Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Yêu cầu và kỹ năng cơ bản trong giảng dạy môn Giáo dục chính trị tài trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Tây để thích ứng với chuyển đổi số trong giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (504.58 KB, 8 trang )

Thân Thị Giang
Bùi Thị Ngọc Lan
Trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Tây
Tóm tắt: Cuộc cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư, hay còn gọi là cuộc cách
mạng số đã, đang và sẽ tiếp tục tạo nên những biến động mạnh mẽ, gây ảnh hưởng
đến mọi mặt của cuộc sống xã hội trong thế kỷ XXI nói chung, trong đó có giáo dục
nghề nghiệp nói riêng. Giảng dạy mơn giáo dục chính trị tại các cơ sở giáo dục nghề
nghiệp có vị trí quan trọng trong việc hình thành thế giới quan cộng sản, nhân sinh
quan cách mạng và phương pháp luận khoa học đóng vai trị nền tảng cho sinh viên
khi còn ngồi trên ghế giảng đường. Bài viết, phân tích những yêu cầu và kỹ năng cơ
bản trong giảng dạy mơn giáo dục chính trị để thích ứng với q trình chuyển đổi số
trong giáo dục hiện nay.
Từ khóa: Giáo dục chính trị, cách mạng số, E-learning.

1. Mở đầu
Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) vẫn đang diễn ra từng ngày, từng
giờ, tác động mạnh mẽ đến giáo dục - nơi tri thức hóa nguồn nhân lực, cũng như
các nhà tuyển dụng - nơi kiểm nghiệm sản phẩm của q trình tri thức hóa. Bởi
vậy, các cơ sở giáo dục, trong đó có các cơ sở giáo dục nghề nghiệp không thể
thỏa mãn với kết quả kiểm định đạt tiêu chuẩn mà cần chủ động tiếp cận với thực
tiễn luôn biến động của CMCN 4.0 nhằm luôn bổ sung, phát triển để đáp ứng địi
hỏi về trình độ, năng lực, kỹ năng, kỹ xảo cần có của người lao động mà nền kinh
tế số đang đặt ra. Để đáp ứng nhu cầu nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội,
tận dụng tối đa thế mạnh của công nghệ thông tin (CNTT), nền giáo dục thế giới
đã và đang đổi mới tồn diện theo mơ hình nền giáo dục số. Giáo dục 4.0 là mơ
hình giáo dục thơng minh, nền tảng của mơ hình giáo dục này là dựa trên sự liên
kết giữa ba yếu tố nhà trường - nhà quản lý - nhà doanh nghiệp, tạo điều kiện cho
việc đổi mới, sáng tạo và năng suất lao động trong xã hội tri thức. Trước bối cảnh
đó, địi hỏi cơng tác giảng dạy mơn giáo dục chính trị phải đổi mới, chuẩn bị chu
đáo cho những thay đổi lớn khi chuyển đối số trong giáo dục.
545




2. Nội dung
2.1. Nội dung cơ bản cần quan tâm trong q trình giảng dạy mơn giáo dục
chính trị khi thực hiện chuyển đối số trong giáo dục
Trước tác động của CMCN 4.0, việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo
dục, đổi mới hoạt động dạy và học ở các cơ sở giáo dục nghề nghiệp nói chung,
mơn giáo dục chính trị (GDCT) nói riêng là u cầu tất yếu khách quan. Qua
thực tiễn quản lý, nghiên cứu và giảng dạy môn GDCT tại trường Cao đẳng cộng
đồng Hà Tây, theo quan điểm của chúng tôi, để nâng cao hơn nữa chất lượng
giảng dạy mơn học này thích ứng với quá trình chuyển đổi số trong giáo dục nghề
nghiệp, cần tập trung vào những nội dung cơ bản sau:
Một là, cần triển khai, ứng dụng E-Learning trong hoạt động giảng dạy và
học tập sẽ là yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng dạy và học mơn
học này trong q trình thực hiện chuyển đổi số. Hiện nay, việc ứng dụng CNTT
trong dạy và học khá phổ biến đó chính là cách học hiện đại, thơng minh.
Elearning là hình thức sinh viên sử dụng máy tính để tự học các bài giảng mà
giảng viên đã biên soạn, hoặc xem các đoạn phim về các tiết dạy của giảng viên,
hoặc có thể trao đổi trực tuyến với giảng viên và các bạn cùng học thông mạng
Internet. Điểm khác cơ bản của hình thức E-Learning so với các hình thức giáo
dục truyền thống là lấy sinh viên làm trung tâm, sinh viên tự làm chủ quá trình
học tập của mình, giảng viên chỉ đóng vai trị trợ lý, hướng dẫn và hỗ trợ việc
học tập cho sinh viên.
Hiểu theo nghĩa rộng, E-Learning là một thuật ngữ dùng để mô tả việc học
tập, đào tạo dựa trên công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT&TT), đặc biệt
là CNTT. Theo quan điểm hiện đại, E-Learning là sự phân phát các nội dung học,
sử dụng các công cụ điện tử hiện đại: Máy tính, laptop, smartphone, mạng vệ
tinh, mạng Internet, Intranet,..trong đó nội dung học có thể thu được từ các
website, đĩa CD, băng video, audio,..thơng qua một máy tính hay ti vi; người dạy
và người học có thể giao tiếp với nhau qua mạng internet dưới các hình thức:

email, forum, chat, facebook, hội thảo video,..Có hai hình thức giao tiếp giữa
người dạy và người học: giao tiếp đồng bộ và giao tiếp không đồng bộ. Giao tiếp
đồng bộ: Nhiều người truy cập mạng tại cùng một thời điểm và trao đổi thông tin
trực tiếp với nhau như: thảo luận trực tuyến, hội thảo video, nghe đài phát sóng
trực tiếp, xem tivi phát sóng trực tiếp,..Giao tiếp khơng đồng bộ: Những người
giao tiếp không nhất thiết phải truy cập mạng tại cùng một thời điểm, ví dụ: các
khố tự học qua Internet, CD-ROM, E-mail, diễn đàn. Đặc trưng của kiểu học
này là giảng viên phải chuẩn bị tài liệu khoá học trước khi khoá học diễn ra, sinh
viên được tự do chọn lựa thời gian tham gia khoá học.
546


Khi thế giới đang trở nên “phẳng hơn” như hiện nay, cách học các mơn
khoa học nói chung, mơn GDCT nói riêng theo hình thức E-Learning sẽ góp phần
đáp ứng được những tiêu chí của nền giáo dục số: Học mọi nơi, học mọi lúc, học
theo sở thích, và học suốt đời. Ở một góc độ nào đó, E-Learning sẽ bổ sung cho
cách học tập truyền thống, góp phần nâng cao chất lượng việc dạy và học môn
GDCT trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay. Thực tiễn nghiên cứu và áp dụng,
chúng tôi nhận thấy rằng, việc dạy và học mơn GDCT bằng E-Learning có một
số hình thức chủ yếu: (1).Đào tạo từ xa: hình thức đào tạo trong đó, giảng viên
và sinh viên khơng ở cùng vị trí, địa điểm; (2).Đào tạo dựa trên máy tính: Ứng
dụng (phần mềm) đào tạo trên các đĩa CD-ROM hoặc cài trên các máy tính độc
lập, khơng nối mạng, khơng có giao tiếp với thế giới bên ngoài; (3).Đào tạo dựa
trên web: Các thơng tin quản lý khố học, thơng tin về giảng viên được lưu trữ
trên máy chủ và người dùng có thể dễ dàng truy nhập thơng qua trình duyệt Web.
Sinh viên có thể giao tiếp với nhau và với giảng viên, sử dụng các chức năng trao
đổi trực tiếp, diễn đàn, e-mail... thậm chí có thể nghe được giọng nói và nhìn thấy
hình ảnh của người giao tiếp với mình; (4). Đào tạo trực tuyến: Sử dụng kết nối
mạng để thực hiện việc học, lấy tài liệu học tập, giao tiếp giữa sinh viên với nhau
và với giảng viên; (5).Đào tạo dựa trên công nghệ: Áp dụng công nghệ, đặc biệt

là dựa trên công nghệ thông tin. Như vậy, việc ứng dụng rộng rãi E-Learning vào
việc dạy - học mơn GDCT, có ưu điểm sau: Thứ nhất, tạo thuận lợi tối đa cho
sinh viên, giúp sinh viên không bị hạn chế về mặt thời gian và địa điểm; Thứ hai,
kinh phí chi trả cho việc học giảm hơn nhiều so với việc sinh viên phải đến lớp
theo hình thức lớp học truyền thống; Thứ ba, sinh viên hoàn toàn chủ động trong
việc học, xây dựng thời gian biểu và tự quản lý thời gian học của cá nhân; Thứ tư,
sinh viên có nhiều thời gian đầu tư cho việc đọc, nghiên cứu tài liệu và làm đề tài
nghiên cứu khoa học vì khơng phải mất tồn thời gian trong ngày để đến giảng
đường nghe giảng. Đây là một trong những lợi thế tốt nhất của giáo dục trực tuyến;
Thứ năm, học trực tuyến giúp sinh viên nâng cao trình độ sử dụng máy tính,
Internet và nhiều phần mềm có liên quan khác. Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm, việc
sử dụng E-Learning vào dạy - học mơn GDCT cũng có một số hạn chế:
Thứ nhất, mơi trường học khơng kích thích được sự chủ động và sáng tạo,
tích cực trao đổi, tranh luận ý kiến,..của sinh viên như các lớp học truyền thống.
Thậm chí làm giảm sự tương tác giữa giảng viên nếu giảng viên thiếu nhiệt huyết,
sinh viên thiếu chủ động, tích cực,
Thứ hai, học tập theo phương pháp E-Learning địi hỏi người học phải có
tinh thần tự học, do ảnh hưởng của cách học thụ động truyền thống, tâm lí học phải
có thầy, nội dung bài học, mơn học còn khá nặng và thiên về lý luận nên việc tham
gia học E-Learning chưa trở thành động lực học tập của sinh viên. Bên cạnh đó,
điều kiện kinh tế của người học không giống nhau, nhất là ở vùng sâu vùng xa,
547


chưa thể trang bị máy vi tính kết nối Internet, nhiều thơng tin trên mạng Internet
chưa được kiểm sốt dẫn đến gia đình lo lắng khi con em mình vào mạng,..
Thứ ba, để triển khai hiệu quả phương thức đào tạo E-Learning hiệu quả,
địi hỏi phải có hạ tầng CNTT đủ mạnh, có đường truyền cáp quang ổn định, xây
dựng Website trường học và Website E-Learning hồn chỉnh chi phí cao, nếu
không tận dụng hết khả năng của Web sẽ gây lãng phí. Đồng thời, phải có đội

ngũ cán bộ chuyên trách phục vụ hoạt động của hệ thống E-Learning. Tuy nhiên,
theo quy định hiện tại chưa có cơ chế cho hoạt động này ở nhà trường.
Hai là, song song với việc triển khai và áp dụng E-Learing vào giảng dạy
môn GDCT cần lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp với nội dung tri thức
môn học. Theo quan điểm của lý luận dạy học hiện, phương pháp dạy học tích
cực là gắn truyền thụ kiến thức của giảng viên với việc phát huy trí lực của sinh
viên, chủ động hoạt động trí não ngay trong q trình dạy - học và nghiên cứu
bài học. Do đó, đổi mới phương pháp dạy - học môn GDCT phải dựa trên cơ sở
xác định trung tâm của hoạt động dạy của giảng viên là sinh viên. Bởi vậy, giảng
viên cần sử dụng nhiều phương pháp khác nhau trong một bài học, nhưng không
nên lạm dụng, ôm đồm nhiều phương pháp. Sử dụng các phương pháp phải phù
hợp với đối tượng người học, dung lượng bài giảng về lý luận và thực tiễn sao
cho mỗi bài giảng phải có sự kết hợp được các phương pháp phù hợp tốt nhất
cùng với kết hợp các phương tiện dạy học khác làm cho bài giảng phong phú và
thiết thực.
Khi giảng dạy môn GDCT, để tạo hứng thú cho sinh viên, giảng viên cần
đổi mới theo hướng gợi mở, nêu vấn đề, giảm thời gian thuyết trình, tăng thời
gian đàm thoại, thảo luận, tranh luận giữa sinh viên với sinh viên, sinh viên với
giảng viên, đối thoại giữa sinh viên với giảng viên, tình huống có vấn đề. Để thực
hiện điều này, đòi hỏi giảng viên phải giỏi về chuyên môn, vững về các kỹ năng
nghề, linh hoạt và nhanh nhẹn trong việc giải quyết và ứng phó với các tình huống
sư phạm nảy sinh ngồi dự kiến, biết hướng dẫn sinh viên đọc tài liệu, tập phân
tích, đánh giá, nêu ý kiến riêng về vấn đề mà tài liệu đề cập,..Như thế, sinh viên
sẽ chủ động chiếm lĩnh tri thức khoa học của bài học, mơn học, kích thích tính
chủ động, độc lập suy nghĩ suy nghĩ, tập phê phán, phản biện có căn cứ khoa
học,..mà không thừa nhận tri thức một cách giản đơn, thụ động. Bản chất của vấn
đề đổi mới phương pháp dạy là hướng vào mục tiêu trau dồi tư duy khoa học cho
sinh viên, giúp sinh viên làm quen với phương pháp học tập theo kiểu nghiên
cứu. Tinh thần cơ bản của phương pháp dạy này là lý luận gắn liền với thực tiễn,
dùng lý luận để soi sáng thực tiễn, dùng thực tiễn để kiểm chứng lý luận, học đi

đôi với hành.
548


Ba là, tiền đề quan trọng nhất góp phần nâng cao chất lượng dạy- học môn
GDCT, là vấn đề con người, gồm chủ thể và khách thể của quá trình giáo dục
(giảng viên và sinh viên). Trước yêu cầu của q trình chuyển đổi số trong giáo
dục, địi hỏi đội ngũ nhà giáo nói chung, giảng viên giảng dạy mơn GDCT nói
riêng phải khơng ngừng tự học tập, cập nhật thông tin để trau rồi tri thức, nâng cao
hiểu biết về mọi phương diện của đời sống và cần thực hiện một số nội dung sau:
Thứ nhất, giảng viên cần xây dựng đề cương chi tiết môn học cung cấp sinh
viên trước khi bắt đầu vào giảng dạy một chuyên đề hay bất cứ một bài nào đó.
Trong đó có ghi rõ những phần học trên giảng đường, phần đọc sách, phần tự
nghiên cứu và những phần yêu cầu sinh viên tự học ở nhà cũng như làm tiểu luận.
Trong những chương, phần yêu cầu người học tự học giảng viên nên nêu rõ mục
tiêu của chương, phần đó,..
Thứ hai, giảng viên cần hướng dẫn sinh viên cách lập kế hoạch học tập.
Điều này sẽ giúp sinh viên có kế hoạch phân bổ thời gian cụ thể từng tuần, từng
ngày dựa trên kế hoạch học tập của học kỳ, năm học để làm chủ được thời gian
chủ động thời gian tự học, tự nghiên cứu, không bị động trước rất nhiều tài liệu
cần phải đọc,
Thứ ba, giảng viên nên cần dành thời gian hướng dẫn sinh viên cách nghe
giảng, cách ghi bài trên lớp, cách học bài, nghiên cứu tài liệu, đọc sách và bút ký
các vấn đề liên quan đến tri thức bài học,
Thứ tư, cần hướng dẫn sinh viên cách tự học bài ở nhà, hướng dẫn sinh viên
cách vận dụng, phân tích, tổng hợp và bình luận, hướng dẫn cho sinh viên cách
học nhóm, cách quản lý và tổ chức khi học nhóm,..
Thứ năm, trong nền giáo dục số vai trò tự học của sinh viên là một mấu chốt
quan trọng góp phần nâng cao chất lượng học tập mơn GDCT. Thực tế khung
chương trình và thời lượng giảng dạy môn GDTC trong các cơ sở giáo dục nghề

nghiệp hiện nay cho thấy, thời lượng dạy trên lớp là rất ngắn, trong khi nội dung
tri thức cần truyền đạt thì quá nhiều. Do vậy, sinh viên phải tự học và chuẩn bị
bài trước giờ lên lớp là điều tất yếu. Hoạt động tự học của sinh viên gồm tồn bộ
mơi trường học tập được tổ chức bởi giảng viên với mục tiêu hướng đến quá trình
tự đào tạo của sinh viên.
Tự học là hoạt động học tập diễn ra mà khơng có sự tham gia trực tiếp của
giảng viên. Thời gian tự học là lúc sinh viên có nhiều thời giờ suy nghĩ, đào sâu
vấn đề, đặt ra các tình huống có vấn đề trong q trình nhận thức, đề xuất những
thắc mắc để giảng viên giải đáp, suy nghĩ liên hệ hoặc vận dụng vào thực tế. Tự
học là biện pháp ghi nhớ, khắc sâu tri thức trong bộ óc hữu dụng nhất, giúp tri
thức khó có thể rơi vào “vùng quên” của bộ não. Tự học vừa mang nghĩa củng
cố, trau dồi tri thức và có ý nghĩa mở rộng hiểu biết. Bởi, sinh viên phải độc lập,
549


tự xây dựng kế hoạch, phương pháp học tập cho mình, tự năng động tìm tịi, phân
tích tài liệu, sách vở tiến tới làm chủ tri thức, kỹ năng. Nếu thiếu sự kiên trì, nhẫn
nại và nghiêm túc của bản thân thì sinh viên khơng bao giờ thực hiện được kế
hoạch học tập do chính mình đặt ra. Có thể nói, trong nền giáo dục số, tự học, tự
nghiên cứu có ý nghĩa to lớn đối với bản thân sinh viên cũng như đối với chất
lượng , hiệu quả của quá trình dạy học - đào tạo trong nhà trường.

2.2.Một số kiến nghị với ban giám hiệu trường cao đẳng cộng đồng Hà Tây
nhằm nâng cao chất lượng dạy học mơn giáo dục chính trị trong bối cảnh
hiện nay
Trong xu thế phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0, của CNTT&TT
hiện nay, để nâng cao chất dạy - học các GDCT tại trường Cao đẳng Cộng đồng
Hà Tây, cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
Một là, Xây dựng kế hoạch ngắn hạn, dài hạn trong việc sử dụng đội ngũ
giảng viên bộ mơn hiện có của nhà trường một cách hợp lý gắn với thực tế công

tác tuyển sinh, đào tạo, quản lý,..của nhà trường. Ví dụ, có chính sách hỗ trợ tài
chính phù hợp trong việc huy động, khuyến khích tạo động lực để các giảng viên
giàu kinh nghiệm, vững chun mơn đầu tư trí tuệ, thời gian cho hoạt động
nghiên cứu khoa học, viết tài liệu tham khảo môn học, đề cương bài giảng, viết
bài tham gia các hội thảo khoa học quốc gia, quốc tế do các trường đại học, học
viện, viện nghiên cứu lớn trong và ngoài nước liên quan trực tiếp đến đổi mới
phương pháp dạy - học tổ chức, viết bài đăng trên các Tạp chí khoa học chuyên
ngành, Tạp chí khoa học của các trường đại học lớn có nhiều chuyên ngành đào
tạo trình độ đại học gần với các ngành đào tạo của nhà trường như: Đại học quốc
gia Hà Nội, Đại học Bách khoa, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Đại học Công
nghiệp Hà Nội, Đại học Thái Nguyên, Đại học Lâm nghiệp, ...có chỉ số ISSN
hoặc ISBN.
Hai là, Hồn thiện quy trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn học
của sinh viên, thống nhất các tiêu chí đánh giá sinh viên, thể hiện ở các khía cạnh
sau: điểm chuyên cần, điểm đánh giá ý thức, thái độ, tính chủ động, tích cực trong
học tập, nghiên cứu môn học, trong các tiết thảo luận, bài thi kết thúc học phần,
nhanh chóng tham gia và hồn thiện quy trình đánh giá, kiểm định chất lượng
giáo dục nghề nghiệp theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội.
Ba là, khoa khoa học cơ bản, trực tiếp là tổ bộ môn cần thường xun rà
sốt, cập nhật, chỉnh sửa và hồn thiện hệ thống giáo trình, học hiệu tham khảo
mơn học phục vụ hoạt động học tập, nghiên cứu của sinh viên. Tài liệu cần được
xây dựng theo hướng gắn với hoạt động tự học, tự nghiên cứu của sinh viên,
thống nhất cách viết đề cương bài giảng trong tồn bộ mơn học, sau mỗi bài học
550


cần xây dựng nhiều dạng bài tập như: Trắc nghiệm khách quan, tự luận, dạng bài
kiến thức mở,..chuẩn hóa các chun đề thuyết trình cho từng chương, bài, bài
tập nhóm, bài tập cá nhân trong môn học và công bố công khai trên website của

nhà trường.
Bốn là, tạo điều kiện để sinh viên nhà trường được bày tỏ quan điểm, ý kiến
về việc học tập, nghiên cứu môn học với cán bộ quản lý giáo dục của các khoa:
Giáo vụ khoa, giáo viên chủ nhiệm, chuyên viên phòng đào tạo và nghiên cứu
khoa học, đặc biệt là các giảng viên trực tiếp phụ trách mơn học. Bên cạnh đó,
cần điều chỉnh, rà soát và thường xuyên tiến hành việc khảo sát thực tế về các
vấn đề: kỹ năng, thái độ, năng lực làm việc, trách nhiệm trong công việc của
người lao động sau q trình đào tạo từ phía nhà tuyển dụng bằng nhiều kênh
thông tin khác nhau: qua thư điện tử, trao đổi thông tin qua điện thoại, phiếu điều
tra, khảo sát thực tế,..để có thơng tin sát thực từ đó xây dựng mục tiêu và chuẩn
đầu ra phù hợp với nhu cầu thực tiễn.
Năm là, nhà trường cần đầu tư nhiều hơn nữa về tài chính cho cơng tác xây
dựng cơ sở hạ tầng: trang bị hệ thống máy tính, cơ sở hạ tầng viễn thơng, xây
dựng hệ thống thư viện và tra, phòng tư liệu, máy quay, máy chiếu,..đồng bộ hiện
đại phục vụ hoạt động giảng dạy của giảng viên và hoạt động học tập, nghiên
cứu khoa học của sinh viên với tất cả các môn học nói chung, mơn GDCT nói
riêng. Xây dựng mối quan hệ gắn bó, thơng suốt giữa các đơn vị chức năng của
nhà trương trong việc quản lý hoạt động học tập của sinh viên.
3. Kết luận
Chất lượng và hiệu qủa trong dạy - học môn GDCT tại trường Cao đẳng
Cộng đồng Hà Tây trước xu thế chuyển đổi số trong giáo dục nghề nghiệp hiện
nay phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao hàm cả nhân tố khách quan và nhân tố chủ
quan của quá trình giảng dạy, chịu sự chi phối tác động của nhiều nguyên nhân.
Trên nền tảng số mà cuộc CMCN 4.0 mang lại, tất cả các lĩnh vực của đời sống
nhân loại đều chịu tác động mạnh mẽ, giáo dục và đào tạo không phải là ngoại
lệ. Trái lại dưới tác động của công nghệ sinh học, điện tốn đốn mây, kho dữ
liệu số, cơng nghệ in 3D, cơng nghệ nano, trí tuệ nhân tạo - thành quả tất yếu của
sự phát triển công nghệ trong cách mạng số đang đặt ra những yêu cầu mới, đòi
hỏi ngày càng khắt khe với giáo dục và đào tạo. Do vậy, công tác dạy - học môn
GCDT tại trường cao đẳng Cộng đồng Hà Tây cần có những thay đổi và tầm nhìn

chiến lược để chuẩn bị cho những biến đổi lớn, đáp ứng yêu cầu trong quá trình
chuyển đổi giáo dục số hiện nay.

551


Tài liệu tham khảo
[1].
[2].
[3].
[4].

[5].

Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập
1, tập 2. Nxb Chính trị - Sự thật Quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Đức Khiêm (2018), Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực nghiên
cứu khoa học của giảng viên trường cao đẳng Vĩnh Phúc trước tác động của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư. Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia: “Đào tạo và nghiên
cứu khoa học trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0”, Nxb Nông nghiệp Việt Nam.
Trần Mai Ước (2014), Đảm bảo tính thực tiễn trong chương trình đào tạo ngành giáo
dục chính trị tại các trường đại học, cao đẳng hiện nay, Tạp chí Đại học Sài Gòn, số 23.

552




×