Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Phân tích quy định về khởi tố theo yêu cầu của bị hại theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự – một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn và hướng giải quyết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 20 trang )

----------

MƠN: LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Đề tài:

PHÂN TÍCH QUY ĐỊNH VỀ KHỞI TỐ THEO
YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ – MỘT SỐ KHÓ
KHĂN, VƯỚNG MẮC TRONG THỰC TIỄN VÀ
HƯỚNG GIẢI QUYẾT

Hà Nội – 2021


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
B. NỘI DUNG ..................................................................................................... 2
I. Khái quát chung về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại ........... 2
1. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại ............................ 2
2. Đặc điểm của khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại ................................... 2
3. Ý nghĩa của việc khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại............................... 3
II. Quy định của pháp luật về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại 5
1. Các trường hợp chỉ được khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại ..... 5
2. Chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự ......................................... 6
3. Hậu quả pháp lý của việc yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại............. 8
4. Rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại .............................................. 9
III. Mở rộng một số vấn đề ................................................................................ 11
1. Một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn............................................ 11
2. Hướng giải quyết ...................................................................................... 13
C. KẾT LUẬN ................................................................................................... 16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... 17




DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

VAHS

: Vụ án hình sự

TTHS

: Tố tụng hình sự

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

THTT

: Tiến hành tố tụng

TGTT


: Tham gia tố tụng


A.

MỞ ĐẦU

Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước, yêu cầu xây
dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải tiến hành cải cách
tư pháp và vấn đề đảm bảo phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý kịp thời mọi
hành vi phạm tội trong pháp luật hình sự được Đảng và nhà nước đặc biệt quan tâm.
Sự khởi đầu của các vụ án hình sự nằm ở dấu hiệu tội phạm, bởi lẽ có dấu hiệu tội
phạm thì các cơ quan có thẩm quyền mới có thể tiến hành các hoạt động chun mơn
để xác định có tồn tại vụ án hình sự hay khơng, từ đó đưa ra hình phạt thích đáng để
áp dụng đối với người phạm tội, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ công
lý pháp luật.
Những căn cứ thể hiện dấu hiệu tội phạm mà các cơ quan chức năng dựa theo đó
để tiến hành những hoạt động trong tố tụng hình sự chính là tin báo, tố giác tội phạm
và kiến nghị khởi tố. Từ kết quả xác định hành vi vi phạm pháp luật đã đủ yếu cấu
thành tội phạm hay chưa, mà chủ thể có thẩm quyền sẽ xem xét ra quyết định khởi tố
vụ án và giải quyết theo đúng trình tự pháp luật hoặc khơng khởi tố vụ án. Tuy nhiên
theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành, có một số tội phạm cụ thể cơ quan có
thẩm quyền chỉ được khởi tố khi có yêu cầu khởi tố của bị hại. Việc bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của bị hại khi tham gia tố tụng hình sự là một yêu cầu cấp thiết đang
được đặt ra, vì đây là chủ thể đóng vai trị quan trọng trong các thành phần những người
tham gia tố tụng.
Việc tìm hiểu, nghiên cứu các vấn đề xung quanh vấn đề này sẽ giúp cho việc áp
dụng pháp luật tố tụng hình sự có hiệu quả và nâng cao hiệu quả công tác khởi tố vụ
án hình sự. Từ nhận định đó, trong nội dung bài tiểu luận dưới đây, em đã chọn đề tài
“Phân tích quy định về khởi tố theo yêu cầu của bị hại theo quy định của bộ luật tố

tụng hình sự – một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn và hướng giải quyết”.
Thơng qua đó nhằm góp phần cũng cố lại những kiến thức căn bản về tố tụng hình sự
cho bản thân trong suốt quá trình học tập. Do thời gian nghiên cứu hạn hẹp, năng lực,
trình độ cịn nhiều hạn chế nên khơng tránh khỏi những thiếu sót, sai lầm, em rất mong
nhận được các ý kiến nhận xét đóng góp từ phía thầy/cơ!
1


B.

NỘI DUNG

I. Khái quát chung về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại
1. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại
Vụ án hình sự là vụ việc đã diễn ra trên thực tế, có dấu hiệu của một tội phạm cụ
thể được quy định trong Bộ luật hình sự, làm phát sinh mối quan hệ pháp lý giữa cơ
quan có thẩm quyền THTT với những người có liên quan đến vụ án.
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn rất quan trọng của quá trình TTHS, là giai đoạn
đánh dấu mở đầu để có thể thực hiện các giai đoạn tiếp theo nhằm giải quyết một
VAHS. Trong đó cơ quan có thẩm quyền THTT tiếp nhận giải quyết nguồn tin về tội
phạm, xác định có dấu hiệu tội phạm hay không để quyết định khởi tố hay không khởi
tố VAHS.
Cơ sở của việc khởi tố VAHS là sự việc xảy ra có dấu hiệu của tội phạm. Và việc
xác định dấu hiệu tội phạm phải dựa trên những căn cứ nhất định được quy định tại
Điều 143 Bộ luật tố tụng hình sự 20151.
Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại là trường hợp đặc biệt do tính chất
của vụ án và vì lợi ích của bị hại, cơ quan có thẩm quyền khơng được tự ý quyết định
việc khởi tố mà việc khởi tố VAHS được thực hiện theo yêu cầu của bị hại sau khi xác
định một sự việc xảy ra có dấu hiệu của một số tội phạm theo quy định của BLHS
2015.

2. Đặc điểm của khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại
Thứ nhất, khởi tố VAHS theo yêu cầu của bị hại là một quy định ngoại lệ so với
quan niệm chung về quan hệ pháp luật hình sự. Bởi lẽ chỉ có Nhà nước mới là chủ thể
có thẩm quyền quyết định việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội
nhưng trong trường hợp này thì bị hại mới là chủ thể có quyền quyết định.

1

“Chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những căn cứ:
1. Tố giác của cá nhân;
2. Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
3. Tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng;
4. Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước;
5. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm;
6. Người phạm tội tự thú.”

2


Thứ hai, khởi tố VAHS theo yêu cầu của bị hại thường quy định đối với các trường
hợp phạm tội có mức nguy hiểm cho xã hội thấp, đó là các trường hợp phạm tội do vơ
ý (ví dụ như vơ ý gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe...) hoặc phạm tội cố ý
nhưng thiệt hại không lớn, tính chất của sự xâm hại khơng nghiêm trọng, khơng có tình
tiết tăng nặng TNHS, đồng thời khách thể xâm hại của tội phạm thường là những quan
hệ xã hội có liên quan trực tiếp với hại, đó là sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,…
Thứ ba, yếu tố ý chí của bị hại có ý nghĩa quyết định trong việc khởi tố VAHS.
Họ là người mà quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại nặng nề nhất, người chịu thiệt
thịi nhiều nhất trong số những người TGTT. Ý chí của bị hại được thể hiện ở yêu cầu
hoặc không yêu cầu khởi tố, nếu bị hại có yêu cầu khởi tố thì đó là căn cứ làm phát
sinh việc khởi tố VAHS, khi bị hại rút yêu cầu khởi tố thì đó là căn cứ để chấm dứt

việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội, có thể giới hạn ở một số giai đoạn tố tụng
nhất định, nếu từ đầu bị hại khơng có u cầu thì Cơ quan có thẩm quyền khơng thể tự
mình khởi tố vụ án được. Như vậy, có thể nói ý chí của bị hại là căn cứ làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội.
Thứ tư, khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại là một quy định tạo ra khung
pháp lý cho sự áp dụng linh hoạt các biện pháp giải quyết vụ án hình sự. Áp dụng quy
định này sẽ vừa giữ được kỷ cương xã hội, thể hiện ở việc người phạm tội sẽ bị xử lý
nếu bị hại yêu cầu; đồng thời vừa bảo đảm tối ưu lợi ích của bị hại, thể hiện ở việc bị
hại đã được đền bù xứng đáng về vật chất, tinh thần và khơng u cầu thì pháp luật
cũng khơng cần phải xử lý người phạm tội nữa.
3. Ý nghĩa của việc khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại
Việc quy định trường hợp khởi tố VAHS theo yêu cầu của bị hại góp phần bảo
đảm tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại. Vì khơng ít trường hợp tội phạm
xảy ra đã gây thiệt hại cho bị hại khơng chỉ về lợi ích vật chất mà cả về tinh thần hoặc
uy tín, mà việc khởi tố VAHS đối với tội phạm trong các trường hợp này có thể lại gây
thêm những tổn thất khác cho bị hại. Nên thay vì khởi tố vụ án thì bị hại tự mình lựa
chọn cách giải quyết sao cho vừa được đền bù một phần những mất mát xảy ra, vừa
giữ được tình cảm giữa các bên hoặc giữ kín những chuyện đời tư thì tác dụng của cách
3


giải quyết này có thể cịn lớn hơn. Vì thế, để hạn chế những trường hợp khi có tội phạm
xảy ra, việc khởi tố vụ án có thể gây thêm tổn thất cho bị hại, pháp luật quy định trường
hợp khởi tố VAHS theo yêu cầu của bị hại, tạo khả năng và điều kiện cho bị hại cân
nhắc, tự do lựa chọn, quyết định hoặc là yêu cầu pháp luật can thiệp hoặc là tự dàn xếp
với người đã gây thiệt hại cho mình một cách ổn thoả [8]. Nói cách khác, khởi tố VAHS
trái với ý muốn của bị hại có thể gây thêm những mất mát và thiệt hại cho họ, vì vậy
nhà làm luật đã nhường quyền quyết định việc có truy cứu TNHS với người phạm tội
hay không cho bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của bị hại thông qua việc yêu cầu
hay rút yêu cầu khởi tố vụ án. Điều này cũng thể hiện một khía cạnh của ngun tắc

cơng bằng trong pháp luật hình sự nước ta.
Ngồi ra, việc quy định này đã thể hiện được sự linh hoạt của pháp luật, góp phần
khuyến khích sự chủ động hịa giải giữa bị hại và chủ thể phạm tội, tạo điều kiện cho
các bên bày tỏ ý chí của mình đi đến thống nhất chính kiến, từ đó vụ án được giải quyết
vừa đơn giản vừa triệt để. Theo đó hạn chế nhiều trường hợp phải tiến hành quá trình
tố tụng để truy cứu TNHS gây tốn kém thời gian, công sức và tiền bạc. Việc khởi tố
VAHS theo yêu cầu của bị hại còn đảm bảo cho việc phát hiện kịp thời, giải quyết
nhanh chóng hành vi phạm tội, là một trong những biện pháp nhằm góp phần ngăn
chặn và phịng ngừa tội phạm. Góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm trong xã hội hiện nay. Qua đó, cịn có thể giảm bớt các vụ án phải xét
xử tại Tòa án, giảm bớt áp lực cho các cơ quan THTT.
Quy định này còn thể hiện tính dân chủ, đảm bảo quyền tự do dân chủ của cơng
dân được pháp luật bảo vệ. Về phía bị hại, pháp luật dành cho họ những quyền nhất
định để tạo điều kiện cho họ bảo vệ, ngăn chặn và khơi phục quyền và lợi ích hợp pháp
của mình đã bị tội phạm xâm hại. Ngoài ra pháp luật cũng đảm bảo cho bị can thực
hiện các quyền của mình như quyền được nhờ người khác bào chữa, quyền được đưa
ra tài liệu, đồ vật...2 bởi vì về nguyên tắc khơng ai bị coi là có tội nếu chưa có bản án
quyết định của Tịa án3. Chính vì vậy thơng qua hoạt động khởi tố vụ án hình sự, các

2
3

Xem Điều 60 BLTTHS 2015
Xem Điều 13 BLTTHS 2015

4


quyền tự do và dân chủ của công dân được tơn trọng và bảo đảm, góp phần hiệu quả
vào cơng cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.

II. Quy định của pháp luật về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại
Tội phạm là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến lợi ích của nhà
nước, của tổ chức và cá nhân. Tội phạm cần được phát hiện, xử lý và người phạm tội
phải chịu những hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội đã thực hiện [9]. Khởi tố
VAHS theo yêu cầu của bị hại là trường hợp đặc biệt được quy định trong pháp luật
TTHS. Việc quyết định khởi tố VAHS của cơ quan có thẩm quyền trong trường hợp
này chỉ được thực hiện khi có yêu cầu của bị hại. Khởi tố VAHS theo yêu cầu của bị
hại được quy định tại Điều 155 BLTTHS 2015.
1. Các trường hợp chỉ được khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại
Khoản 1 Điều 155 BLTTHS 2015 quy định chỉ được khởi tố vụ án khi có yêu cầu
của bị hại về các tội phạm quy định tại khoản 1 các điều luật của BLHS 2015, cụ thể:
Điều 134 quy định Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác;
Điều 135 quy định Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh;
Điều 136 quy định Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác do vượt q giới hạn phịng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết
khi bắt giữ người phạm tội;
Điều 138 quy định Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác;
Điều 139 quy định Tội vơ ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính;
Điều 141 quy định Tội hiếp dâm;
Điều 143 quy định Tội cưỡng dâm;
Điều 155 quy định Tội làm nhục người khác;
Điều 156 quy định Tội vu khống;
Điều 226 quy định Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.
5



Theo đó, điều luật chỉ giới hạn việc yêu cầu khởi tố trong mười tội phạm nêu trên.
So với BLTTHS 2003, BLTTHS 2015 chỉ không quy định trường hợp khởi tố theo yêu
cầu của bị hại đối với Tội xâm phạm quyền tác giả do BLHS 2015 không quy định
hành vi xâm phạm quyền tác giả là tội phạm4. Tuy nhiên, khơng phải trường hợp phạm
tội nào cũng cần có yêu cầu khởi tố, chỉ khi hành vi phạm tội thuộc trường hợp theo
quy định tại khoản 1 của các điều luật, nếu hành vi rơi vào khoản 2, 3, 4,... thì việc
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án khơng địi hỏi thủ tục u cầu của bị hại.[9]
Có thể thấy quy định các trường hợp tội phạm cho phép khởi tố theo yêu cầu của
bị hại là những trường hợp tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng. Vì tội phạm ít
nghiêm trọng là tội phạm gây tổn hại không lớn đối với xã hội mà mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy là đến 03 năm tù. Đối với trường hợp tội phạm tại khoản
1 Điều 141, 143 đây là trường hợp tội phạm nghiêm trọng nhưng lại xâm phạm trực
tiếp đến danh dự, nhân phẩm của bị hại, cùng với tính chất của sự việc phạm tội mà
pháp luật cho phép bị hại có quyền quyết định việc yêu cầu khởi tố VAHS.
2. Chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
Chủ thể có quyền u cầu khởi tố vụ án hình sự là bị hại hoặc người đại diện của
bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã
chết. Điều này có sự thay đổi so với các quy định TTHS trước, thuật ngữ “Người bị
hại” trong BLTTHS 20035 đã được thay thế bằng thuật ngữ “Bị hại”, trong đó khái
niệm bị hại mở rộng hơn đối tượng bao gồm cá nhân và pháp nhân 6.
Tại khoản 1 điều 62 BLTTHS 2015 quy định “Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt
hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín
do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”. BLTTHS 2015 nhận thức bị hại là con người
pháp lý chứ không phải là con người tự nhiên nên bị hại không chỉ là cá nhân mà còn
là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín. Theo đó, bị hại là cá nhân trực tiếp bị

4

BLHS 1999 quy định Tội xâm phạm quyền tác giả tại Điều 131 và khoản 1 Điều 105 BLTTHS năm 2003 quy định tội
này chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại

5
BLTTHS 2003 quy định “Người bị hại là người bị thiệt hại về vật chất, tinh thần hoặc tài sản do tội phạm gây ra”, có
thể thấy “người bị hại” là một cá nhân cụ thể, xác định, chứ không thể là cơ quan, tổ chức
6
Tại điều 9 BLTTHS 2015 xác định danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân cũng là đối tượng bảo vệ của TTHS

6


thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản,
uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra [10].
Về đối tượng bị hại được đại diện là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về
tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết. Theo quan điểm lập pháp, người dưới 18 tuổi là
những người chưa có đủ năng lực hành vi nên chưa ý thức được đầy đủ việc hành vi
phạm tội gây ra đối với họ dẫn đến thiếu điều kiện để tự bảo vệ lợi ích của mình. Bởi
lẽ tâm sinh lý thể chất nhận thức của họ chưa phát triển đạt đến một mức độ nhất định
để coi là hồn thiện, nhìn nhận được vấn đề một cách tồn diện, thậm chí là đủ hiểu
biết am hiểu luật pháp. Người bị hại có nhược điểm về tâm thần là người bị hạn chế về
nhận thức hoặc điều khiển hành vi, họ bị hạn chế về năng lực hoặc khơng có khả năng
thể hiện ý chí để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Người bị nhược điểm về
thể chất như: bị mù, bị điếc, bị câm,… tuy những nhược điểm này không làm ảnh
hưởng đến khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi của họ, nhưng có thể làm
cho họ không thể hiện được hoặc thể hiện không đầy đủ u cầu của mình. Do đó, có
thể nhận thấy rằng, họ thuộc lớp người yếu thế trong xã hội, chính vì thế việc pháp luật
quy định những vấn đề cho phép người đại diện của họ TGTT nhằm bảo vệ lợi ích hợp
pháp và thể hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của họ là hoàn toàn hợp lý.
BLTTHS 2003 không quy định trường hợp người bị hại chết thì người đại diện
của họ có quyền u cầu khởi tố vụ án hình sự, nên trong thực tiễn áp dụng đã gặp
vướng mắc khi xác định người đại diện của họ có quyền yêu cầu khởi tố VAHS hay
khơng, do đó BLTTHS 2015 đã bổ sung về trường hợp này. Mặc dù vẫn chưa có quy

định hay hướng dẫn cụ thể nhưng trong thực tiễn các cơ quan THTT xác định người
đại diện dựa trên những người thừa kế theo pháp luật của bị hại. Đó là cha, mẹ, vợ,
chồng, con... và việc xác định này trên cơ bản được xã hội chấp nhận.
Trường hợp cơ quan, tổ chức là bị hại có sự chia, tách, sáp nhập, hợp nhất thì
người đại diện theo pháp luật hoặc tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ của cơ
quan, tổ chức đó có những quyền và nghĩa vụ theo quy định (khoản 5 Điều 62 BLTTHS
2015). Vậy có thể hiểu, đại diện của bị hại là pháp nhân ở đây là đại diện theo pháp
luật hoặc tổ chức, cá nhân thừa kế quyền và nghĩa vụ của pháp nhân.
7


3. Hậu quả pháp lý của việc yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại
Về mặt nguyên tắc chung, nhà nước có tồn quyền buộc tội đối với vụ việc có dấu
hiệu tội phạm, khơng phụ thuộc vào ý muốn cá nhân và khơng ai có thể can thiệp. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp nhất định, pháp luật cho phép bị hại lựa chọn quyền
yêu cầu khởi tố hay không khởi tố VAHS. Trong trường hợp họ khơng u cầu thì các
cơ quan có thẩm quyền THTT khơng được khởi tố VAHS7. Theo đó, u cầu khởi tố
VAHS của bị hại hoặc người đại diện của họ làm phát sinh một số hậu quả pháp lý sau:
Khởi tố VAHS theo yêu cầu của bị hại có sự khác biệt so với các trường hợp khởi
tố VAHS thơng thường, vì đây là trường hợp khởi tố VAHS có điều kiện. Việc khởi tố
VAHS theo yêu cầu của bị hại được quyết định trên cơ sở kết hợp của 2 yếu tố là có
dấu hiệu tội phạm và có u cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại.
Theo đó, “điều kiện cần” là phải có dấu hiệu của tội phạm mà theo quy định của
pháp luật loại tội này chỉ được khởi tố khi bị hại yêu cầu. Có dấu hiệu tội phạm là có
hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra và hành vi đó cấu thành tội phạm được quy định
trong BLHS. “Điều kiện đủ” là phải có yêu cầu khởi tố của bị hại, đây là yếu tố quan
trọng, có tính chất quyết định. Yêu cầu khởi tố của bị hại là căn cứ phát sinh việc khởi
tố VAHS, là điều kiện pháp lý bắt buộc để cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án, và
mở đầu cho hoạt động tố tụng tiếp theo để truy cứu TNHS đối với người thực hiện
hành vi phạm tội. Trường hợp tuy có dấu hiệu của tội phạm thuộc trường hợp khởi tố

vụ án theo u cầu của bị hại nhưng khơng có u cầu của bị hại hay ngược lại là có
yêu cầu của bị hại nhưng khơng có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan có thẩm quyền khơng
thể khởi tố vụ án được. Như vậy bản chất pháp lý của khởi tố VAHS theo yêu cầu của
người bị hại chính là quyền buộc tội, là điều kiện chứ không phải là căn cứ khởi tố
VAHS8.
Để ra quyết định khởi tố vụ án, cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành kiểm tra,
xác minh nguồn tin về tội phạm, xác định dấu hiệu của tội phạm và yêu cầu khởi tố của
bị hại. Tiến hành thực hiện các biện pháp nghiệp vụ như: giám định thương tích (đối

7

Xem khoản 8 Điều 157 BLTTHS 2015
Bộ luật tố tụng hình sự quy định thống nhất một cơ sở duy nhất để khởi tố vụ án hình sự là khi xác định có dấu hiệu tội
phạm dựa trên những căn cứ nhất định[11]
8

8


với vụ án gây thương tích), giám định tinh dịch (đối với vụ án hiếp dâm, cưỡng
dâm…)…. Yêu cầu khởi tố của bị hại được thể hiện qua đơn yêu cầu của họ hoặc ý
kiến ở biên bản ghi lời khai9. Cơ quan có thẩm quyền khởi tố VAHS theo yêu cầu của
bị hại được xác định theo quy định pháp luật.
Đối với những vụ án được quy định khởi tố theo yêu cầu của bị hại, khi đã có
quyết định khởi tố và được cơ quan THTT thụ lý giải quyết thì hậu quả pháp lý đặc
trưng nhất đó là “…bị hại hoặc người đại diện của họ trình bày lời buộc tội tại phiên
tồ”10, vì nó chỉ phát sinh khi yêu cầu khởi tố vụ án của bị hại hoặc của người đại diện
của bị hại được chấp nhận. Sau khi bị hại hoặc người đại diện của họ u cầu khởi tố
VAHS thì cơ quan có thẩm quyền xem xét ra quyết định khởi tố VAHS và tiến hành
các giai đoạn tố tụng tiếp theo. Trong trường hợp này, thì bị hại có quyền xem xét, cân

nhắc can thiệp bằng quyền rút yêu cầu khởi tố để chấm dứt quá trình truy cứu TNHS.
4. Rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại
Việc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự là việc bị hại hoặc đại diện của bị hại đã
yêu cầu khởi tố vụ án hình sự yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng không tiếp tục việc
xử lý đối với vụ án đã yêu cầu khởi tố.
Khoản 2 Điều 155 BLTTHS 2015 quy định: “Trường hợp người đã yêu cầu khởi
tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người
đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy
người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp
tục tiến hành tố tụng đối với vụ án”. Theo đó, các trường hợp bị hại hoặc người đại
diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất
hoặc đã chết có quyền yêu cầu khởi tố cũng là các trường hợp họ có quyền rút yêu cầu
khởi tố [7]. Quy định này không giới hạn thời điểm rút đơn yêu cầu khởi tố, người đã
yêu cầu khởi tố có thể rút yêu cầu vào thời điểm ngay sau khi yêu cầu, trong giai đoạn
điều tra, truy tố, xét xử. Đây là quy định mới so với BLTTHS 2003 khi chỉ cho phép
bị hại rút yêu cầu trước ngày mở phiên tịa sơ thẩm11.
9

Xem mục 7.2 Thơng tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP
Xem khoản 3 điều 62 BLTTHS 2015
11
Khoản 2 Điều 105 BLTTHS 2003 quy định: “Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở
phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ”
10

9


Mặc dù, thời điểm cuối cùng được quyền rút yêu cầu khởi tố VAHS không được
xác định cụ thể, nhưng có thể thể hiểu thời điểm rút yêu cầu có thể được thực hiện

trong các giai đoạn của quá trình tố tụng như sau: nếu ngay sau khi khởi tố VAHS mà
bị hại hoặc người đại diện của họ rút yêu cầu khởi tố thì Cơ quan điều tra ra quyết định
hủy bỏ quyết định khởi tố và thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp; nếu
vụ án đang trong quá trình điều tra thì Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều
tra12, nếu vụ án đã kết thúc điều tra chuyển sang Viện kiểm sát để quyết định việc truy
tố thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án13, nếu vụ án đã được truy tố chuyển
sang Tịa án thì Thẩm phán được phân cơng sẽ ra quyết định đình chỉ vụ án14[6]. Trường
hợp vụ án có nhiều bị can, bị cáo thì cơ quan có thẩm quyền chỉ quyết định đình chỉ
điều tra, đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo mà bị hại hoặc người đại diện của họ đã
yêu cầu khởi tố mà rút yêu cầu.
Trong trường hợp khi người yêu cầu rút yêu cầu khởi tố mà cơ quan THTT xác
định có căn cứ chứng minh người yêu cầu khởi tố bị ép buộc, cưỡng bức dẫn đến rút
yêu cầu khởi tố thì cơ quan THTT vẫn tiếp tục thực hiện quá trình tố tụng đối với vụ
án. Như vậy, đối với người yêu cầu rút u cầu khởi tố là tự nguyện, khơng có căn cứ
chứng minh việc rút yêu cầu khởi tố là do bị ép buộc, cưỡng bức thì vụ án sẽ được cơ
quan có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ dẫn đến chấm dứt quá trình tố tụng đối với
vụ án. Ngoài ra, tại khoản 3 Điều 155 BLTTHS 2015 quy định: “Bị hại hoặc người đại
diện của bị hại đã rút u cầu khởi tố thì khơng có quyền u cầu lại, trừ trường hợp
rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức”. Điều này có thể hiểu là bị hại hoặc đại diện của
bị hại trong trường hợp rút đơn u cầu là tự nguyện thì khơng có quyền yêu cầu khởi
tố lại, nếu việc rút yêu cầu đó là do bị ép buộc, cưỡng bức thì có quyền yêu cầu khởi
tố lại vụ án.

12

Xem điểm a khoản 1 điều 230 BLTTHS 2015.
Xem khoản 1 điều 248 BLTTHS 2015.
14
Xem điểm a khoản 1 điều 282 BLTTHS 2015.
13


10


III. Mở rộng một số vấn đề
1. Một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn
Thứ nhất, các trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại. Tội phạm
được quy định tại khoản 7 Điều 134 BLHS 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác cũng cần được coi là tội phạm được khởi tố theo
yêu cầu của bị hại. Bởi vì, cùng về một tội danh cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác, nhưng khoản 7 Điều 134 BLHS 2015 quy định khung
hình phạt nhẹ hơn so với quy định tại khoản 1 Điều này15[7].
Thứ hai, bị hại từ chối giám định thương tích. Sau khi bắt giữ đối tượng về hành
vi cố ý gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe cho người khác, không phải vụ án nào
cũng xử lý nghiêm khắc được đối tượng gây án, bởi chính người bị hại đã gây khó khăn
cho cơ quan điều tra, khi họ từ chối giám định thương tích. Vì khi bị hại từ chối giám
định sẽ dẫn đến việc không xác định được sự việc phạm tội có thuộc trường hợp quy
định khởi tố theo yêu cầu của bị hại hay không, cơ quan điều tra lúc này không thể xử
lý đối với hành vi phạm tội.
Thứ ba, sự kiện phạm tội có nhiều bị hại. Trường hợp vụ án có nhiều bị hại nhưng
chỉ một hoặc một số bị hại yêu cầu khởi tố vụ án, những người cịn lại khơng u cầu
khởi tố vụ án do nhiều nguyên nhân khác nhau, đã phát sinh vướng mắc trong việc xác
định những người không yêu cầu khởi tố vụ án có được coi là bị hại khơng, trường hợp
này có khởi tố vụ án hình sự hay khơng vì sự việc vừa có căn cứ để khởi tố vụ án, vừa
có căn cứ khơng khởi tố vụ án [14].
Thứ tư, vụ án có nhiều người cùng thực hiện hành vi phạm tội. Trường hợp vụ án
có nhiều người cùng thực hiện hành vi phạm tội nhưng bị hại chỉ yêu cầu khởi tố vụ án
đối với hành vi của một hoặc một số người phạm tội thì trường hợp này cơ quan điều
tra có khởi tố tất cả người thực hiện hành vi phạm tội hay không? [14]
Thứ năm, thay đổi quyết định khởi tố vụ án liên quan đến quyền yêu cầu khởi tố

vụ án của bị hại. Điều 156 BLTTHS 2015 quy định về việc thay đổi hoặc bổ sung

15

Mức cao nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 7 Điều 134 BLHS 2015 là 02 năm tù; mức cao nhất của khung
hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 134 BLHS 2015 là 03 năm tù

11


quyết định khởi tố VAHS, điều này không đề cập đến trường hợp quyết định thay đổi
hoặc bổ sung quyết định khởi tố VAHS liên quan đến quyền yêu cầu khởi tố VAHS
của bị hại. Việc này có thể làm phát sinh 2 trường hợp:
- Tội phạm mới thay đổi thuộc trường hợp quy định khởi tố theo yêu cầu của bị
hại: trường hợp VAHS được khởi tố về hành vi phạm tội thơng thường nhưng trong
q trình giải quyết xác định tội phạm mới thay đổi thuộc vào trường hợp quy định
khởi tố VAHS theo yêu cầu của bị hại tại khoản 1 điều 155 BLTTHS 2015, khi đó Cơ
quan có thẩm quyền giải quyết như thế nào. Trường hợp mà khi đó bị hại quyết định
khơng u cầu khởi tố vụ án thì Cơ quan có thẩm quyền có thể xác định đây là căn cứ
để đình chỉ giải quyết vụ án. Tuy nhiên, nếu cơ quan có thẩm quyền có thơng báo cho
bị hại trước khi ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố và tôn trọng ý chí của bị hại
theo tinh thần khoản 1 điều 155 BLTTHS 2015 thì khi bị hại chưa yêu cầu khởi tố và
cũng chưa thể hiện là không yêu cầu khởi tố thì vụ án sẽ được giải quyết như thế nào?
Bởi khi đó cơ quan có thẩm quyền không thể ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố
vì bị hại chưa u cầu khởi tố, cũng khơng thể đình chỉ việc giải quyết vụ án vì khơng
có căn cứ là bị hại không yêu cầu khởi tố vụ án.
- Tội phạm thuộc trường hợp quy định khởi tố theo yêu cầu của bị hại thay đổi
thành tội phạm thông thường: trường hợp này vụ án được khởi tố thuộc trường hợp
quy định khởi tố theo yêu cầu của bị hại nhưng trong quá trình giải quyết vụ án xác
định tội phạm không đúng với hành vi phạm tội xảy ra, và được thay đổi là tội phạm

thông thường, trường hợp này cơ quan có thẩm quyền có cần thông báo đến bị hại
không? Lúc này bị hại có phải mặc nhiên được xem là bị hại thơng thường trong vụ án
hình sự và khơng cịn quyền rút yêu cầu khởi tố đối với vụ án và quyền trình bày lời
buộc tội trước phiên tịa hay khơng?
Thứ sáu, trường hợp người đã yêu cầu khởi tố VAHS rút đơn yêu cầu khi Tòa án
đã mở phiên tòa xét xử vụ án. Theo quy định tại khoản 2 điều 155 BLTTHS 2015 thì
khơng giới hạn việc người đã u cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố vụ án tại phiên tịa,
nhưng tại giai đoạn xét xử thì khơng quy định việc xử lý của Hội đồng xét xử khi phát
sinh trường hợp bị hại rút yêu cầu khởi tố tại phiên tịa, vì theo các quy định của
BLTTHS 2015 thì Hội đồng xét xử khơng có quyền đình chỉ vụ án. Bởi vì, khoản 3
12


Điều 326 BLTTHS 2015 quy định về các vấn đề của vụ án phải được giải quyết khi
nghị án thì khơng quy định Hội đồng xét xử có quyền đình chỉ xét xử vụ án đối với
trường hợp người yêu cầu khởi tố rút yêu cầu tại phiên tòa. Điều 346 BLTTHS 2015
quy định trong thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, Thẩm phán chủ toạ phiên tịa có
thẩm quyền đình chỉ xét xử phúc thẩm hoặc đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm, theo đó
khơng quy định Thẩm phán chủ tọa phiên tịa có quyền đình chỉ vụ án trong giai đoạn
này, khi mà người yêu cầu khởi tố tự nguyện rút yêu cầu. Điều 359 BLTTHS năm 2015
quy định tại phiên tịa hình sự phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ hủy bản án sơ
thẩm, tun bị cáo khơng có tội và đình chỉ vụ án và cũng không quy định bị hại rút
đơn yêu cầu khởi tố là căn cứ để hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. BLTTHS khơng
quy định cụ thể vấn đề bị hại rút yêu cầu khởi tố ở giai đoạn xét xử dẫn đến quyền rút
yêu cầu khởi tố của bị hại được luật quy định, nhưng khi quyền này được thực hiện
trên thực tế, cơ quan THTT lại khơng có cơ sở pháp lý để giải quyết đúng theo nguyên
tắc, thủ tục xét xử.
2. Hướng giải quyết
Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn cũng như q trình thể chế hóa các quy định
dân chủ và tiến bộ, có thể giải quyết một số nội dung theo hướng như sau:

Một là, để tạo sự thống nhất giữa các quy định, khi đã thừa nhận tội phạm quy
định tại khoản 1 Điều 134 BLHS 2015 chỉ được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì
cũng cần phải thừa nhận tội phạm quy định tại khoản 7 Điều 134 BLHS 2015 cũng chỉ
được khởi tố khi có yêu cầu của bị hại [7].
Hai là, để khắc phục tình trạng bị hại từ chối giám định, BLTTHS 2015 đã quy
định về biện pháp dẫn giải có thể áp dụng đối với bị hại không hợp tác, từ chối giám
định tại điểm b khoản 2 Điều 12716. Tuy nhiên, có trường hợp bị hại vẫn cương quyết
từ chối việc giám định thậm chí tỏ thái độ bất hợp tác với cơ quan THTT với lý do có
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, dẫn đến việc giám định khơng thể tiến hành được.

16

“2. Dẫn giải có thể áp dụng đối với: ...b)Người bị hại trong trường hợp họ từ chối việc giám định theo quyết định trưng
cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà khơng vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan”

13


Đây là một vướng mắc cần có văn bản hướng dẫn vấn đề này nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho việc áp dụng quy định này trong thực tiễn.
Ba là, đối với trường hợp vụ án có nhiều bị hại nhưng chỉ một hoặc một số bị hại
yêu cầu khởi tố vụ án. Có quan điểm cho rằng trường hợp này khơng khởi tố VAHS vì
khơng đảm bảo được đầy đủ tất cả yêu cầu của các bị hại về việc khởi tố vụ án, do đó
khơng thể khởi tố vụ án. Tuy nhiên, cơ quan THTT vẫn nên khởi tố VAHS để điều tra
và giải quyết toàn diện các vấn đề trong vụ án, xác định đầy đủ TNHS đối với người
phạm tội, phải đặt lợi ích của tất cả bị hại bên cạnh lợi ích của từng bị hại cũng như lợi
ích chung của xã hội trong việc xử lý hành vi phạm tội. Tóm lại, cơ quan có thẩm quyền
cần hướng dẫn để các cơ quan THTT thống nhất thực hiện trường hợp này [14].
Bốn là, đối với trường hợp vụ án có nhiều người cùng thực hiện hành vi phạm tội
nhưng bị hại chỉ yêu cầu khởi tố vụ án đối với hành vi của một hoặc một số người

phạm tội. Có ý kiến cho rằng Cơ quan điều tra phải tôn trọng quyền tự định đoạt của
bị hại, chỉ giải quyết đối với bị can mà bị hại yêu cầu khởi tố. Tuy nhiên Cơ quan điều
tra nên khởi tố vụ án và khởi tố tất cả các bị can mới đảm bảo giải quyết cơng bằng,
triệt để vụ án và có thể xem xét tình tiết giảm nhẹ TNHS đối với bị can mà bị hại khơng
u cầu khởi tố[14]. Bên cạnh đó, cơ quan THTT phải xem xét, xác định rõ bị hại rút
u cầu khởi tố có trái ý muốn hay khơng. Và cũng cần có hướng dẫn để thống nhất
giải quyết trường hợp này.
Năm là, về thay đổi quyết định khởi tố VAHS. Nếu trường hợp thay đổi quyết
định khởi tố sang tội phạm thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì cần
thiết thơng báo và lấy ý kiến của họ về việc có tiếp tục xử lý đối với vụ án hay không,
lúc này yêu cầu khởi tố VAHS của bị hại được xem là căn cứ để cơ quan có thẩm quyền
ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố và tiếp tục giải quyết đối với vụ án, đồng thời
tiếp tục tôn trọng ý chí của bị hại trong q trình giải quyết vụ án, bởi việc khởi tố vụ
án có liên quan trực tiếp đến lợi ích về mặt tinh thần, uy tín, danh sự, nhân phẩm của
bị hại. Trường hợp ngược lại, nếu tội phạm được khởi tố thuộc trường hợp khởi tố theo
yêu cầu của bị hại nhưng khi thay đổi quyết định khởi tố, tội phạm đó thuộc các trường
hợp tội phạm thông thường, nghĩa là vụ án được khởi tố không cần yêu cầu của bị hại.
14


Vậy, lúc này vụ án cần tiến hành giải quyết tiếp theo bằng các thủ tục tố tụng thông
thường, điều kiện yêu cầu khởi tố của bị hại đối với vụ án khơng cịn tồn tại, do đó bị
hại khơng có quyền thể hiện ý chí của mình thơng qua việc rút yêu cầu khởi tố vụ án.
Để tạo sự thống nhất giữa các quy định cũng như việc thống nhất áp dụng của các cơ
quan THTT, thiết nghĩ cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể việc áp dụng quy định
thay đổi quyết định khởi tố VAHS trong trường hợp việc thay đổi có liên quan đến các
tội phạm thuộc vào trường hợp khởi tố VAHS theo yêu cầu của bị hại, vì đây là trường
hợp đặc biệt trong tố tụng hình sự.
Sáu là, về việc rút yêu cầu khởi tố, vấn đề này có thể được giải quyết theo hướng
sau: Nếu người đã yêu cầu khởi tố rút u cầu tại phiên tịa thì Kiểm sát viên phải đề

nghị Hội đồng xét xử trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung làm rõ bản chất của việc rút
yêu cầu đó. Nếu qua xác minh, thấy việc rút u cầu đó khơng phải trái ý muốn của
người rút yêu cầu do bị đe dọa, cưỡng bức thì Viện kiểm sát đình chỉ vụ án và thơng
báo lại cho Tịa án. Nếu việc rút đó là trái ý muốn của người rút yêu cầu do bị đe dọa,
cưỡng bức thì Viện kiểm sát chuyển lại hồ sơ vụ án để Tòa án xét xử theo thủ tục chung
[12].
Bên cạnh đó, cần nâng cao ý thức, trách nhiệm của những người THTT trong việc
đảm bảo các quyền của người TGTT trong các VAHS. Nâng cao nhận thức của những
người TGTT về quyền con người trong TTHS. Những yếu kém trong nhận thức về
pháp luật của người TGTT cũng là nguyên nhân dẫn đến sự cẩu thả, thiếu trách nhiệm
trong việc tôn trọng và đảm bảo thực hiện các quyền của người TGTT. Chỉ khi người
dân nắm được pháp luật, biết được các quyền, lợi ích của mình có thể bị xâm phạm
trong những trường hợp nào, hay trường hợp nào mình được thực hiện các quyền vốn
có của mình mà khơng vi phạm pháp luật thì mới phát huy đúng được tinh thần của
Hiến pháp và pháp luật. Do đó, việc phổ biến pháp luật cho người dân cần được sâu
rộng hơn nữa, Đảng và nhà nước ta cần đề ra những chủ trương chỉ thị để các địa
phương phổ biến pháp luật được cụ thể và tốt hơn giúp cho người dân nắm bát được
pháp luật một cách hiệu quả nhất, bảo vệ được quyền công dân của mình đúng lúc,
đúng nơi.
15


C. KẾT LUẬN
Như vậy, BLTTHS quy định một số tội phạm chỉ được khởi tố VAHS theo yêu
cầu của bị hại, nghĩa là cơ quan có thẩm quyền phải nhận được yêu cầu của bị hại và
nếu xác định có dấu hiệu tội phạm mới được khởi tố vụ án, nếu không việc khởi tố này
là trái pháp luật. Quy định khởi tố VAHS theo yêu cầu của bị hại trong TTHS là cơ sở
pháp lý quan trọng góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, tạo điều kiện
để bị hại cân nhắc việc khởi tố có bất lợi cho cả lợi ích của họ hay không. Tuy quy định
của pháp luật đã cụ thể, rõ ràng nhưng thực tế áp dụng các quy định này trong thời gian

qua còn bộc lộ nhiều vướng mắc, bất cập, có những quan điểm, cách hiểu khác nhau
khi khởi tố, giải quyết VAHS theo yêu cầu bị hại nhưng chưa có văn bản hướng dẫn
cụ thể để các cơ quan THTT áp dụng thống nhất. Điều này làm cho pháp luật chưa
nghiêm, chưa đáp ứng yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại do tội phạm
gây ra. Đây là cơ sở pháp lý cho BLTTHS cụ thể hóa, chi tiết hóa nhằm đảm bảo sự
khách quan trong cơng tác đấu tranh, phịng ngừa tội phạm, góp phần xử lý kịp thời,
cơng minh đối với hành vi phạm tội đã xảy ra, không để lọt tội phạm và người phạm
tội, không làm oan người vô tội, khắc phục hạn chế oan sai đối với các VAHS theo quy
định của pháp luật.

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013;
2. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
3. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003;
4. Bộ luật hình sự năm 2015;
5. Bộ luật hình sự năm 1999;
6. Thơng tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005 của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ cơng an, Bộ quốc phịng về quan hệ phối hợp giữa cơ quan
điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS 2003;
7. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2016), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam,
Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội;
8. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội;
9. Trần Văn Biên, Đinh Thế Hưng (2017), Bình luật khoa học Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015, Nhà xuất bản thế giới;
10. Nguyễn Hịa Bình (2016), Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015, sách chuyên khảo, Nxb. Chính trị quốc gia;

11. Võ Khánh Vinh (2004), Bình luận khoa học bộ luật tố tụng hình sự, Nxb. Công an
nhân dân;
12. Phạm Mạnh Hùng (2016), Vấn đề khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị
hại trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tạp chí Khoa học Kiểm sát, số 3/2016;
13. Phan Thị Thắm (2017), Khởi tố vụ án hình sự theo quy định của luật tố tụng hình
sự, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội;
14. Lê Đình Nghĩa, Bàn về khởi tố, giải quyết vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại,
truy cập ngày 16/06/2021;
15. Võ Hồng Sơn, Vấn đề người bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án tại phiên tòa trong
một số vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, />thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/291, truy cập ngày 16/06/2021.
Cùng một số cơng trình nghiên cứu khoa học và trang thơng tin khác…
17



×