
chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ khơng có giới hạn, khơng có mục tiêu cụ thể và
khơng đi đơi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, gây thiệt hại cho
sự nghiệp đổi mới” . Một bước đi cực kỳ đứng đắn và thể hiện được bản lĩnh chính
8


Tiểu luận Triết học
trị của Đảng ta biểu hiện bằng nghị quyết hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung
ương khố VI (8-l989) về cơng tác tư tưởng trong bối cảnh quốc tế vơ cùng phức
tạp khi đó: "Chế độ chính trị của chúng ta là chế độ làm chủ của nhân dân lao động
dưới sự lãnh đạo của Đảng... Chúng ta khơng chấp nhận chủ nghĩa đa ngun
chính trị, không để cho các tổ chức chống đối chủ nghĩa xã hội ra đời và hoạt động,
không coi việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần là thực hiện chủ
trương đa nguyên về kinh tế”
Chủ trương giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính
trị được tiếp tục nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ
VII: “Phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách
của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật
chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành
thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng
bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy
ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội” 4. Kinh nghiệm thành công của sự kết hợp đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính
trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”5.

Những quan điểm đúng đắn của Đảng ta phù hợp với nhu cầu và nguyện
vọng của nhân dân lao động, những quan điểm này tiếp tục được khẳng định trong
các kỳ Đại hội IX, X với mục tiêu: “đổi mới tồn diện, đồng bộ, có kế thừa, có
bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến
hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, văn hóa, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước đến
hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị”. Đại hội XI của Đảng
9


Tiểu luận Triết học
đã đưa ra quan điểm về đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị: “Đổi mới chính trị
phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hồn thiện
thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong
Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương..”. Như vậy,về đổi mới
kinh tế, Đại hội XI của Đảng tập trung vào đổi mới để hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường XHCN. Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN, Đại hội XI của
Đảng chủ trương:
- Đảng ta coi hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại là tiền đề
quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mơ hình tăng
trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô.
- Đổi mới việc xây dựng và thực thi luật pháp cho cạnh tranh bình đẳng, minh
bạch, giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch, điều hành phát triển kinh tế theo cơ chế
thị trường.
- Chú ý đặc biệt trong việc thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ bảo đảm phát
triển lành mạnh nền kinh tế.
- Tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường: Thực hiện tốt năm
giải pháp này sẽ góp phần trực tiếp hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN.

Đây là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới kinh tế giai đoạn này.
Về đổi mới chính trị, Đại hội XI của Đảng tập trung 3 yếu tố cơ bản, trọng yếu là
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN;
mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương.
Đây là balĩnh vực cơ bản, trọng yếu mang tính đột phá trong đổi mới chính trị.
Trong đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là cấp thiết và hàng đầu.
Về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Đại hội XI chủ trương:

10


Tiểu luận Triết học
- Rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng bộ hệ thống các quy
chế, quy định, quy trình cơng tác để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với hoạt động của hệ thống chính trị.
- Khắc phục tình trạng Đảng bao biện làm thay, hoặc buông lỏng lãnh đạo các cơ
quan quản lý nhà nước.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân.
- Đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ trung
ương đến địa phương cơ sở; cải cách thủ tục hành chính trong Đảng.
- Đổi mới cách ra nghị quyết, tổ chức thực hiện nghị quyết, kiểm tra, sơ kết, tổng
kết việc thực hiện nghị quyết.
Đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Đại hội XI của Đảng chủ
trương:
- Nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
- Tiếp tục đối mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức trong sạch, có năng lực đáp ứng u cầu
trong tình hình mới.
- Tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng

phí.
Đối với việc mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ
luật, kỷ cương. Đại hội XI chủ trương:
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, trước hết là thực hiện dân
chủ trong Đảng.
- Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp của mình; chống
tập trung, quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức.

11


Tiểu luận Triết học
- Phát huy dân chủ đi đôi với đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương; phê
phán, nghiêm trị hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những hành vi lợi
dụng dân chủ vì mục đích xấu.
Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh phải lấy mục tiêu xây dựng nước Việt Nam
XHCN dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh “làm tiêu chuẩn cao
nhất để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới và phát triển” nói chung, đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta nói riêng. Tiêu chí này chỉ rõ mục đích của
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của Đảng ta.
Trong những năm đổi mới, sự kết hợp hài hòa giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị đã đem lại bước chuyền biến tích cực đối với đời sống kinh tế, chính trị,
xã hội của đất nước, với những thành tựu nổi bật là:
Thứ nhất, thành công lớn nhất và quan trọng nhất có ý nghĩa sống cịn đối với dân
tộc Việt Nam là chúng ta tiến hành quá trình đổi mới khơng phải bắt đầu từ việc
“đổi mới” trong lĩnh vực chính trị như ở Liên Xơ và các nước XHCN khác ở Đông
Âu, cũng không đồng thời “đổi mới” ngay lập tức cả hai lĩnh vực chính trị lẫn kinh
tế. Chúng ta rất tỉnh táo và đủ bản lĩnh giữ vững ổn định chính trị, giữ vững sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản để làm trục đỡ chính trị cho việc điều chỉnh và đổi mới
kinh tế.

Thứ hai, nhờ có định hướng chính trị rõ ràng, bằng các chính sách chuyển đổi cơ
chế và cơ cấu phù hợp với yêu cầu khách quan của thực tiễn, kinh tế của nước ta
tăng trưởng vượt bậc, đời sống của nhân dân được cải thiện rỡ rệt. Người dân tin
tưởng vào đường lối đổi mới khi nhận thấy lợi ích của mình được đảm bảo. Nhờ có
tư duy mới và dựa vào lợi ích của nhân dân nên đường lối đổi mới đã gắn chặt với
thực tiễn đất nước, mang “hơi thở” cuộc sống. Bằng các chủ trương, chính sách
vừa có tính định hướng, vừa cụ thể thiết thực, đường lối đổi mới của Đảng đã đi
vào cuộc sống, tạo tiền đề để giải phóng sức sản xuất xã hội, phát huy tinh thần
12


Tiểu luận Triết học
sáng tạo, tính tích cực chính trị của nhân dân. Nhân dân chủ động tham gia vào đời
sống kinh tế, đời sống chính trị để xây dựng, phát triển kinh tế, bảo vệ chế độ đã,
đang đảm bảo lợi ích cho họ. Nhờ vậy, “Sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh, chúng
ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước thực hiện
thành công bước đầu công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời
sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn
dân tộc được củng cố, tăng cường”.
Bên cạnh những thành công vừa nêu trên, việc vận dụng và xử lý mối quan
hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của chúng ta cịn có nhiều
đem cần phải cố gắng hồn thiện hơn nữa. Đổi mới là cả một quá trình lâu dài và
phức tạp do thực tiễn luôn vận động và thay đổi. Đường lối đổi mới và định hướng
đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị của Đảng cần phải khẳng định là đúng đắn,
tuy nhiên vấn đề lại là hiệu quả của việc thực thi đường lối đó trên từng giai đoạn
cụ thể, trong từng cách làm cụ thể, của từng mối quan hệ cụ thể. Đại hội XI của
Đảng thắng thắn nhìn nhận về hạn chế trong đổi mới chính trị so với đổi mới kinh
tế: “Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết tồn dân tộc chưa
được phát huy đầy đủ. Cơng tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc,

các đoàn thể nhân dân chuyển biến chậm”; “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước”; “công
tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm được khắc phục” . Những
hạn chế của đổi mới chính trị trong mọi quan hệ với đổi mới kinh tế này đã cản trở
q trình đổi mới kinh tế, thậm chí kìm hãm kinh tế phát triển. Vấn đề đổi mới
chính trị chưa thực sự có hiệu quả một phần do chúng ta chưa làm rõ và phân định
dứt khoát chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của Nhà nước. Mặt
khác, trong đổi mới chính trị chúng ta mới chỉ tập trung nhấn mạnh ý nghĩa của đổi
13


Tiểu luận Triết học
mới tư duy về chính trị chứ chưa thực sự tiến hành đổi mới ở con người chính trịchủ thể hoạt động chính trị và cơ chế hoạt động có hiệu quả của hệ thống chính trị.
Do vậy, để đất nước phát triển hơn nữa cần tiếp tục nhận thức và giải quyết
tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đây cũng là thực chất,
yêu cầu, nội dung của một trong tám mối quan hệ lớn trong thời kỳ quá độ lên
CNXH nước ta mà Đảng ta đã đề ra cần giải quyết đúng đắn.

14


Tiểu luận Triết học

PHẦN III. KẾT LUẬN
Trong khuôn khổ của một đề tài tiểu luận, những phân tích và nhận định nêu
trên đã làm rõ được những vấn đề:
- Phân tích một cách đầy đủ quy luật về mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng.
- Sự vận dụng quy luật trên một cách tổng quan của Đảng trong công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước.

- Sự vận dụng mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta
từ Đổi mới đến nay của Đảng.
Tuy nhiên, đây là một vấn đề rất lớn, nên với vốn hiểu biết còn hạn chế của
mìnhvà giới hạn của một tiểu luận em mới trình bày được những vấn đề cơ bản
nhất của mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.

15



×