Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng vào quá trình đổi mới ở tỉnh cà mau hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (902 KB, 76 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
******

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
ĐỀ TÀI
VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ
KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG VÀO QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI Ở TỈNH CÀ
MAU HIỆN NAY.

Chuyên ngành: Giáo dục công dân
Mã ngành: 52140204

Cán bộ hướng dẫn:
TS. ĐINH NGỌC QUYÊN

Sinh viên thực hiện:
LÊ NGỌC THUYỀN
MSSV: 6106653
Lớp: GDCD 02 – K36

Cần Thơ, tháng 11/2013


LỜI CẢM ƠN
Trường Đại học Cần Thơ, đặc biệt Khoa Khoa học Chính trị đã chứng kiến
sự lớn lên và trưởng thành từng ngày của tôi, nơi đây đã dạy cho tôi biết được nhiều
thứ. Qua bốn năm học tập và rèn luyện tại Trường Đại học Cần Thơ, đặc biệt là sự
dạy dổ và hướng dẫn của Khoa Khoa Học Chính trị, tôi đã tích lũy được nhiều kiến
thức và sự hiểu biết của mình, nơi đây không những dạy cho tôi biết về những tri


thức, mà còn giúp rèn cho tôi khả năng sống tự lập ở một môi trường rộng lớn. Để
cho tôi có nhiều niềm tin hơn trong cuộc sống sau này. Và hiện tại, với những kiến
thức bổ ích, những tri thức mà tôi học được đã giúp tôi hoàn thành Luận văn tốt
nghiệp của bản thân mình. Có thể nói, đây là công trình nghiên cứu đầu tiên mà tôi
cảm thấy nhiều áp lực và gặp không ích khó khăn, bởi nó đánh giá một phần nào
sau bốn năm bản thân tôi rèn luyện và học tập được tại Trường. Được làm Luận văn
tốt nghiệp là sự mong muốn của nhiều bạn sinh viên, trong đó có tôi. Và để hoàn
thành Luận văn này là cả một quá trình dài và mất nhiều thời gian nghiên cứu của
bản thân, nhưng nhờ vào sự hướng dẫn nhiệt tình của Thầy, Cô trong Khoa Khoa
học Chính trị cùng với sự hướng dẫn tận tụy của Thầy Đinh Ngọc Quyên tôi đã
hoàn thành Luận văn tốt nghiệp của mình một cách tốt nhất. Lời đầu tiên, cho tôi
cảm ơn các Thầy, Cô trong Khoa Khoa học Chính trị, đặc biệt nhất là Thầy Đinh
Ngọc Quyên đã tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu của bản
thân mình trong suốt thời gian qua.
Do thời gian còn giới hạn và kiến thức chưa hoàn chỉnh, nên khi thực hiện đề
tài này đôi khi không tránh khỏi những sai xót. Tôi rất mong được sự đóng góp từ
phía Thầy, Cô và bạn đọc đề đề tài mình có thể hoàn thiện hơn.
Chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Lê Ngọc Thuyền


MỤC LỤC

Trang
A. MỞ ĐẦU ...........................................................................................................
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI .............................1
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ..............................................2
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU..............................................2
4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU............................2

5. KẾT CẤU LUẬN VĂN ...............................................................................3
B. NỘI DUNG ......................................................................................................4
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ MỐI QUAN
HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG
..............................................................................................................................4
1.1 Khái niệm, kết cấu và đặc điểm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ...........5
1.1.1 Khái niệm, kết cấu và đặc điểm của cơ sở hạ tầng.....................................5
1.1.2 Khái niệm, kết cấu và đặc điểm của kiến trúc thượng tầng........................6
1.2 Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ..............9
1.2.1 Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng .......................................9
1.2.2 Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng.........12
1.3 Ý nghĩa và vai trò của mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng............................................................................................16
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG SỰ VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG
GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG VÀO QUÁ TRÌNH
ĐỔI MỚI Ở TỈNH CÀ MAU HIỆN NAY...........................................................22


2.1 Sự cần thiết và đặc điểm của quá trình đổi mới ở tỉnh Cà Mau.......................22
2.1.1 Đặc điểm của quá trình đổi mới ở tỉnh Cà Mau .......................................22
2.1.2 Sự cần thiết phải vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa sơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng vào quá trình đổi mới ở tỉnh Cà Mau ....................28
2.2 Vận dụng mối quan hệ biện chứng của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
vào tình hình đổi mới của tỉnh Cà Mau hiện nay ....................................32
2.2.1 Tiến hành xây dựng và tập trung vào phát triển nền kinh tế thị trường theo
định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa ở tỉnh Cà Mau .......................................34
2.2.2 Đổi mối hệ thống chính trị và các vấn đề khác trong xã hội nhằm tạo ra
kiến trúc thượng tầng mới cho sự phát triển của tỉnh Cà Mau..................41
2.2.3 Những thành tựu và hạn chế trong việc vận dụng mối quan hệ biện chứng
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng vào quá trình đổi mới ở tỉnh

Cà Mau ...................................................................................................45
2.2.3.1 Thành tựu...........................................................................................45
2.2.3.2 Hạn chế..............................................................................................60
C. KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT ..............................................65
HÌNH ẢNH VỀ HOẠT ĐỘNG KINH TẾ, CHÍNH TRỊ Ở TỈNH CÀ MAU .......67
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................71


Luận Văn Tốt Nghiệp

CBHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

A. MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:
Hơn hai mươi năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, quân và dân
tỉnh Cà Mau đã và đang tiến hành công cuộc đổi mới một cách toàn diện và sâu sắc.
Quá trình đổi mới cũng là quá trình vận dụng và quán triệt mối quan hệ biện chứng
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng vào các lĩnh vực đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị của tỉnh. Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu càng đặt nhiều vấn
đề mới mẻ, phức tạp đòi hỏi phải có sự đánh giá, tổng kết nhiều thành tích và hạn
chế của sự vận động, để có nhiều giải pháp phù hợp thúc đẩy sự nghiệp đổi mới đạt
kết quả cao hơn nữa.
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là mối
quan hệ cơ bản tạo thành quy luật chi phối sự vận động phát triển của các hình thái
kinh tế - xã hội. Vì vậy, việc nhận thức đúng đắn, bảo vệ và vận dụng sáng tạo học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong đó có mối quan
hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng đã và đang trở thành
nhiệm vụ cấp bách. Bởi nó gắn liền với tính chất của thời đại hiện nay là sự quá độ
từ chủ nghĩa Tư bản lên chủ nghĩa Xã hội. Gắn liền với con đường xã hội Chủ nghĩa
mà Đảng và nhân dân ta đang lựa chọn.

Trên cơ sở nhận thức tầm quan trọng của vấn đề, em mạnh dạn chọn đề tài :
“Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng vào
quá trình đổi mới ở tỉnh Cà Mau hiện nay” làm đề tài Luận Văn tốt nghiệp Đại học
cho mình. Do thời gian sưu tầm tài liệu không nhiều và trình độ nhận thức của em
còn hạn chế, nên bài viết của em không tránh khỏi những sai sót và bất cập, em rất
mong nhận được sự nhận xét của cô giáo, và đóng góp của các bạn để bài tiểu luận
của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

SVTH: Lê Ngọc Thuyền

Trang 1


Luận Văn Tốt Nghiệp

CBHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Luận văn tập trung và nghiên cứu nội dung cơ bản về mối quan hệ giữa cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong triết học Mác – Lênin, đồng thời vận dụng
mối quan hệ biện chứng đó vào quá trình đổi mới của tỉnh Cà Mau trong hiện nay.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI:
+ Mục đích nghiên cứu đề tài:
Luận văn phân tích rõ sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa sơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng vào quá trình đổi mới ở tỉnh Cà Mau, trên cơ sở đó
đánh giá đúng những thành tựu và hạn chế của sự vận dụng của mối quan hệ nói
trên vào quá trình đổi mới ở tỉnh Cà Mau hiện nay.
+ Nhiệm vụ của đề tài:
- Luận văn phân tích và làm sáng tỏ khái niệm, kết cấu và đặc điểm của cơ sở

hạ tầng, kiến trúc thượng tầng và mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng.
- Luận văn phân tích sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng vào quá trình đổi mới ở tỉnh Cà Mau hiện nay.
- Từ sự vận dụng trên, đánh giá được những thành tựu và hạn chế của sự vận
dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng vào quá
trình đổi mới ở tỉnh Cà Mau hiện nay.
4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
+ Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và
Nhà nước ta, được thể hiện trong các văn kiện Đại hội Đảng.
+ Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng tổng hợp phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin. Trong đó chú ý các

SVTH: Lê Ngọc Thuyền

Trang 2


Luận Văn Tốt Nghiệp

CBHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

phương pháp phân tích và tổng hợp, logic và lịch sử, gắn lý luận với thực tiễn để
hoàn thành đề tài này.
5. KẾT CẤU LUẬN VĂN:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các đề tài tham khảo, luận văn dược
chia thành 2 chương 5 tiết.


SVTH: Lê Ngọc Thuyền

Trang 3


Luận Văn Tốt Nghiệp

CBHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN
CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG
Kế thừa và phát triển sáng tạo những “hạt nhân hợp lý” trong lịch sử phát
triển tư tưởng triết học nhân loại. C. Mác và Ph. Ăngghen đã xây dựng nên phép
biện chứng duy vật. Và dưới chủ nghĩa duy vật lịch sử, thì mối quan hệ biện chứng
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng đã được làm sáng tỏ hơn. Nó cho thấy
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai phương diện cơ bản của đời sống xã
hội đó là phương diện kinh tế và phương diện chính trị - xã hội, chúng có quan hệ
thống nhất biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai
trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng; kiến trúc thượng tầng có sự tác động
trở lại cơ sở hạ tầng đã sản sinh ra nó.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một trong những nội dung cơ bản
của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa duy vật lịch sử, là cơ sở thế
giới quan và phương pháp luận khoa học trong nhận thức và cải tạo xã hội. Đại hội
Đảng VI đã mở ra một trang mới cho lịch sử kinh tế Việt Nam nói chung và sự phát
triển của tỉnh Cà Mau nói riêng. Bước ngoặc này có ý nghĩa trọng đại: Biến nền
kinh tế Việt Nam từ kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp, thành nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bước ngoặc này đánh dấu sự thay đổi, phát

triển mạnh mẽ của nền kinh tế xã hội Việt Nam. Sự phát triển này phải chăng là kết
quả của Việt Nam trước Đại hội Đảng VI? Và sự phát triển này phải chăng cũng cần
trải qua một thời kỳ gọi là: Thời kỳ quá độ? Lênin - Nhà lãnh đạo lỗi lạc - nhà quản
lý xã hội thiên tài đã luôn luôn nhìn xã hội bằng con mắt của nhà quản lý, và với
tầm nhìn chiến lược hàm chứa phép biện chứng sâu sắc. Ông luôn luôn muốn thay
thế xã hội bằng xã hội khác tốt hơn. Bởi vậy ông đã nói” “Sự phát triển là cuộc đấu
tranh của các mặt đối lập”. Trong các mặt đối lập bao giờ cũng có sự đấu tranh gạt
bỏ lẫn nhau. Phép biện chứng đã tìm thấy sự thấp nhất giữa các mặt đối lập. Các
mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau mà lẫn vào nhau, thâm nhập trong nhau, mặt

SVTH: Lê Ngọc Thuyền

Trang 4


Luận Văn Tốt Nghiệp

CBHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

này chứa đựng mầm mống của mặt kia, chúng tác động qua lại lẫn nhau làm điều
kiện cho nhau tồn tại và phát triển.
1.1 KHÁI NIỆM, KẾT CẤU VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ
KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG.
1.1.1 Khái niệm, kết cấu và đặc điểm cơ sở hạ tầng.
Khái niệm cơ sở hạ tầng dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp
thành cơ cấu kinh tế của xã hội. Khái niệm cơ sở hạ tầng phản ánh chức năng xã hội
của các quan hệ sản xuất với tư cách là cơ sở kinh tế của các hiện tượng xã hội. Bởi
vì, cơ sở hạ tầng xã hội cũng là cơ sở kinh tế nảy sinh các hiện tượng xã hội. Những
quan điểm chính trị, triết học, nghệ thuật, đạo đức, pháp quyền… đều được hình
thành, biến đổi trên cơ sở hạ tầng.

Kết cấu và đặc điểm của cơ sở hạ tầng, cơ sở hạ tầng của một xã hội, trong
toàn bộ sự vận động của nó, được tạo nên bởi các quan hệ sản xuất thống trị, quan
hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mới tồn tại dưới hình thức mầm mống, đại
biểu cho sự phát triển của xã hội tương lai, trong đó quan hệ sản xuất thống trị
chiếm địa vị chủ đạo, chi phối các mối quan hệ sản xuất khác, định hướng sự phát
triển của đời sống kinh tế - xã hội và giữ vai trò là đặc trưng cho chế độ kinh tế của
một xã hội nhất định. Sự tồn tại của ba loại hình quan hệ sản xuất cấu thành cơ sở
hạ tầng của một xã hội phản ánh tính chất vận động, phát triển liên tục của lực
lượng sản xuất với các tính chất kế thừa, phát huy và phát triển.
Ví dụ như: Trong xã hội phong kiến ngoài quan hệ sản xuất phong kiến
chiếm địa vị thống trị, nó còn có quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội chiếm hữu nô
lệ, mầm móng của quan hệ sản xuất của Tư bản chủ nghĩa và chính ba yếu tố đó cấu
thành nên cơ sở hạ tầng phong kiến, trong đó tính chất của cơ sở hạ tầng phong kiến
là do quan hệ sản xuất phong kiến quyết định.
Cơ sở hạ tầng thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất của xã hội. Vì vậy nó tồn tại một
cách khách quan, độc lập với ý chí và ý thức của con người. Trong xã hội có giai
cấp đối kháng, thì cơ sở hạ tầng có tính giai cấp. Tính chất đối kháng của cơ sở hạ
tầng được bắt nguồn từ những cơ sở nội tại không thể điều hòa được trong cơ sở hạ
SVTH: Lê Ngọc Thuyền

Trang 5


Luận Văn Tốt Nghiệp

CBHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

tầng đó và do bản chất của kiểu quan hệ sản xuất thống trị quy định. Đó là sự biểu
hiện của sự đối lập về kinh tế giữa các tập đoàn người khác nhau, đại biểu cho các
quan hệ sản xuất khác nhau trong xã hội. Mỗi xã hội trong lịch sử có một kiểu

những quan hệ vật chất cơ bản nhất ứng với lực lượng sản xuất nhất định đó là
những quan hệ sản xuất. Phù hợp với kiểu sản xuất đó là một hệ thống những quan
hệ về chính trị, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật v.v .. Những quan hệ chính trị, tinh
thần này được thể hiện thông qua những thiết chế xã hội tương ứng như Nhà nước,
Đảng phái, tòa án, giáo hội và các quan hệ chính trị tinh thần hình thành trên các
quan hệ kinh tế đó, được chủ nghĩa duy vật lịch sử phản ánh trong các phạm trù cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, trong nguyên lý về quan hệ biện chứng giữa
chúng.
Như vậy, toàn bộ những quan hệ sản xuất xã hội, mà trước hết và chủ yếu là
quan hệ sản xuất thống trị, tức những mối quan hệ sản xuất đặc trưng cho mỗi
phương thức sản xuất và tất cả những quan hệ sản xuất khác tồn tại hiện thực trong
mỗi phương thức sản xuất “hợp thành” cơ cấu kinh tế xã hội.
Như vậy, hệ thống của quan hệ sản xuất của một xã hội đóng vai trò “kép”:
một mặt, với lực lượng sản xuất, nó giữ vai trò là hình thức kinh tế - xã hội cho sự
duy trì, phát huy và phát triển lực lượng sản xuất; mặt khác với các quan hệ chính
trị - xã hội, nó đóng vai trò là cơ sở hình thành kết cấu kinh tế, làm cơ sở hiện thực
cho sự thiết lập một hệ thống kiến trúc thượng tầng của xã hội.
1.1.2 Khái niệm, kết cấu và đặc điểm của kiến trúc thượng tầng.
Khi phân tích những quan hệ sản xuất với tư cách là cơ sở kinh tế của việc
xác lập trên đó những quan hệ chính trị - xã hội, C.Mác đã viết: “Toàn bộ những
quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên
đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý
thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó.” [t.13, tr15]
Như vậy, theo quan điểm của Mác, khái niệm kiến trúc thượng tầng dùng để
chỉ toàn bộ hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội cùng với các thiết chế chính
trị - xã hội tương ứng, được hình thành trên cơ sở hạ tầng kinh tế nhất định. Nói
cách khác, kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm: chính trị, pháp quyền,
SVTH: Lê Ngọc Thuyền

Trang 6



Luận Văn Tốt Nghiệp

CBHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

đạo đức, triết học, tôn giáo, nghệ thuật... với những thể chế tương ứng: nhà nước,
đảng phái, giáo hội, các đoàn thể... được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất
định. Bởi vậy, kiến trúc thượng tầng là những hiện tượng xã hội, biểu hiện tập trung
đời sống tinh thần của xã hội, là bộ mặt tinh thần tư tưởng của hình thái kinh tế -xã
hội. Nó đóng vai trò quan trọng cùng các bộ phận khác trong xã hội hợp thành cơ
cấu hoàn chỉnh của hình thái kinh tế-xã hội.
Kể từ thời cổ đại đến nay, trong bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội nào, bên
cạnh những quan hệ sản xuất thống trị thường vẫn còn tàn dư của những quan hệ
sản xuất của xã hội cũ và cả mầm mống của những quan hệ sản xuất kinh tế xã hội
của tương lai. Cho nên cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể được đặc trưng trước hết
bởi kiểu quan hệ sản xuất thống trị tiêu biểu cho xã hội đó. Tuy nhiên, những quan
hệ sản xuất quá độ (tàn dư của những quan hệ cũ, mầm mống của những quan hệ
mới và những kiểu quan hệ kinh tế khác có thể có) cũng có vai trò nhất định. Điều
cần chú ý là ở chỗ, trong hệ thống cơ cấu kinh tế đó, cái giữ địa vị chi phối, có vai
trò chủ đạo và tác dụng quyết định đối với toàn bộ cơ sở hạ tầng là kiểu sản xuất
thống trị. Tư tưởng thống trị của một xã hội bao giờ cũng là tư tưởng của giai cấp
thống trị. Như vậy, quan hệ sản xuất, xét đến cùng, trong nội bộ phương thức sản
xuất, mặt khác, xét trong tổng thể trong các mối quan hệ xã hội, thì các mối quan hệ
sản xuất “hợp thành” cơ sở kinh tế xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực, trên người đã
dựng nên kiến trúc thượng tầng tương ứng với cơ sở thực tại đó.
Đặc điểm và kết cấu, kiến trúc thượng tầng của mỗi xã hội là một kết cấu
phức tạp, có thể phân tích từ những giác độ khác nhau, từ đó cho thấy mối quan hệ
đan xen và chi phối lẫn nhau của chúng. Từ giác độ chung nhất, có thể thấy kiến
trúc thượng tầng của một xã hội bao gồm:

+ Bộ phận thứ nhất: hệ thống các hình thái ý thức xã hội (hình thái ý thức
chính trị, pháp quyền, tôn giáo, đạo đức, nghệ thuật, … đây là yếu tố thuộc đời sống
tinh thần xã hội).
+ Bộ phận thư hai: các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng của chúng (Nhà
nước, chính đảng, giáo hội, ...). Như tương ứng với chính trị có Đảng phái, tương

SVTH: Lê Ngọc Thuyền

Trang 7


Luận Văn Tốt Nghiệp

CBHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

ứng với pháp quyền có Nhà nước, tương ứng vơi triết học có viện triết học, tương
ứng với nghệ thuật có hội nghệ thuật, tương ứng với tôn giáo có tổ chức tôn giáo.
Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật phát triển
riêng, nhưng không tồn tại tách rời nhau mà liên hệ tác động qua lại lẫn nhau và
đều này nảy sinh trên cơ sở hạ tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng. Song không phải tất cả
các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều liên hệ như nhau đối với các cơ sở hạ tầng
của nó. Một số bộ phận của kiến trúc thượng tầng như Nhà nước, pháp luật, các tổ
chức chính trị và hệ tư tưởng chính trị có liên hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng của xã
hội, còn những bộ phận khác như tôn giáo, triết học,.. tuy có liên hệ với cơ sở hạ
tầng, nhưng qua nhiều khâu trung gian và biến đổi chậm hơn.
Đặc trưng của kiến trúc thượng tầng của một chế độ xã hội là sự thống trị về
thống trị và tư tưởng của giai cấp thống trị đối với toàn bộ đời sống xã hội. Giai cấp
nào thống trị về kinh tế và nắm vững chính quyền về Nhà nước thì hệ tư tưởng cùng
những thể chế của giai cấp ấy cũng giữ địa vị thống trị. Nó quy định và tác động
trực tiếp đến xu hướng của toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội và quyết định cả

tính chất, đặc trưng cơ bản của toàn bộ kiến trúc thượng tầng.
Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng cũng mang tính chất giai cấp,
biểu hiện ở sự xung đột về quan điểm tư tưởng dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp giữa
các giai cấp khác nhau trong kiến trúc thượng tầng. Nhà nước là một bộ máy tổ
chức quyền lực và thực thi quyền lực đặc biệt của xã hội trong điều kiện xã hội có
giai cấp đối kháng. Về danh nghĩa, nhà nước là hệ thống tổ chức đại biểu cho quyền
lực chung của xã hội và công dân, thực hiện chức năng chính trị và chức năng xã
hội cùng chức năng đối nội và đối ngoại của quốc gia. Về thực chất, bất cứ nhà
nước nào cũng là công cụ quyền lực thực hiện chuyên chính giai cấp của giai cấp
thống trị, tức giai cấp nắm giữ được những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, nó
chính là chủ thể thực sự của quyền lực Nhà nước.

SVTH: Lê Ngọc Thuyền

Trang 8


Luận Văn Tốt Nghiệp

CBHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

1.2 MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN
TRÚC THƯỢNG TẦNG
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai phương diện cơ bản của đời
sống xã hội – đó là phương diện kinh tế và phương diện chính trị - xã hội. Mỗi xã
hội có một kết cấu kinh tế đặc trưng riêng, tức là cơ sở hiện thực của xã hội, trên đó
nảy sinh một kiến trúc thượng tầng tương ứng: “Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy
hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thự trên đó dựng lên một
kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất
định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”. C.Mác đã vạch rõ sự thống nhất của những

hiện tượng kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng của đời sống xã hội và chỉ ra rằng, xét
đến cùng, những hiện tượng ấy đều do sự phát triển của sản xuất vật chất quyết
định. Bởi vậy, với khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, C.Mác đã cung
cấp chìa khóa để nhận thức một cách duy vật mọi hiện tượng xã hội.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng tồn tại trong mối quan hệ thống nhất
biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau, trong đó cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc
thượng tầng và đồng thời kiến trúc thượng tầng thường xuyên có tác động trở lại cơ
sở hạ tầng kinh tế của xã hội. Cơ cấu kinh tế của xã hội của mỗi thời đại nhất định
tạo nên cái cơ sở hiện thực mà xét đến cùng, phải bằng cái hiện thực ấy mà giải
thích toàn bộ kiến trúc thượng tầng bao gồm các thể chế pháp luật và chính trị cũng
như quan niệm tôn giáo, triết học và các quan niệm khác của mỗi thời kỳ lịch sử xã
hội nhất định.
1.2.1 Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng
Để khắc phục những quan điểm duy tâm giải thích sự vận động của đời sống
kinh tế - xã hội bằng những nguyên nhân thuộc về ý thức tư tưởng hoặc thuộc về vai
trò của Nhà nước và pháp quyền, chủ nghĩa Mác khẳng định: quan hệ kinh tế, quan
hệ sản xuất là những quan hệ xã hội cơ bản quyết định mọi quan hệ về chính trị,
pháp luật và tư tưởng… Giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế thì cũng
chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần xét đến cùng, mâu thuẫn trong lĩnh
vực tư tưởng; cuộc đấu tranh giai cấp trong lĩnh vực chính trị tư tưởng là biểu hiện
của những đối kháng trong đời sống kinh tế. Chính vì vậy, C.Mác đã khẳng định:
SVTH: Lê Ngọc Thuyền

Trang 9


Luận Văn Tốt Nghiệp

CBHD: TS. Đinh Ngọc Quyên


“Không thể lấy bản thân quan hệ pháp quyền cũng như những quan hệ hình thái nhà
nước, hay lấy cái gọi là phát triển chung của tinh thần con người, để giải thích về
những quan hệ và hình thái đó, mà trái lại phải thấy rằng những quan hệ và hình
thái đó bắt nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật chất… Nếu ta không thể nhận
định về một người căn cứ vào ý kiến của chính người đó đối với bản thân, thì ta
cũng chẳng thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của
thời đại ấy. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống
vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những
quan hệ sản xuất xã hội.
Bộ mặt kiến trúc thượng tầng trong đời sống xã hội luôn được biểu hiện ra
một cách phong phú, phức tạp và đôi khi dường như không trực tiếp gắn với với cơ
sở hạ tầng. Đó chỉ là biểu hiện bề ngoài, cũng trong thực tế, ngay những hiện tượng
lạ lùng nhất của kiến trúc thượng tầng cũng đều có nguyên nhân xâu xa nằm cơ cấu
kinh tế xã hội. Cơ sở hạ tầng với tính cách là cơ cấu kinh tế hiện thực của xã hội
không chỉ sản sinh ra kiến trúc thượng tầng tương ứng, quy định tính chất kiến trúc
thượng tầng. Giai cấp nào giữ địa vị thống trị xã hội về mặt kinh tế thì nó cũng
chiếm địa vị thống trị trong kiến trúc thượng tầng xã hội.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng được thể
hiện trên nhiều phương diện: tương ứng với một cơ sở hạ tầng sẽ sản sinh ra một
kiến trúc thượng tầng phù hợp, có tác dụng bảo vệ cơ sở hạ tầng đó. Những biến đổi
trong cơ sở hạ tầng tạo ra nhu cầu khách quan phải có sự biến đổi tương ứng trong
kiến trúc thượng tầng. Tính chất mâu thuẫn trong cơ sở hạ tầng được phản ánh
thành mâu thuẫn trong hệ thống kiến trúc thượng tầng. Sự đấu tranh trong lĩnh vực
ý thức hệ xã hội và những xung đột lợi ích chính trị - xã hội có nguyên nhân sâu xa
từ mâu thuẫn và cuộc đấu tranh giành lợi ích trong cơ sở kinh tế của xã hội. Giai
cấp nắm giữ quyền sở hữu tư liệu sản xuất của xã hội đồng thời cũng là giai cấp
nắm được quyền lực Nhà nước trong kiến trúc thượng tầng, còn các giai cấp và tầng
lớp xã hội khác ở vào địa vị phụ thuộc đối với quyền lực nhà nước. Các chính sách
và pháp luật của Nhà nước, suy đến cùng cũng là phản ánh nhu cầu thống trị về
kinh tế của giai cấp nắm giữ quyền sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã


SVTH: Lê Ngọc Thuyền

Trang 10


Luận Văn Tốt Nghiệp

CBHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

hội,… Như vậy, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, còn kiến trúc
thượng tầng là sự phản ánh đối với cơ sở hạ tầng, phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng.
Ví dụ: Trong xã hội phong kiến, cơ sở hạ tầng có nhiều quan hệ sản xuất
khác nhau, nhưng quan hệ sản xuất phong kiến là quan hệ sản xuất chính thống thì
giai cấp địa chủ đại diện cho cơ sở hạ tầng, giai cấp đó thống trị trong cơ sở kinh tế.
Do thống trị trong cơ sở hạ tầng, nên giai cấp địa chủ phong kiến cũng thống trị
trong đường lối chính trị, thống trị trong Nhà nước và thống trị trong toàn bộ kiến
trúc thượng tầng.
Nói cách khác, sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng diễn ra rõ khi cơ sở hạ tầng
này thay thế cơ sở hạ tầng khác. Nghĩa là, khi cách mạng xã hội đưa đến sự thủ tiêu
cơ sở hạ tầng cũ bị xóa bỏ và thay thế cơ sở hạ tầng mới thì sự thống trị cũ bị xóa
bỏ và thay thế bằng sự thống trị của giai cấp mới. Qua đó mà chính trị của giai cấp
thay đổi, bộ máy nhà nước mới được thành lập thay thế Nhà nước cũ, ý thức xã hội
cũng biến đổi.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng diễn ra do kết quả của cuộc đấu tranh gay go phức tạp giữa các
giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, mà đỉnh cao là cách mạng xã hội. Những biến
đổi cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xét cho cùng là do sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất trực tiếp gây ra sự biến đổi của cơ sở hạ
tầng và biến đổi của cơ sở hạ tầng lại làm cho kiến trúc thượng tầng biến đổi. Tính

chất phụ thuộc của kiến trúc thượng tầng vào cơ sở hạ tầng có nguyên nhân từ tính
tất yếu kinh tế đối với toàn bộ các lĩnh vực sinh hoạt của xã hội, dù đó là lĩnh vực
chính trị, pháp luật, … hay lĩnh vực sinh hoạt tinh thần của xã hội. Tính tất yếu kinh
tế lại phụ thuộc vào tính tất yếu nhu cầu duy trì và phát triển các lực lượng sản xuất
khách quan của xã hội.
Trong sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, không phải
hoàn toàn có một cơ sở hạ tầng mới xuất hiện thì một kiến trúc thượng tầng mất đi
ngay mà cả một bộ phận thay đổi dần dần chậm chạp. Vì trong cuộc đấu tranh giữa
cái cũ và cái mới, những tàn dư của cái cũ còn tồn tại rất lâu. Mặt khác cũng có
những yếu tố, những hình thức không cơ bản nào đó của cơ sở hạ tầng và kiến trúc
SVTH: Lê Ngọc Thuyền

Trang 11


Luận Văn Tốt Nghiệp

CBHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

thượng tầng cũ được giai cấp mới giữ lại, cải tạo để phục vụ cho yêu cầu phát triển
của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mới.
Như vậy, chúng ta có thể thấy cơ sở hạ tầng quyết định to lớn đối với kiến
trúc thượng tầng, do đó trong cách mạng xã hội chủ nghĩa có tác dụng vô cùng to
lớn đối với cuộc sống của xã hội. Vì tính quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến
trúc thượng tầng diễn ra phức tạp trong quá trình chuyển từ một mô hình hình thái
kinh tế - xã hội khác.
1.2.2 Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng.
Với tư cách là các hình thức phản ánh và được xác lập do nhu cầu phát triển
kinh tế, các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có vị trí độc lập tương đối của nó và
thường xuyên có vai trò tác động trở lại cơ sở hạ tầng của xã hội.

Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng có thể thông qua nhiều
phương thức. Điều đó tùy thuộc vào bản chất của mỗi nhân tố trong kiến trúc
thượng tầng, phụ thuộc vào vị trí, vai trò của nó và những điều kiện cụ thể. Tuy
nhiên, trong điều kiện kiến trúc thượng tầng có yếu tố Nhà nước thì phương thức tác
động của các yếu tố khác tới cơ sở kinh tế của xã hội thường phải thông qua nhân tố
Nhà nước mới có thể thực sự phát huy mạnh mẽ vai trò thực tế của nó. Nhà nước là
nhân tố có tác động trực tiếp và mạnh mẽ nhất tới cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội. Sự
tác động của các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có thể diễn ra nhiều xu hướng,
thậm chí các xu hướng không chỉ khác nhau mà còn có thể đối lập nhau. Điều đó
phản ánh tính chất mâu thuẫn lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp xã hội khác nhau
và đối lập nhau: có sự tác động nhằm duy trì cơ sở kinh tế hiện tại, tức xu hướng
duy trì chế độ xã hội hiện thời, lại có xu hướng tác động theo xu hướng xóa bỏ cơ
sở kinh tế này và có xu hướng đấu tranh cho việc xác lập một cơ sở kinh tế khác,
xây dựng một chế độ xã hội khác,…
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng có thể diễn ra
theo xu hướng tích cực hoặc tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào sự phụ thuộc hay
không phụ thuộc các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng đối với nhu cầu khách quan
của sự phát triển kinh tế; nếu phù hợp nó sẽ có tác dụng tích cực, ngược lại sẽ có tác
dụng tiêu cực, kìm hãm và phá hoại sự phát triển kinh tế trong một phạm vi và mức
SVTH: Lê Ngọc Thuyền

Trang 12


Luận Văn Tốt Nghiệp

CBHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

độ nhất định. Tuy nhiên, sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
dù diễn ra với xu hướng khác nhau, mức độ khác nhau nhưng rốt cuộc nó không thể

giữ vai trò quyết định đối với cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội. Cơ sở hạ tầng kinh tế
của xã hội vẫn tự mở đường đi cho nó theo tính tất yếu kinh tế của nó.
Nói cách khác, trong các yếu tố cấu thành nên kiến trúc thượng tầng, Nhà
nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng và có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng, vì
Nhà nước là lực lượng vật chất tập trung sức mạnh kinh tế và chính trị của giai cấp
thống trị. Nhà nước không chỉ dựa trên hệ tư tưởng, mà còn dựa trên hình thức nhất
định của việc kiểm soát xã hội, sử dụng bạo lực, bao gồm các yếu tố vật chất: quân
đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù,… để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống
trị, củng cố địa vị của quan hệ sản xuất thống trị.
Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp đối kháng đấu tranh với nhau giành
chính quyền về tay mình, cũng chính là tạo cho mình sức mạnh về kinh tế. Sử dụng
quyền lực Nhà nước, giai cấp thống trị sẽ không ngừng mở rộng ảnh hưởng kinh tế
trên toàn xã hội. Kinh tế vững mạnh làm cho nhà nước được tăng cường. Nhà nước
được tăng cường lại tạo thêm phương tiện vật chất để cũng cố vững chắc hơn địa vị
kinh tế và xã hội của giai cấp thống trị. Cứ như thế, sự tác động qua lại biện chứng
giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng đưa lại sự phát triển hợp quy luật của
kinh tế chính trị. Ở đây, nhà nước là phương tiện vật chất, có sức mạnh kinh tế, còn
kinh tế là mục đích của chính trị, điều này được chứng minh qua sự ra đời và sự tồn
tại của nhà nước khác nhau.
Hiệu quả của tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng, phụ
thuộc vào năng động chủ quan trong nhận thức và vận động quy luật kinh tế -xã hội,
vào hoạt động thực tiễn đưa lại phương án phát triển tối ưu cho kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên nếu nhấn mạnh, tuyệt đối hóa, phủ nhận tính tất yếu kinh tế của xã hội, sẽ
phạm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan dưới những hình thức khác nhau.
Sự biến động của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng chính trị là sự vận động
thống nhất biện chứng giữa hai mặt đối lập, chúng vận động theo quy luật khách
quan. Đồng thời chịu sự chi phối rất mạnh của chủ thể - con người. Do đó, luôn
luôn nảy sinh mâu thuẫn trong quá trình phát triển. Tính chất gay gắt của mâu thuẫn
SVTH: Lê Ngọc Thuyền


Trang 13


Luận Văn Tốt Nghiệp

CBHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng phụ thuộc vào tính chất của thời đại.
Trong thời đại ngày nay, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa Tư bản và chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi thế giới, phụ thuộc vào trình độ nhận thức và vận dụng quy luật khách quan
của Đảng Cộng Sản, phụ thuộc vào sự điều hành vĩ mô của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa; và phụ thuộc vào các tổ chức quần chúng dưới sư lãnh đạo của Đảng. Những
xu hướng biến động của mối quan hệ này phản ánh tương quan lực lượng giữa giai
cấp công nhân và nhân dân lao động với các thế lực thù địch của cách mạng trong
từng giai đoạn cụ thể.
Trong chủ nghĩa xã hội, kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa, mà đặc biệt
là Nhà nước xã hội chủ nghĩa giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Không có chính quyền
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thì không thể xây dựng được cơ sở hạ
tầng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ đắc lực để cải tạo và
xóa bỏ cơ sở hạ tầng cũ, tạo lập cơ sở hạ tầng mới. Chủ nghĩa Mác – Lênin cho
rằng: Trong đấu tranh giai cấp, vai trò của Nhà nước là hết sức quan trọng. Nhà
nước là một trong những yếu tố cấu thành của kiến trúc thượng tầng, nguồn gốc xâu
xa dẫn đến sự ra đời của Nhà nước là kinh tế, từ sự phát triển của lực lượng sản
xuất, nguồn gốc trực tiếp là kinh tế - xã hội dẫn đến sự ra đời và tồn tại của Nhà
nước là do có chế độ tư hữu và mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Nhà
nước là một tổ chức quyền lực của giai cấp thống trị chính trị, một bộ máy chuyên
làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì
trật tự xã hội, thực hiện những mục đích để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị
trong xã hội. Trong sự vận động và phát triển của hình thái kinh tế - xã hội thì Nhà
nước có tác động rất lớn trong cuộc cách mạng xã hội, thay thế một hình thái kinh tế

- xã hội này bằng hình thái kinh tế xã hội khác. Học thuyết Mác cũng chỉ ra rằng
động lực của sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội chính là hoạt động thực tiễn
của con người dưới tác động của các quy luật khách quan. Quá trình phát triển đó là
một quá trình phát triển tự nhiên, Mác viết: “Tôi coi sự phát triển của những hình
thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”. Phạm trù tự nhiên được dùng
đi liền với từ “lịch sử” ở đây được đề cập ở góc độ tính tất yếu của sự vận động phát
triển lịch sử. Đó là sự phát triển vận động không ngừng của lịch sử xã hội từ thấp
đến cao, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người hoặc bất cứ một lực
SVTH: Lê Ngọc Thuyền

Trang 14


Luận Văn Tốt Nghiệp

CBHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

lượng xã hội nào mà nó do các quy luật kinh tế - xã hội khách quan vốn có của bản
thân xã hội quyết định mà trong đó trước hết và cơ bản là quy luật về sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của sự phát triển
xã hội chẳng những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả
trường hợp bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nhất định trong những hoàn cảnh
lịch sử nhất định. Bên cạnh việc khẳng định sự phát triển của những hình thái kinh
tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên, Mác cũng cho rằng không phải quốc
gia, dân tộc nào cũng nhất thiết trải qua tất cả các hình thái kinh tế - xã hội đã có
trong lịch sử. Do những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định, một quốc gia,
dân tộc nào đó có thể bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nhất định nào đó để tiến
lên một hình thái kinh tế - xã hội tiến bộ hơn. Đó cũng là tiến trình lịch sử tự nhiên
nhưng mang tính đặc thù, rút ngắn lịch sử. V.I.Lê – nin cũng đã nói con đường quá
độ lên chủ nghĩa xã hội có thể có những hình thức khác nhau; điều đó tùy thuộc vào

trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Theo người, hình thức quá độ trực tiếp là
con đường phát triển tuần tự từ chủ nghĩa Tư bản lên Chủ nghĩa xã hội, còn hình
thức quá độ gián tiếp là con đường phát triển rút ngắn, phát triển bỏ qua chế độ Tư
bản chủ nghĩa – con đường từ tiền tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên cần lưu ý,
trong quan niệm của Lê - nin, tất cả các loại hình khác nhau của sự phát triển xã hội
– phát triển tuần tự hay phát triển rút ngắn – đều phải tuân theo quy luật khách quan
và đều là con đường phát triển lịch sử - tự nhiên. Phát triển rút ngắn đòi hỏi phải có
những điều kiện khách quan và những điều kiện chủ quan mới có thể thực hiện
được. Dựa vào các quy luật khách quan và học thuyết của Mác – Lênin về hình thái
kinh tế - xã hội, Đảng ta đã vận dụng những lý luận này vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Theo sự vận động và phát
triển của hình thái kinh tế - xã hội thì chủ nghĩa Cộng sản mà giai đoạn đầu là Chủ
nghĩa xã hội là sự phát triển tất yếu lịch sử của Chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định sự sản xuất và tái sản xuất ra đời sống
xã hội là nhân tố quyết định, nếu xét đến cùng, đối với lịch sử, nghĩa là đối với cả
các lĩnh vực của văn hóa tinh thần nói chung. Mối quan hệ nhân quả đó phải được
đặt trong điều kiện xét đến cùng, vì nhiều khi xét đến cùng, người ta mới thấy rõ
nhân tố kinh tế đóng vai trò quyết định.
SVTH: Lê Ngọc Thuyền

Trang 15


Luận Văn Tốt Nghiệp

CBHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

Nói tóm lại, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có quan hệ biện chứng
với nhau, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt thống nhất biện chứng
với nhau trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Do đó, khi xem xét và cải

tạo xã hội phải thấy rõ vai trò quyết định của sơ sở hạ tầng và tác động trở lại của
kiến trúc thượng tầng, không được tuyệt đối hóa và hạ thấp yếu tố nào.
1.3 Ý NGHĨA VÀ VAI TRÒ CỦA MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ
SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một nội dung cơ bản của chủ nghĩa
duy vật lịch sử và cũng là một trong những nội dung cơ bản của toàn bộ chủ nghĩa
Mác. Học thuyết này đã vạch rõ những quy luật cơ bản của vận động xã hội, vạch ra
những phương pháp duy nhất khoa học để giải thích lịch sử. Bằng sự kế thừa và
chọn lọc tất cả thành quả về triết học xã hội của các bậc tiền bối, bằng những công
trình nghiên cứu tỉ mỉ về quá trình lịch sử loài người, thuyết về hình thái kinh tế - xã
hội bao gồm nhiều yếu tố, trong đó có mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng là cơ sở khoa học để xem xét lịch sử.
Học thuyết Mác xít về hình thái kinh tế - xã hội, trong đó mối quan hệ biện
chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là cơ sở thế giới quan và là căn
cứ khoa học cho Cách mạng xã hội chủ nghĩa trên thế giới nói chung và ở nước ta
nói riêng. Trong thực tế hiện nay, từ khi chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào
nhưng nước ta vẫn kiên trì khẳng định con đường phát triển đất nước là xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, Đảng ta đã xác
định: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa tạo ra biến đổi
về chất của xã hội trên tất cả lĩnh vực là một sự nghiệp rất khó khăn phức tạp cho
nên phải trải qua một thời kì quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức
tổ chức kinh tế - xã hội có tính chất quá độ”. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng và quá trình vận dụng của Đảng ta trong thực tế nhằm
tiếp tục làm sáng tỏ con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đã làm rõ được
luận điểm trên.
Sự hình thành và vận dụng của những quan hệ xã hội là cơ sở kinh tế, để tạo
ra trên nó những kiến trúc thượng tầng tương ứng về tư tưởng, chính trị pháp lý, ý
SVTH: Lê Ngọc Thuyền

Trang 16



Luận Văn Tốt Nghiệp

CBHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

thức xã hội … Trong lời tựa cuốn Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị, C.Mác
viết “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người ta có những quan hệ
nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ – tức những quan hệ sản
xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ nhất định của các lực lượng sản
xuất vật chất. Toàn bộ những quan hệ sản xuất vật chất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế
của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực đó xây dựng lên một kiến trúc thượng tầng
pháp lý về chính trị, và tương ứng với cơ sở hiện thực ấy có những hình thái ý thức
xã hội nhất định.”
Quy luật chi phối sự vận động và phát triển kinh tế - xã hội là quy luật về
mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Quy luật này
khẳng đỉnh rằng cơ sở hạ tầng là quan hệ cơ bản quyết định kiến trúc thượng tầng
và kiến trúc thượng tầng sinh ra từ cơ sở hạ tầng nhưng nó có vai trò to lớn tác động
mạnh mẽ trở lại cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng với tính cách là cơ cấu kinh tế hiện
thực sản sinh ra một kiến trúc thượng tầng tương ứng quy định tính chất, cơ cấu và
mục đích hoạt động của kiến trúc thượng tầng. Khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì kiến
trúc thượng tầng phải thay đổi theo những sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng
diễn ra khá lâu dài, một cách biện chứng. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng
tầng đối với cơ sở hạ tầng thể hiện qua vai trò định hướng chính trị cho hoạt động
kinh tế theo yêu cầu mục đích của giai cấp thống trị, mà trong đó Nhà nước là thiết
chế quan trọng nhất khi tác động trở lại kinh tế.
Nghiên cứu triết học Mác không thể bỏ qua những quy luật vận động phát
triển của xã hội. Đặc trưng của quá trình lịch sử tự nhiên là sự thống nhất và tác
động biện chứng lẫn nhau của các yếu tố đó trong từng xã hội tạo ra những quan hệ
có tính quy luật và động lực bên trong quyết định sự vận động và phát triển bên

trong của xã hội, trong đó kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng luôn luôn có mối
quan hệ biện chứng qua lại và là một trong những quy luật tất yếu. Mỗi xã hội có
kết cấu đặc trưng riêng tức là cơ sở hiện thực của xã hội trên đó xây dựng lên một
kiến trúc thượng tầng phù hợp với nó.
Kiến trúc thượng tầng cũng có nhiệm vụ bảo vệ và phát triển cơ sở kinh tế đã
sinh ra nó. Như ta thấy sự tác động của kiến trúc thượng tầng diễn ra theo hai mặt
SVTH: Lê Ngọc Thuyền

Trang 17


Luận Văn Tốt Nghiệp

CBHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

trên, trong những trường hợp đặc biệt kiến trúc thượng tầng có thể tác động làm đảo
lộn nhanh chóng cơ sở hạ tầng suy đến cùng thì kiến trúc thượng tầng vẫn bị kinh tế
quyết định. Trong các xã hội có giai cấp, mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng thể hiện thành mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp cũng là một
trong những động lực quan trọng của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội khi
xã hội có giai cấp đối kháng. Khi nghiên cứu phép biện chứng duy vật, nghiên cứu
quy luật mâu thuẫn ta thấy rằng mâu thuẫn nói chung là nguồn gốc, động lực cho sự
phát triển. Nói cách khác, động lực phát triển xã hội nằm ngay trong chính phương
thức sản xuất với việc giải quyết giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất giữa
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Về mặt xã hội mâu thuẫn này là mâu thuẫn
giai cấp giữa một bên là giai cấp Cách mạng tiến bộ đại diện cho lực lượng sản xuất
tiến bộ, phát triển. Một bên là giai cấp thống trị phản động đại diện cho quan hệ sản
xuất lạc hậu đang kìm hảm sự phát triển của lực lượng sản xuất đấu tranh với nhau.
Với ý nghĩa đó, đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy xã hội phát triển,
đồng thời cũng là phương thức giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và

quan hệ sản xuất. Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp thì đấu tranh giai cấp không
phải là động lực duy nhất, mặc dù nó là động lực vô cùng quan trọng. Ngoài đấu
tranh giai cấp ra còn có các động lực khác mà vai trò ví trí của mỗi động lực như
văn hóa, giáo dục, khoa học - kĩ thuật, tư tưởng, đạo đức đều phát huy tác dụng
trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Trong đấu tranh giai cấp, vai trò Nhà nước là hết sức quan trọng. Nhà nước
là một tổ chức của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế
và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện
những mục đích để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội. Trong sự vận
động và phát triển hình thái kinh tế xã hội thì nhà nước có tác động rất lớn trong
cuộc cách mạng xã hội, thay thế một hình thái kinh tế xã hội này thành một hình
thái kinh tế xã hội khác. Học thuyết Mác cũng chỉ ra rằng động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội chính là hoạt động thực tiễn của con người dưới tác động của các
quy luật khách quan. Đó là sự phát triển không ngừng của lịch sử từ thấp đến cao,
không phụ thuộc ý muốn chủ quan của con người hoặc bắt cứ một lực lượng xã hội
nào mà do các quy luật kinh tế - xã hội khách quan vốn có của bản thân xã hội
SVTH: Lê Ngọc Thuyền

Trang 18


Luận Văn Tốt Nghiệp

CBHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

quyết định mà trong đó trước hết và cơ bản là quy luật về sự phù hợp của quan hệ
sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của sự phát triển xã hội
chẳng những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả trường
hợp bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nhất định trong những hoàn cảnh lịch sử
cụ thể nhất định. Bên cạnh việc khẳng định sự phát triển của hình thái kinh tế - xã

hội là một quá trình lịch sử tự nhiên, Mác cũng cho rằng không phải quốc gia nào,
dân tộc nào cũng nhất thiết trải qua tất cả các hình thái kinh tế - xã hội đã có trong
lịch sử. Do những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định, một quốc gia dân
tộc nào đó có thể bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nhất định nào đó để tiến lên
một hình thái kinh tế - xã hội tiến bộ hơn. Đó cũng là quá trình lịch sử tự nhiên
nhưng mang tính đặc thù, rút ngắn lịch sử.
Trong thời quá độ lên chủ nghĩa xã hội việc xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng phải được tiến hành từng bước với những hình thái quy mô thích
hợp, thời quá độ là một giai đoạn lịch sử chuyển tiếp, cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng ở đây chưa phải là kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa với đầy đủ
những đặc trưng của nó, cơ sở hạ tầng mang tính chất quá độ với một kết cấu kinh
tế nhiều thành phần đan xen nhau với nhiều loại kinh tế xã hội kinh tế khác nhau,
trong đó kinh tế giữ vai trò chủ đạo định hướng kinh tế lên chủ nghĩa xã hội là kinh
tế của nhà nước và tập thể. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa
không còn mâu thuẫn, đối kháng vì trong kết cấu kinh tế là sở hữu toàn dân và sở
hữu tập thể, quan hệ giữa người và người trong sản xuất là mối quan hệ tương trợ,
nguyên tắc phân phối sản phẩm là phân phối theo lao động. Những đặc điểm quy
định đặc trưng kiến trúc thượng tầng, đó là cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
xã hội chủ nghĩa là cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng tiên tiến, song trong thực
tế chúng ta chưa tạo lập được một cơ sở kinh tế với những đặc trưng riêng của nó và
một kiến trúc thượng tầng tương ứng. Bởi vậy cuộc cải cách kinh tế là việc đổi mới
thể chế chính trị là một quá trình mang tính cách mạng để từng bước xóa bỏ những
yếu tố có thể làm nảy sinh mâu thuẫn đối kháng trong cơ sở hạ tầng cũng như trên
kiến trúc thượng tầng. Trong qúa trình phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Đảng ta vận dụng quán triệt quan hệ biện chứng
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng kinh tế hiện nay là kết
SVTH: Lê Ngọc Thuyền

Trang 19



Luận Văn Tốt Nghiệp

CBHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

cấu kinh tế đa thành phần, trong đó thành phần kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể
và nhiều thành phần khác. Tính chất đan xen qúa độ về kết cấu của cơ sở kinh tế
làm cho nền kinh tế sống động, phong phú mang tính phức tạp trong quá trình thực
hiện định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một kết cấu kinh tế được phản chiếu lên
kiến trúc thượng tầng và đặt ra đòi hỏi khách quan là kiến trúc thượng tầng cũng
phải được đổi mới để đáp ứng đòi hỏi của cơ sở kinh tế.
Trên cơ sở kiến trúc thượng tầng xã hội, nhất là thượng tầng chính trị, Đảng
ta vận dụng quy luật về mối tương tác giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng
để cũng cố và phát huy sức mạnh kinh tế. Chính vì vậy mà trong các cuộc chiến
tranh cũng như khi hòa bình xây dựng đất nước, Đảng ta, dân tộc ta đã phát huy cao
độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lòng dũng cảm, thông minh sáng tạo, đưa cách
mạng Việt Nam qua những chặng đường hi sinh, gian khổ nhất, kể cả khi đất nước
lâm vào tình trạng khủng hoảng về kinh tế xã hội, trong điều kiện quốc tế diễn biến
phức tạp không có lợi cho cách mạng nước ta.
Tóm lại, học thuyết về hình thái kinh tế xã hội, trong đó nổi bật là mối quan
hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, cho đến nay vẫn chứng
tỏ là phương pháp tiếp cận lịch sử đúng đắn và hoàn thiện nhất, với tinh thần triệt để
khoa học và cách mạng. Nó vạch rõ quy luật vận động tất yếu của nhân loại cùng
với động lực phát triển của lịch sử. Dĩ nhiên, sức sống của học thuyết không phải ở
những câu chữ đã được Mác viết ra, mà là phương pháp luận khoa học. Do vậy, nó
đòi hỏi phải không ngừng được vận dụng, bổ sung, hoàn thiện phát triển theo hoàn
cảnh mới.

SVTH: Lê Ngọc Thuyền


Trang 20


Luận Văn Tốt Nghiệp

CBHD: TS. Đinh Ngọc Quyên

SƠ ĐỒ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC
THƯỢNG TẦNG

KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG

Các tư tưởng, quan điểm: Chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, thẩm
mỹ, tôn giáo.
Các quan hệ: Chính trị, pháp quyền, đạo đức, thẩm mỹ, tôn giáo…
Các cơ quan: Nhà nước, tòa án, viện kiểm sát, viện nghiên cứu Khoa
học, văn hóa, giáo dục, tôn giáo …

CÁC QUAN HỆ SẢN XUẤT = CƠ SỞ HẠ TẦNG

Các quan hệ sản xuất như: QHSX chính thống, QHSX tàn dư, QHSX mầm
mống

SVTH: Lê Ngọc Thuyền

Trang 21


×