Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Bình đẳng giới trong gia đình người Sán Chỉ qua khảo sát tại xã Bộc Bố, huyện Pắc Nặm, tỉnh Bắc Kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.12 KB, 7 trang )

BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH NGƯỜI SÁN CHỈ QUA KHẢO SÁT TẠI
XÃ BỘC BỐ, HUYỆN PẮC NẶM, TỈNH BẮC KẠN
Tạ Thị Thảo
Đại học Khoa học-Đại học Thái Ngun
Tóm tắt:
Bình đẳng giới, cụ thể là bình đẳng trong cơ hội và trong việc đảm bảo tiếng nói đối với nam và nữ
được xem như một điều kiện tiên quyết để hướng tới tăng trưởng công bằng và bền vững. So với nhóm
dân tộc Kinh, Hoa, nhóm dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa thiệt thòi hơn rất nhiều. Ở cả xã hội mẫu
hệ và phụ hệ, người phụ nữ dân tộc thiểu số là người thiệt thòi hơn nam giới trên hầu hết mọi phương
diện. Bài viết này xem xét về thực trạng bình đẳng giới trong gia đình người Sán Chỉ thể hiện qua sự
phân cơng lao động trong gia đình, sự tiếp cận và kiểm sốt các nguồn lực xã hội, quyền ra quyết định
trong gia đình, cũng như mối quan hệ giữa yếu tố ngơn ngữ - Tiếng Việt đối với vai trò, vị thế của phụ
nữ và nam giới. Số liệu trong bài viết được xử lý bằng phần mềm thống kê SPSS version 16.0, dựa trên
nghiên cứu thực địa với người Sán Chỉ ở thôn Khuổi Bẻ và Nà Lẩy thuộc xã Bộc Bố, huyện Pắc Nặm,
tỉnh Bắc Kạn.
(3) Yếu tố nào tác động mạnh mẽ nhất tới hiện
trạng bất bình đẳng giới trong gia đình người
1. Phương pháp luận
Sán Chỉ?
1.1. Một số thuật ngữ
1.3. Công cụ thu thập số liệu
Giới: là khái niệm chỉ sự khác biệt trong
Nghiên cứu này sử dụng chủ yếu là
phân công lao động, chia sẻ trách nhiệm và
phương
pháp nghiên cứu định tính, cụ thể:
quyền lợi giữa nam giới và phụ nữ trong xã hội.
Quan
sát:
giúp làm sáng tỏ các phát hiện dựa
Quan niệm về giới có thể khác nhau tùy thuộc


trên bảng hỏi, đặc biệt cần thiết trong nghiên
vào nền văn hóa với những phong tục tập quán
cứu tìm hiểu về bất bình đẳng giới.
riêng, và có thể thay đổi theo từng giai đoạn
Phỏng vấn bằng bảng hỏi: công tác thực địa
phát triển của xã hội.
được tiến hành tại 2 thơn Nà Lẩy và Khuổi Bẻ Bình đẳng giới: Là việc nam, nữ có vị trí,
là hai thơn sinh tụ chủ yếu của cộng đồng người
vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và có
Sán Chỉ ở Bắc Kạn. Thông tin được thu thập
cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát
thơng qua hình thức phỏng vấn trực tiếp nam
triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng
giới và phụ nữ dựa trên một bảng hỏi được chuẩn
như nhau về thành quả của sự phát triển đó
bị sẵn.
[Luật Bình đẳng giới, 2006]
Phỏng vấn sâu: được thực hiện với 10
Bất bình đẳng giới: được hiểu là sự không
trường
hợp trên cả 2 thôn, nhằm thu thập sâu
ngang bằng trong so sánh tương quan về vị trí,
hơn
những
thơng tin về quan niệm vai trị và vị
vai trị, tiếng nói của nam giới và phụ nữ. Giá trị
trí của nam giới và phụ nữ trong gia đình
gắn cho vai trị của nam giới và phụ nữ được xã
người Sán Chỉ.
hội thừa nhận chính là cơ sở quyết định khả năng

Chọn mẫu: Chọn 40 hộ trên tổng số 81 hộ
tiếp cận tài sản và nguồn lực của gia đình và xã
của hai thôn Nà Lẩy, Khuổi Bẻ - là 2 thôn tập
hội, cũng như tiếng nói khác nhau của nam và
trung đơng nhất người Sán Chỉ. Và đây là địa
nữ.
bàn cịn lưu giữ hầu như trọn vẹn tập quán sinh
1.2. Câu hỏi nghiên cứu
sống của nhóm dân tộc này.
Nhằm đánh giá hiện trạng và nguyên nhân
2. Địa bàn nghiên cứu
của bất bình đẳng giới trong gia đình người
Bộc Bố là một xã của huyện Pắc Nặm,
Sán Chỉ với điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
tỉnh Bắc Kạn, Xã có tổng diện tích tự nhiên là
khó khăn, nghiên cứu này tập trung vào một số
5.330 km2, dân số khoảng 3.644 người, mật độ
câu hỏi nghiên cứu sau:
67 người/km2. Tuy là huyện lị song Bộc Bố
(1) Có những bất bình đẳng nào trong việc
khơng có tuyến quốc lộ nào chạy qua mà duy
phân cơng lao động trong gia đình người Sán
nhất có tuyến ĐT.258B bắt nguồn từ Thị trấn
Chỉ?
Chợ Rã lên Bộc Bố và kết thúc tại xã Cao Tân,
(2) Sự bất bình đẳng trong tiếp cận, kiểm sốt
hiện nay tuyến ĐT.258B đang được nâng cấp
các nguồn lực gia đình (tài sản, đất đai, lao
nên đi lại hơi khó khăn. Trên địa bàn xã có 6
động,…) giữa nam giới và phụ nữ được thể

dân tộc cùng sinh sống, trong đó, người Sán
hiện như thế nào?
Chỉ khu trú chủ yếu tại hai thôn Khuổi Bẻ và

118


thơn Nà Lẩy. Số hộ gia đình của hai thơn là 81,
Vai trò giới được thể hiện trên ba phương
số dân là 776 người.
diện: vai trò sản xuất (tạo ra của cải vật chất);
vai trị tái sản xuất (ni dưỡng, chăm sóc sức
3. Bình đẳng giới trong gia đình người Sán
khỏe, sinh sản,…); vai trị cộng đồng (hoạt
Chỉ
Phần phân tích về những vấn đề giới dưới
động xã hội). Cả phụ nữ và nam giới đều thực
đây được kết hợp từ những phát hiện trong quá
hiện những vai trò trên, tuy nhiên mức độ thực
trình nghiên cứu thực địa và các tài liệu thứ cấp,
hiện là khác nhau. Cho đến nay, rất nhiều tác
tổng hợp một số vấn đề bất bình đẳng giới trong
giả nhận định rằng ln có sự bất bình đẳng
phân cơng lao động sản xuất trong gia đình;
trong phân cơng lao động gia đình, các cơng
trong tiếp cận và kiểm sốt các nguồn lực gia
việc ni dưỡng vẫn ln thuộc về trách nhiệm
đình (tài sản, đất đai, thừa kế,…); cũng như thể
của phụ nữ, và nó được coi là “việc vặt”,
hiện quyền ra quyết định trong gia đình giữa phụ

khơng được lượng hóa bằng tiền, do đó khi
nữ và nam giới.
xem xét sự đóng góp về phương diện kinh tế
cho gia đình thì phụ nữ thường bị đánh giá
3.1. Phân cơng lao động giới
Bình đẳng giới trong gia đình là một chủ
thấp và có vai trị kém hơn nam giới.
đề luôn thu hút sự quan tâm của các nhà
Lao động trong gia đình người dân tộc thiểu
nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách.
số nói chung và người Sán Chỉ nói riêng vẫn
Trong các nghiên cứu khác nhau về bình đẳng
được phân cơng theo “việc đàn ơng” và “việc
giới, các tác giả đều thống nhất coi việc phân
đàn bà”. Sự phân công lao động này xuất phát
công lao động theo giới trong gia đình là cơng
từ quan niệm nam giới là “phái mạnh” phải
cụ quan trọng để tìm hiểu vấn đề bình đẳng
đảm nhận những “việc nặng”, cần “tính tốn”
giới trong gia đình.
và “kỹ thuật”, cịn phụ nữ thuộc “phái yếu”
Tác giả Lê Thi [4, tr.234-243] cho rằng có
nên phụ trách những “việc nhẹ” và “cơng việc
bốn tiêu chí nhận biết sự bình đẳng giới trong
khơng tên” [3: tr.70]. Những việc được cho là
gia đình là: cơ hội tiếp cận các nguồn lực phát
“việc đàn ông” gồm: phát nương, cày bừa, làm
triển gia đình, địa vị trong lao động xây dựng
nhà, mua bán, sửa chữa,… “việc đàn bà” gồm
gia đình (đề cập đến sự đóng góp sức lao động

có: tỉa trồng, chăm sóc mùa vụ, nấu nướng,
của mỗi giới vào các cơng việc gia đình), sự
chăm sóc con cái, lấy củi, phụ việc, cắt cỏ cho
thụ hưởng lợi ích và quyền quyết định những
gia súc, chăn nuôi.
công việc quan trọng trong gia đình.
Người Sán Chỉ theo chế độ phụ hệ, người
Các tác giả Đỗ Thị Bình và Trần Thị Vân Anh
đàn ơng nắm vai trị chủ đạo trong gia đình,
[1] cũng đưa ra ba cơng cụ phân tích giới:
con cái theo họ bố, quyền thừa kế thuộc về
phân công lao động theo giới (Trả lời câu hỏi:
nam giới, do đó sự phân cơng lao động trong
Ai làm gì?); tiếp cận và kiểm sốt nguồn lực
gia đình là do người đàn ơng sắp xếp.
và lợi ích; mơ hình ra quyết định.
Bảng 1. Phân cơng lao động trong gia đình người Sán Chỉ phân theo giới tính (%)
Hoạt động lao động
Nam giới
Phụ nữ
Chăn ni gia súc nhỏ, gia cầm
36.4
63.6
Chăm sóc cây trồng, mùa vụ
22.2
77.8
Cày bừa, trồng rừng
52.5
47.5
Buôn bán, trao đổi sản phẩm kinh tế

82.6
17.4
Sửa chữa nhà cửa, đồ dùng gia đình
76.2
23.8
Cơng việc nội trợ (nấu ăn, may vá, chăm sóc các thành viên
26.3
73.7
trong gia đình,..)
Bảng phân cơng trên được sắp xếp dựa
được cho là “việc của đàn ông” như sửa chữa
trên mức độ thường xuyên tham gia các công
đồ dùng gia đình, nhà cửa.
việc trong gia đình. Người già (bao gồm cả
Khi được hỏi về cơ sở của sự phân công các
phụ nữ và nam giới) – sức lao động yếu, khơng
cơng việc trong gia đình, người dân cho biết:
có khả năng đi làm ruộng thì sẽ phụ trách các
“Các công việc cứ phân tự nhiên thôi, đàn ông
công việc “vừa sức khỏe” như chăn ni gia
khỏe hơn thì làm việc nặng hơn, cày bừa xong
súc nhỏ, gia cầm, hỗ trợ một số cơng việc nội
thì về, cịn đàn bà yếu hơn thì làm việc nhẹ hơn,
trợ. Cịn tại các gia đình khơng có nam giới thì
ở lại tỉa cây, nhặt cỏ, lấy củi, rồi về cơm nước,
phụ nữ phải thực hiện cả những công việc
chăn lợn. Với lại nhà nào cũng phải có đàn ơng

119



thì mới giàu được, đàn ơng mới làm ra tiền”
(Phỏng vấn sâu, nam giới Sán Chỉ, 45 tuổi,
nông dân)
Phụ nữ vừa lao động sản xuất vừa lo việc nội
trợ trong gia đình, cùng một hoạt động như
nhau nhưng số lượng công việc và thời gian

làm việc của người phụ nữ lại nhiều hơn so với
nam giới, trong khi người đàn ông làm xong
phần việc được coi là của mình thì họ được
nghỉ ngơi hoặc làm các công việc mà họ muốn,
cịn người phụ nữ phải làm các cơng việc cịn
lại và sau đó trở về lo chăm sóc gia đình.

Bảng 2. Thời gian làm việc trong ngày của nam giới và phụ nữ (%)

Thời gian (Đơn vị tính: giờ)
≤ 8 tiếng
8 - 10 tiếng
≥ 10 tiếng
Hơn 70% phụ nữ được hỏi đều cho rằng
mình phải làm số lượng cơng việc nhiều hơn
so với nam giới:
“Nó đi rừng được nửa ngày thì đã về rồi,
cả buổi chiều bảo đi phun thuốc trừ sâu cho
nương chè cũng không đi, cứ tụ tập nói
chuyện, mình thì làm khơng hết việc, vừa thả
trâu vừa làm cỏ lúa, thằng bé không ai trông
nên phải địu đi cùng, tối về tranh thủ băm ít

sắn cho lợn nữa chứ, đến đêm cũng không
xong” (Phỏng vấn sâu, phụ nữ Sán Chỉ, 42
tuổi, nơng dân).
Trong gia đình người Sán Chỉ, lao động
giới khơng những được quy định bởi tính chất
“nặng – nhẹ”, mà cịn khác biệt về khơng
gian. “Việc đàn ơng” khơng chỉ địi

Nam giới
64.7
29.4
5.9

Phụ nữ
21.7
69.6
8.7

hỏi nhiều sức lao động mà còn bao gồm trách
nhiệm liên quan tới giao tiếp xã hội. Số liệu
khảo sát cho thấy 82.6% nam giới đảm nhiệm
công việc buôn bán, trao đổi sản phẩm kinh tế,
tỷ lệ dưới 20% phụ nữ cho biết họ đảm nhận
cơng việc này (chủ yếu rơi vào nhóm gia đình
thiếu vắng đàn ơng trong nhà với lý do đã mất
hoặc đi làm ăn xa). Điều đó cũng có nghĩa, phụ
nữ chủ yếu tham gia vào công việc sản xuất,
tạo ra hàng hóa.
Đàn ơng thường là đối tượng tham gia các
cuộc họp ở thôn, các lớp tập huấn khuyến nông.

Trong gia đình, đàn ơng cũng thường là người
lo toan các thủ tục, giấy tờ liên quan đến tài sản
gia đình, pháp luật.

Bảng 3. Mức độ tham gia các hoạt động cộng đồng của người Sán Chỉ phân theo giới tính (%)
Hoạt động cộng đồng
Nam giới
Phụ nữ
Họp thôn, bản
78.9
21.1
Tham gia các khóa tập huấn/đào tạo
80.8
19.2
Tham gia cơng việc của dịng họ/gia đình
54.5
45.5
Tham gia cơng việc của thơn/cộng đồng
63.3
36.7
Đứng tên vay vốn ngân hàng
81.1
18.9
Lập quyền thừa kế
95.7
4.3
Lao động phụ nữ gắn liền với khuôn viên
nhận quyền sử dụng đất của người Kinh/Hoa
gia đình, ngồi một số ít phụ nữ tham gia hoạt
được phụ nữ hoặc cả phụ nữ và nam giới đứng

động các tổ, nhóm hay hội Phụ nữ thì hầu hết
tên, thì con số này ở người DTTS chỉ là 21%.
phụ nữ Sán Chỉ ở nhà lo cơm nước, chăm sóc
Sự khác biệt còn lớn hơn nữa đối với giấy tờ
gia đình, từ sự hạn chế về khơng gian dẫn tới
về đất thổ cư khi 42% giấy tờ của người
việc họ bị hạn chế cả về năng lực nhận thức
Kinh/Hoa đứng tên bởi phụ nữ hoặc cả 2 vợ
cũng như cơ hội tiếp cận các cơ hội phát triển
chồng, trong khi con số này ở phụ nữ DTTS
cũng như các nguồn thông tin xã hội.
chỉ là 23% (NHTG, 2006). Ở rất nhiều nhóm
DTTS, theo phong tục chỉ có nam giới được
3.2. Tiếp cận và kiểm soát nguồn lực và lợi
thừa kế đất đai và việc PN thiếu hiểu biết về
ích
Mặc dù tham gia với tỷ lệ cao trong nông
quyền hợp pháp của mình càng làm trầm trọng
nghiệp nhưng phụ nữ dân tộc thiểu số (DTTS)
vấn đề [Ngân hàng thế giới].
lại hầu như khơng có chút đảm bảo nào về
Một trong những cách chính để tiền tệ hóa
quyền sử dụng đất đai. Đối với đất nông
tài sản là sử dụng đất để thế chấp vay vốn. Tuy
nghiệp hàng năm, trong khi 36% giấy chứng
nhiên, một nghiên cứu gần đây cho thấy trong

120



số những phụ nữ bị từ chối không được vay
trong việc đứng tên sở hữu loại tài sản này. Họ
vốn, 20% nói rằng lý do là vì họ khơng có vật
vẫn bị coi là phụ thuộc vào gia đình hoặc gia
thế chấp (Quỹ phát triển khu vực tư nhân
đình chồng, khi tiếp cận với đất đai, họ phải
Mekong 2006). Trong khi Luật đất đai không
thông qua người cha, chồng hoặc anh/em trai.
phân biệt đối xử đối với phụ nữ, hầu hết người
Bởi chế độ phụ hệ với những quy định về vai
dân sống ở nơng thơn khơng có kiến thức về
trị của người đàn ơng trong việc thờ cúng cha
những điều luật này và vẫn có khuynh hướng
mẹ tổ tiên, và tài sản trong gia đình thuộc sở
làm theo phong tục truyền thống, đặc biệt đối
hữu của chủ hộ thì người đàn ơng đương nhiên
với các nhóm DTTS.
là người đứng tên sở hữu.
Trong Hiến pháp, Luật dân sự, Luật hôn
“Từ trước tới nay con gái đi lấy chồng
nhân và gia đình, Luật Đất đai sửa đổi 2003 đã
chưa bao giờ được chia đất, chỉ con trai được
quy định phụ nữ có các quyền bình đẳng với
chia khi lập gia đình riêng, hoặc con trai được
nam giới đối với mọi quyền về sử dụng đất đai
bố mẹ để lại đất đai cho, vì con trai phải ở lại
và sở hữu tài sản, có nghĩa đã thừa nhận quyền
để trơng nom bố mẹ nên được có đất, cịn con
của phụ nữ trên giấy tờ. Tuy vậy, theo phong
gái đã có nhà chồng lo, điều này khơng có gì

tục truyền thống, đối với cộng đồng người dân
sai cả” (Phỏng vấn sâu, nam giới Sán Chỉ, 54
tộc thiểu số nói chung và người Sán Chỉ nói
tuổi, thầy mo)
riêng, người phụ nữ cịn gặp nhiều khó khăn
Bảng 4. Hiện trạng tiếp cận và kiểm sốt các nguồn lực trong gia đình người Sán Chỉ phân theo
giới tính (%)
Nguồn lực
Nam giới
Phụ nữ
Đất đai sản xuất
67.9
32.1
Vốn/tín dụng
74.1
25.9
Khóa tập huấn/giáo dục
63.3
36.7
Thu nhập/sổ tiết kiệm
62.5
37.5
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Sổ đỏ đất ở)
91.3
8.7
Giấy tờ xe máy
100.0
0
Không đứng tên bất kỳ tài sản nào
15.0

85.0
Là chủ hộ, nam giới khơng những nắm
với các chương trình, các dự án phát triển kinh
tồn bộ tài sản đất đai của gia đình mà cịn tiếp
tế, văn hố – xã hội… thì phụ nữ chỉ được
tục kiểm soát việc tiếp cận vốn vay và tham
tham gia với mức độ rất ít và cịn khơng được
dự các khóa tập huấn (Hồng Bá Thịnh, 2007).
tiếp cận với những chương trình xã hội tại địa
Số liệu điều tra đã cho thấy mức độ tiếp cận
phương.
của phụ nữ và nam giới với các hoạt động xã
Biểu 1. Mức độ tiếp cận các hoạt động xã hội
hội và các chương trình phát triển cộng đồng
và các chương trình phát triển cộng đồng của
có sự chênh lệch lớn. Trong khi nam giới rất
người Sán Chỉ (Đơn vị tính: %)
thường xuyên và thường xuyên được tiếp cận

Người đàn ông tự cho mình quyền được
tiếp cận, được tham gia vào các lớp bồi dưỡng
về phát triển kinh tế, áp dụng khoa học kỹ
thuật hay các chương trình phổ biến tuyên
truyền về pháp luật, về các chính sách xã hội,

trong khi đó phụ nữ lại là đối tượng cần phải
được tạo cơ hội để tiếp cận và tham gia nhiều
hơn vì họ mới là những đối tượng chính và
tham gia trực tiếp vào lao động sản xuất và
ni dưỡng gia đình.


121


“Nhiều khi có chương trình tập huấn hay
nhưng sự ảnh hưởng của hàng nghìn năm Bắc
dự án cho bà con người ta gọi đi, tôi muốn đi
thuộc cùng với tư tưởng Nho giáo đã khiến cho
lắm nhưng ai trông con cho mà đi chứ, ai lo
tính mẫu giảm sút, thay vào đó là sự trọng
cơm nước, ruộng vườn cho mà đi nên tồn để
nam. Chính những tư tưởng cố hữu đã kéo lùi
chồng tơi đi thơi, có gì thì về nó sẽ quyết định
sự phát triển của phụ nữ.
tơi làm theo” (Phỏng vấn sâu, phụ nữ Sán Chỉ,
Hiện tượng coi trọng kiến thức người đàn
32 tuổi, nông dân).
ông và coi thường kiến thức phụ nữ khá phổ
Như vậy, vị trí của người phụ nữ Sán Chỉ trở
biến, đây được xem là nguyên nhân ảnh hưởng
nên mờ nhạt trong xã hội, thêm vào đó rào cản
tới tiếng nói trong gia đình của phụ nữ Sán
ngơn ngữ khiến cho họ thu mình sau cánh cửa.
Chỉ.
“Đàn ơng họ biết nhiều hơn mình, họ định
3.3. Quyết định các cơng việc trong gia
làm
gì cũng cân nhắc rồi mới hỏi mình. Mình là
đình
Ra quyết định là việc làm quan trọng mà

vợ nó, phải tin nó, nên khi nó hỏi thì cũng phải
hầu hết mỗi cá nhân đều phải thực hiện trong
gật đầu thôi” (Phỏng vấn sâu, phụ nữ Sán Chỉ,
suốt q trình sống. Có những quyết định
28 tuổi, nơng dân)
mang tính quan trọng ảnh hưởng tới đời sống
Hơn 75% dân cư tại đây có quan điểm cho
khơng chỉ của cá nhân mà cịn ảnh hưởng tới
rằng đàn ông hiểu biết hơn phụ nữ, mạnh mẽ và
cả gia đình/xã hội/cộng đồng. Quyền ra quyết
giỏi giang hơn phụ nữ, hơn 90% người đàn ông
định thuộc về người nào sẽ thể hiện vị thế cũng
là chủ gia đình có quyền can thiệp vào tất cả
như sự tự chủ của người đó trong gia
mọi việc trong gia đình, từ quyết định những
đình/cộng đồng/xã hội. Thực tế cho thấy, đa số
việc nhỏ như chi tiêu, sinh hoạt hàng ngày cho
các quyết định quan trọng đều được đưa ra bởi
đến những việc lớn như xây nhà, cưới hỏi, tang
nam giới. Mặc dù Việt Nam là một nước trọng
ma, đầu tư sản xuất hay tài sản trong gia đình
nữ, bởi khởi thủy chúng ta theo chế độ mẫu hệ,
cũng đều do người đàn ông quyết định.
Bảng 6. Quyết định các công việc liên quan đến lao động sản xuất (%)
Hoạt động lao động sản xuất
Nam giới
Phụ nữ
Cả 2
Cơ cấu vật nuôi, cây trồng
75.04

21.7
3.26
Kỹ thuật canh tác
51.85
37.04
9.26
Định hướng sản xuất, kinh doanh
91.3
6.7
2.0
Mua vật tư nơng nghiệp (phân bón, thuốc trừ sâu ...)
59.26
29.63
9.26
Bn bán sản phẩm
82.6
15.4
2.0
Thuê phương tiện, lao động
50.95
32.08
11.32
Ngoài ra đối với các việc như mua sắm tài
nhà cửa, hay việc quyết định số con cũng chủ
sản trong gia đình, chi tiền cho các hoạt động
yếu do người đàn ông.
cộng đồng (cưới hỏi, tang ma, lễ hội), xây sửa
Bảng 7. Hiện trạng ra quyết định đối với các cơng việc gia đình của người Sán Chỉ (%)
Hoạt động lao động sản xuất
Nam giới

Phụ nữ
Cả 2
Mua sắm tài sản đắt tiền
72.0
23.6
4.4
Xây, sửa nhà cửa
79.2
16.8
4.0
Đầu tư cho giáo dục
80.5
13.0
6.5
Hoạt động cộng đồng
80.8
19.2
Số con
84.0
16.0
Sinh con trai
Việc giao tiếp thường xuyên trong xã hội
tạo cho đàn ông những lợi tế mà phụ nữ khơng

122

75.0
25.0
có được, giúp họ củng cố quyền lực đối với
các nguồn lực trong gia đình cũng như vị thế



của họ trước phụ nữ. Khơng có điều kiện tham
phải cân nhắc giữa việc cho con trai hay con
gia vào các hoạt động xã hội (do bận, ngại,
gái đi học, và thường là con gái sẽ phải nghỉ
không được phép), người phụ nữ thường chỉ
học với lý do:
dựa vào ý kiến của người chồng để lựa chọn và
“Con gái học nhiều làm gì, mà có khi chả
tn thủ theo các quyết định của họ.
cần đi học, nhà khó khăn quá thì phải ở nhà
Khả năng tham gia của nam giới và phụ nữ
giúp bố giúp mẹ, rồi lấy chồng, rồi đẻ con, thế
vào việc quyết định các vấn đề trong gia đình
thơi. Ở đây nhà nào chả thế” (Phỏng vấn sâu,
liên quan đến công việc sản xuất hay tái sản
nam giới Sán Chỉ, 40 tuổi, nơng dân).
xuất chính là sự thể hiện vị thế của họ. Nói cách
Dù cho là lý do gì thì hạn chế về khả năng
khác, quyền được nói, được lắng nghe chính là
nói tiếng Việt đã ảnh hưởng tới sự tự tin và
thước đo quan trọng để nhận định bình đẳng
khả năng tham gia của phụ nữ Sán Chỉ vào các
giới trong gia đình.
hoạt động cộng đồng, các buổi họp thôn cũng
như các lớp tập huấn. Tỷ lệ mù chữ rơi nhiều
4. Tiếng Việt – Vị thế của phụ nữ Sán
nhất vào nhóm phụ nữ đã có gia đình, trong độ
Chỉ

Có nhiều lý do để kết luận rằng tiếng nói và
tuổi từ 25 – 60. Tỷ lệ biết đọc viết tiếng Việt
vị thế của người phụ nữ DTTS nói chung và
chủ yếu tập trung ở nhóm tuổi học sinh (từ 12phụ nữ Sán Chỉ nói riêng phụ thuộc vào khả
25 tuổi).
năng biết tiếng Việt của họ. Mù chữ hay khả
“Tơi rất ngại phát biểu vì tiếng Kinh tơi nói
năng giao tiếp bằng tiếng Việt hạn chế là khó
khơng sõi, với lại tơi có biết gì nhiều đâu mà
khăn được nhắc đến nhiều nhất của nhóm này.
nói. Nếu chồng tơi đi họp thì ơng ấy nói, tơi chỉ
Thực tế cho thấy xuất phát từ khó khăn về kinh
đi nghe thôi” (Phỏng vấn sâu, phụ nữ Sán Chỉ,
tế trong gia đình dẫn tới việc các bậc cha mẹ
35 tuổi, nông dân)
Bảng 8. Khả năng thông thạo tiếng Việt của người dân tộc Sán Chỉ (%)
Khả năng sử dụng tiếng Việt
Nam giới
Phụ nữ
Có thể giao tiếp bằng tiếng Việt

81.8

18.2

Khơng có khả năng giao tiếp bằng tiếng Việt

16.7

83.3


Có thể thấy, sự hạn chế về ngôn ngữ đã ảnh
hưởng trực tiếp đến nhu cầu thực tế và nhu cầu
chiến lược của người phụ nữ Sán Chỉ, đến chất
lượng cuộc sống gia đình, sức khỏe của con cái
và thế hệ tương lai.
“Hơm đi khám sức khỏe ở trạm xá ý, tôi
thấy đau cái bụng với cái tim mà tơi nói mãi cơ
khám bệnh khơng nghe ra, bực mình q mà
khơng biết nói thế nào nên thôi bỏ về không
khám nữa” (Phỏng vấn sâu, phụ nữ Sán Chỉ,
54 tuổi, nơng dân).
Chính vì khơng thông thuộc tiếng Việt mà
người phụ nữ Sán Chỉ gặp khơng ít những trở
ngại để bày tỏ nhu cầu của mình với người
khác, để được học tập, nâng cao năng lực của
bản thân, khiến họ tự ti, mặc cảm và ngại giao
tiếp với mọi người, mất cơ hội được tiếp cận
với các dịch vụ và nguồn lực xã hội, người
nam giới có quyền được học tập, giao tiếp xã

hội nhiều nên việc sử dụng tiếng Việt thành
thạo đã tạo cơ hội cho nam giới dành được
quyền quyết định, quyền tham gia vào các
chương trình hoạt động ở địa phương và như
vậy nam giới là đối tượng được hưởng lợi
nhiều hơn. Người phụ nữ chủ yếu chỉ lui tới
chợ xã, đi khám bệnh ở trạm y tế xã, ít khi
tham gia họp thôn trong khi nam giới thường
đi chợ xa, lui tới các địa phương khác nhau để

giao lưu, hoặc có khi chỉ để uống rượu.
5. Kết luận
Hiện trạng bất bình đẳng giới trong gia đình
người Sán Chỉ là kết quả của một chuỗi những
bất bình đẳng trong xã hội: từ quan niệm cho
rằng lao động đàn ơng có giá trị hơn lao động
phụ nữ mặc dù công việc của phụ nữ lớn hơn cả
về số lượng và thời gian; hạn chế trong việc tiếp
cận và kiểm soát các tài sản của gia đình, các

123


nguồn lực xã hội; thiếu quyền quyết định đối
với các cơng việc quan trọng trong nhà. Tiếng
nói thấp kém của phụ nữ là hệ quả của tập quán
sinh sống, học vấn thấp kém.
(1) Sự phân công lao động trong gia đình
do nam giới nắm giữ. Người đàn ơng có tiếng
nói nhất trong gia đình (chủ hộ) sẽ phân cơng
cơng việc (sản xuất, tái sản xuất) cho các thành
viên trong gia đình. Trong gia đình, tính chất
cơng việc khơng chỉ được tính theo mức độ
nặng – nhẹ (phụ thuộc vào sức khỏe) cịn được
xem xét trên yếu tố khơng gian. Việc đàn ơng
thường là những cơng việc quảng giao ngồi
xã hội, cịn việc đàn bà chủ yếu gói gọn trong
khn viên gia đình.
(2)
Trên 90% số hộ gia đình tại địa bàn

khảo sát đều do nam giới làm chủ hộ. Người
Sán Chỉ theo chế độ phụ hệ và về mặt luật tục
mà nói đàn ơng bao giờ cũng làm chủ gia đình,
và khi đó đương nhiên mọi tài sản cũng như
quyền lực trong gia đình đều thuộc về họ. Mặc
dù luật pháp thừa nhận sự bình đẳng giữa phụ
nữ và nam giới trong vấn đề đứng tên sở hữu
tài sản, tuy nhiên đó chỉ là trên giấy tờ, thực tế
tại địa phương, mọi tài sản chủ yếu vẫn do
người đàn ông đứng tên. Thậm chí cả những

giấy tờ vay vốn, thế chấp cũng chủ yếu do đàn
ơng đứng tên vay.
(3) Tiếng nói của phụ nữ Sán Chỉ trong
gia đình thể hiện ở quyền quyết định – mức độ
tín nhiệm đối với các cơng việc trong gia đình.
Tuy nhiên, tại đa số các hộ gia đình, nam giới
vẫn là người có tiếng nói quyết định. Bởi cộng
đồng xã hội thừa nhận họ là chủ gia đình, là
người đưa ra các quyết định liên quan tới sự
tồn tại của gia đình, gồm cả những công việc
sản xuất (định hướng kinh doanh, thay đổi cơ
cấu cây trồng/vật nuôi, mua bán vật tư nông
nghiệp,…) cũng như tái sản xuất (số con, sinh
con trai).
(4) Có tới hơn 80% phụ nữ Sán Chỉ
khơng có khả năng giao tiếp bằng tiếng Việt.
Rào cản về ngôn ngữ tạo ra sự tự ti, ngại giao
tiếp của nhóm phụ nữ này, vơ hình chung nó
càng ngày càng khiến vị trí cũng như vai trị

của họ trở nên mờ nhạt trong gia đình và xã
hội. Có nhiều lý do dẫn tới hiện trạng này. Do
điều kiện kinh tế thấp kém, đời sống khó khăn
nên phụ nữ Sán Chỉ hầu hết là không đi học
hoặc bỏ học giữa chừng, khiến cho khả năng
giao tiếp bằng tiếng Việt của họ gặp trở

ngại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trần Thị Vân Anh, Đỗ Thị Bình (2001), Giới và công tác giảm nghèo, Nxb Khoa học xã hội,
H.
[2] Quyền Đình Hà và cộng sự (2006), Khảo sát vai trị của phụ nữ trong nông nghiệp và nông
thôn xã Nghĩa Hiệp, Yên Mỹ, Hưng Yên, 2005
[3] Hoàng Xuân Thành và cộng sự (2009), Theo dõi nghèo - Phương pháp cùng tham gia tại một
số cộng đồng cư dân nông thôn Việt Nam. Báo cáo tổng hợp trong vòng 2 năm 2008/2009
[4] Lê Thi (2002), Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội. tr.234-243.
[5] Hoàng Bá Thịnh, Lê Thái Thị Băng Tâm (2007), Báo cáo phân tích giới: Nghiên cứu định tính
tại hai xã Xuân Lạc và Bản Thi, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn, Hợp phần nâng cao năng lực cộng
đồng trong quản lý rừng. Chương trình CASI (CEFM) (Dao)

124



×