Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

MÔN học LUẬT dấn sự BUỔI THẢO LUẬN THỨ BA (tài sản và QUYỀN đối với tài sản) GIẢNG VIÊN lê ĐẶNG PHƯƠNG UYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.83 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

MƠN HỌC: LUẬT DẤN SỰ
BUỔI THẢO LUẬN THỨ BA
(TÀI SẢN VÀ QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN)
GIẢNG VIÊN: LÊ ĐẶNG PHƯƠNG UYÊN
HỌ VÀ TÊN: LÊ THỊ NHƯ QUỲNH
MSSV: 2053801014228

download by :


MỤC LỤC
PHẦN 1 TÀI SẢN VÀ QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN............................................................... 1
Câu 1 Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh
họa về giấy tờ có giá...................................................................................................................... 3
Câu 2 Trong thực tiễn xét xử, “ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá khơng? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có
cho câu trả lời khơng?.................................................................................................................... 3
Câu 3 Trong thực tiễn xét xử, “ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho câu
trả lời
khơng?.............................................................................................................................................. 4
Câu 4 Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan
đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ khái
niệm tài sản (và nếu có điều kiện, đối chiếu thêm với pháp luật nước ngoài);...............4
Câu 5 Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà có là tài sản khơng? Vì sao?............................................................. 5
Câu 6 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”................................ 5


Câu 7 Bitcoin là gì?..................................................................................................................... 5
Câu 8 Theo Tịa án, Bitcoin có là tài sản theo pháp luật Việt Nam khơng?..................6
Câu 9 Pháp luật nước ngồi có coi Bitcoin là tài sản khơng? Nếu có, nêu hệ thống
pháp luật mà anh/chị biết.............................................................................................................. 7
Câu 10 Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối
quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam................................................................................ 7
Câu 11 Quyền tài sản là gì?.......................................................................................................... 8
Câu 12 Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là
quyền tài sản không?...................................................................................................................... 8
Câu 13 Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối theo hướng
quyền thuê, quyền mua là tài sản?.............................................................................................. 9
Câu 14 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dấn tối cao trong
Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái niệm tài
sản)?................................................................................................................................................... 9
PHẦN 2 CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU...................................................................... 9
Câu 15 Tóm tắt bản án số 111/2013/DS-GĐT ngày 09 tháng 9 năm 2013 tại Hội
Đồng Thẩm Phán Tòa án Nhân dân tối cao.............................................................................. 9

download by :


Câu 16 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tịa án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về
khẳng định này của Tòa án?....................................................................................................... 10
Câu 17 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tịa án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?.................................................................................. 11
Câu 18 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tịa án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?.................................................................................. 11

Câu 19 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu cơng khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?.................................................................................. 12
Câu 20 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tịa án khẳng định cụ Hảo khơng
cịn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng
định này của Tòa án?................................................................................................................... 12
Câu 21 Theo anh/chị, gia đình chị Vân có dược xác lập quyền sở hữu với nhà đất có
tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao?.................... 13
PHẦN 3 CHUYỂN RỦI RO ĐỐI VỚI TÀI SẢN.................................................................... 13
Câu 22 Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời…...........................................................................................................13
Câu 23 Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời……………..........................................................................................................13
Câu 24 Bà Dung có phải thanh tốn tiền mua ghe xồi trên khơng? Vì sao? Nêu cơ
sở pháp
lý……………………………………………………………………………………14

1

download by :


PHẦN 1 TÀI SẢN VÀ QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN
Tóm tắt bản án số 06/2017/QĐ-PT ngày 11 tháng 7 năm 2017 của Toà án nhân
dân tỉnh Khánh Hoà.
Nguyên đơn là ông Phan Hai sinh năm 1939 có quyền khởi kiện ông Phan Quốc Thái,
yêu cầu ông Phan Quốc Thái trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành
0926009, số vào sổ 01868QSDĐ/DS-DK cấp ngày 23/7/1999 của Uỷ ban nhân dân
huyện Diên Khánh mang tên Lương Thị Xàm.
Ngày 15/5/2017, nguyên đơn ông Phan Hai kháng cáo quyết định đình chỉ giải quyết

vụ án nêu trên lý do: Tồ án cho răng ông Phan Hai không cung cấp được Giấy uỷ
quyền của ông Phan Trọng Nguyên và ông không cung cấp giấy tờ chứng minh về
quyền sở hữu tài sản đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành
0926009, số vào sổ 01868QSDĐ/DS-DK cấp ngày 23/7/1999 của Uỷ ban nhân dân
huyện Diên Khánh là không thoả đáng.
Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Phan Hai phải chịu án phí dấn sự phúc
thẩm, được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng á phí dân sự phúc thẩm.
Tóm tắt bản án số 39/2018/DSST ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Toà án nhân
dân huyện Long Hồ- tỉnh Vĩnh Long.
Nguyên đơn là ông Võ Văn B và bà Bùi Thị H sinh khởi kiện bà Nguyễn Thị Thuỷ T
yêu cầu bà T trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 090902 thửa đất 1595
diện tích 489,1m2 cấp cho hộ ơng Võ Văn B.
Ngày 18/10/2012 đã làm đơn mất cớ được UBND xã Thanh Đức xác nhận. UBND
huyện Long Hồ đã ban hành quyết định số 3643/QĐ-UBND huỷ bỏ giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất của ông B bị mất, ngày 14/11/2012 UBND huyện Long Hồ đã cấp
lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cho hộ ông B mang
số hiệu BM 904331. UBND huyện Long Hồ đã ra quyết định số 681/QĐ-UBND ngày
18/02/2016 huỷ bỏ quyết định số 3643/QĐ-UBND và thu hồi lại giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BM 904331 do bà T tranh chấp và đưa ra giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất AM 090902 cho thấy giấy này khơng bị mất.
Bà T có giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 090902 thửa đất 1595 diện
tích 489,1m2 của ơng Võ Văn B. Bà T không đồng ý trả lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất theo yêu cầu của ông B và bà H, bà T chỉ đồng ý trả lại khi ông B và bà H
trả đủ số tiền 120.000.000 đồng.
Tóm tắt bản án số 22/2017/HC-ST ngày 21 tháng 9 năm 2017 của Toà án nhân
dân tỉnh Bến Tre.
Người khởi kiện là ơng Nguyễn Việt Cường có đơn khởi kiện Chi cục trưởng Chi cục
thuế Thành phố Bến Tre và Cục trưởng Cục thuế tỉnh Bến Tre yêu câu Toà án huỷ
Quyết định số 714/QĐ-CCT ngày 12/5/2016 của Chi cục trưởng Chi cục thuế thành
phố tỉnh Bến Tre và Quyết định 1002/QĐ-CT ngày 18/5/2017 của Cục trưởng Cục

thuế tỉnh Bến Tre.
Trước đó ơng Cường có tham gia mua bán tiền kỹ thuật số và kiếm được một số tiền
lời. Trong giai đoạn ông tham gia mua bán tiền ảo trên mạng Internet, hình thức kinh
1

download by :


doanh này không vi phạm pháp luật, nhưng do đây là loại hình kinh doanh mới nên
pháp luật về thuế vẫn cịn chưa kịp điều chỉnh. Ơng đã đi đăng ký kinh doanh ngành
nghề này tại phòng đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư Bến Tre nhưng
các loại tiền ảo khơng được coi là hàng hóa để đăng ký kinh doanh ngành Thương
mại điện tử theo Nghị định 52/2013/NĐ-CP , nộp thuế với lý do chủ yếu: thời điểm
đó, hình thức kinh doanh này chưa có tên và mã số ngành nghề trong hệ thống ngành
nghề kinh doanh của Việt Nam. Tuy nhiên, trong giai đoạn đó, Bộ Cơng thương và
Chính phủ khẳng định tiền ảo khơng phải là hàng hóa. Ơng đã gửi các tài liệu có liên
quan của Bộ Cơng thương và Chính phủ quy định rõ tiền ảo khơng phải là hàng hóa
cho người đại diện Chi cục thuế và Cục thuế để xem xét. Tuy nhiên, Chi cục thuế và
Cục thuế đã khơng xém xét mà cịn tính thuế đối với ơng một cách bất hợp lý.
Tóm tắt Quyết định số 05/2018/DS-GĐT ngày 10 tháng 4 năm 2018 của Hội đồng
Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn là bà Nguyễn Thị H khởi kiện bà Nguyễn Thị Kim L về vụ án dân sự
tranh chấp chia tài sản chung việc mua hố giá nhà tại Thành phố Hồ Chí Minh. Cha
mẹ của bà H là cụ Nguyễn Thanh T và cụ Lâm Thị C có 3 đứa con chung là bà H, ơng
Nguyễn Văn T1 và ơng Nguyễn Văn T2(có vợ là bà Hồ Thị H4 và có 4 người con
chung là Nguyễn Hồ Thanh C1, Nguyễn Hồ Hoàng Đ, Nguyễn Thị An t2 và Nguyễn
Thị Mỹ D). Từ năm 1976, cụ T chung sống với cụ Lê Thị T4( không đăng ký kết
hôn), khoảng đầu năm 1976, cụ T được Quân đội cấp căn nhà số 63(tầng 2) đường V,
phường X. 27/8/1995, cụ T chết không để lại di chúc, Nguyễn Thị L là con riêng của
cụ T4 đã đứng tên làm hợp đồng thuê căn nhà trên và xin mua hoá giá căn nhà. Khi

biết được việc làm này của bà L thì bà đã có đơn khiếu nại, bà H yêu cầu Tòa án chia
nhà số 63 đường B theo pháp luật cho các thừa kế của cụ T bao gồm cụ T4, bà, ông
T1, ông T2, bà L (nếu chứng minh được là con nuôi hợp pháp) và yêu cầu bà L hoàn
trả tiền cho thuê nhà từ năm 1998 đến nay là khoảng 2.000.000.000 đồng. Năm 1993,
cụ T lập giấy ủy quyền cho bà L được trọn quyền giải quyết những việc có liên quan
đến quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với căn nhà số 63 đường B; cụ T viết rõ
trong giấy ủy quyền là giấy ủy quyền có giá trị trong khi cụ còn sống và kể cả khi cụ
chết. Theo nhận định của Tòa án, đến thời điểm cụ T chết năm 1995, cụ chưa làm thủ
tục mua hóa giá nhà đối với nhà số 63 nêu trên. Quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ
T là quyền tài sản và được chuyển giao cho các thừa kế của cụ T. Do đó, bà H và ơng
T1 được hưởng thừa kế quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T. Tại Biên bản giải
quyết khiếu nại ngày 05-7-2001 của Thanh tra Bộ Quốc phòng, hai bên đã thỏa thuận
thống nhất “…đồng ý để bà L đứng tên mua căn nhà 63 đường B. Việc phân chia sau
khi đã trừ đi những khoản chi phí nghĩa vụ đối với Nhà nước, giá trị còn lại do chị em
bàn bạc thỏa thuận, nếu khơng được thì giải quyết theo pháp luật”. Ngày 09-10-2002,
bà L và chồng (ông Nguyễn Phi H3 đã chết năm 2006) được cấp Giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất nêu trên. Như vậy, việc bà L mua được căn
nhà số 63 đường B nêu trên là do có sự thống nhất, thỏa thuận giữa bà H, ơng T1 với
bà L ngày 05-7-2001 thì Qn khu 7 mới giải quyết cho bà L được đứng tên mua hóa
giá nhà. Do đó, có căn cứ xác định nhà số 63 đường B là tài sản chung của bà H, ông
T1 và bà L.
2

download by :


Câu 1
Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ
minh họa về giấy tờ có giá.
Trả lời:

Giấy tờ có giá là chứng chỉ hoặc bút tốn ghi sổ, trong đó xác nhận quyền tài sản của
một chủ thể nhất định (tổ chức, cá nhân) xét trong mối quan hệ pháp lý với các chủ
thể khác. Giấy tờ có giá được xác định là một loại tài sản theo quy định tại Điều 105
Bộ luật Dân sự năm 2015, nhưng trong Bộ luật Dân sự cũng khơng có quy định cụ thể
về khái niệm “giấy tờ có giá”. Tuy nhiên, hiện nay trong quy định của pháp luật hiện
hành, cụ thể tại khoản 8 Điều 6 Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010, Khoản 1
Điều 3 Thông tư 04/2016/TT-NHNN, Khoản 1 Điều 2 Thơng tư 01/2012/TT-NHNN
có quy định cụ thể về khái niệm giấy tờ có giá như sau: “Giấy tờ có giá được xác định
là một loại giấy tờ có giá trị như chứng cứ, bằng chứng để xác nhận nghĩa vụ trả nợ
giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá (thường là ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân
hàng…) với người sở hữu giấy tờ có giá (ví dụ người mua trái phiếu, tín phiếu…)
trong một thời gian nhất định, điều kiện trả lãi và những điều kiện khác trong giao
dịch ghi nợ này”.
Ví dụ: Hối phiếu địi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, cơng cụ chuyển nhượng khác được
quy định tại Điều 1 Luật Các cơng cụ chuyển nhượng năm 2005; Trái phiếu Chính
phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu được quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 4
Pháp lệnh ngoại hối năm 2005; Tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, cơng trái và các công
cụ khác làm phát sinh nghĩa vụ trả nợ được quy định tại Điểm 16, Điều 3 Luật Quản
lý nợ công 2009.
Câu 2
Trong thực tiễn xét xử, “ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá khơng? Quyết định số 06 và Bản
án số 39 có cho câu trả lời không?
Trả lời:
Trong thực tiễn xét xử phần lớn các bản án đều không công nhận “Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận uyền sở hữu nhà” là tài sản.
Ở Quyết định số 06 thì Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Quyền tài sản
là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở
hữu trí tuệ, quyền sử dựng đất và các quyền tài sản khác”. Theo Khoản 16 Điều 3
Luật Đất đai năm 2013: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và

tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với
đất”. Do đó, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin
về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là tài sản và không thể
xem là loại giấy tờ có giá.
Ở Quyết định số 39 thì câu trả lời khơng thực sự rõ ràng về giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất nhưng theo nhận định của Tịa án thì trong đoạn “ UBND huyện Long Hồ đã
ban hành quyết định số 3643/QĐ-UBND hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
của ông B bị mất và ngày 14/11/2012 Ủy ban nhân dân huyện Long Hồ đã
3

download by :


cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ
ông B mang số hiệu BM 904331. Sau đó bà T tranh chấp và đưa ra giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất AM 090902 cho thấy giấy này không bị mất nên UBND huyện
Long Hồ đã ra quyết định số 681/QĐ.UBND ngày 18/2/2016 hủy bỏ quyết định số
3643/QĐ.UBND và thu hồi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BM 904331”
thì có thể nói rằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông B là tài sản và là loại
giấy tờ có giá vì khi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũ của ông B do bà T nắm
giữ và không bị mất cũng như quyết định thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
mới của UBND huyện Long Hồ.
Câu 3
Trong thực tiễn xét xử, “ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà” có là tài sản khơng? Quyết định số 06 và Bản án số 39
có cho câu trả lời khơng? Vì sao?
Trả lời:
Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu

nhà” không phải là tài sản theo quy định tại Điều 105, Điều 115 Bộ luật Dân sự 2015
và Khoản 15 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013.
Ở quyết định số 6 thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là tài sản theo
quyết định của Tịa án vì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chứng thư pháp lý để
Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền
sử dụng đất gắn liền với đất. Còn ở Bản án số 39 thì giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất khơng phải là tài sản vì cũng giống như quyết định số 6 là chứng thư pháp lý để
Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất của người có quyền sử dụng đất.
Câu 4
Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06
liên quan đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu
nhà” nhìn từ khái niệm tài sản (và nếu có điều kiện, đối chiếu thêm với pháp
luật nước ngoài);
Trả lời:
Trong quyết định số 06 của Tịa án thì ở đoạn “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là loại văn bản chứng
quyền, không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá” thì có thể thấy
rằng Tòa án đã căn cứ Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 và Khoản 16 Điều 3 Luật
đất đai năm 2013 để ra khẳng định trên. Nếu nhìn từ khái niệm tài sản được quy định
tại Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền
tài sản” thì cách giải quyết trên của Tịa án là đúng bởi vì giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất theo khẳng định của Tòa án chỉ là chứng thư pháp lý để nhà nước xác nhận
quyền sử dụng đất gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất gắn liền
với đất cho nên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không được coi là tài sản theo
quy định tại Điều 105 và Điều 115 của Bộ luật Dân sự năm 2015 và trong hai quy
định này đều coi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là quyền tài sản của
người sử dụng đất vì Nhà nước cơng nhận quyền sử dụng đất là việc Nhà nước trao
quyền sử dụng đất cho người đang sử dụng đất ổn định mà khơng có nguồn gốc được
Nhà nước giao đất, cho thuê đất thông qua việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất

4

download by :


lần đầu đối với thửa đất xác định. Cho nên hướng giải quyết trong Quyết định số 06
liên quan đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” phù
hợp với quy định tại Điều 105, Điều 115 của Bộ luật Dân sự năm 2015 và Khoản 16
Điều 3 Luật đất đai năm 2013.
Câu 5 Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà có là tài sản khơng? Vì sao? Trả lời:
Nếu áp dụng Bộ luật Dân sự năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà không phải là tài sản.
Vì theo Khoản 1 điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định thì: “Tài sản là vật,
tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”, căn cứ vào Điều 115 “Quyền tài sản là quyền trị
giá được bằng tiền bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ,
quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Do đó, giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà chỉ là văn bản chứa đựng quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà, quyền tài sản. Còn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà không phải là tài sản.
Câu 6 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan
đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”. Trả
lời:
Hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” là hợp lý, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp
của ơng B và bà H liên quan đến quyền về tài sản gắn liền với đất. Có thể thấy Hội
đồng xét xử đã căn cứ Khoản 2 Điều 4 “ Tịa án khơng được từ chối giải quyết vụ
việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng. Vụ việc dân sự chưa có điều luật để
áp dụng là vụ việc dân sự thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự nhưng tại
thời điểm vụ việc dân sự đó phát sinh và cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu Tịa án

giải quyết chưa có điều luật để áp dụng. Việc giải quyết vụ việc dân sự quy định tại
khoản này được thực hiện theo các nguyên tắc do Bộ luật dân sự và Bộ luật này quy
định” ; Khoản 14 Điều 26 “Các tranh chấp khác về dân sự, trừ trường hợp thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật” Bộ luật tố
tụng Dân sự năm 2015 để xác định yêu cầu đòi trả giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất của ông B và bà H thuộc thẩm quyền của Tịa án, việc căn cứ này là hồn tồn
chính xác và phù hợp với thẩm quyền của Tòa án bởi việc từ chối vụ việc dân sự chưa
có điều luật để áp dụng cũng như việc giải quyết vụ việc dân sự liên quan đến giấy
chứng nhận đã góp phần bảo vệ quyền lợi của ông B và bà H. Đồng thời về quyết
định cuối cùng của Hội đồng xét xử là chấp nhận yêu cầu của ông B và bà H buộc bà
T có nghĩa vụ giao trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông B và bà H đã giúp
ơng B với bà H có thể thực hiện được quyền của mình trong việc sở hữu nhà đất cũng
như làm rõ hơn trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân liên quan đến các vụ việc dân sự.
Câu 7
Trả lời:

Bitcoin là gì?
5

download by :


Bitcoin (ký hiệu là BTC hay XBT) được coi đồng tiền của internet, nó là một loại tiền
mã hóa, hay còn gọi tên khác là tiền tệ kỹ thuật số (tiền điện tử, tiền ảo, tiền sô) phân
cấp, được phát hành vào năm 2009 dưới dạng một phần mềm mã nguồn mở, và nó
được tạo ra bởi một người có tên là Satoshi Nakamoto. Bitcoin được trao đổi trực tiếp
trên mạng internet mà không thông qua một tổ chức tài chính trung gian nào.Cách
thức hoạt động của Bitcoin khác hồn tồn so với các loại tiền tệ bình thường, khơng
có bất cứ cá nhân, tổ chức nào quản lý các giao dịch Bitcoin. Một sự khác biệt đáng

kể khác giữa tiền điện tử và tiền thật là ngân hàng. Mục tiêu nhiệm vụ của Ngân hàng
Trung ương là tạo ra sự ổn định tiền tệ. Tuy nhiên, Ngân hàng Bitcoin không tồn tại.
Nguyên nhân của việc này là do tự bản thân Bitcoin đã là một ngân hàng. Có một sổ
thanh tốn độc lập cung cấp thơng tin về trạng thái sở hữu của tất cả người dùng và
lịch sử giao dịch giữa họ. Hơn nữa, số lượng Bitcoin là có hạn. Điều này cũng hạn
chế vai trị của tổ chức giám sát. Chúng ta hãy xem cách thức hoạt động của Bitcoin.
Câu 8
Theo Tịa án, Bitcoin có là tài sản theo pháp luật Việt Nam khơng?
Trả lời:
Theo Tịa án, Bitcoin không là tài sản theo pháp luật Việt Nam. Theo Điều 105 Bộ
luật Dân sự năm 2015 quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các
quyền tài sản” từ căn cứ trên thì tiền ảo khơng phải là tiền Việt Nam vì nó khơng thỏa
mãn các dấu hiệu để được xác định là tiền và không do Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam phát hành. Theo Điều 16, 17 Luật Ngân hàng nhà nước năm 2017 quy định về
đơn vị tiền tệ, Bitcoin không được xem là đơn vị tiền của nhà nước Việt Nam. Bên
cạnh đó, tiền ảo cũng khơng thuộc một trong các loại giấy tờ có giá được quy định
trong Nghị định số 112/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm. Tại Điểm a Khoản 2 Điều 6
Luật Ngân hàng nhà nước quy định về ngoại tệ “Tiền ảo không phải là một trong các
loại ngoại hối”, Bitcoin không được xem là ngoại tệ và cũng khơng phải là đối tượng
của ngoại hối vì Bitcoin không phải đồng tiền của bất cứ một quốc gia nào trên thế
giới hiện nay. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện tại khơng có định nghĩa cụ thể về
khái niệm “tiền” theo Khoản 1 Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trong khi đó Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra thơng cáo báo chí khơng chấp nhận
tiền ảo là tiền tệ, phương tiện thanh toán hợp pháp và được nhà nước bảo vệ, cụ thể
tại Khoản 6 Điều 4 Nghị định số 102/2012/NĐ-CP về thanh tốn khơng dùng tiền
mặt, được sửa đổi, bổ sung bở Nghị định số 80/2016/NĐ – CP về phương tiện thanh
tốn khơng dùng tiền mặt sử dụng trong giao dịch thanh tốn, thì phương tiện thanh
toán bao gồm: Séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng và
các phương tiện thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Bên cạnh
đó, Khoản 7 Điều 4 Nghị định cũng quy định: Phương tiện thanh tốn khơng hợp

pháp là các phương tiện thanh tốn khơng thuộc quy định tại Khoản 6 Điều này. Theo
quy định trên, việc sử dụng tiền ảo làm phương tiện thanh toán là bất hợp pháp tại
Việt Nam, bởi tiền ảo không phải là séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm
thu, thẻ ngân hàng…
Ngồi ra Bộ Cơng Thương hiện tại vẫn chưa cơng nhận Bitcoin là hàng hố hay dịch
vụ, phủ nhận thẩm quyền của mình đối với Bitcoin. Đồng thời nghị định
6

download by :


96/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 của chính phủ quy định về chế tài xử phạt vi phạm
hành chính đối với hành vi phát hành, cung ứng và sử dụng phương tiện thanh tốn
khơng hợp pháp như Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự. Vì vậy Bitcoin khơng là tài
sản theo pháp luật Việt Nam.
Câu 9
Pháp luật nước ngồi có coi Bitcoin là tài sản khơng? Nếu có, nêu hệ
thống pháp luật mà anh/chị biết.
Trả lời:
Tình trạng pháp lý của Bitcoin về cơ bản khác nhau giữa các quốc gia và trong nhiều
trường hợp vẫn chưa xác định hoặc thay đổi liên tục. Trong khi phần lớn các quốc gia
không coi việ sử dụng Bitcoin là bất hợp pháp, tính hợp pháp của nó dưới dạng tiền tệ
hay hàng hóa rất đa dạng với các hàm ý pháp lý khác nhau.
Liên minh Châu Âu chưa thông qua luật cụ thể liên quan đến tình trạng của Bitcoin
như là một loại tiền tệ, nhưng để tuyên bố rằng VAT/GST không được áp dụng cho
việc chuyển đổi giữa tiền tệ truyền thống và Bitcoin. Vào tháng 10 năm 2015, Tịa án
Cơng lý của Liên minh Châu Âu đã ra phán quyết rằng "Việc trao đổi tiền tệ truyền
thống lấy các đơn vị tiền ảo “Bitcoin” được miễn thuế VAT và "Các quốc gia thành
viên phải miễn trừ các giao dịch liên quan đến 'tiền, tiền giấy và tiền xu được sử dụng
làm đấu thầu hợp pháp", khiến Bitcoin trở thành một loại tiền tệ thay vì trở thành

hàng hóa. Theo các thẩm phán, khơng nên tính thuế vì bitcoin nên được coi như một
phương tiện thanh toán
Như tại Hoa Kỳ bang Washington đã bắt đầu tạo ra những luật lệ mới liên quan đến
giao dịch của Bitcoin. Các doanh nghiệp có dịch vụ tiền tệ số sẽ được hưởng lợi từ
các quy tắc này. Luật Thượng viện Điều 5013 làm rõ định nghĩa của tiền tệ kỹ thuật
số và đưa ra các yêu cầu công bố thông tin người tiêu dùng. Dự luật cũng sẽ yêu cầu
trao đổi tiền tệ trực tuyến ở Washington phải tồn tại một trái phiếu đảm bảo. Còn ở
Trung Quốc, sau khi Chủ tịch Tập Cận Bình tuyên bố Trung Quốc đang tập trung trở
thành quốc gia hàng đầu thế giới về công nghệ blockchain. Chỉ một ngày sau đó,
Quốc hội của nước này đã thơng qua “Luật mật mã học” có hiệu lực từ ngày
1/1/2020.
Câu 10 Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong
mối quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam. Trả lời:
Quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin chưa thực sự quá rõ ràng về việc Bitcoin có
phải là tài sản ở Việt Nam hay khơng. Nhưng có thể thấy theo Khoản 1 Điều 1 Nghị
định 80/2016/NĐ-CP, phương tiện thanh tốn khơng dùng tiền mặt sử dụng trong giao
dịch thanh toán (sau đây gọi là phương tiện thanh toán), bao gồm: Séc, lệnh chi, ủy
nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng và các phương tiện thanh toán khác
theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Phương tiện thanh tốn khơng hợp pháp là
các phương tiện thanh tốn khơng thuộc các đối tượng trên.
Cũng tại Chỉ thị 10/CT-TTG Thủ tướng yêu cầu các cơ quan như Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, Bộ Tài chính, Bộ Cơng an… kiểm sốt, ngăn chặn và xử lý việc
7

download by :


thực hiện các giao dịch liên quan đến tiền ảo trái pháp luật. Chính vì vậy Bitcoin
khơng phải là phương tiện được phép thanh tốn trên thị trường. Hay nói cách khác,
Bitcoin không được phép dùng để thay thế tiền mặt hoặc phương tiện thay thế tiền

mặt như séc, lệnh chi… trong các giao dịch mua bán. Hiện nay, pháp luật của tất cả
các nước trên thế giới và Việt Nam không thừa nhận một loại gọi là tài sản ảo. Căn cứ
vào thuộc tính của tiền ảo, thì tiền ảo không thỏa mãn những yếu tố của một tài sản
thông thường, cho nên việc bảo hộ tiền ảo trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam không
nên đặt ra. Vì tiền ảo khơng thể xác định trên thực tế và khơng xác định rõ danh tính
của các chủ thể sở hữu tiền ảo, cho nên về việc giải quyết tranh chấp liên quan đến
giao dịch tiền ảo có thể không thực hiện được. Căn cứ vào Điều 105 BLDS năm
2015, thì tiền ảo khơng thuộc một loại tài sản nào. Tuy nhiên, có thể hiểu tiền ảo là
một loại tài sản khác?
Có thể thấy rằng Bitcoin dù cho khơng được pháp luật Việt Nam quy định quá rõ
ràng về việc có phải là tài sản hay khơng nhưng qua các quy định trên cũng như khái
niệm tài sản theo Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 thì ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay vẫn chưa thể thừa nhận Bitcoin là một loại tiền tệ, một loại tài sản được.
Câu 11 Quyền tài sản là gì?
Trả lời:
Theo quy định của Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì quyền tài sản được quy
định như sau: “Quyền tài sản là quyền giá trị được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản
đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”.
Quyền tài sản là quyền trị giá được tính bằng tiền, khơng địi hỏi có sự chuyển giao
trong giao dịch dân sự. Đối với quyền tài sản là đối tượng phải đáp ứng được hai yêu
cầu là trị giá được tính bằng tiền và được chuyển giao cho người khác trong giao dịch
dân sự. Quyền tài sản gồm có: quyền sử dụng tài sản thuê, quyền thực hiện hợp đồng,
quyền đòi nợ, quyền trị giá bằng tiền, quyền sở hữu trí tuệ. Các quyền tài sản khác
gắn với nhân thân thì khơng thể chuyển giao như: quyền cấp dưỡng, quyền thừa kế,
quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe.
Câu 12 Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài
sản là quyền tài sản không?
Trả lời:
Chưa có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền
tài sản nhưng ta vẫn có thể hiểu rằng quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền tài sản.

Theo Điều 115 Bộ luật Dân sự quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng
tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất
và các quyền tài sản khác”, quyền tài sản khác ở đây được nêu khơng rõ ràng nên đã
có nhiều bất cập xoay quanh. Tuy nhiên đối với quyền tài sản là đối tượng của giao
dịch dân sự phải đáp ứng được hai yêu cầu là trị giá được bằng tiền và có thể chuyển
giao cho người khác trong giao dịch dân sự, thì quyền thuê và quyền mua tài sản đều
đáp ứng được cả 2 yếu tố nêu trên.
Quyền tài sản có thể được phân chia thành hai loại: quyền đối vật và quyền đối nhân.
Quyền đối vật là quyền của chủ thể được tác động trực tiếp vào vật để thỏa mãn nhu
cầu của mình như quyền sở hữu, quyền cầm cố, quyền thế chấp, quyền
8

download by :


thuê, quyền mua… Quyền đối nhân là quyền của chủ thể này đối với chủ thể khác.
Quyền đối nhân được đáp ứng nếu bên có nghĩa vụ thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa
vụ theo yêu cầu của bên có quyền. Ví dụ quyền yêu cầu trả nợ, giao vật…
Câu 13 Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối theo
hướng quyền thuê, quyền mua là tài sản? Trả lời:
Ở đoạn: “Theo quy định tại Điều 188 và Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 1995, quyền thuê,
mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao cho
các thừa kế của cụ T. Do đó, bà H và ông T1 được hưởng thừa kế quyền thuê, mua hóa giá
nhà của cụ T”

Câu 14 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dấn tối cao
trong Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái
niệm tài sản)?
Trả lời:
Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong Quyết định số 05 về quyền thuê

và quyền mua đó là vẫn cịn bất cập trong việc có xem quyền thuê và quyền mua có
phải là tài sản hay quyền tài sản hay khơng? Có lúc lại xem quyền thuê và quyền mua
là quyền tài sản như ở đoạn: “Theo quy định tại Điều 188 và Điều 364 của Bộ luật
Dân sự năm 1995, quyền thuê, mua hóa giá nhà là quyền tài sản (trị giá bằng tiền) và
được chuyển giao cho các thừa kế”. Cịn có lúc lại xem quyền thuê và quyền mua là
tài sản ở trong đoạn: “Đến ngày 02/10/2001, Cục Quân khu 7 ký hợp đồng cho bà L
thuê căn nhà trên. Sau đó Hội đồng nhà đất Quân khu 7 làm thủ tục bán căn nhà trên
cho bà L theo Nghị định số 61/CP. Ngày 09/02/2002, bà L và chồng (ông Nguyễn Phi
H3 đã chết năm 2006) được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử
dụng đất nêu trên. Như vậy, việc bà L mua được căn nhà số 63 đường B nêu trên là do
sự thống nhất giữa bà H, ông T1 và bà L ngày 05/07/2001 thì Quân khu 7 mới giải
quyết cho bà L được đứng tên mua hóa giá nhà. Do đó có căn cứ xác định số nhà 63
đường B là tài sản chung của bà H, ông T1 và bà L”. Việc này tạo ra những sự mâu
thuẫn khơng giải thích được bắt nguồn từ khái niệm tài sản và khái niệm về quyền tài
sản vẫn cịn nhiều thiếu sót, chưa hồn thiện, chỉ liệt kê mà không chỉ mà một cách cụ
thể. Trong mối quan hệ với khái niệm tài sản thì quyền thuê và quyền mua nó là
quyền tài sản chứ khơng phải tài sản vì chủ thể tự mình xác lập thực hiện để thỏa mãn
lợi ích của mình.
PHẦN 2 CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU
Câu 15 Tóm tắt bản án số 111/2013/DS-GĐT ngày 09 tháng 9 năm 2013 tại
Hội Đồng Thẩm Phán Tòa án Nhân dân tối cao.
Nguyên đơn là cụ Dư Thị Hảo sinh năm 1910 mất năm 2017 (người đại diện cho cụ
là bà Nguyễn Thị Châu) khởi kiện đối với chị Nhữ Thị Vân vụ án đòi nhà.
Nhà số 2 Hàng Bút, quận Hoàn kiếm, thành phố Hà Nội là tài sản riêng của cụ Dư Thị
Hảo. Năm 1954 cụ Hảo vào Sài Gịn bn bán nên giao nhà cho con là vợ chồng ơng
Chính, bà Châu quản lý. Năm 1968, vợ chồng ơng Chính bà Châu đi công tác
9

download by :



nên cho ông Nhữ Duy Hải thuê nhà, khi cho thuê có lập giấy tờ nhưng sau này đã bị
mất. Sau khi ơng Hải chết thì cháu ơng Hải là Nhữ Thị Vân vẫn sử dụng đến nay và
khơng đóng tiền th nhà cho ơng Chính kể từ khi ơng Hải chết. Từ sau năm 1975, gia
đình cụ Hảo đã nhiều lần có đơn địi nhà cho th, năm 2001 chị Vân bán nhà số 2
Hàng Bút cho vợ chồng chị Dương Thị Ngọc Lan và anh Nguyễn Hồng Sơn. Năm
2004, cụ Hảo khởi kiện yêu cầu chị Vân trả lại căn nhà cho thuê, cùng năm cụ Hảo
giao quyền bất động sản số 2 Hàng Bút cho bà Nguyễn Thị Châu tồn quyền sở hữu
(di chúc có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã Kim Chung). Tại bản án dân sự sơ thẩm
số 15 ngày 12/4/2005, Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm quyết định chấp nhận yêu
cầu đòi nhà cho thuê của cụ Dư Thị Hảo đối ới chị Nhữ Thị Vân và chị Dương Thị
Ngọc Lan. Buộc chị Vân và những người cùng hộ khẩu với chị Vân và chị Lan ra
khỏi nhà số 2 Hàng Bút đẻ giao nhà cho cụ Hảo. Sau khi xét xử sơ thẩm chị Vân và
chị Lan có đơn kháng cáo; tại Bản án dân sự phúc thẩm số 253/2005/DS-PT ngày
29/11/2005, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định hủy bản án dân sự sơ
thẩm; tại Bản án dân sự sơ thẩm số 49/2010/DS-ST ngày 31/8/2010, Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội quyết định ghi nhận sự tự nguyện của các con cụ Dư Thị Hảo; chấp
nhận u cầu khởi kiện địi nhà của phía ngun đơn do bà Nguyễn Thị Châu đại
diện, buộc chị Vân, vợ chồng anh Sơn chị Lan và những người có tên trong sổ hộ
khẩu trả lại tồn bộ diện tích nhà đất cho phía nguyên đơn và anh Nguyễn Thanh Lâm
được tồn quyền sở hữu và sử dụng; phía ngun đơn có trách nhiệm thanh tốn trả
vợ chồng chị Lan 25.000.000 đồng tiền xây dựng, sửa chữa; trả lại đơn khởi kiện độc
lập của anh Nguyễn Hồng Sơn. Sau khi xử phúc thẩm, anh Sơn chị Lan và anh Duy
Lâm có đơn kháng cáo và Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết
định không chấp nhận kháng cáo của anh Sơn chị Lan. Sau khi xét xử phúc thẩm, anh
Sơn chị Lan có đơn đề nghị giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm nêu trên, tại
quyết định số 187/2012/DS-KN, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án
dân sự phúc thẩm số 90/2011/DS-PT; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và bản án dân sự
sơ thẩm số 49/2010/DS-ST. Căn cứ khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297 và Điều 299

Bộ luật tố tụng dân sự quyết định hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm số
90/2011/DS-PT và bản án dân sự sơ thẩm số 49/2010/DS-ST, giao hồ sơ vụ án cho
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại.
Câu 16 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tịa án khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tịa án?
Trả lời:
Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục,
công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ luật Dân sự về xác lập quyền sở
hữu theo thời hiệu: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản khơng có căn cứ
pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động
sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời
điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 điều này…”

10

download by :


Theo tơi thì khẳng định này của Tịa án là hợp lý vì chị Vân khai gia đình chị đã ở tại
căn nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954, ban đầu là ông nội chị ở (mất năm 1995) và sau
này là bố chị Vân (mất năm 1997) và chị ở. Mặc dù phía ngun đơn có địi nhà đối
với gia đình chị Vân từ sau năm 1975 nhưng khơng có tài liệu chứng minh cụ thể và
đơn khởi kiện của cụ Hảo vào năm 2004 khơng có căn cứ vì thực tế cụ Hảo khơng
cịn là chủ sở hữu nhà đất đó. Bên cạnh đó thì gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà số 2
đã trên 30 năm (từ năm 1954) và phù hợp với quy định tại Điều 236 Bộ luật Dân sự
năm 2015 về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu đã nêu ở trên.
Quyết định của Tòa án phù hợp với quyền sở hữu theo thời hiệu khơng có căn cứ
pháp luật và bảo vệ được quyền của gia đình chị Vân.
Câu 17 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị

Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy
nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tịa án? Trả lời:
“Chị Vân có lời khai thừa nhận gia đình chị thuê nhà của cụ Hảo và nộp tiền th nhà
cho ơng Chính (con cụ Hảo), nhưng cụ Hảo vào miền nam sinh sống 1954, ơng Chính
khơng xuất trình được tài liệu cụ Hảo ủy quyền cho ơng Chính quản lý căn nhà” là
đoạn của Quyết định trên cho thấy Tịa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu
ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm.
Theo Điều 188 Bộ luật Dân sự năm 2015 cho thấy thì việc chị Vân thuê căn nhà
của cụ Hảo thực chất là chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự nên
để được xem là chiếm hữu có căn cứ pháp luật thì phải phù hợp với Điểm c Khoản 1
Điều 165 Bộ luật Dân sự năm 2015. Hợp đồng th nhà phải có cơng chứng chứng
thực phải lập thành văn bản theo Điều 492 Bộ luật Dân sự năm 2005 (đến Bộ luật dân
sự năm 2015 đã bỏ quy định về Hợp đồng cho thuê nhà và thay thế bằng một dẫn
chiếu về Điều 121 Luật nhà ở năm 2014). Việc ông Hải thuê căn nhà số 2 Hàng Bút
khơng có văn bản xác thưc nên không phù hợp với quy định của pháp luật. Vì vậy
việc chiếm hữu căn nhà số 2 là của chị Vân là khơng có căn cứ pháp luật. Chưa hợp
tình ở chỗ hợp đồng thuê nhà được lập ra vào trước năm 1975, tức là thời điểm này
chưa ra đời BLDS 1995 và Pháp lệnh dân sự 1991. Hơn nữa gia đình chị Vân vẫn
đóng tiền th đầy đủ cho đến khi ông Hải mất năm 1995. Hơn nữa chị Vân cũng
nhận thức được một hợp đồng thuê giữa gia đình chị và ơng Chính qua việc thừa
nhận việc trả tiền th nhà trong thời gian ơng Hải cịn sống. Từ đó, khẳng định này
của Tịa về việc gia đình chị Vân đã chiếm hữu ngay tình là chỉ phù hợp với luật hiện
hành chứ chưa hợp lý.
Câu 18 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy
nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án? Trả lời:
“Trong khi đó gia đình chị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954, lúc đầu là ơng
nội chị Vân, sau đó là bố chị Vân và chị Vân vẫn tiếp tục sống. Mặc dù ở bên phía
ngun đơn có khai là đã địi nhà đối với gia đình chị Vân từ sau năm 1975 nhưng
11


download by :


khơng có tài liệu chứng minh (chỉ có biên bản hòa giải của UBND phường Hàng Bồ
năm 2001)”
Cho thấy căn nhà vẫn khơng có tranh chấp trên thực tế. Theo Tịa án, thời gian mà gia
đình chị Vân vào ở là vào năm 1968 tính đến 2004 xảy ra vụ kiện là 36 năm theo phía
ngun đơn đã có khai là địi nhà, cụ thể là sau 1975, nhưng khơng có tài liệu xác
minh điều này. Theo vụ án, thì căn nhà gia đình chị Vân trong một khoảng thời gian
dài mà khơng có tranh chấp (chỉ có biên bản hịa giải của UBND phường Hàng Bồ
năm 2001). Từ đó có thể thấy căn cứ Điều 182 Bộ luật Dân sự năm 2015 gia đình chị
Vân chiếm hữu nhà liên tục sau hơn 30 năm là hợp lý.
Câu 19 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu cơng khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy
nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án? Trả lời:
“Trong khi đó gia đình chị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954, lúc đầu là ơng
nội chị Vân, sau đó là bố chị Vân và chị Vân vẫn tiếp tục sống. Sau khi ông nội chết
năm 1995 thì gia đình chị khơng cịn đóng tiền th nhà cho ơng Chính nữa. Sau đó
bố chị ông Nhữ Duy Lân và chị tiếp tục quản lý. Năm 1997, bố chị chết thì chị tiếp
tục ở tại căn nhà số 2 Hàng Bút (tầng 1), chị không trả tiền thuê nhà cho ai, quá trình
ở thì bố chị có nâng cao nền nhà, thay cửa, cịn chị khơng sửa gì thêm”.
Gia đình chị Vân sử dụng căn nhà tranh chấp số 2 Hàng Bút là để sinh sống và
sinh hoạt. Đồng thời đã có sửa chữa cho căn nhà. Căn nhà số 2 Hàng Bút đã được sử
dụng đúng với tính năng và cơng dụng và được bảo quản giữ gìn. Căn cứ theo Điều
183 Bộ luật Dân sự năm 2015, Tịa khẳng định gia đình chị Vân chiếm hữu căn nhà
công khai là hợp lý và có căn cứ.
Câu 20 Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tịa án khẳng định cụ Hảo
khơng cịn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị
về khẳng định này của Tòa án?

Trả lời:
Tồ án khẳng định cụ Hảo khơng cịn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp qua đoạn:
“ Mặc dù phía ngun đơn khai có địi nhà đối với gia đình nhà chị Vân từ sau năm
1975 nhưng khơng có tài liệu chứng minh (chỉ có biên bản hòa giải tại Uỷ ban nhân
dân phường Hàng bố năm 2001); đến năm 2004 cụ Hảo mới có đơn khởi kiện ra Tòa
án yêu cầu chị Vân tả nhà là khơng có căn cứ vì thực tế cụ Hảo khơng còn là chủ sở
nhà đất nêu trên”.
Khẳng định này của Tịa án là hợp lý,đảm bảo được lợi ích của các bên liên quan vì:
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 247 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Người chiếm hữu,
người được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, cơng
khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở
thành chủ sở hữu tài sản đó kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu”.
Do đó chị Vân đã chứng minh được là đã chiếm hữu, sử dung thửa đất đó ngay
tình, tiên tục, cơng khai từ 30 năm trở lên nên chị Vân trở thành chủ sở hữu tài sản kể
từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu. Mặc khác, theo quy định của pháp luật tố tụng dân
sự, người kiện đòi tài sản phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đòi
12

download by :


tài sản của mình là có căn cứ và hợp pháp. Do vậy, kể cả trường hợp gia đình chị Vân
không chứng minh được là chiếm hữu, sử dụng thửa đất ngay tình, liên tục, cơng khai
từ 30 năm trở lên thì điều đó cũng khơng có nghĩa là gia đình chị Vân phải trả lại
thửa đất cho người khởi kiện.
Câu 21 Theo anh/chị, gia đình chị Vân có dược xác lập quyền sở hữu với nhà đất
có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền khơng? Vì sao? Trả
lời:
Nếu cụ Hải th nhà của cụ Hảo từ năm 1954 thì chị Vân được hưởng quyền dân sự
vì thời hiệu hưởng quyền của chị đã hết nên chị được xác lập quyền sở hữu đối với

nhà đất có tranh chấp.Vì theo Khoản 1, Điều 247, Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều
236, Bộ luật Dân sự năm 2015: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản khơng
có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối
với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ
thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy
định khác”.
Gia đình chị Vân đã ở tại nhà đất có tranh chấp trên từ năm 1954 đến năm 2004 (thời
điểm cụ Hảo đưa khởi kiện ra Toà yêu cầu chị Vân trả nhà) thì đã được 50 năm. Theo
quy định thì chị Vân đã chiếm hữu bất động sản trên 30 năm nên trở thành chủ sở
hữu của tài sản này.
Nếu cụ Hải th nhà của ơng Chính từ năm 1968 thì cụ Hảo vẫn là chủ sở hữu nhà
đất nên chị Vân không được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có tranh chấp.
PHẦN 3 CHUYỂN RỦI RO ĐỐI VỚI TÀI SẢN
Câu 22 Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Theo quy định của Điều 162 Bộ luật Dân sự năm 2015: Chịu rủi ro về tài sản.
1. Chủ sở hữu phải chịu rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác hoặc bộ luật này luật khác có liên quan quy định khác.
2. Chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải chịu rủi ro về tài sản trong phạm vi
quyền của mình trừ trường hợp có thỏa thuận khác với chủ sở hữu tài sản hoặc bộ
luật này luật khác có liên quan quy định khác.
Như vậy, chủ sở hữu hoặc chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải chịu rủi ro đối
với tài sản thuộc sở hữu của mình hoặc trong phạm vi quyền của mình.
Câu 23 Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.
Trả lời:
Tại thời điểm cháy chợ, Bà Dung là chủ sở hữu số xoài. Căn cứ pháp lý: Dựa vào
Bộ luật Dân sự năm 2015:
13


download by :


+ Điều 221: Căn cứ xác lập quyền sở hữu
Khoản 2. Được chuyển quyền sở hữu theo thỏa thuận hoặc theo bản án, quyết định
của Tòa án, cơ quan Nhân dân có thẩm quyền khác
+ Điều 223: Xác lập quyền sở hữu theo hợp đồng
Người được giao tài sản thông qua hợp đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay
hoặc hợp đồng chuyển quyền sở hữu khác theo quy định của pháp luật thì có quyền
sở hữu tài sản đó. Như vậy, bà Dung mua của bà Thủy một ghe xoài, giữa bà Dung và
Thủy tồn tại một hợp đồng mua bán.Tại thời điểm cháy chợ, bà Dung đã nhận hàng
hợp đồng mua bán đã được xác lập. Do đó, bà Dung chính là chủ sở hữu của ghe xồi
đó.
Câu 24 Bà Dung có phải thanh tốn tiền mua ghe xồi trên khơng? Vì sao?
Nêu cơ sở pháp lý.
Trả lời:
Bà Dung phải thanh tốn tiền mua ghe xồi. Căn cứ vào Bộ luật Dân sự năm 2015:
+ Điều 441: Thời điểm chịu rủi ro “ Bên bán chịu rủi ro đối với tài sản trước khi tài
sản được giao cho bên mua, bên mua chịu rủi ro đối với tài sản kể từ thời điểm nhận
tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”. Ở đây, kể từ
khi bà Dung nhận hàng, bà Dung đã là chủ sở hữu của ghe xồi đó. Do đó bà Dung
phải chịu rủi ro đối với ghe xồi. Và dĩ nhiên, bà Dung phải thanh tốn đủ số tiền cho
bà Thủy, thực hiện nghĩa vụ của mình (bên mua) theo thỏa thuận trong hợp đồng mua
bán giữa bà Dung (bên mua) và bà Thủy (bên bán).

14

download by :




×