Tusacn
HỘI BẰNE CHỈ DẠU XUẤT BẢN
EU CN 0Ú 20/0000À
NÂNG CAO
KỸ NĂNG GIAO TIẾP
CUA CAN BO
:
XA, PHUONG, THỊ TRAN
ST
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
NANG CAO
KY NANG GIAO TIEP
CUA CAN BO
XA, PHUONG, THI TRAN
HOI DONG CHi DAO XUAT BAN
Chủ tịch Hội đồng
PGS.TS. NGUYÊN THẾ KỶ
Phó Chủ tịch Hội đồng
TS. HOANG PHONG HA
Thanh vién
TRAN QUOC DAN
TS. NGUYEN DUC TAI
TS. NGUYÊN AN TIEM
NGUYEN VU THANH HAO
3.30
Mã số ———————
CTQG - 2015
PGS. TS. NGUYEN BA DUONG
NANG CAO
KY NANG GIAO TIEP
CUA CAN BO
XA, PHUONG, THI TRAN
NHA XUAT BAN CHINH TRI QUOC GIA SU THAT
HA NỘI - 2015
CHU BIEN
PGS. TS. NGUYEN BA DUONG
TAP THE TAC GIA
PGS. TS. NGUYEN BA DƯƠNG
TS. PHAM HONG QUY
TS. LE VAN THÁI
ThS. NGUYEN VAN KIEU
ThS. DO THU HIEN
ThS. VUONG HONG HA
ThS. VŨ THỊ HƯƠNG
LOI NHA XUAT BAN
Xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cấp co
sở, có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính
trị ở nước ta. Nhiệm vụ chủ yếu của xã, phường, thị
trấn là quán
triệt,
vận
dụng,
cụ thể hóa và lãnh đạo
các tầng lớp nhân dân địa phương thực hiện đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; đưa đường lối, chỉ thị, nghị quyết của Đảng,
chính sách, pháp
luật của Nhà
nước vào cuộc sống.
Đây chính là nơi thể hiện toàn diện, trực tiếp và cụ thể
nhất mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân; nơi thực
hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên tất
cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội; nơi trực
tiếp quản lý,
bồi dưỡng, giáo dục, đào tạo, rèn luyện và
sàng lọc đội ngũ cán bộ, đảng viên; nơi tạo nguồn,
bổ
sung và cung cấp cán bộ lãnh đạo, quản lý cho các tổ
chức trong hệ thống chính trị các cấp. Vì vậy, việc chăm
1o củng cố,
xây dựng, nâng cao chất lượng hoạt động của.
hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn, mà trước
hết là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ phẩm
chất, năng lực, tín nhiệm với nhân dân, nhất là đội ngũ
cán bộ chủ chốt của tổ chức đảng, chính quyền, các tổ
lâu
or
chức chính trị - xã hội là nhiệm vụ thường xuyên,
đài, có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm
đáp ứng u
cầu,
cơng
nhiệm
vụ của
sự nghiệp
đẩy
mạnh
nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của hệ thống
chính trị các cấp ở nước ta, giao tiếp có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng bởi lẽ trình độ, kỹ năng giao tiếp của người
lãnh đạo, quản lý có liên quan trực tiếp đến hiệu quả
hoạt động, hiệu quả công tác. Qua khảo sát thực tiễn
cho thấy, trình độ, kỹ năng giao tiếp của cán bộ lãnh
đạo, quản lý trong hệ thống chính trị ở nước ta, đặc
biệt là cấp cơ sở, còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy, cịn
khơng ít cán bộ lãnh đạo, quản lý ngại tiếp xúc với dân,
dẫn đến hiệu quả cơng tác thấp.
Trên cơ sở đó, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự
thật xuất bản cuốn sách Nâng cao kỹ năng giao tiếp
của cán bộ xã, phường, thị trấn do PGS. TS. Nguyễn
Bá Dương làm chủ biên.
'Từ sự phân tích cơ sở lý luận về giao tiếp và giao
tiếp trong hoạt động lãnh đạo, quản lý, cuốn sách đi
sâu trình bày những kỹ năng
giao tiếp cần có, thiết
thực của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở như kỹ
năng
soạn
thảo văn bản,
kỹ năng
thuyết
trình,
kỹ
năng đàm phán, kỹ năng tiếp dân, kỹ năng tổ chức và
điều hành hội họp,
góp phần nâng cao hiệu quả giao
tiếp, hiệu quả công
lệc của cán bộ cấp cơ sở.
"Trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 9 năm 2015
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT
PHAN THU NHAT
GIAO TIEP VA GIAO TIEP
-
TRONG HOAT DONG LANH DAO, QUAN LY
Chuong I
NHUNG VAN DE LY LUAN
VE GIAO TIEP
1- CÁC CÁCH TIẾP CẬN VỀ GIAO TIẾP
Mặc dù khoa học giao tiếp ra đời muộn
so với
nhiều khoa học khác, song cho đến nay đã có
nhiều cách tiếp cận, nhiều khoa học nghiên cứu
về giao tiếp. Có thể khái quát một số cách tiếp cận
chính sau đây:
1. Cách tiếp cận nghiên cứu giao tiếp theo
lý thuyết thông tin
Lý thuyết thông tin hay lý thuyết toán học về
giao tiếp đã được nhà toán hoc N. Viener và nhà
sinh lý học A. Rezenblut đề xuất trên cơ sở nghiên
cứu các quá trình sinh lý học. Ý tưởng này nhấn
mạnh
chuyển
vào
những
thông
điệp
vấn
từ
để
một
kỹ
thuật
người
gửi
trong
việc
đến
một
người nhận. Lý thuyết thông tin về giao tiếp dựa
trên cơ sở mơ hình giao tiếp bao gồm năm yếu tố:
Bộ phát (người gửi), bộ thu (người nhận), bản
thông điệp, phản hồi và điều chỉnh. Như vậy, theo
lý thuyết thơng tin, giao tiếp là q trình trao đổi
thơng tin và ngược lại.
Ta có thể hình dung q trình giao tiếp theo
lý thuyết thông tin như sau: Một thông điệp bắt
đầu
với một
(người
viết
nguồn
hay
tin là ý nghĩ
người
nói);
của
người
thơng điệp thành từ và câu. Thơng
gửi
người
gửi
mã
hóa
điệp đó được
trun đi như một tín hiệu (dấu hiệu trên giấy
hoặc sóng âm) qua một con đường trong đó nó có
thể bị biến dạng bởi tiếng ồn (nhiễu) (như lỗi
đánh máy hoặc những vấn để âm học) ở giai đoạn
cuối cùng, người nhận (người nghe hay người đọc)
giải mã thơng điệp.
Mặc
dù các nhà nghiên cứu có thể đưa ra số
lượng các thành tố khác nhau về mơ hình giao
tiếp, song theo quan điểm của lý thuyết thơng tin
thì không thể bỏ qua ba nội dung cơ bản sau:
Một là, trong giao tiếp, thông tin là điều
không thể thiếu, khi hết thơng tin thì q trình
giao tiếp sẽ ngừng.
Hai là, liên hệ ngược, phản hồi (feedbaek) là
các thông tin đáp
gửi (phát
khiển, từ
giao tiếp.
Ba là,
phục hoặc
10
lại của người
nhận
với người
âm), phản hồi giúp cho sự tự điều
điều chỉnh của hai phía đạt mục dich
sự điều khiển của mỗi bên nhằm khắc
chống lại độ nhiễu (tiếng ồn) của môi
trường, giúp cho việc giao tiếp thuận lợi hơn trong
việc đạt mục tiêu giao tiếp.
Lý thuyết thông tin về giao tiếp được coi là có
ích và có ảnh hưởng lớn vì nó đã đề xuất khái
niệm người gửi, người nhận, khái niệm tương tác
có
thể
mạnh
chế
giao
chú
con
có
giữa
các
chủ
thể
giao
tiếp;
đến tính chính xác của giao tiếp.
nó
nhấn
Song hạn
cơ bản của lý thuyết này là ở chỗ các chủ thể
tiếp khơng phải là cỗ máy; đặc biệt nó chưa
trọng đến hồn cảnh văn hóa, xã hội trong đó
người giao tiếp với nhau.
2. Lý thuyết môi trường xã hội về giao tiếp
Để khắc phục những hạn chế của lý thuyết
thông tin về giao tiếp, một số nhà xã hội học và
nghiên cứu ứng xử đã đề xuất lý thuyết môi
trường xã hội về giao tiếp. Lý thuyết này nhấn
mạnh đến hồn cảnh, mơi trường văn hóa - xã hội
mà con người giao tiếp với nhau, nhất là giao tiếp
trong một tổ chức. Khi làm việc và giao tiếp trong
một cơ cấu tổ chức nhất định, con người tham gia
vào một hoàn cảnh xã hội nhất định. Để giao tiếp
thành cơng địi hỏi mỗi chủ thể giao tiếp phải
đúng vai, ngoài ra cần phải hiểu và nắm vững
những
quy tắc hay nền
văn hóa của mơi trường
giao tiếp bên trong và bên ngồi tổ chức.
những
quy tắc chính
thức và những
Chính
quy tắc bất
thành văn đã chỉ phối việc chúng ta giao tiếp với
11
ai, giao tiép nhu thé nao, vao lic nao va trong bao
lâu thì thích hợp và có hiệu quả.
Lý thuyết mơi trường về giao tiếp có vai trị
đặc biệt quan trọng trong bối cảnh hội nhập hiện
nay đang xuất hiện nhiều tổ chức đa văn hóa và
sự phát triển nhanh
chóng của công nghệ
tin. Tuy nhiên, lý thuyết này chỉ
một mặt của giao tiếp, nó chưa
bản chất của giao tiếp cũng như
đa dang nhiều mặt của giao tiếp,
trong quản lý.
thông
nhấn mạnh
phản ánh
tính phong
nhất là giao
đến
được
phú,
tiếp
3. Lý thuyết tu từ về giao tiếp
Theo lý thuyết này, giao tiếp của con người
không
đi theo một
cung trịn; khơng
đường
thẳng
mà
đi theo một
phải chỉ là việc gửi một
thơng
điệp là xong mà điều quan trọng là còn phải làm
sản sinh một đáp ứng. Mặt khác, lý thuyết này
còn nhấn mạnh
đặc tính hết sức cơ bản của
giao tiếp là: Giao tiếp không phải tĩnh mà là động trong giao tiếp mọi thứ đều có thể thay đổi, đặc
biệt là ở các chủ thể tham gia giao tiếp.
Những đặc tính của giao tiếp mà lý thuyết
này nhấn mạnh có ý nghĩa rất quan trọng đối với
các nhà lãnh đạo, quản lý khi giao tiếp trong tổ
chức.
Thông
thường
một
số người
chỉ chú
trọng
đến việc viết hay nói cái gì và viết hay nói như thế
nào, chứ ít khi chú ý đến sự sản sinh ra một đáp
12
ứng mà ho mong đợi ở cử tọa giao tiếp với họ. Mơ
hình giao tiếp này gồm năm yếu tố: Người giao
tiếp, thông điệp, cử tọa, đáp ứng và môi trường,
nó khơng
phải là một
đường
thẳng
mà
có dạng
cung trịn. Tính tuần hồn của mơ hình này cho
thấy hiệu quả giao tiếp của người lãnh đạo, quản
lý tùy thuộc vào kết quả mà người đó tác động,
truyền cảm hứng.
4. Lý thuyết tâm lý học về giao tiếp
'Từ những nghiên cứu tâm lý học về giao tiếp ở
trong và ngồi
của các nhà
tâm
nước,
nhất
là những
lý học Xơviết,
nghiên
cứu
có thể tạm
chia
thành hai xu hướng sau:
- Cách tiếp cận giao tiếp như một hoạt động.
Cùng
quan
với phạm
trù “hoạt động”,
hệ tác động qua
lại, chuyển
nói lên mối
hóa cho nhau
giữa con người với con người với tư cách là chủ thể
của hoạt động với khách
thể (gồm những sự vật,
hiện tượng và mối quan hệ giữa chúng trong thực
tế khách quan), là phạm
trù giao tiếp thể hiện
quan hệ qua lại giữa chủ thể này với chủ thể khác
ở các cấp
độ cá nhân,
nhóm,
cộng
đồng.
Trong
quan hệ giao tiếp đưa đến sự biến đổi của cả hai
chủ thể, nghĩa là tạo ra sản phẩm ở cả hai chủ
thể.
Tuy
nhiên,
xung
quanh
động và giao tiếp, trong
những ý kiến khác nhau.
cách
mối
quan
tiếp cận
hệ
hoạt
cịn
có
Trong tâm lý học Xôviết, ngay từ những năm
30 của thế kỷ XX trở đi, cùng với việc phân tích
bản chất và vai trò đặc biệt quan trọng của “hoạt
động có đối tượng”, quan hệ “chủ thể" (S) - khách
thể (O), A.N. Lêônchiép
và các cộng sự đều coi
giao tiếp (chủ thể - chủ thể) như
một
dạng của
hoạt động. Vào những năm 70 của thế kỷ XX, tiếp
tục phát triển cách tiếp cận giao tiếp như một
dạng
hoạt
động,
A.A.
Lêônchiép
cho
rằng,
cũng
như các dạng hoạt động khác, giao tiếp hướng vào
mục đích xác định và do những động cơ nhất định
thúc
đẩy,
hoạt
động
giao tiếp diễn ra nhờ các
phương tiện đặc thù như phương tiện ngôn ngữ và
“phi ngôn ngữ”.
Trong
khi
thừa
nhận
mối
quan
hệ
qua
lại
giữa “hoạt động” và “giao tiếp”, B.Ph. Lômốp cho
rằng giao tiếp là một phạm trù độc lập, trong mối
quan hệ với hoạt động, không nên coi giao tiếp là
một dạng đặc thù của hoạt động. Trong tác phẩm
Những
vấn đề lý luận
và phương pháp luận tâm
lý học, B.Ph. Lômốp coi giao tiếp là hình thức độc
lập và đặc thù của tính tích cực của chủ thể, là
hình thái đặc trưng của sự tác động qua lại của
chủ thể này lên một chủ thể khác.
Như vậy, dù cách tiếp cận nhấn mạnh vai trị
quyết định chỉ thuộc về “hoạt động có đối tượng”
và coi giao tiếp chỉ là dạng đặc thù của hoạt động
hoặc cách tiếp cận coi giao tiếp là phạm
14
trù độc
lập, có tính đồng đẳng với “hoạt động có đối
tượng” thì đều có những hạt nhân rất hợp lý.
- Cách tiếp cận giao tiếp như một quan hệ
tương tác xã hội.
Xuất phát từ quan điểm xã hội - lịch sử về
bản chất tâm lý con người, các nhà tâm lý học
Xôviết như L.X. Vưgốtxki coi giao tiếp là mối
quan hệ giữa con người với con người, qua đó con
người tác động qua lại với nhau
về quan điểm và
cảm xúc. la.L. Kôlôminxki cho rằng: “Giao tiếp là
sự tác động qua lại về mặt thông tin giữa con người
và con người, trong đó quan hệ liên nhân cách được
hình thành và bộc lộ”. B.D. Parugin coi giao tiếp là
quá trình tác động qua lại giữa con người với nhau,
trao đổi thông tin, ảnh hưởng lẫn nhau, hiểu biết
và nhận thức về nhau. Trong tác phẩm Van dé
giao tiếp, G.M. Anchêeva cho rằng giao tiếp có ba
mặt quan hệ hữu cơ với nhau: mặt thông tin, mặt
tri giác con người và mặt tác động qua lại.
Quan điểm của L.X. Vưgốtxki và một số nghiên
cứu như đã dẫn ra ở trên đã nhìn nhận giao tiếp
như là một quan hệ tương tác xã hội.
Qua việc khái quát các cách tiếp cận trên về
giao tiếp cho thấy ở mỗi cách tiếp cận đã ít nhiều
để cập những đặc tính cơ bản về giao tiếp dựa
trên
quan
điểm
của
từng
cách
tiếp
cận.
Tuy
nhiên, từng cách tiếp cận về giao tiếp, kể cả cách
tiếp cận tâm lý học được coi là cách tiếp cận tương
lỗ
đối đây đủ nhất cũng chưa phản ánh được hết
những đặc điểm cơ bản của giao tiếp, nhất là giao
tiếp trong quản lý.
5. Cách tiếp cận hệ thống, chức năng về
giao tiếp của cán bộ lãnh đạo, quản lý!
Trong
nghiên
cứu
khoa
học,
ngoài
việc
xác
định đối tượng nghiên cứu được coi là cốt lõi, thì
nhiệm vụ xác định, lựa chọn cách tiếp cận nghiên
cứu,
các
phương
pháp
nghiên
cứu
cũng
không
kém phần quan trọng. Đề cập vấn để nay, nha
khoa học Xôviết LP. Páplốp (1849 - 1936) đã
khẳng
định: “Tồn
bộ cơng việc nghiên
cứu
trực
tiếp nằm trong phương pháp tiếp cận. Có phương
pháp tiếp cận đúng thì ngay cä những người chưa
hồn tồn đã giỏi, nhưng vẫn có thể làm được rất
nhiều. Ngược lại nếu cách
pháp
tiếp cận sai, phương
tơi thì ngay cä những người tài giỏi cũng có
thể làm
nghiên
những
cứu
việc hồi cơng
trong
lĩnh
vực
Đácuyn
vơ ích”.
tự
nhiên
(1809
Cịn
nổi
- 1889)
nhà
tiếng
người
Anh
là Sáclơ
cho
rằng:
Nghệ
thuật tìm tịi cái mới thể hiện trong
1. Xem Nguyễn Bá Dương (Chủ biên): Giao tiếp
của cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị 6
Việt
Nam,
Nxb.
Chính
trị
quốc
gia,
Hà
Nội,
2015,
tr.71-79.
2. LP. Paplép: Toan tap, ban tiéng Nga, Matxcova,
1952, t.5, tr.528.
16
phương pháp tìm tịi ngun nhân của các sự vật,
hiện tượng và nắm lấy bản chất về chúng.
- Giao tiếp của người lãnh đạo, quản lý chủ
chốt trong hệ thống chính trị ở nước ta, theo quan
điểm
của chúng
tơi ngồi chứa
đựng
những
điểm
chung
có những
điểm
riêng biệt.
cịn
đặc
đặc
Chính vì vậy để làm rõ những đặc điểm cũng như
cơ sở để xác định và tìm kiếm những biện pháp
nhằm
nâng cao kỹ năng giao tiếp cho người lãnh
đạo, quản lý trong hệ thống chính trị cần lựa chọn
cách tiếp cận hệ thống, chức năng.
Từ Hội nghị Trung ương 6 khóa VI, khái niệm
“hệ thống chính trị” được thay cho khái niệm “hệ
thống chun chính vơ sản”. Hệ thống chính trị
Việt Nam (gồm: Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội) khơng chỉ
thể hiện tính chỉnh thể về tổ chức, tính đại diện
trong xã hội, mà còn khu biệt rõ giữa hệ thống tổ
chức bộ máy với các yếu tố khác của nền chính trị.
Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hịa xã hội
chủ
nghĩa
Việt
Nam
đã
quy
định
rõ
vai
trò,
phương thức hoạt động của các tổ chức thành viên
trong hệ thống chính trị, xác định mối quan hệ, sự
vận hành của cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, Nhân dan lam chu’.
1. Xem Hiến pháp nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014.
17
- Giao tiếp của người cán bộ lãnh đạo, quản lý
trong hệ thống
chính
trị là q
trình phức
tạp,
chiếm phần lớn thời gian của người lãnh đạo. Để
làm
rõ được
đặc
điểm cũng như có cơ sở nghiên
cứu về tính hiệu quả và các kỹ năng giao tiếp của
cán bộ lãnh đạo, quản lý, chúng tôi cho rằng cần
phải dựa trên quan điểm cách tiếp cận hệ thống
và cách tiếp cận chức năng.
"Triết học duy vật biện chứng đã khẳng định
sự cần thiết, xem xét ba dạng đặc điểm cơ bản của
thế
giới khách
quan
theo
ba
phương
diện:
cấu
trúc, hệ thống, chức năng. Trong lịch sử khoa học,
Sáclø Đácuyn
thống
trong
đã khám
sinh
vật
phá
học;
ra cách tiếp cận hệ
Menđêlêép
đã
khám
phá ra hệ thống tuần hoàn các nguyên tố hóa học;
C. Mác đã khám phá ra cách tiếp cận hệ thống
trong nghiên
cứu xã hội. Trong
tâm
lý học, các
nhà nghiên cứu cũng đã xác định một số u cầu
có tính ngun
điểm
tắc trong việc tiếp cận theo quan
hệ thống khi nghiên cứu tâm lý con người:
Tâm lý con người là sự phản ánh thế giới khách
quan
vào
não
và mang
tính
chủ
thể,
tâm
lý là
chức năng của não, tâm lý người chính là nền văn
hóa - xã hội của lồi người biến thành cái riêng
của mỗi người, nó có chức năng nhận thức, tổ thái
độ, điều khiển, điều chỉnh hành vi con người, làm
cho hành vi của con người trở thành hành vi có ý
thức.
18
Từ
quan
điểm
trên cho thấy
tiếp cận cấu