Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

TIỂU LUẬN XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.76 KB, 29 trang )

HỌC VIỆN THANH THIẾU NIÊN VIỆT NAM
KHOA CHÍNH TRỊ HỌC

BÀI KIỂM TRA CUỐI KỲ
ĐỀ TÀI: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên

của Đảng

Họ và tên học viên

:

Lớp

:

Ngành

:

Học phần

:

Giảng viên

: TS. Lê Công Nghĩa

Hà Nội – 2022



MỤC LỤC


3

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của lịng u nước vĩ đại của dân tộc ta.
Người là một nhà hoạt động cách mạng với với bao tư tưởng lỗi lạc, tiến bộ
cùng với những giá trị nhân văn cao đẹp. Đặc biệt, hệ thống quan điểm sâu sắc
của Người về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam là một tài sản tinh
thần quý báu của Đảng cộng sản và dân tộc Việt Nam. Nội dung trong tư tưởng
của Người là sự kết tinh của văn hóa dân tộc, ly tưởng cộng sản Việt Nam, tư
tưởng văn hóa phương Đông, phương Tây và phẩm chất cá nhân của Người.
Trong vấn đề xây dựng Đảng, chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng việc xây
dựng đội ngũ cán bộ đảng viên. Người đánh gía cao vai trị của đội ngũ cán bộ,
đảng viên trong sự nghiệp cách mạng và chỉ rõ rằng: “Cán bộ là gốc của mọi
công việc”. Người đã nêu lên quan điểm, tư tưởng của mình về việc xây dựng
đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ đức đủ tài trong khi bàn luận về vấn đề: “Xây dựng
nhà nước trong sạch, hoạt động hiệu quả”: “Cán bộ công chức là nhân tố quyết
định sự thành bại của của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất
nước và của chế độ, là khâu then chốt trong công cuộc xây dựng Đảng. Bởi vậy
nên cán bộ đảng viên cần phải có đủ năng lực, phẩm chất của một con người xã
hội chủ nghĩa để lãnh đạo đất nước, làm sao để họ thực sự là “công bộc của
Nhân dân”. Đặc biệt, trong thời kỳ hội nhập tồn cầu với nhiều sự thay đổi
chóng mặt, địi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên ở các cấp, các ngành phải đủ đức,
đủ tài, “vừa hồng vừa chuyên”, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng đất nước
phát triển, hùng mạnh.
Nhận thức được tính cấp thiết của vấn đề này, tơi đã chọn đề tài: “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng” làm

tiểu luận kết thúc học phần môn học.
2. Đề tài giải quyết được những nội dung.


4
Đề tài đưa ra những nội dung lý luận về tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc
xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên của đảng. Từ đó, vận dụng lý luận vào thực
tiễn việc xây dựng đội ngũ cán bộ công chức của Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay.
3. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài.
Ý nghĩa lý luận của đề tài: tiểu luận góp phần làm sáng tỏ lý luận tư tưởng
Hồ Chí Minh trong xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài: tiểu luận có thể làm tài liệu phục vụ cho
nghiên cứu và giảng dạy chuyên đề: tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng độ
ngũ cán bộ, đảng viên...trong chuyên ngành Tư tưởng Hồ Chí Minh, Xây dựng
Đảng hay các chuyên ngành liên quan khác.


5

NỘI DUNG
I. Chương 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về việc xây dựng đội ngũ cán bộ
đảng viên của đảng.
1.1. Về vị trí, vai trị của cán bộ đảng viên
Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa về cán bộ như sau: “Cán bộ là khái niệm
chỉ những người có chức vụ, vai trò và cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có
tác động ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo,
chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng sự phát triển của tổ chức”.
Về vị trí, vai trị của cán bộ, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cán bộ là những
người đem lại chính sách của đảng, của chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu

rõ và thi hành. Đồng thời, đem tình hình của dân chúng báo cáo cho đảng, cho
chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”.
Vậy, cán bộ đảng viên có vị trí then chốt trong then chốt của quá trình xây
dựng đảng. họ là những người lắng nghe ý kiến, quan điểm của nhân dân, sau đó
gửi gắm tâm tư nguyện vọng tới cho đảng và chính phủ. Cán bộ, đảng viên là
khâu trung gian, là dây chuyền, cầu nối của giữa 3 bộ phận: Đảng, Nhà nước và
toàn thể nhân dân.
Cán bộ, đảng viên dù ở cương vị nào, cấp bậc nào cũng vừa là người lãnh
đạo, vừa là người phục vụ hết mình vì quần chúng nhân dân. Đồng thời, đội ngũ
cán bộ, đảng viên là những cá nhân kiên định bảo vệ đảng, bảo vệ đường lối,
chủ trương của Đảng.
1.2. Yêu cầu đối với cán bộ, đảng viên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới việc xây dựng đội ngũ cán bộ,
đảng viên vừa có đức vừa có tài, trong sạch, vững mạnh. Cán bộ đảng viên phải


6
có chuẩn mực đạo đức cách mạng tiêu biểu và phù hợp. Trong tư tưởng, quan
điểm xây dựng của mình, Người đề ra những yêu cầu căn cốt như sau:
Thứ nhất, phải tuyệt đối trung thành với Đảng.
Cán bộ, đảng viên phải tuyệt đối trung thành với Đảng, một lòng vì lợi ích
của Đảng. Đây cũng chính là bản lĩnh chính trị của mỗi người cán bộ, đảng viên.
Sứ mệnh của cán bộ đảng viên là phải luôn đặt lợi ích của Đảng cộng sản lên
hàng đầu, luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng đối với các đường lối chính sách
của Đảng và Nhà nước. Hồ Chí Minh căn dặn mỗi người đảng viên phải giữ chủ
nghĩa cho vững: “Những người cộng sản chúng ta không một phút nào được
quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho
chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới”.
Việc trung thành với Đảng được biểu hiện qua nhiều phương diện khác
nhau: vô luận lúc nào, vô luận việc gì, dù to dù nhỏ, cán bộ đảng viên đều phải

đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc ra trước lợi ích cá nhân. “Nếu khi lợi ích chung
của đảng mâu thuẫn với lợi ích riêng của cá nhân, thì phải kiên quyết hi sinh lợi
ích cá nhân cho lợi ích của Đảng” [2]. Khi cần đến tính mệnh của mình cũng
phải vui lịng hy sinh cho Đảng. “Suốt đời phục vụ đảng, phục vụ nhân đân” [3]
là phẩm chất cao quý của người cách mạng, đó là “tính Đảng”.
Thứ hai, phải là những người nghiêm chỉnh thực hiện cương lĩnh, đường
lối, quan điểm, chủ trương, nghị quyết của Đảng và nguyên tắc xây dựng Đảng.
Mỗi nguyên tắc, cương lĩnh của Đảng đặt ra đều có lý do và yêu cầu riêng.
Người cán bộ và đảng viên cần phải nghiêm túc thực hiện các chủ trương, quan
điểm đó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở các cán bộ của Đảng, dù ở bất cứ
cương vi, cấp bậc nào, làm cơng tác gì, gặp hồn cảnh nào đều phải có tinh thần
trách nhiệm với nhiệm vụ của mình. Khi Đảng và chính phủ giao cho việc gì, dù
to hay nhỏ, khó hay dễ thì cũng dồn hết sức để hoàn thành tốt nhiệm vụ được


7
giao, vượt mọi khó khăn, làm cho thành cơng; ln nắm giữ vững chính sách, đi
đúng đường lối quần chúng và làm tròn nhiệm vụ. Mỗi người cán bộ đảng viên
cần phải gương mẫu trong lao động, đem hết nhiệt huyết, trí tuệ, nội lực của
mình để cùng tập thể đạt được hiệu quả cơng việc cao nhất, góp phần làm cho
công cuộc kháng chiến cũng như xây dựng đất nước phát triển ngày một thành
công.
Thứ ba, phải luôn tu dưỡng, trau dồi, rèn luyện đạo đức cách mạng.
Đạo đức cách mạng là nền tảng của người cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh
từng căn dặn: “Cũng như sơng có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng
cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân.
Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho lồi người là một cơng việc to
tát, mà tự mình khơng có đạo đức...thì cịn làm nổi việc gì”.[4]

Đạo đức cách mạng được biểu hiện 4 phẩm chất cơ bản: trung với nước,
hiếu với dân; yêu thương con người; cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư; tinh
thần quốc tế trong sáng. Những phẩm chất này có mối liên hệ, tác động qua lại
biện chứng lẫn nhau. Nếu thiếu bất kì phẩm chất nào thì người cán bộ, đảng viên
khơng thể làm tròn nhiệm vụ do Đảng và nhân dân giao phó.
Đạo đức cách mạng chính là ngọn đèn soi đường cho mỗi người cán bộ, để
họ ln nhìn thấy được hướng đi tốt nhất phục vụ cho dân tộc. Có đạo đức cách
mạng thì mới gánh vác được nhiệm vụ cách mạng nặng nề. Có đạo đức cách
mạng thì mới giúp người cán bộ, đảng viên giữ vững được lập trường trước
những cám dỗ, biến cố thử thách trên đường cách mạng. Có đạo đức cách mạng
thì sẽ có quyết tâm và nghị lực học tập, rèn luyện, tu dưỡng và sẽ có kiến thức,
trí tuệ để giải quyết, hoàn thành nhiệm vụ.
Việc rèn luyện đạo đức cách mạng này là yêu cầu nội tại, đòi hỏi mỗi người
cán bộ, đảng viên phải luyện tập thường xuyên, liên tục và khơng có gì là khó


8
cả. “Điều đó là hồn tồn do lịng mình mà ra. Lịng mình chỉ biết vì Đảng, vì tổ
quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí cơng vơ tư. Mình đã chí cơng vơ
tư thì khuyết điểm sẽ ngày càng ít đi, mà những đức tính tốt như sau ngày càng
thêm.” [5] Đội ngũ cán bộ đảng viên khi được rèn luyện, trau dồi đạo đức cách
mạng qua tháng năm sẽ là những viên ngọc sáng của Đảng.
Thứ tư, phải ln ln học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt.
Đội ngũ cán bộ đảng viên phải luôn luôn cầu tiến, ham học hỏi. Phải noi
gương tự học của chủ tịch Hồ Chí Minh - con người vĩ đại đã luôn chăm chỉ
không ngừng, nâng cao năng lực của bản thân để lãnh đạo đất nước trong cuộc
kháng chiến trường kì. Chính Người cũng đã chỉ rõ mục đích của việc học tập để
khuyến khích, tạo động lực cho cán bộ, đảng viên: “Học để làm việc, làm người,
làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, tổ quốc và nhân
loại”.

Đảng và nhà nước ta ln có những cuộc vận động mang tính cách mạng
trong nhiều lĩnh vực, bình diện khác nhau. Đây là q trình khó khăn, nhiều gian
trn, chưa có một mơ hình định sẵn. Mặt khác, trong nền kinh tế hội nhập tồn
cầu có nhiều sự thay đổi mạnh mẽ như hiện nay đòi hỏi Đảng cộng sản lãnh đạo
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải có sự nhanh nhạy, tiềm lực tư
tưởng, khoa học mạnh mẽ ở trình độ cao của trí tuệ xã hội và thời đại. Đặc biệt,
đội ngũ cán bộ phải là những người có năng lực trí tuệ và sáng tạo, luôn học hỏi,
cập nhật kiến thức, thay đổi phương pháp làm vịệc, nâng cao chất lượng cơng
tác.
Thứ năm, phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân.
Cán bộ, đảng viên cũng từ nhân dân mà ra. Nhân dân chính là gốc của
nước, là nền tảng của cách mạng. Nhân dân chính là nguồn lực, chủ thể tích cực
của lịch sử, là giá trị quý báu, cao quý nhất. Để phát huy, khuyến khich nguồn
lực quan trọng này đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải hịa mình vào quần chúng


9
thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần
chúng. Cán bộ phải hiểu dân, học từ nhân dân. Cịn nếu “cách xa dân chúng,
khơng liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất
định thất bại”. chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “quân với dân như cá với nươc,
đồn kết một lịng, học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau”.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải làm đầy tớ trung thành cho nhân dân, tôn
trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; tiên phong, gương mẫu, chịu
khổ trước nhân dân và vui sau nhân dân, “đảng viên đi trước, làng nước theo
sau”.
Thứ sáu, phải là những người luôn ln phịng và chống các tiêu cực.
Đất nước phát triển sẽ ln kèm theo đó là những tiêu cực khơng thể tránh
khỏi. Biểu hiện của các tiêu cực này có thể kể tới như: tham ơ, lãng phí... địi hỏi
người cán bộ, đảng viên phải trực tiếp đối mặt vào vấn đề để soi chiếu với bản

thân và tìm phương huớng khắc phục.
Hồ Chí Minh nghiêm khắc chỉ rõ: “Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã
nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nê, ai khơng phạm những lầm
lỗi...thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những lầm
lỗi... thì phải hết sức sửa chữa... chúng ta phải ghi sâu những chữ “cơng bình,
chính trực” vào lịng”.
1.3. Về cơng tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng
Đội ngũ được hiểu là tập hợp của số đông người, có quy củ và kỷ luật.
Những người này sẽ có cùng chức năng hoặc nghề nghiệp nhất định (ví dụ: đội
ngũ trí thức, đội ngũ các nhà khoa học...)
Theo đó, đội ngũ cán bộ được hiểu là tập hợp số đơng những cán bộ có kỷ
luật, tinh thần trách nhiệm cao, có mối liên hệ mật thiết với nhau nhằm thực hiện
các nhiệm vụ mà cấp trên giao phó.


10
Xây dựng đội ngũ cán bộ là hoạt động cụ thể nhằm định hướng cho chiến
lược lâu dài và đáp ứng yêu cầu cách mạng, thông qua một loạt các khâu công
tác cán bộ từ việc tuyển dụng, đánh giá, sử dụng (đào tạo, bổ nhiệm, cất nhắc,
luân chuyển...) cán bộ, v.v... Nói cách khác, xây dựng đội ngũ cán bộ là quá trình
hoạch định chủ trương, phương hướng cụ thể thông qua công tác cán bộ để tạo
ra một tập thể cán bộ vững chắc, phục vụ cho nhiệm vụ của đảng cộng sản đặt
ra.
Xây dựng đội ngũ cán bộ trở thành kim chỉ nam cho Đảng ta trong công tác
xây dựng Đảng ở mỗi thời kỳ. Về công tác cán bộ, chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra
các vấn đề cốt lõi và mang tính nguyên tắc như sau:
a. Phải đánh giá đúng cán bộ.
Mỗi người cán bộ đều có những điểm yếu, điểm mạnh riêng. Bởi thế, nếu
khơng đánh giá đúng cán bộ và tình hình cơng tác của cán bộ thì sẽ khó khăn
trong q trình xử lý công việc, sử dụng cán bộ đúng đắn. Chủ tịch Hồ Chí Minh

cho rằng: “Cứ mỗi lần xem xét, rà soát lại đội ngũ cán bộ, một mặt sẽ tìm thấy
những nhân tài mới, mặt khác thì những người yếu kém sẽ bị lòi ra”.
Việc đánh giá, nhận xét mang lại nhiều ý nghĩa. Nó khơng chỉ phát hiện
những cái hay của người cán bộ để phát huy mà còn giúp họ nhận ra được
những cái dở để khắc phục và sửa đổi.
Để đánh giá đúng cán bộ, Hồ Chí Minh u cầu phải có quan điểm biện
chứng. Người cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng đều biến đổi không ngừng. Cán
bộ, đảng viên cũng vậy. Người chỉ rõ: “Xem xét cán bộ, khơng chỉ xem ngồi
mặt mà cịn phải xem tính chất của họ, khơng chỉ xem một việc, một lúc mà phải
xem toàn cả lịch sử, tồn cả cơng việc của họ. Có người lúc phong trào cách
mạng cao, họ vào Đảng, họ làm việc rất hăng. Nhưng lúc phong trào hơi khó
khăn thì đâm ra hoang mang. Lúc gặp sự nguy hiểm háo phản cách mạng... nếu
ta khơng xem xét rõ ràng thì lầm là cán bộ tốt”.


11
Có ba yêu cầu người đặt ra để đánh giá đúng cán bộ. Đó là:
(1) Phải thường xuyên đánh giá cán bộ để bố trí họ vào những vị trí công
việc phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng; giúp cho tổ chức biết và hiểu rõ
về cán bộ, nắm chắc đội ngũ cán bộ để có chính sách và biện pháp thích hợp,
đồng thời tạo tâm lý yên tâm cho đội ngũ cán bộ trong hoạt động thực tiễn.
(2) Đánh giá người cán bộ, đảng viên phải theo quan điểm toàn diện. Tức
là, phải chú ý tới năng lực, phẩm chất, hiệu quả công việc. Chẳng hạn, không chỉ
xem xét về cơng tác mà cịn xem xét tới việc sinh hoạt, chẳng những xem xét về
cách viết, cách nói của họ mà cịn xem xét tới việc làm của họ có đúng với lời
nói khơng.
Đặc biệt, phải chú trọng tới vấn đề đạo đức cách mạng. Người chỉ rõ, ai mà
hay khoe cơng việc, hay a dua, tìm việc nhỏ mà làm, trước mặt thì theo mệnh
lệnh, sau lưng thì trái mệnh lệnh, hay cơng kích người khác, hay tự tâng bốc
mình, những người như thế, tuy họ làm được việc, cũng không phải cán bộ tốt”.

ngược lại: “Ai cứ cắm đầu làm việc, không ham khoe khoang, ăn nói ngay
thẳng, khơng che giấu khuyết điểm của mình, khơng ham việc dễ, tránh việc
khó, bao giờ cũng kiên quyết làm theo mệnh lệnh của đảng, vơ luận hồn cảnh
thế nào lịng họ cũng khơng thay đổi, những người như thế, dù công tác kém
một chút cũng là cán bộ tốt”.
(3) Đánh giá cán bộ phải công tâm, minh bạch. Với người đánh giá cơng
tác cán bộ, Hồ Chí Minh cũng đặt ra các yêu cầu riêng biệt. Người địi hỏi muốn
biết đúng về người khác thì trước tiên phải hiểu rõ về bản thân của mình, tự biết
mình là điều quan trọng. rõ ràng, người đánh giá cần phải có tâm và có tầm nhìn,
cơng bằng, trung thực trong từng hành vi, cử chỉ mới có lựa chọn được cán bộ
tốt.
b. Phải huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ một cách toàn diện.


12
Huấn luyện cán bộ là khâu quan trọng trong công tác cán bộ. Đảng phải
huấn luyện, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ một cách toàn diện để xây dựng đội
ngũ cán bộ đủ đức, đủ tài, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cách mạng.
Người khẳng định: “Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người. Chúng ta phải đào
tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà”. [7]
Trong huyến luyện cán bộ của lực lượng vũ trang, Người từng căn dặn:
“Việc huấn luyện cán bộ phải trọng cả về chính trị và quân sự, trong đó chính trị
là trọng tâm. Người cán bộ của đảng phải được trang bị đầy đủ kiến thức lý luận,
đó là vũ khí quan trọng nhất trên các mặt trận. Khi tư tưởng vững chắc sẽ khơng
có khó khăn nào ngăn trở”.
c. Phải sử dụng và bố trí đúng cán bộ.
Mỗi người cán bộ đều có năng lực, tài năng riêng biệt. Bởi vậy, cần phải
đặt họ vào đúng nơi đúng chỗ, đúng thời điểm thì người cán bộ mới có thể phát
huy hết tiềm lực vốn có. Cùng với việc sử dụng đúng tài năng của cán bộ, chủ
tịch Hồ Chí Minh yêu cầu người lãnh đạo, quản lý các cấp phải biết trọng dụng

nhân tài, nếu không sẽ làm thui chột nhân tài.
Để sử dụng và bố trí đúng cán bộ, phát huy hết năng lực, điểm mạnh của
cán bộ cần thực hiện tốt các việc đó là:
(1) Phải làm tốt khâu phát hiện và lựa chọn cán bộ.
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc lựa chọn cán bộ thông
qua thực tiễn cách mạng. Người nói: khi phong trào giải phóng sơi nổi, nảy nở
rất nhiều nhân tài ngoài đảng, chúng ta không được bỏ rơi họ, xa cách họ. Chúng
ta phải thật thà đoàn kết với họ, nâng đỡ họ. Phải thân thiết với họ, gần gũi họ,
đem tài năng của họ giúp ích vào cơng việc kháng chiến cứu nước”, phải trọng
nhân tại”.


13
Trong việc tuyển chọn cán bộ, không được thiên tư, thiên vị, khơng phân
biệt người trong hay ngồi đảng, vấn đề là người đó phải có tài năng thật sự.
Cần phải tìm được người có năng lực và phù hợp với tiêu chí, tơn chỉ của tổ
chức, đảng cộng sản đã đề ra. Theo Hồ Chí Minh, cần tìm tới những người có
các phẩm chất tiêu biểu như: những người tỏ ra trung thành và hăng hái trong
côgn việc, lúc đấu tranh. Những người liên lạc, có mối quan hệ sâu sắc chặt chẽ
với nhân dân, hiểu biết dân chúng, ln đặt lợi ích của nhân dân lên làm hàng
đầu. Như vậy thì nhân dân mới tin tưởng cán bộ, đẩng viên và nhận người cán
bộ đó là lãnh đạo của họ. Hay những người có thể phụ trách và giải quyết được
các vấn đề hóc búa trong hồn cảnh khó khăn.
(2) Phải khéo dùng cán bộ
Trong việc sử dụng cán bộ, chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc tới việc
dùng người đúng chỗ, đúng việc. Với quan điểm “dụng nhân như dụng mộc”,
bác cho rằng mỗi người đều có những điểm tốt và những điểm chưa tốt. Người
sử dụng cán bộ phải khéo léo, cân nhắcn sắp xếp, phân công ra sao để mỗi người
cán bộ đều làm các công việc phù hợp với năng lực, sở trường. Hồ Chí Minh
cũng từng nhắc nhở rằng: “Nếu khéo dùng người, hay nói cách khác là biết nghệ

thuật” dùng người sẽ phát huy được năng lực của cán bộ, làm cho cán bộ vui vẻ,
thồi mải vì được cơng nhận. Hồ Chí Minh từng nói một câu rất hay: “tài to ta
dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì, ta đặt
ngay vào việc ấy”. Người thí dụ: “Người viết giỏi nhưng nói kém lại dùng vào
những việc cần phải nói. Người nói khéo nhưng viết xồng lại dùng vào cơng
việc viết lách. Thành thử hai người đều khơng có thành tích”.
Mặt khác, khéo dùng cán bộ cịn có nghĩa là tin tưởng vào cán bộ, tạo điều
kiện, cơ hôị để họ phát huy dân chủ và tinh thần làm việc của mình. Đơi với cấp
dưới, người lãnh đạo phải lắng nghe, góp ý, phê bình. Hơn nữa, chủ tịch hồ chí
minh cịn lưu ý giải quyết mối quan hệ giữa cán bộ trẻ và cán bộ già, cán bộ cũ
và cán bộ mới, phải biết tôn trọng lẫn nhau, giúp đỡ nhau, học lẫn nhau, đoàn


14
kết chặt chẽ với nhau”. Phải bố trí làm sao để cán bộ cũ và cán bộ mới có thể kết
hợp làm việc với nhau một cách hài hòa.
(3) Quan tâm về cất nhắc, đề bạt cán bộ
Trong quá trình sử dụng cán bộ, chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu người lãnh
đạo phải đặc biệt chú ý tới điều này. Người chỉ rõ: “Cất nhắc cán bộ không nên
làm giã gạo”. Nghĩa là từ trước khi cất nhắc không xem xét kỹ, khi cất nhắc rồi
không giúp đỡ họ, khi họ sai lầm thì đầy họ xuống, chờ lúc họ làm khá lại cất
nhắc lên. Một cán bộ bị “nhấc lên”, “thả xuống” ba lần như thế thì “hỏng cả
đời”. Sinh thời, dù làm việc ở bất cứ cương vị nào, chủ tịch Hồ Chí Minh đều
đối xử với cán bộ một cách đúng mực, hài hòa, tinh tế, nhân văn, người cho
rằng: cấp trên phải biết chỉ đạo cấp dưới, tin tưởng cấp dưới, không làm hộ, làm
thay hoặc cái gì cũng nhúng tay vào. Mục đích của chỉ đạo là để phát triển năng
lực và sự sáng tạo của cán bộ đúng với đường lối của đảng, nhưng phải đúng
người, đúng việc, phải thiết thực và côgn tâm, kiểm tra cán bộ khơng phải là bới
lơng tìm vết, đào chuyện cũ ra làm ăn mới, vì vậy không phải ngày nào cũng
kiểm tra. Kiểm tra là để xem xét q trình cơng tác và học tập co tiến bộ hay hạn

chế, khuyết điểm để giúp đỡ người tiến bộ ít, khen người tiến bộ nhiều, giúp mọi
người rút kinh nghiệm, sửa chữa khuyết điểm và phát huy ưu điểm của bản thân.
d. Phải kiên quyết chống các biểu hiện tiêu cực trong công tác cán bộ.
Trong công tác cán bộ còn tồn đọng nhiều vấn đề. Người từng phê phán
cơng khai trước hội nghị: có những đồng chí cịn giữ thói “một người làm quan
cả họ được nhờ”, đem bà con, bạn hữu đặt vào chức này việc kia, làm dược hay
khong, mặc kệ. Hỏng việc đoàn thể chịu, cốt cho bà con, bạn hữu có địa vị là
được”. người chri ra thói xâu trong cơng tac cán bộ đó là: ham dùng những kẻ
khéo nịnh hót mà ghét người chính tực. Đó là những kẻ cơ hội, nếu khơng tỉnh
táo đề phịng thì những kẻ này sẽ tìm cách chui vào nắm giữ những chức vụ
trong đảng, chính quyền và các đồn thể, gây tác hại rất lớn. Người phê phán
những cán bộ lãnh đạo, ham đùng những người tính tình hợp với mình và khơng


15
dùng những người khơng hợp với mình, bất kể người đó có năng lực ra sao. Đó
cũng chính là trường hợp dẫn đến tính trạng bè phái, phe nhóm, chia rẽ gây mất
đồn kết trong nội bộ Đảng và chính quyền.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ tác hại của bệnh hẹp hòi, bệnh địa
phương cục bộ. Theo người, những bệnh chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản
vị, chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham danh vọng, tham địa vị, dìm người
giỏi, v.v.. đều do bệnh hẹp hịi mà ra. Hồ Chí Minh cho rằng, phải chữa cho tiệt
nọc bệnh hẹp hịi, khắc phục kèn cựa, mất đồn kết giữa cán bộ trên điều về và
can bộ tại chỗ, giữa can bộ trẻ và can bộ già, giữa cán bộ cũ và cán bộ mới...
Trong sử dụng cán bộ phải kết hợp các loại cán bộ trên tinh thần đồn kết
hướng tới mục đích chung là hồn thành nhiệm vụ một cách tốt nhất, khơng cục
bộ hẹp hịi. Trong kết hợp các loại cán bộ phải đảm bảo tính kế thừa và phát
triển. Phải kết hợp giữa cán cán bộ khác nhaud dê tạo ra nguồn cán bộ có kinh
nghiệm giải quyết được nhiều vấn đề từ nhiều lĩnh vực khác nhau.
1.4. Về công tác cán bộ nữ

Trong suốt cuộc đời sự nghiệp của mình, chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm tới sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Trong công tác cán bộ, người cũng
rất chú trọng tới cơng tác cán bộ nữ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: đảng và chính phủ cần có kế hoạch thiết thực
để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi
công việc kể cả cơng việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên.
Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho người phụ nữ.
Người ln khích lệ động viên: “Vậy phụ nữ phải làm sao cho người ta
thấy phụ nữ giỏi, lúc đó cán bộ không cất nhắc, anh chị em công nhân sẽ cử
mình lên”. Người đặc biệt quan tâm tới việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ và
chú ý tới việc mở các lớp bồi dưỡng của địa phương, cơ sở. Bác nghiêm khắc
phê bình các địa phương, cơ sở mở lớp học mà có ít cán bộ nữ. Bác nói: “Cán bộ


16
nữ ít nhưu vậy là một thiếu sót, các đồng chí phụ trách lớp học chưa quan tâm
tới việc bồi dưỡng cán bộ nữ. Đây cũng là một thiếu sót chung của đảng. Nhiều
người còn chưa đánh giá đúng năng lực của người phụ nữ, hay có các thành kiến
hẹp hịi, như vậy là rất sai. Hiện nay có nhiều người phụ nữ tham gia công tác
lãnh đạo ở cơ sở nhiều người rất giỏi”.
Trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, người phụ nữ đã có những đóng góp
to lớn, nhiều chị em đã được phong tặng anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân,
anh hùng lao động, chiến sỹ thi đua toàn quốc, nghệ sỹ nhân dân, nghệ sỹ ưu tú,
nhà giáo nhân dân... Đây lại là minh chứng cho sự đúng đắn của tư tưởng Hồ
Chí Minh đối với công tác cán bộ nữ của người. Người phụ nữ đã và đang giữ
vai trò, vị thế quan trọng trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt trong
việc tham gia chính trị vốn được coi là “địa hạt” nam giới có nhiều ưu thế.
II. Chương 2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng đội
ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay.
2.1. Quan điểm của Đảng trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ ở giai

đoạn hiện nay.
Cán bộ, đảng viên là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Công
tác cán bộ là khâu then chốt của công tác xây dựng đảng và hệ thống chính trị.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và hệ
trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt
chẽ và hiệu quả. Quan điểm của Đảng được thể hiện qua những nội dung chủ
yếu sau:
Một là, cần thực hiện nghiêm chỉnh, nhất quan nguyên tắc đảng thống nhất
lãnh đạo trực tiếp, tồn diện cơng tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ
thống chính trị. Chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với xây dựng thể
chế, tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo và bảo vệ
cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Phân cơng, phân cấp


17
gắn với giao quyền, ràng buộc trách nhiệm, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám
sát, kiểm soát quyền lực và xử lý nghiêm minh sai phạm
Hai là, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, thường xuyên đổi
mới cơng tác cán bộ phù hợp với tình hình thực tiễn. Xây dựng đội ngũ cán bộ
phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới; thông qua hoạt động thực
tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân; đặt trong tổng thể của công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng; gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, kiện
toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả và nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, thu
hút, trọng dụng nhân tài.
Ba là, quán triệt nguyên tắc về quan hệ giữa đường lối chính trị và đường
lối cán bộ; quan điểm giai cấp và chính sách đại đồn kết rộng rãi trong cơng tác
cán bộ. Xử lý hài hồ, hợp lý mối quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu, trong đó
tiêu chuẩn là chính; giữa xây và chống, trong đó xây là nhiệm vụ chiến lược, cơ
bản, lâu dài, chống là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên; giữa đức và tài, trong

đó đức là gốc; giữa tính phổ biến và đặc thù; giữa kế thừa, đổi mới và ổn định,
phát triển; giữa thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân và tập thể.
Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị,
trực tiếp là của các cấp uỷ, tổ chức đảng mà trước hết là người đứng đầu và cơ
quan tham mưu của Đảng, trong đó cơ quan tổ chức, cán bộ là nòng cốt. Phát
huy mạnh mẽ vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã
hội và cơ quan truyền thơng, báo chí trong cơng tác cán bộ và xây dựng đội ngũ
cán bộ. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó máu thịt với nhân dân; phải thực sự
dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ.
2.2. Thực trạng việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong giai
đoạn hiện nay.


18
2.2.1. Điểm tích cực
Trên cơ sở đánh giá của Đảng, có thể thấy những ưu điểm chính của cơng
tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước như sau:
Thứ nhất, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức từng bước được
nâng lên, cơ cấp hợp lý hơn.
Theo hội nghị Trung ương 7, khóa XII đã đánh giá: sau hơn 20 năm thực
hiện Nghị quyết Trung ương 3, khóa VIII về chiến lược cán bộ, đội ngũ cán bộ
các cấp có bước trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, chất lượng ngày càng
được nâng lên, từng bước đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ kinh tế mới của đất
nước. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ đảng viên có trình độ kiến thức vững vàng, tư
tưởng đúng đắn, có đạo đức cách mạng, lối sống giản dị, gương mẫu, có tổ chức
kỷ luật, ln tu dưỡng, rèn luyện, trình độ, năng lực được nâng lên, phấn đấu,
hồn thành nhiệm vụ được giao.
Nhìn nhận về thực tế, đội ngũ cán bộ, công chức làm việc tại các bộ, ngành,
cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân từng bước được nâng lên về trình độ
chuyên môn, chất lượng và hiệu quả công tác. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức, viên chức được các bộ, ngành, địa phương quan tâm thực hiện tốt
theo kế hoạch hằng năm. Việc tổ chức các kì thi nâng ngạch cho đội ngũ công
chức, viên chức được thực hiện thừogn xuyên hơn.
Thứ hai, việc sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị, bộ máy hành
chính của nhà nước ngày càng tinh gọn, hoạt động hiệu quả hơn.
Theo hội nghị Trung ương 6, khóa XII về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy
của hệ thống chính trị đã đánh giá: cơng tác cán bộ đã bám sát các quan điểm,
nguyên tắc của Đảng, ngày càng đi vào nề nếp và đạt được những kết quả quan
trọng. Các quy trình cơng tác cán bộ ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, minh bạch,
khoa học và dân chủ hơn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng và cập nhật kiến thức
mới được quan tâm, từng bước gắn với chức danh, với quy hoạch và sử dụng


19
cán bộ. Chủ trương luân chuyển kết hợp với bố trí một số chức danh lãnh đạo
khơng phải là người địa phương đã đạt được kết quả bước đầu.
Thứ ba, cơng tác quản lý cán bộ, cơng chức có nhiều đổi mới, tiến bộ
Giai đoạn 2011-2016, việc quản lý biên chế công chức, viên chức được
thực hiện thống nhất trên cả nước theo quy định của Luật cán bộ, công chức năm
2008. Luật viên chức năm 2010, Luật tổ chức Chính phủ năm 2015 và Luật Tổ
chức chính quyền địa phương năm 2015, bảo đảm thống nhất, đồng bộ giữa
quản lý biên chế công chức với tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức; kết
hợp giữa quản lý biên chế cơng chưc với tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm
của công chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ
chức, đơn vị.
2.2.2. Điểm hạn chế, yếu kém.
Bên cạnh những điểm tích cực, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
hiện nay còn xuất hiện nhiều vấn đề bất cập.
Với đội ngũ cán bộ, đảng viên. Cụ thể, có 5 nhóm khuyết điểm của cán bộ,
đảng viên được chỉ ra trong nghị quyết số 26-NQ/TW:

Thứ nhất, năng lực hạn chế, yếu kém. Nghị quyết số 26-NQ/TW chỉ ra
rằng còn nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chun nghiệp,
làm việc không đúng chuyên môn, kỹ năng giao tiếp và xử lý vấn đề còn kém...
Thứ hai, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí. Một bộ phận khơng nhỏ các
cán bộ phai nhạt đi lý tưởng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống,
có biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa. Theo dư luận xã hội, trong số này có
khơng ít những người thuộc phương diện “con cha, cháu ông” ở nhiều cấp,
nhiều ngành được đưa vào “hàng ngũ”, rồi cứ thế đẩy lên. Thậm chí có lãnh đạo
cấp dưới cịn phát biểu rằng, các anh bên trên làm được thì “chúng em” bên dưới
cũng làm theo thôi. Đây là thực tế đáng buồn.


20
Thứ ba, thiếu gương mẫu, uy tín thấp. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý,
trong đó có cả cán bộ chiến lược thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm
chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, còn hiện tượng quan liêu, xa dân, cá nhân chủ
nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”... các khuyết
điểm trong nhóm này rất trầm trọng, mất uy tín chính là hậu quả của khuyết
điểm, là kết cục của việc lâm vào một hay nhiều khuyết điểm trong nhóm.
Thứ tư, cố ý làm trái, trục lợi. Theo nghị quyết số 26-NQ/TW chỉ rõ: khơng
ít cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước thiếu tu dưỡng, rèn luyện, thiếu tính
đảng, lợi dụng sơ hở trong cơ chế, chính sách, pháp luật, cố ý làm trái, trục lợi,
làm thất thoát vốn, tài sản của nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng.
Thứ năm, nhóm người chạy đua các ngả: nghị quyết 26-NQ/TW đã liệt kê
khá cụ thể các con đường chạy, đó là: tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy
tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng, chạy
danh hiệu, chạy tội.. trong đó có cả cán bộ cấp cao.
Có thể thấy, đội ngũ cán bộ, đảng viên nước ta cịn tồn đọng nhiều vấn đề
tiêu cực, cần có các biện pháp cụ thể của Đảng để hạn chế và giải quyết triệt để
trong dài hạn.

Với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Cụ thể, các hạn chế
được chỉ ra như sau:
Một là, cải cách hành chính cịn chậm, thiếu đồng bộ; tổ chức bộ máy của
hệ thống chính trị vẫn cịn cồng kềnh, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng được
yêu cầu, nhiệm vụ.
Hai là, cơng tác cán bộ cịn nhiều hạn chế, bất cập, một số nội dung cịn
hình thức.
Trong cơng tác cán bộ, đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, chưa phản ánh
đúng thực chất. Quy hoạch cán bộ thiếu tính tổng thể, liên thông giữa các cấp,


21
các ngành, các địa phương; cịn dàn trải, khép kí, chưa đảm bảo phương châm
“động” và “mở”. công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chậm đổi mới, chưa kết
hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn.
Ba là, việc quản lý cán bộ, công chức ở một số ngành, địa phương thiếu
thống nhất, thiếu tập trung.
Việc xây dựng kế hoạch biên chế hằng năm ở các bộ, ngành, địa phương
chưa được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định. Bên cạnh nhiều bộ, ngành, địa
phương sử dụng đúng hoặc ít hơn số biên chế được giao thì vẫn cịn có bộ,
ngành, địa phương sử dụng nhiều hơn số biên chế được giao. Theo Báo cáo của
Chính phủ, tính đến hết năm 2016, vẫn cịn có 3/15 bộ có tổng cục sử dụng
nhiều hơn số biên chế được giao và 2/15 bộ có sử dụng nhiều hơn số biên chế
được giao tại các vụ, cục trực thuộc. Ở các địa phương, việc sử dụng vượt quá
số biên chế được giao vẫn còn xảy ra ở một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương.
Bốn là, những tác động của quá trình chuyển đổi cơ chế gây ảnh hưởng đến
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ.
Bên cạnh những mặt tích cực, cơ chế kinh tế thị trường cũng tạo ra những
tác động tiêu cực như phân hóa xã hội, bất bình đẳng về thu nhập...gây nên

những tâm tư, băn khoăn về đãi ngộ, cống hiến trong một bộ phận đội ngũ cán
bộ.
Cơ chế vận hành của bộ máy công quyền ở không ít nơi tạo cho người cán
bộ, đảng viên chỉ chịu trách nhiệm với cấp trên, không chịu trách nhiệm trước
người dân. Điều này dẫn đến nguy cơ, nếu xảy ra vi phạm thì khi tiến hành kiểm
tra cũng rất khó, bởi sự dàn xếp, bao che lẫn nhau giữa các cán bộ, những người
có quyền sẽ tạo lập vây cánh, cất nhắc người ủng hộ mình.
2.3. Giải pháp nâng cao việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện
nay.


22
Trước đòi hỏi của thời kỳ mới, đòi hỏi đảng cần phải tập trung xây dựng
đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Một
số giải pháp đặt ra để nâng cao việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên:
Thứ nhất, tăng cường vai trị lãnh đạo của Đảng với cơng tác cán bộ và xây
dựng đội ngũ cán bộ.
Đảng vừa là định hướng, vừa là giải pháp cơ bản nhằm tăng cương vai trị
lãnh đạo trực tiếp, tồn diện về công tác quản lý đội ngũ cán bộ của Đảng, siết
chặt kỷ luật, kỷ cương gắn với tạo môi trường, cơ chế thúc đẩy đổi mới mạnh
mẽ, toàn diện, sáng tạo và bảo vệ cán bộ: “Đặc biệt là cần phải đổi mới, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả việc phân cấp, phân quyền, phân công, phối hợp, gắn với
tăng cường kiểm tra, giám sát giữa các cơ quan, đơn vị thuộc Chính phủ, chính
quyền các địa phương và giữa các cơ quan, đơn vị”.[8]
Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của
thời kỳ mới; thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của Nhân
dân; đặt trong tổng thể của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; gắn với đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng; kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính
trị tinh gọn, mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, thu hút, trọng dụng nhân tài cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc.
Cần xác định rằng việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên là trách nhiệm
của cả hệ thống chính trị, trước hết là của các cấp ủy, tổ chức Đảng mà nòng cốt
là các cơ quan tham mưu của Đảng, nhất là các cơ quan tổ chức, cán bộ. Phát
huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên; các cơ quan báo chí,
truyền thơng trong cơng tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ. Sức mạnh của
Đảng là ở sự gắn bó máu thịt, mật thiết với Nhân dân; phải thực sự dựa vào
Nhân dân để xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ.


23
Thứ hai, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, sử dụng đội ngũ cán bộ
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.
Cần xây dựng, quy hoạch đội ngũ cán bộ; kết hợp nhiều hình thức và
phương pháp đào tạo, bồi dưỡng thông qua thực tiễn công tác, học tập, rèn
luyện... của đội ngũ cán bộ, đảng viên; kết hợp đào tạo, bồi dưỡng với đổi mới
chế độ, chính sách đối với cán bộ. Cơng tác quy hoạch, bố trí và sử dụng đúng
cán bộ là khâu hết sức quan trọng trong công tác cán bộ. Phải lấy hiệu quả công
việc làm thước đo cán bộ, tuy nhiên, đánh giá cán bộ phải trên quan điểm toàn
diện, lịch sử, cụ thể và phát triển. Đồng thời, kết hợp chặt chẽ giữa việc quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng với bố trí, sử dụng những cán bộ đủ tiêu chuẩn với
việc kiên quyết đưa ra khỏi cương vị lãnh đạo, quản lý những cán bộ thiếu về
phẩm chất và năng lực ở những nơi trì trệ, yếu kém, mất đoàn kết kéo dài. Siết
chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, thường xun kiểm tra, đơn đốc, tạo chuyển
biến mạnh mẽ trong thực thi công vụ; nâng cao đạo đức, văn hóa cơng vụ, tính
chun nghiệp của cán bộ, cơng chức, viên chức. Đồng thời, tăng cường công
tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng và kiểm soát chặt chẽ quyền lực của cán bộ,
chống mọi biểu hiện chạy chức, chạy quyền và xử lý nghiêm những cán bộ suy
thoái về phẩm chất, đạo đức lối sống, vi phạm kỷ luật Đảng, kỷ luật Nhà nước.
Đánh giá cán bộ là một nội dung quan trọng để lựa chọn, đào tạo, bồi

dưỡng, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ. Do đó, cơng tác đánh giá, xếp loại cán bộ
sau đào tạo phải được thực hiện đúng theo quy định, bảo đảm khách quan, dân
chủ, phát huy trách nhiệm của tập thể và cá nhân; nhất là trách nhiệm của người
đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị; tạo điều kiện cho các cơ quan, đơn vị trực tiếp
quản lý, sử dụng cán bộ, nhận xét, đánh giá sát thực tế, cụ thể, công tâm, khách
quan. Đây là cơ sở để việc quy hoạch, luân chuyển, điều động và sử dụng cán bộ
sau đào tạo, bồi dưỡng đạt hiệu quả cao.
Thứ ba, mỗi người cán bộ, đảng viên cần phải không ngừng trau dồi, rèn
luyện bản lĩnh, phẩm chất, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới.


24
Bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng là yêu cầu cơ bản của
người cán bộ, đảng viên. Theo đó, nhiệt tình cách mạng phải đi liền với tinh thần
trách nhiệm và ý thức tổ chức kỷ luật cao. Cán bộ cấp chiến lược, người đứng
đầu phải công minh, khách quan, trung thực, “thấu lý đạt tình”, kiên quyết bảo
vệ cái đúng, đấu tranh mãnh liệt với những quan điểm sai trái, lệch lạc; tác
phong làm việc khoa học, sâu sát, cụ thể, không chủ quan, kiêu ngạo, qua loa.
Thứ tư, phát huy vai trò của Nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội trong
xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức. Để hình thành đội ngũ cán bộ, cơng chức
có phẩm chất chính trị; có đạo đức công vụ, gần dân, không quan liêu; thành
thạo chuyên môn, nghiệp vụ cần tăng cường kiểm tra, giám sát. Đồng thời, đẩy
mạnh hoàn thiện cơ chế phân cấp, phân quyền, bảo đảm quản lý thống nhất, hiệu
lực, hiệu quả hoạt động; phát huy tính chủ động sáng tạo, đề cao tinh thần trách
nhiệm của từng cấp, từng ngành gắn với tăng cường kiểm soát quyền lực(24).
Mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, tăng cường kiểm tra,
giám sát quyền lực trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức,
viên chức.
Thứ năm, kiên quyết đấu tranh, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán

bộ, đảng viên.
Từng cán bộ, đảng viên cần có thái độ kiên quyết trong đấu tranh với
những biểu hiện vi phạm; đề cao tính tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt
đảng, trong công tác và trong cuộc sống hằng ngày; kết hợp chặt chẽ đấu tranh
khắc phục tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” với đấu tranh phòng, chống âm mưu,
thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng,
góp phần xây dựng trận địa tư tưởng vững chắc trong đơn vị, xây dựng các tổ
chức đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.


25
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Đạo đức cách mạng khơng phải
trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và
củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong".
[9] Đảng viên là cán bộ lãnh đạo chủ chốt càng phải gương mẫu, rèn luyện, giữ
gìn phẩm chất đạo đức lối sống. Mọi nơi, mọi lúc, nhất là trước những cám dỗ
vật chất phải tự đấu tranh với chính mình, thực hiện đạo đức "cần, kiệm, liêm,
chính", khơng sa ngã, tích cực đấu tranh chống lại những biểu hiện của chủ
nghĩa cá nhân.


×