Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

TIỂ ế u LUẬN TRI t học đề tài HIỆN tượ ấn đề NG THA hóa và v GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI LIÊN h v i TH c TR NG h c SINH, SINH VIÊN HI n NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.52 KB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài
HIỆN TƯỢNG THA HÓA VÀ VẤN ĐỀ GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI
LIÊN HỆ VỚI THỰC TRẠNG HỌC SINH, SINH VIÊN HIỆN NAY
GVHD: TS. Nguyễn Thanh Hải
Thực hiện: Nhóm 2
1. Đỗ Khánh Ngân - 2153801011130
2. Dương Hồng Nguyên - 2153801011144
3. Nguyễn Văn Trường Phúc – 2153801011165

4. Đặng Thị Thanh Tuyền - 2153801011189
5. Nguyễn Thị Thảo - 2153801011200
6. Nguyễn Thy Thảo – 2153801011201

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021

download by :


Mục lục
Mở Đầu................................................................................................................................................ 2
Chương I: Vấn đề tha hóa và giải phóng con người........................................................... 4
A.

THA HĨA............................................................................................................................. 4
Thực chất của hiện tượng tha hóa con người là lao động của con người bị
tha hóa.......................................................................................................................................... 4
1.



2.

Nguồn gốc và nguyên nhân của sự tha hóa lao động của con người..........5

3.

Biểu hiện của sự tha hóa lao động của con người.......................................... 5

4.

Sự tha hóa trên các phương diện khác của đời sống xã hội........................6

5.

Tóm lại.............................................................................................................................. 7
GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI......................................................................................... 8

B.
1.

Khái niệm.......................................................................................................................... 8

2.

Phương thức và lực lượng giải phóng................................................................... 9

3.

Các ví dụ........................................................................................................................... 9


4.

Tóm lại............................................................................................................................ 10

Chương II: Liên hệ thực trạng học sinh, sinh viên Việt Nam hiện nay.......................... 11
1.

Tha hóa trong giáo dục................................................................................................ 11

2.

Tha hóa trong các mối quan hệ xã hội:................................................................... 14

3.

Tha hóa trong lối sống và đạo đức........................................................................ 16

Tổng kết:............................................................................................................................................ 20
Danh mục tài liệu tham khảo....................................................................................................... 22
Đánh giá thành viên..................................................................................................................... 23

1

download by :


Mở Đầu
Giới thiệu đề tài
Vấn đề tha hóa và giải phóng con người là vấn đề chung của con người trong tồn

xã hội. Điều đó cịn được chứng minh và thể hiện sâu sắc hơn thông qua nghiên cứu của
triết học Mác. Ông và những nhà sáng lập, nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đi từ
nguyên nhân lịch sử đã nêu lên thực chất của hiện tượng tha hóa con người chính là q
trình lao động và sản phẩm của lao động từ chỗ để phục vụ, phát triển con người đã bị
biến thành lực lượng đối lập, nô dịch và thống trị con người. Sự tha hóa bắt đầu xuất hiện
trong các nền sản xuất dựa trên chế độ tư hữu tư liệu sản xuất nhưng lại được đẩy lên cao
nhất trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Hiện tượng đó đã làm đảo lộn mối quan hệ xã
hội của người lao động và quan hệ giữa người lao động với chủ sở hữu tư liệu sản xuất.
Sự tha hóa ngày càng được đẩy lên cao, chính vì thế sự phá vỡ sự tha hóa là một điều tất
yếu nếu muốn xã hội tồn tại và phát triển một cách ổn định, lâu dài. Sự phá vỡ đó chính là
hình thức của giải phóng con người mà theo chủ nghĩa Mác
– Lênin “Bất kỳ sự giải phóng nào cũng bao hàm ở chỗ là nó trả thế giới con người,
những quan hệ của con người về với bản thân con người”, là “giải phóng người lao

động thốt khỏi lao động tha hóa”, tư tưởng đó thể hiện chính các thực chất của
việc giải phóng con người, thể hiện lập trường duy vật biên chứng, khách quan,
khoa học trong việc nhận thức nguồn gốc, bản chất và đời sống của con người và
1
phương thức giải phóng con người . Trình độ giải phóng xã hội ln được thể
hiện ra ở sự tự do của cá nhân con người, vì cá nhân được giải phóng sẽ tạo ra
động lực cho giải phóng xã hội và đến lượt mình, giải phóng xã hội lại trở thành
điều kiện thiết yếu cho sự giải phóng cá nhân. Con người tự giải phóng cho mình
và qua đó, giải phóng xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội - đó chính là sự khẳng định vị
thế và vai trò của con người trong tiến trình lịch sử2.
Trên tinh thần tiếp cận chủ nghĩa Mác – Lênin đồng thời căn cứ vào tình hình
thực tiễn của Việt Nam hiện nay, chúng ta sẽ nghiên cứu lại hai vấn đề này để chiêm
nghiệm, làm rõ và hiểu sâu sắc hơn quan điểm của C.Mác về thực chất của hiện tượng
tha hóa con người và vấn đề giải phóng con người, cũng như mối liên hệ của nó
đến thực tại ngày nay, cụ thể là trong đời sống học sinh, sinh viên Việt Nam.
Mục tiêu nghiên cứu

Tiểu luận tìm hiểu về hiện tượng tha hóa con người và vấn đề giải phóng
con người theo kiến thức của Triết học, từ đó liên hệ đến thực trạng của học sinh,
sinh viên Việt Nam hiện nay.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Lịch sử ra đời, nội dung, bản chất và biểu hiện của hiện tượng tha hóa con
người theo C.Mác và quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác; vấn đề giải
phóng con người trong tư tưởng căn bản, cốt lõi các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác – Lênin về con người cũng như sự phê phán hiện tượng tha hóa này. Sự tồn
tại của hai vấn đề nêu trên trong đời sống học sinh, sinh viên Việt Nam.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
1 Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), “Giáo trình Triết học”. NXB Lý luận chính trị
2 Tạp chí của ban tuyên giáo Trung ương
2

download by :


Phương pháp nghiên cứu lựa chọn là phương pháp nghiên cứu thư viện,
tổng hợp tài liệu và tiến hành phân tích, dựa trên cơ sở tư tưởng của C.Mác giải
đáp một cách duy vật về con người, bản chất con người, tính hiện thực, con
người với tư cách thực thể sinh học - xã hội, với vị trí và vai trị của con người
trong tiến trình phát triển lịch sử nhân loại để nêu bật hiện tượng tha hóa con
người và vấn đề giải phóng con người của chủ nghĩa Mác, từ đó tìm hiểu thực
trạng học sinh, sinh viên Việt Nam hiện nay thơng qua phân tích về lịch sử ra đời, nội
dung, bản chất và sự hình thành của hai tư tưởng này trước đó.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Nghiên cứu giúp chứng minh nhãn quang chính trị sáng suốt của C.Mác đã tạo
ra bước ngoặt cách mạng trong quan niệm về con người và bản chất con người, về
hiện tượng ta hóa con người trong tiến trình phát triển lịch sử nhân loại và sự
nghiệp giải phóng con người, giải phóng nhân loại, phát triển con người toàn diện.

Đồng thời nghiên cứu thể hiện được vai trị, vị trí của triết học về vấn đề này ngang
trong thực trạng học sinh, sinh viên Việt Nam hiện nay, là chứng thực cho sức sống
trường tồn của chủ nghĩa Mác trong thập kỷ XXI.
Kết cấu của đề tài
Tiểu luận được chia thành 2 chương chính:
- Chương I: Hiện tượng tha hóa con người và vấn đề giải phóng con người
trong triết học.
- Chương II: Thực trạng của học sinh, sinh viên Việt Nam hiện nay về vấn đề tha
hóa con người và vấn đề giải phóng con người trong triết học.

3

download by :


Chương I
Vấn đề tha hóa và giải phóng con người
A.
1.

THA HĨA
Thực chất của hiện tượng tha hóa con người là lao động của con người bị

tha hóa
a)
Tha hóa là gì?
Trong khi nghiên cứu lịch sử triết học, ta thấy, thuật ngữ “tha hóa” đã được khá
nhiều nhà triết học đề cập tới, nổi bật hơn hết là Hegel và FeuerBach. Tha hóa, như Hegel
giải thích, tức là sự vật, hiện tượng biến thành cái khác nhưng lại chính là nó ở trạng thái
và hình thái khác. Ý niệm tuyệt đối trong sự phát triển biện chứng của nó, sau khi đạt tới sự

phát triển đầy đủ trong thế giới tinh thần thuần tuý, đã tha hoá thành giới tự nhiên để tiếp
tục tự nhận thức chính mình. Như vậy, giới tự nhiên chính là do ý niệm tuyệt đối tha hố
thành. Quan niệm của Hegel điển hình cho lập trường duy tâm trong triết học. Về phần
FeuerBach, khái niệm tha hố với ý nghĩa đã phân tích (sự chuyển hố một hiện tượng,
mối quan hệ, đặc tính... sang cái khác với bản thân nó) đã được ơng áp dụng việc phân tích
bản chất của tơn giáo. Ơng coi tơn giáo không chỉ đơn thuần là sự bịa đặt, mà là sản phẩm
độc đáo, là sự tha hóa của bản chất con người, sự tha hóa dường như đã quy định tất cả
những hình thức tha hóa khác giữa người với người.

Từ lập trường duy vật, C.Mác đã phê phán một cách sâu sắc quan niệm của cả
Hegel lẫn FeuerBach về sự tha hóa và cách khắc phục sự tha hóa đó. C.Mác nhìn thấy
sự tha hóa ngay trong đời sống hiện thực. C.Mác cho rằng: “Tha hoá là một hiện thực
có th ật, một hiện trạng thực tế trong xã h ội và có cơ sở kinh tế của nó.” Đây chính là
sự khác biệt căn bản và cũng là sự vượt trội của C.Mác so với Hegel và FeuerBach.

Tóm lại, trong lịch sử triết học, khái niệm “tha hóa” được hiểu như sau:
Thứ nhất, quá trình và những kết quả chuyển hóa của các sản phẩm hoạt động
của con người cũng như của những đặc tính và năng lực của con người thành
một cái gì độc lập với con người và thống trị con người.
Thứ hai, sự chuyển hóa của những hoạt động và quan hệ nào đó thành một
cái gì khác với bản thân chúng, sự bóp méo, xuyên tạc trong ý thức của con người về
những mối quan hệ sinh sống hiện thực của họ.
Với ý nghĩa như vậy, ta có thể hiểu tha hóa là một hiện tượng phổ biến trong
3
mọi giai đoạn phát triển của xã hội cho đến ngày nay. [3] Tha hóa chỉ tồn tại ở con
người và trong xã hội loài người.
b)
Lao động của con người bị tha hóa
C.Mác đã nói: “Lao động của tôi sẽ là biểu hiện tự do của đời sống và vì thế là việc
hưởng thụ đời sống. Với tiền đề sở hữu tư nhân, nó là sự tha hóa của đời sống, vì tơi lao

động để sống, để kiếm phương tiện sinh sống cho mình, lao động của tôi không phải là
đời sống của tôi... Trong lao động, tôi sẽ khẳng định đời sống cá nhân của tơi và, do đó, sẽ
khẳng định sự độc đáo riêng của tính cá biệt của tơi... Với tiền đề sở hữu tư nhân, tính cá
biệt của tơi bị tha hóa khỏi tơi đến mức hoạt động đó trở nên đáng ghét
3 Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số tháng 6.2006
4

download by :


đối với tơi, đối với tơi nó là sự đau khổ và, nói đúng hơn, chỉ là cái vẻ hoạt động. Vì thế,
ở đây lao động cũng chỉ là hoạt động bất đắc dĩ và được trút lên tôi dưới áp lực

hoàn toàn chỉ của nhu cầu ngẫu nhiên bên ngồi, chứ khơng phải do nhu cầu tất yếu
nội tại.”4[4]
Theo C.Mác, thực chất của hiện tượng “lao động bị tha hóa” là q trình lao
động và sản phẩm của lao động từ chỗ để phụ c vụ con người để phát triển con
người đã bị biến thành lực lượng đối lập, nơ dịch và thống trị con người5[5]. Vì
vậy, tha hóa con người là con người bị đánh mất chính mình trong lao động.
Nguồn gốc và nguyên nhân của sự tha hóa lao động của con người
Theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, hiện tượng tha hóa của
con người là một hiện tượng lịch sử đặc thù, chỉ diễn ra trong xã hội có phân chia
giai cấp, nơi xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất – nguyên nhân gây nên
hiện tượng tha hóa lao động ở con người.
2.

Tha hóa lao động xuất hiện từ rất lâu trước khi hình thành chủ nghĩa tư
bản. Nó xuất hiện ở những xã hội mà ở đó con người bị thụ động trong q trình
tạo ra sản phẩm, họ khơng được hưởng hoặc hưởng q ít thành quả từ sản phẩm
mà do chính họ sản xuất ra. Ví dụ trong xã hội phong kiến, người nơng dân khơng có

ruộng đất phải làm th cho các địa chủ, người nông dân là người trực tiếp tạo ra
sản phẩm (lúa gạo, khoai,...) nhưng họ bị lệ thuộc vào địa chủ phong kiến thông
qua tư liệu sản xuất (ruộng đất).
Song, theo C.Mác, sự tha hóa con người được đẩy lên cao nhất trong xã hội tư bản
chủ nghĩa. Nơi đa số người lao động trở thành vô sản, một số ít trở thành tư sản và chiếm
hữu tồn bộ các tư liệu sản xuất của xã hội. Người lao động vô sản bắt buộc phải làm thuê
cho các nhà tư sản và để các nhà tư sản bóc lột mình. S ự phát triể n củ a n ền khoa học
kĩ thuật cùng với sự xuất hiện của chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy móc và tư liệu sản
xuất dần trở thành cơng cụ thống trị, trói buộc con người. Người lao động vì sự sinh tồn
mà cưỡng ép đi làm thuê cho các chủ sở hữu tư liệu sản xuất. Các chủ tư bản thì trở nên
ích kỉ, hẹp hịi, vì lợi ích cá nhân mà tìm cách khống chế, đánh bại lẫn nhau.

Như vậy, C.Mác đã bác bỏ “vầng hào quang” bao quanh “lao động được tích
lũy” (tức là tư bản), đồng thời vạch trần sự thật của hiện trạng “sùng bái tư bản, đề
cao giá trị đồng tiền” – sự tôn sùng mà ông cho rằng đã đẩy phần lớn những người công
nhân làm thuê đến tình trạng chỉ cịn lại duy nhất “một món hàng” để mặc cả trong cuộc
mua bán với chủ tư bản. “Món hàng” đó chính là sức lao động. Rõ ràng, người cơng
nhân đã trở thành hàng hóa, thức hàng hóa chỉ cần tìm được người mua thì hy vọng sinh
tồn của họ vẫn cịn và ngược lại. Ngồi nguồn vốn cuối cùng này để duy trì sự sống
của thể xác, người cơng nhân khơng cịn gì để trao đổi nữa.
3.
Biểu hiện của sự tha hóa lao động của con người
Lao động là hoạt động sáng tạo của con người, là đặc trưng chỉ có ở con người
chứ khơng có ở con vật. Tuy nhiên, khi lao động bị cưỡng bức, bị ép buộc bởi điều kiện xã
hội, con người lao động không phải để sáng tạo, không phải để phát triển các phẩm
4 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.42, tr.57
5 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.42, tr.126-146
5

download by :



chất người mà chỉ để đảm bảo sự tồn tại của thể xác, điều đó nghĩa là họ đang thực hiện
chức năng của con vật. Sự đánh mất như thế chính là tha hóa, là chệch khỏi tính người
thiêng liêng vốn có. Ngược lại, chỉ khi ăn uống, sinh con đẻ cái – những chức năng động
vật – thì họ mới thật sự là con người vì họ được tự do, sự tự do trong khoảng th ời gian
hạn chế và trong một không gian chật hẹp. Điều mỉa mai chính là ở đây: “Cái vốn có của súc
vật trở thành chức phận của con người, cịn cái có tính người thì biến thành cái

vốn có của súc vậ t”6[6]. Rõ ràng, tính chất trái ngược trong chức năng cũng chính
là biểu hiện đầu tiên của sự tha hóa con người.
Mặt khác, trong hoạt động lao động, con người là chủ thể trong quan hệ với tư
liệu sản xuất. Nhưng trong chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, người lao động bị phụ
thuộc vào các nhà tư bản thông qua các tư liệu sản xuất - sản phẩm do chính họ tạo
ra. Như vậy, sản phẩm của người lao động tạo ra trở nên xa lạ với chính họ và được
chủ sở hữu dùng để trói buộc, bắt họ lệ thuộc nhiều hơn vào chủ sở hữu và vào các vật
phẩm lao động. Quan hệ giữa người lao động với chủ sở hữu tư liệu sản xuất cũng bị
đảo lộn. Thực tế nó được thực hiện thơng qua số sản phẩm do người lao động tạo ra
và số tiền công mà họ được trả. Quan hệ giữa người với người đã bị thay thế bằng
quan hệ giữa người với vật. Đó là biểu hiện thứ hai của sự tha hóa.
Lao động bị tha hóa như một cái hố đen đáng sợ nuốt chửng mọi thứ, kể cả nhân
tính của con người. Khơng chỉ có người cơng nhân làm th bị bóc lột, vắt kiệt sức lao
động, biến thành một “cỗ máy có ý thức” và hồn tồn bị đẩy vào trạng thái bị tha hóa, mà
ngay cả người chủ tư bản cũng khơng thốt khỏi tình trạng đó, chính họ cũng tự tha hóa
và đánh mất nhân tính của mình bởi sự thù địch và đố kị. Vì lẽ đó, C.Mác đã viết thế này:
“Tính bị tha hóa của lao động biểu hiện rõ rệt ở chỗ là một khi khơng cịn sự cưỡng bức lao
động về thể xác hoặc về mặt khác thì người ta trốn tránh lao động như trố n tránh bệnh
dịch hạch vậy. Lao động bên ngồi, lao động mà trong q trình của nó con người tha hóa
7


mình, là sự tự hy sinh mình, là sự tự hành hạ mình.” [7]

Sự tha hóa trên các phương diện khác của đời sống xã hội
Trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, C.Mác đã mơ tả sự tha hóa
lao động như một tấm lưới vơ hình bao trùm lên tồn bộ xã hội tư bản đương đại,
từ đời sống vật chất đến các lĩnh vực tinh thần như chính trị, xã hội, đạo đức, triết
học, tôn giáo và cả các phương pháp luận khoa học. Trong phần này của tiểu luận,
chúng ta sẽ tìm hiểu một số phương diện phổ biến gắn bó mật thiết với đời sống
con người như chính trị, xã hội và tơn giáo.
4.

Sự tha hóa của nền chính trị
Quyền lực xã hội bắt nguồn từ xã hội cộng xã nguyên thủy, dùng để để bảo vệ lợi
ích chung của mọi người. Nhưng khi xuất hiện chế độ tư hữu, nhà nước ra đời thì các vấn
đề của xã hội trở nên phức tạp hơn và cần một quyền lực công cộng đặc biệt để giai cấp
thống trị bảo vệ lợi ích của mình cũng như để giải quyết những nhu cầu của xã hội. Khi đó
người dân đã ủy quyền, trao quyền cho bộ máy nhà nước. Tuy nhiên vì thiểu số ích kỉ và
sự tha hóa tư tưởng của tầng lớp thống trị, họ đã biến quyền lực được trao

6 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.42, tr.133
7 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.42, tr.133
6

download by :


trở thành quyền lực của mình, tước đoạt đi cái vốn có của người dân và dùng
quyền lực trở lại thống trị người dân.
Sự tha hóa về các quan hệ xã hội
Vẫn cịn tồn tại một số bất cơng trong đời sống xã hội: thành quả con người

được hưởng không tương xứng với sản phẩm lao động; những người sống vì cộng
đồ ng khơng được đền đáp một cách xứng đáng; một số người cịn bị cười chê vì
những “ước mơ chính nghĩa” của mình. Chính vì những lí do đó mà con người chọn
cách thu mình lại với xã hội, tập trung vào cách kiếm tiền, những việc phục vụ lợi ích
của bản thân. Thơng thường họ sẽ chọn một công việc để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt
thường ngày của bản thân thay vì cơng việc mình thích mà không cung cấp đủ điều kiện
kinh tế. Ngay cả những người được làm những việc mình thích cũng khơng cịn thấy
hứng thú hay tích cực nữa, vì đơi khi hiện thực lại khác xa những gì họ đã nghĩ. Một số
vấn đề như: chủ nghĩa quan liêu, nạn tham nhũng, lãng phí trở nên phổ biến trong xã
hội. Các quan hệ xã hội dần bị quyền lực và đồng tiền chi phối. Sự tích cực của con
người cũng dần dần bị mất đi vì sự lạnh nhạt, thực dụng của xã hội.

Sự tha hóa về hành vi tín ngưỡng và tôn giáo
Về bản chất, tôn giáo là một phần trong chỗ dựa tinh thần của con người, niềm
tin vào tơn giáo khiến con người trở nên tốt hơn, tích cực hơn và sống hướng thiện.
Tuy nhiên trong một số trường hợp, con người bị lệ thuộc quá nhiều vào tôn giáo, làm
chi phối mọi hoạt động và suy nghĩ của họ. Thậm chí ở một số nơi, tơn giáo cịn trở
thành cơng cụ để thống trị con người và các cuộc tranh chấp giữa các tôn giáo với nhau
xảy ra thường xuyên. Ta có thể thấy trên thực tế, một số tín đồ cuồng giáo có xu
hướng hạ bệ các tơn giáo khác nhằm mục đích độc tơn tơn giáo của họ; sẵn sàng làm bất
kỳ việc gì kể cả vi phạm pháp luật để đạt được mục đích. Tóm lại, hiện tượng tha hóa
về hành vi tín ngưỡng và tơn giáo có thể khiến con người mất khả năng làm chủ bản
thân, đồng thời gây mất đoàn kết giữa người với người trong một dân tộc, một đất
nước và giữa các quốc gia với nhau. Ví dụ là tổ chức Nhà nước Hồi giáo (IS) tự xưng,
là một tổ chức vũ trang dân sự và bị coi là một tổ chức khủng bố. Mục đích của IS là
thiết lập một nhà nước Hồi giáo thống nhất toàn Trung Đơng, áp dụng luật Hồi giáo
Sharia nhằm kiểm sốt người Hồi giáo trên toàn thế giới. IS coi những nhà nước thế
tục khác tại Trung Đông là đi ngược lại các nguyên tắc “thánh khiết” của đạo Hồi.
Thậm chí, IS còn quy chụp cho người Hồi giáo dòng Shiite là những kẻ phản đạo, phải
bị trừng trị; đồng thời, chủ trương tiêu diệt cả người Kitô giáo và người dân tộc thiểu

số ở những vùng mà chúng chiếm đóng8. [8]
5.
Tóm lại
Thực chất của hiện tượng tha hóa con người là lao động của con người bị tha hóa.
Khi lao động bị tha hóa, con người trở nên què quặt, khuyết thiếu trên nhiều phương diện
khác nhau. Sự tha hóa nói trên tất yếu làm cho con người phát triển không thể tồn diện,
khơng thể đầy đủ, và khơng thể phát huy được sức mạnh của bản chất người. Trong đó,
sở hữu tư nhân, theo C. Mác, là kết quả, sản phẩm, hệ quả tất yếu của lao động bị tha hóa,
của quan hệ bên ngồi của người cơng nhân với tự nhiên và với chính mình; nói
8“Từ cách tiếp cận của C.Mác về tha hóa đến các hiện tượng tha hóa ở Việt Nam hiện nay.” Tạp chí
Lý luận chính trị, 28 May 2018, Accessed 29 December 2021.
7

download by :


cách khác - lao động bị tha hóa là nguyên nhân trực tiếp của sở hữu tư nhân. Mặt khác, sự
tha hóa của lao động cịn được tạo nên bởi sự tha hóa trên các phương diện khác của đời
sống xã hội: Sự tha hóa của nền chính trị vì thiểu số ích kỉ, sự tha hóa các tư tưởng của
tầng lớp thống trị, sự tha hóa của các thiết chế xã hội khác. Vì vậy, việc khắc phục sự tha
hóa khơng chỉ gắn liền với việc xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa mà còn gắn liền với
việc khắc phục sự tha hóa trên các phương diện khác của đời sống xã hội. Đó là một q
trình lâu dài, phức tạp để giải phóng con người, giải phóng lao động9. [9]

GIẢI PHĨNG CON NGƯỜI
Triết học Mác về giải phóng con người là một thành tựu to lớn và mang tính
cách mạng sâu sắc trong lịch sử tư tưởng nhân văn của nhân loại. Triết học Mác lấy
con người làm điểm xuất phát cho nghiên cứu và lấy tự do của con người làm mục
tiêu cao nhất của sự tìm tịi và tranh đấu trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị. Ơng đã
cung cấp một khn khổ triết học để giải phóng con người khỏi xiềng xích của sự

bất cơng và bóc lột trên thế giới .Trong hoạt động thực tiễn của mình, C.Mác ln
xem đấu tranh cho sự giải phóng con người là sứ mệnh lịch sử của triết học.
B.

Khái niệm
Trong các cơng trình nghiên cứu của C.Mác, mọi vấn đề của triết học C.Mác
luôn gắn liền với mối quan hệ hữu cơ con người; bởi con người ln giữ vị trí
trung tâm và là mục tiêu cao nhất của học thuyết Mác. Lý tưởng nhân văn xun
suốt, nhất qn trong tồn bộ các cơng trình khoa học và hoạt động xã hội của C.Mác
là tìm ra con đường giải phóng con người. Theo quan điểm của các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, việc giải phóng những con người cụ thể là để đi
đến giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và tiến tới giải phóng tồn thể nhân loại.
1.

Ở một số thuyết triết học điển hình như chủ nghĩa duy tâm ở tơn giáo cho rằng
“giải phóng con người là sự giải thoát khỏi cuộc sống tạm, khỏi bể khổ cuộc đời để lên cõi
niết bàn hoặc lên thiên đường ở kiếp sau”10[10]. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh thì Bác quan
niệm rằng “giải phóng con người” là nằm trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề giải phóng con người được giải quyết theo quan điểm duy
vật biện chứng, giải phóng con người trên cơ sở giải phóng xã hội và xây dựng xã hội mới,
Người dùng tài năng của mình để lãnh đạo sự nghiệp giải phóng để đạt được những
thắng lợi quan trọng. Và cuối năm 2000, Laurent Lemarchand, một nhà nghiên cứu chủ
nghĩa Mác ở phương Tây, đã cho rằng “sự giải phóng thường đối đầu với sự thống trị
hơn là sự bóc lột, và nó liên quan đến những vấn đề về quyền lực hơn là về các mối quan
hệ kinh tế – xã hội, ít nhất là ở phương Tây.”
Giải phóng con người chính là đưa con người thốt khỏi sự tha hố hay nói cách
khác là đưa lao động của con người thoát khỏi sự tha hóa, cụ thể là con người thốt khỏi
sự áp bức bóc lột trong q trình lao động - một trong những tư tưởng nhân đạo cao cả
của học thuyết Mác-Lênin. Khi mỗi người thốt khỏi sự tha hóa và phát triển tự do, đó là
điều kiện tất yếu cho sự phát triển tự do của mọi người. Giải phóng con người là “tư

tưởng căn bản, cốt lõi của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người.
Đấu tranh giai cấp để thay thế chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản

9 10

Giáo trình triết học Mác-Lênin. Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật, 2021.

8

download by :


xuất và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, để giải phóng con người về
phương diện chính trị là nội dung quan trọng hàng đầu. Khắc phục sự tha hóa của con
người và của lao động của họ, biến lao động sáng tạo trở thành chức năng thực sự
của con người là nội dung có ý nghĩa then chốt. Điều kiện và tiền đề để giải phóng
triệt để con người là xóa bỏ giai cấp, xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
và sức sản xuất phát triển ở trình độ rất cao. Đó là quá trình lịch sử lâu dài.”11[11]
2.
Phương thức và lực lượng giải phóng
Giải phóng con người đã được triển khai bởi chủ nghĩa C.Mác trong nhiều
nội dung lý luận và nhiều phương diện khác nhau. Một trong những phương diện
để giải phóng con người là đấu tranh giai cấp. Điều kiện và tiền đề để giải phóng
con người triệt để là xóa bỏ giai cấp, xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất và sức sản xuất phát triển ở trình độ rất cao. Đó là q trình lịch sử lâu dài.
Mục đích đấu tranh giai cấp là để thay thế chế độ sở hữu tư hữu, tư bản chủ nghĩa
về tư liệu sản xuất và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thành chế độ công
hữu, cộng sản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và phương thức sản xuất cộng sản chủ
nghĩa nhằm giải phóng con người về phương diện chính trị. Từ đó khắc phục
được sự tha hóa của con người, biến lao động sáng tạo đã bị tha hóa bởi chế độ tư

bản chủ nghĩa trở thành lao động có tính tự giác, chủ động của con người.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lê-nin khẳng định “xã hội không thể nào
tự giải phóng cho mình được nếu khơng giải phóng cho mỗi cá nhân riêng biệt”. Do đó,
sự phát triển tự do của mỗi cá nhân là điều kiện cho sự phát triển tự do của cộng đồng
người. Mục tiêu cuối cùng trong tư tưởng về con người của chủ nghĩa Mác Lê-nin là
giải phóng con người trên tất các phương diện, cụ thể là để đi đến giải phóng xã hội
phân chia giai cấp, giải phóng dân tộc và tiến tới giải phóng tồn thể nhân loại. Sự giải
phóng của con người khỏi tình trạng tha hóa chỉ đạt được khi con người thực sự được
giải phóng kh ỏi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Lí luận này của các nhà kinh điển
chủ nghĩa C.Mác khơng những mang tính khoa học mà cịn mang tính cách mạng. Nó đã
góp phần tạo nên cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Lý luận này ngày
càng thể hiện được tính đúng đắn trong bối cảnh hiện nay, là “kim chỉ nam” cho hành
động trong nền tảng lí luận trong việc nghiên cứu giải phóng và phát triển con người
trong hiện thực ở các nước tiến bộ trên thế giới.
3.
Các ví dụ
Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 vĩ đại là một minh chứng lịch sử về vấn đề giải
phóng con người. Thắng lợi to lớn đó khơng những mở ra con đường lật đổ chính phủ
lâm thời giai cấp tư sản, giải phóng cho giai cấp vơ sản ở nước Nga; mà cịn là một mốc
son vàng đánh dấu thời kỳ hưng thịnh của cách mạng vơ sản nói chung trên thế giới, là
ngọn lửa tiếp sức cho người lao động ở các nước thuộc địa đứng lên giải phóng thân phận
mình khỏi ách áp bức, bóc lộc của thực dân, đế quốc. Cuộc cách mạng đã tạo ra một Nhà
nước xã hội chủ nghĩa thắng lợi đầu tiên trên thế giới, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch
sử loài người, một nguồn sáng cho sự hịa bình, bác ái. Tuy đã hồn thành bước đầu đấu
tranh giải phóng con người thốt khỏi ách áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân, phong
kiến trong xã hội cũ nhưng con người chúng ta hiện nay vẫn sẽ tiếp tục đấu tranh xóa bỏ
hồn tồn xã hội giai cấp, khiến con người chúng ta trở nên bình đẳng để đạt đến mục
đích cuối cùng của mỗi cá nhân, mỗi con người và toàn xã hội là có được
11


Giáo trình triết học Mác-Lênin. Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật, 2021.
9

download by :


sự phát triển tự do. Nói tóm lại, cuộc cách mạng tháng 10 Nga đã giải phóng con
người (giai cấp vơ sản) khỏi sự tha hóa trong lao động: người lao động thốt khỏi
sự áp bức bóc lột trong q trình lao động ở nước Nga, làm tiền đề giải phóng giai
cấp vơ sản tại các nước trên thế giới.
Ngồi ra trong lịch sử đã có các nước sử dụng đấu tranh với mục đích giải
phóng con người như cuộc đảo chính chính quyền quân sự ở Burkina Faso (Tây
Phi) năm 1983, và Thomas Sankara đã tiến hành những cải cách tiến bộ, cải thiện
đời sống nhân dân, tăng quyền cho phụ nữ. Đường lối này đã mang lại sự bình
đẳng giữa các cá nhân trong cộng đồng, tiến đến xã hội chủ nghĩa. Hay ở Việt Nam,
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi đã mang lại độc lập, tự do cho dân tộc,
mang lại quyền làm chủ cho nhân dân Việt Nam…
Tuy đã hoàn thành bước đầu đấu tranh giải phóng con người thốt khỏi ách áp
bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân nhưng con người chúng ta hiện nay vẫn sẽ tiếp tục
đấu tranh xóa bỏ xã hội giai cấp (tư bản chủ nghĩa) để đi đến mục đích của mỗi cá nhân,
mỗi con người và tồn xã hội là có được sự phát triển tự do (xã hội cộng sản chủ nghĩa).
4.
Tóm lại
Với nhãn quan chính trị của một nhà cách mạng, C. Mác đã xây dựng thành công học
thuyết khoa học về sự nghiệp “giải phóng con người”- một trong những tiến trình phát
triển của lịch sử tư tưởng nhân loại . Đây là vấn dề trung tâm luôn được các nhà tư
tưởng nghiên cứu và phát triển, đồng thời cũng là một vấn đề nóng bỏng được đặt ra
trong thời đại ngày nay. Qua q trình lịch sử, con người đã xóa bỏ được sự áp bức,
bóc lột nặng nề của chế độ thực dân, phong kiến; chúng ta đang dần tiến đến việc xóa
bỏ xã hội có sự phân chia giai cấp ở thời điểm hiện tại, qua việc đấu tranh giải phóng

lao động của con người khỏi sự tha hóa, đưa lao động về đúng vị trí vốn dĩ của
nó.Chỉ khi lực lượng sản xuấ t phát triển đến một mức độ nhất định thì con người mới
có được điều kiện để giải phóng mình một cách triệt để, hướng tới sự phồn vinh của xã
hội, vì cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn cho mỗi thành viên trong cộng đồng Việt Nam
nói riêng và các nước tiến bộ trên thế giới nói chung.

10

download by :


Chương II
Liên hệ thực trạng học sinh, sinh viên Việt Nam hiện nay
1.
Tha hóa trong giáo dục
Giáo dụ c vớ i mục tiêu là chu ẩn bị cho họ c sinh, sinh viên nh ững phẩ m ch ất
đạo đức, tri thức, kỹ năng, phương pháp định hướng đúng đắn tương lai của bản
thân và trở thành một con người có ích cho xã hội. Khi giáo dục xa rời mục tiêu, nghĩa
là nền giáo dục đó đã bị tha hóa. Một số vấn đề như điểm số và vấn nạn “dạy thêm,
học thêm” đã làm nổi bật lên sự tha hóa trong nền giáo dục Việt Nam hiện nay.

Vấn nạn điểm số
Vốn dĩ ban đầu, điểm số chỉ là một hình thức cho ta tự xem lại, đánh giá một
quá trình học tập của chúng ta sau một khoảng thời gian nhất định, từ đó biết được
bản thân cịn yếu kém ở đâu để tự mình rèn luyện và khắc phục, tạo động lực cho ta
phấn đấu và đạt được thành tích tốt hơn trong học tập. Nhưng hiện nay, ngày càng
xuất hiện nhiều hơn những tư tưởng sai lệch về điểm số, đó khơng cịn là thước
đo chuẩn mực về việc học hay những kiến thức mà mỗi cá nhân học sinh, sinh viên
đã tiếp thu được. Và sự xuất hiện ngày càng dày đặc của điểm “ảo” đã khiến cho
vấn đề điểm số cũng như việc dạy và học dần bị tha hóa. Nó khơng cịn phục vụ con

người với mục đích cải thiện và phát triển theo đúng nghĩa, mà nó khiến con
người ta trở thành “nơ lệ” của điểm số. Và việc thi đua thì khơng cịn lành mạnh
khi người học hành chăm chỉ lại được cho là thua kém những người sử dụng mọi
cách, ngay cả những cách thức tiêu cực để được điểm cao.
a)

Khi điểm số đã trở thành nỗi ám ảnh quá lớn, khiến con người phải làm mọi
cách để đạt được “nó”. Thì câu chuyện điểm số đã khơng chỉ dừng lại ở những
việc đơn giản là ganh đua mà còn dẫn theo, phát sinh ra rất nhiều vấn đề khác trong
việc dạy và học. Trên thực tế đã có rất nhiều vụ việc xảy ra. Ví dụ vào năm 2018, tại
Sơn La, đã phát hiện trường hợp 44 thí sinh gian lận điểm thi Trung học Phổ thông
Quốc gia. Điểm số ấy đã khơng cịn phản ánh đúng năng lực, trình độ của người
học. Chỉ vì muốn có được nó mà con người đã bất chấp, kể cả là vi phạm pháp luật
để có thể đạt được số điểm mong muốn. Và chính vì sự tha hóa đó đã dẫn đến rất
nhiều hậu quả không những là trước mắt mà còn là về lâu dài.
Chỉ khi vấn đề cốt lõi được giải quyết thì việc điểm “ảo” mới khơng cịn. Và
nguyên nhân của thực trạng trên đầu tiên là vì học sinh, sinh viên chỉ quan trọng điểm
số, mà lại quên đi mất rằng kiến thức mới là điều quan trọng nhất. Nguồn gốc của thực
trạng trên bắt nguồn từ vẻ bề ngoài của việc xếp loại. Con người chúng ta vẫn luôn vội
vàng đánh giá mà không xem xét kỹ sự việc. Không những thế sự kỳ vọng quá mức
về thành tích của gia đình và nhà trường đã vơ tình tạo ra áp lực lớn khiến học sinh
ln cảm thấy mệt mỏi, chán nản dẫn đến những hành động sai trái. Mặt khác, do
mong muốn khẳng định bản thân nên kết quả học tập là điều quan trọng nhất đối với
các bạn trẻ - giai đoạn có nhiều thay đổi về tâm sinh lý. Rất nhiều học sinh, sinh viên
ln tự đặt áp lực cho chính mình để duy trì được thành tích tốt. Tuy nhiên, việc tự
tạo áp lực lại vơ tình gây ra tình trạng mệt mỏi và suy nhược. Bởi khi thành tích giảm
sút, trẻ sẽ phải đối mặt với những câu h ỏi từ giáo viên và gia đình. Quan trọng một
số trẻ có tính cách cầu tồn ln muốn bản thân đạt kết quả tốt nhất trong các kỳ thi.

11


download by :


Vì thế, mỗi con người chúng ta phải ln xem xét mọi sự việc theo hướng khách
quan và toàn diện. Tự mỗi bản thân học sinh, sinh viên cũng phải tự mình nhận ra điểm số
chỉ là để tự mình đánh giá và xem lại quá trình và thái độ học của bản thân. Và những áp
lực từ phía phụ huynh cần được kh ắc ph ục, không thể áp đặt ý muốn của mình lên con cái
mà ta phải để con cái của mình được phát triển tự do theo ý thích.

Vấn nạn “học thêm, dạy thêm”
Việc học thêm thực chất là một nhu cầu chính đáng chỉ khi nó giúp cho học
b)

sinh trao dồi những kiến thức mới bên cạnh những điều đã học ở trường, như nâng cao
sự năng động thể chất, năng lực sáng tạo, trí tượng tưởng và phát huy khả năng tự học
của học sinh. Nhưng thực tế cho thấy đa số học sinh hiện nay đi học thêm với mục tiêu

chung là nâng cao điểm số, và nội dung họ học lại nằm trong chương trình học ở
trường. Như vậy, việc học thêm khơng khác gì với việc “nhai lại” kiến thức ở trường
để đối phó với các bài kiểm tra, với giáo viên, với phụ huynh và với chính bản thân
của họ. Đặc biệt, trong việc lựa chọn giáo viên để học thêm, học sinh thường chọn
những giáo viên nổi tiếng, những người có khả năng “đốn” các đề kiểm tra, hoặc
những giáo viên đảm nhiệm mơn đó ở trường để lấy hảo cảm từ giáo viên, mong muốn
được giáo viên “nâng điểm”. Thậm chí việc học thêm đối với nhiều học sinh còn quan
trọng hơn cả việc học ở trường, dẫn đến việc họ lơ là, không chú ý nghe giảng khi đến
trên lớp. Điều đó làm cho việc học trở nên nhàm chán, bị động và khuôn khổ. Học sinh

sẽ trở thành những cỗ máy, khơng có sự sáng tạo, khơng năng động, chỉ làm theo
những gì mà giáo viên dạy thêm đã lập trình sẵn. Ở đây, rất nhiều học sinh học thêm

ngồi giờ khơng phải do tự nguyện mà xuất phát từ mong muốn của các bậc phụ
huynh, từ đó việc học khơng cịn để phục vụ cho nhu cầu học hỏi những cái mới để
hoàn thiện bản thân nữa mà nó mang tính bắt buộc nhiều hơn. Một số học sinh học
thêm cùng một môn với hai, ba người giáo viên khác nhau, lịch học thì trải dài suốt cả
các ngày trong tuần, khơng có thời gian để giải trí hay học thêm những kĩ năng khác.
Sự giáo dục cho học sinh lúc này dường như trở thành “món hàng” giữa chính phụ
huynh và thầy cơ giáo, mà chất lượng của món hàng đó phụ thuộc vào điểm số của
những bài kiểm tra và thành tích đạt được ở trường.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau, vật
chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức. Trong trường hợp này có phải chăng
nguyên nhân chủ yếu làm xảy ra vấn nạn “dạy thêm, học thêm” là do thu nhập của giáo
viên quá thấp so với đời sống hiện nay và so với những gì họ đã cống hiến cho xã hội,
khiến họ khơng thể nào khơng tìm một cơng việc ngồi giờ để tăng thu nhập, nổi bật là
việc dạy thêm. Không phải tất cả giáo viên dạy thêm đều với mục đích chính là kiếm
tiền nhưng làm sao giáo viên dạy tốt, dạy với tinh thần thoải mái nhất khi bản thân và
gia đình họ phải sống chật vật, khó khăn. Bên cạnh đó, chương trình học nặng, kéo
theo bệnh thành tích và chạy theo điểm số làm cho rất nhiều phụ huynh, học sinh quan
tâm đến nhu cầu học thêm ngoài giờ ở trường. Nhu cầu học thêm càng tăng đồng
nghĩa với việc số lớp dạy thêm cũng tăng theo, dần dần “học thêm, dạy thêm” bị biến
chất và trở thành một vấn nạn trong ngành giáo dục.
Bản chất của việc học thêm là phi lợi nhuận, là đầu tư cho tương lai chứ không
phải đặt nặng về mục đích kinh doanh. Để khắc phục và giải quyết vấn nạn này, trước
tiên nhà nước nên xem xét và cân đối lại mức lương của giáo viên sao cho phù hợp với
đời sống hiện tại để giáo viên có thể dạy tử tế và tâm huyết với nghề mà khơng cần tính tốn
từ việc dạy thêm. M ặt khác, học sinh nên dành nhiều th ời gian để trị chuyện cùng phụ
huynh của mình và nói lên những mong muốn của bản thân trong việc học,
12

download by :



ví dụ như các bạn muốn học đàn, học vẽ, học nâng cao mơn tốn thay vì học những
chương trình đã được dạy ở trường. Tóm lại, để giải quyết được vấn nạn “dạy
thêm, học thêm”, không chỉ cần các biện pháp răn đe của nhà nước mà còn cần sự
hợp tác một cách tự nguyện từ phía giáo viên, phụ huynh và học sinh12.[12]
c)
Hậu quả của sự tha hóa giáo dục
Giáo dục là cái nôi phát triển con người một cách tồn diện và góp phần đổi mới
xã hội thông qua những hoạt động, suy nghĩ của các cá nhân trong đó. Vì thế, sự tha
hóa giáo dục sẽ kéo theo những hệ lụy rất lớn trong nhiều lĩnh vực đời sống xã hội.

Trước hết, hậu quả của sự tha hóa giáo dục là những ảnh hưởng xấu đến
chất lượng của nguồn nhân lực cho công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế. Bởi vì, một nền giáo dục bị tha hóa sẽ chỉ đào tạo ra những “cỗ máy”
khơng có chính kiến, khơng có sự sáng tạo và khơng có đam mê, nhiệt huyết với
công việc. Thực tế ở Việt Nam cho thấy số sinh viên ra trường mỗi năm rất nhiều
nhưng số sinh viên khơng có việc làm cũng rất nhiều vì không đáp ứng được nhu
cầu của các nhà tuyển dụng. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ việc thiếu các kĩ
năng mềm khi còn ngồi trên ghế nhà trường, yếu ngoại ngữ và định hướng sai
nghề nghiệp. Có phải chăng nền giáo dục rập khuôn đã làm cho học sinh, sinh viên
khơng có khả năng tiếp cận sớm với những kĩ năng cần thiết đó. Khi số lượng sinh
viên thất nghiệp cịn nhiều mà nguồn nhân lực khơng đủ để đáp ứng nhu cầu của xã
hội thì làm sao đất nước phát triển và hội nhập quốc tế.
Bên cạnh đó, sự tha hóa giáo dục cịn góp phần làm suy yếu nền tảng văn
hóa, đạo đức xã hội. Nền giáo dục bị tha hóa khiến cho mục đích học tập của học
sinh, sinh viên khơng cịn hướng tới cộng đồng, xã hội nữa mà chỉ để phục vụ cho
lợi ích cá nhân. Nền giáo dục bị tha hóa đề cao đến kết quả, những gì mà học sinh,
sinh viên đạt được mà khơng quan tâm đến q trình nỗ lực của mỗ i cá nhân. Vì
thế, nhiều người chọn cách làm những việc trái với đạo đức để được công nhận, ví
dụ như: gian lận trong thi cử, mua bằng. Nhiều học sinh, sinh viên từ đó cũng trở

nên thực dụng hơn khi những gì họ đạt được thì khơng cơng bằng so với những gì
mà họ đã làm. Thời gian để giải trí, vui chơi với bạn bè cũng ít đi khi việc học trở
thành gánh nặng, áp lực, khiến cho nhiều bạn trẻ trở nên trầm tính và cách li với xã
hội. Giới trẻ hiện nay nhạy cảm hơn nhiều so với các thế hệ trước, đỉnh điểm là
nhiều bạn học sinh, sinh viên đã chọn tự tử như một cách giải thoát cho bản thân
khỏi bị áp lực học tập từ phía nhà trường, phụ huynh và chính bản thân họ.
Tóm lại, sự tha hóa của nền giáo dục đã tạo ra những con người phục tùng và
làm theo, dẫn đến sự suy giảm chất lượng của nguồn nhân lực trong lao động, ảnh
hưởng lớn đến nhiều lĩnh vực đời sống khác. Khi cuộc sống của các cá nhân trong cộng
đồng khơng ổn định thì xã hội đó cũng khơng thể phát triển một cách tồn diện.

12

“Dạy thêm, học thêm nhu cầu hay vấn nạn – Bài 3: Giáo dục khơng phải là 'món hàng.'” Báo Đại

Đồn Kết,

19 November 2021, Accessed 29 December 2021.
13


download by :


Tha hóa trong các mối quan hệ xã hội:
Ích kỷ
Lối số ng của mộ t bộ phận thanh niên, trí thức hiện nay đang có hiện tượng
lệch chuẩn. Đó là tư duy sùng bái cá nhân ích kỷ, thực dụng, sống trụy lạc. Lối
sống đó đã bị chi phối b ởi những điều tiêu cực và đang dần bị tha hóa về mặt đạo
đức trong các mối quan hệ xã hội.

Trong một số trường hợp, lịng ích kỷ đã trở thành cái chi phối và quyết định
suy nghĩ, hoạt động của con người. Ích kỷ là người chỉ vì lợi ích cho riêng mình,
chỉ vì nhu cầu của cá nhân mình. Lịng ích kỷ tồn tại như là một bản năng trong tâm
lí, song song với cái tơi của chúng ta, cái tơi ln muốn mình hồn hảo hơn, đạt
được nhiều thứ mình muốn hơn, cái tơi muốn có tiếng nói hơn, muốn khẳng định
mình hơn. Họ sống lo toan về cuộc sống cá nhân, cịn xã hội bên ngồi như một cái
gì đó xa lạ. Họ muốn nhận nhiều hơn là cho đi. Ln ln có xu hướng muốn
mình là trung tâm của vũ trụ. Tất cả vấn đề phải quay về mình, từ con người và lối
suy nghĩ của mình, sau đó áp đặt những quan điểm cá nhân đó ra bên ngồi.
2.
a)

Ngày nay, sự ích kỷ được biểu hiện khá phổ biến trong lứa tuổi học sinh, sinh
viên. Họ không muốn giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong tình huống khó khăn ngay cả khi
mình đủ khả năng để thực hiện. Học sinh luôn cảm thấy bị thầy cô đối xử không công
bằng với các thành viên khác trong lớp, mong muốn mình phải nổi bật và được quan
tâm nhất. Trong hoàn cảnh sung sướng, hạnh phúc, người ta chỉ nghĩ đến bản thân
mình, khơng nghĩ cho người khác. Nhưng khi gặp những sai lầm thì lại đỗ lỗi cho
người khác, khơng bao giờ nhận về phía mình. Điển hình là khi làm việc nhóm, học
sinh sinh viên có xu hướng khơng muốn lỗi thuộc về mình, số ít sẽ khơng chịu trách
nhiệm và đổ lỗi cho các thành viên khác. Lối sống tiêu cực này sẽ dễ đưa người ta đến
kh ổ cảnh, đến sự nghèo thi ếu, cô đơn, sống mà không được người khác quan tâm,
dễ bị hắt hủi. Một số bộ phận thanh niên nhầm lẫn rằng muốn có nhiều thứ hơn thì
mình phải mưu lợi; nhưng thật ra từ trạng thái hào phóng, khơng nhỏ nhen, đầy đủ tự
tin thì cá nhân đó mới thực sự nhận được nhiều hơn. Liên quan đến vấn đề đó,
cách hành xử của học sinh, sinh viên trong giao tiếp xã hội cũng đang dần bị tha hóa,
cụ thể như trường hợp được ghi nhận trong bài báo Thanh niên “Người trẻ thời nay
quá ích kỷ?” về ý kiến của bà N.B.T sống tại TP.HCM: “Bọn trẻ bây giờ ích kỷ thật, lên
xe buýt thấy người lớn tuổi không nhường ghế, mắt cứ trơ ra”13.[13]
Chúng ta sinh ra đều là một tờ giấy trắng như nhau, qua thời gian mình sẽ trở

thành sản phẩm của hành trình, của sự lớn lên. Những gì tiêu cực mà mình tiếp xúc,
mình được dạy với những cá tính riêng, với cách nhìn nhận khác nhau của mỗi người
sẽ hình thành nên sự nhỏ nhen, ích kỷ. Sự ích kỷ có thể đến từ ảnh hưởng của mơi
trường sống, tiếp xúc với thế giới, chứng kiến những điều mới lạ và lúc đó chúng ta
sẽ chịu ảnh hưởng từ bạn bè, đồng nghiệp,…. - mơi trường sống ngồi gia đình.
Thế nhưng gia đình vẫn là gốc rễ ăn sâu vào cách nhìn nhận của chúng ta.
Nhìn chung, những người sống rộng rãi, bao dung họ có cuộc sống hạnh phúc,
thành cơng và có nhiều bạn bè hơn. Cuộc sống sẽ đáng sống hơn khi mình biết nhìn
nhận cuộc sống bằng cái nhìn tích cực và biết phóng khống. Ai ai cũng có cái “tơi”

13

“Người trẻ thời nay q ích kỷ?” Báo Thanh Niên, 4 October 2018,
Accessed 29 December 2021.
14

download by :


trong con người của mình, nhưng quan trọng là phải biết điều chỉnh nó như thế nào
cho phù hợp với tiêu chuẩn đạo đức và pháp luật của xã hội. Hãy ln mang trong mình
trạng thái thuần khiết tích cực để hành động. Về phía gia đình, hãy đảm bảo đó là
nơi sẽ trang bị cho chúng ta tình thương, sự an tồn. Bên cạnh đó, nhà trường cũng
là một bộ phận giáo dục gắn liền với học sinh, vì thế cần tạo nên sự công bằng, họ sẽ
không phải tìm cách giành giật hay ganh đua nhau. Một khi cảm nhận được sự đầy đủ
trong thế giới tinh thần sẽ giúp ta hạn chế hướng tới những điều tiêu cực.

Sống quá ích kỷ đồng nghĩa với việc chúng ta đang dần hủy hoại hạnh phúc
của chính mình. Nên biết trân quý, sống chia sẻ, hy sinh vì người khác, tích lũy
những điều tốt đẹp để cuộc sống được vui vẻ, hạnh phúc. Đó là cách sống có trí

tuệ và từ tâm, là một trong những nền tảng của sự tồn tại.
b)
Tình u
Về vấn đề tha hóa trong tình u của học sinh, sinh viên trong xã hội Việt Nam hiện
nay đã và đang xảy ra thực trạng vô cùng nhức nhối. Đối với học sinh, sinh viên nói
riêng và con người nói chung, tình u vốn là một phạm trù tình cảm lành mạnh; thiêng
liêng; trong sáng; khơng toan tính, vụ lợi; hướng con người tới những giá trị cao đẹp.
Nhưng xã hội ngày càng phát triển lại kéo theo sự phát sinh của nhiều vấn đề mới tác
động đến bản chất con người, bóp méo đi dáng vẻ xinh đẹp của tình yêu khiến tình
yêu trong giới học sinh, sinh viên ngày càng trở thành “vấn nạn”.
Tìm hiểu về thực trạng tha hóa trong tình u ở lứa tuổi học sinh Việt Nam, theo
khảo sát thực tế của Tiến sĩ Tâm lý học trẻ em và vị thành niên - ĐHQG Hà Nội – Trần
Thanh Nam, tại một số trường ở nội và ngoại thành Hà Nội, đến hết lớp 9 có khoảng 10%
học sinh đã từng quan hệ tình dục. Đáng nói, khoảng 10% học sinh THPT báo cáo đã từng
quan hệ với từ 3 người trở lên, khoảng 15% các em có sử dụng các chất kích thích (gồm
cả rượu, các dạng ma túy) trong lần quan hệ gần nhất. Từ đó lại dẫn đến một thực trạng
đáng buồn hơn là cứ trong 1.000 ca phá thai tại Việt Nam có 15 trường hợp
ở tuổi vị thành niên trong khi theo nghiên cứu quốc gia về vị thành niên và thanh niên
năm 2010, độ tuổi trung bình quan hệ tình dục lần đầu ở Mỹ là 18, ở Việt Nam cũng là
14

18 nhưng tỷ lệ nạo phá thai ở Mỹ thấp hơn rất nhiều so với Việt Nam [14]. Bên cạnh
đó, chúng ta thấy hiện trạng diễn ra đối với tình yêu ở lứa sinh viên cũng ngày càng bị
biến chất, tình yêu bị biến thành công cụ để con người thỏa mãn vật chất. Điển hình
trong đó là hiện tượng mới nổi cộm trong khoảng thời gian gần đây: “Sugar daddy –
Sugar baby” – hình thức mại dâm trên danh nghĩa tình u, hẹn hị; tình yêu trở thành
cầu nối giữa “tình và tiền” phổ biến trong lứa tuổi sinh viên. Xã hội càng phát triển, lao
động và sản xuất vật chất càng phát triển, con người càng nảy sinh ra nhiều nhu cầu
mới khiến tình u khơng cịn đơn thuần là tình cảm giữa hai người với nhau mà bị vật
chất chi phối đặc biệt là trong độ tuổi sinh viên – khi mà con người nung nấu trong

mình những ham muốn về tiền tài, danh vọng vô cùng lớn.
Để dẫn đến những thực trạng trên, chúng ta phải truy ra gốc rễ của vấn đề nằm ở
đâu. Thứ nhất, cùng tìm hiểu nguyên nhân khách quan. Về phía xã hội, do mặt trái của sự
phát triển của kinh tế thị trường, trẻ em ngày càng sớm được tiếp cận với máy móc hiện
đại, internet,…trong khi hiện nay, thời kỳ thông tin bùng nổ, mạng xã hội ngồi những lợi
ích của nó mang lại thì tồn tại rất nhiều văn hóa phẩm đồi trụy, những thơng tin mang tính
kích động tác động đến tri thức của các em khiến các em có cái nhìn sai
14

“Ở Việt Nam 39% học sinh trung học đã từng quan hệ tình dục - VietNamNet.” Vietnamnet, 29 March

2018.

15

download by :


lệch về tình u thuần túy. Về phía nhà trường, giáo dục chưa chú trọng đến việc bồi
dưỡng tình cảm, tinh thần, cũng như là định hướng tâm sinh lý cho học sinh; nhà
trường và thầy cơ cịn thờ ơ, chưa nghiêm khắc triệt để đối với tình u khơng lành
mạnh của học trị. Nhiều gia đình vì q bận rộng cơng việc nên khơng có thời gian
tâm sự, gần gũi với con cái, để con em sa đà vào tình u độc hại mà khơng có điểm
dừng, đó là sự vơ tâm đến từ phía các bậc cha mẹ. Còn về nguyên nhân chủ quan, độ
tuổi học sinh, sinh viên là độ tuổi phát triển tâm sinh lý, những nhu cầu bộc phát đó là
những bản năng tất yếu của con người, nhưng đơi khi bản năng đó bị vượt quá giới
hạn khiến bản thân không làm chủ được chính mình; đặc biệt là đối với học sinh, các
em chưa có khả năng đánh giá tính đúng sai của vấn đề mà bị sự tò mò chi phối dẫn
đến những hành động sai trái. Ngoài ra ở độ tuổi chưa chín chắn như vậy, con người
cịn thiếu quan niệm và nhận thức đúng đắn về một tình yêu lành mạnh. Bị cám dỗ bởi

vật chất, bởi tác động của những người xung quanh: yêu theo trào lưu, “đào mỏ”…
Những nguyên nhân trên đã tạo ra những hệ lụy vô cùng nghiêm trọng. Học
sinh, sinh viên vì sự tác động xấu của tình yêu mà ảnh hưởng tới kết quả học tập
ngày một đi xuống, nợ mơn, bỏ học,…từ đó khiến tỉ lệ thất nghiệp cũng ngày một
cao hơn, thực trạng nạo phá thai ở tuổi vị thành niên lẫn sinh viên ngày càng nhức
nhối, tệ nạn xã hội cũng trở nên phổ biến hơn, tình trạng tảo hơn một mặt chưa thể
xóa bỏ mà đặc biệt cịn diễn ra nhiều ở vùng sâu, vùng xa. Vơ hình trung tạo cái
nhìn thiếu thiện cảm cho mọi người về tình yêu học sinh, sinh viên; đánh đồng cả
những tình cảm lành mạnh và gắn cho nó cái mác “tệ nạn”. Giá trị con người cũng
trở nên tha hóa, suy thối, vị kỷ, bị vật chất phù phiếm chi phối mà quên đi lẽ sống
tốt đẹp khiến xã hội có nguy cơ bị xuống dốc.
Để khắc phục sự tha hóa trong tình yêu ở lứa tuổi học sinh, sinh viên tại Việt Nam,
chúng tôi đã đưa ra một số giải pháp như sau: Sự ảnh hưởng lớn nhất sẽ xuất phát từ gia
đình – những bậc phụ huynh đã sinh ra con cái thì phải có trách nhiệm dạy dỗ chúng nên
người. Cha mẹ hãy hóa thân thành bạn của con, khơng nên ép buộc hay cấm đốn con
u đương vì mỗi người phải hiểu rằng sự rung động đó chính là tâm sinh lý của con người
bình thường, hãy lắng nghe con và cho con lời khuyên, phải làm những điều đúng đắn. Đối
với công tác giáo dục, nhà trường và giáo viên nên lồng ghép các buổi học về giáo dục giới
tính, tâm sinh lý, tình u học đường; khơng cấm nhưng cũng không buông thả trong mối
quan hệ yêu đương của học sinh, để đảm bảo đó là một mối quan hệ trong sáng, cùng
nhau đi lên trong học tập; đồng thời cần phối hợp cùng các cơ quan chức năng có thẩm
quyền ngăn chặn, kiểm sốt chặt chẽ đối với các văn hóa phẩm độc hại, tránh cho học sinh
tiếp xúc quá sớm với chúng. Học sinh, sinh viên cũng phải tự bản thân ý thức được những
hành động mình đang làm và dừng lại trước khi mọi việc đi quá xa, không nên bán rẻ
lương tâm, phẩm giá cùng tình yêu trong sáng cho đồng tiền, vật chất phù phiếm; nên tìm
cách tâm sự với cha mẹ, thầy cơ hoặc những người bạn tốt của mình để tìm được phương
hướng đúng đắn trong tình u. Phải ln đặt bản thân trong một mối quan hệ mà mối
quan hệ đó giúp mình ngày càng phát triển tới những giá trị tốt đẹp, tránh tình yêu độc hại
khiến bản thân mình ngày càng chết dần chết mịn.
3.

Tha hóa trong lối sống và đạo đức
Như đã nêu ở phần khái niệm của tha hóa, chúng ta đều biết “tha hóa” là một khái
niệm được sử dụng rộng rãi và khi dùng để đánh giá con người, nó thường được hiểu là
sự đánh mất chính mình, sự tha hóa phẩm chất đạo đức, tính cách, lối sống của con người.
Trong xã hội hiện đại ngày nay, một xã hội mà yếu tố v ật chất ngày càng được đề cao thì
ngồi sự tha hóa về lao động, các vấn đề về tha hóa lối sống, đạo đức con người cũng là
một chủ đề khơng bao giờ hết “nóng” để ta bàn luận và suy ngẫm về
16

download by :


nó. Và hơn hết, sự tha hóa lối sống, đạo đức đó lại được thể hiện rõ nét nhất ở đội
ngũ học sinh, sinh viên – thế hệ trẻ được xem là tương lai của đất nước nhưng
lại đang dần đánh mất đi bản chất của lớp trẻ, đánh mất đi những điều tốt đẹp
vốn có của độ tuổi tràn đầy sức sống này. Với tư cách là sinh viên, chúng tơi xin
được đề cập đến một khía cạnh nhỏ của trong lối sống tha hóa đạo đức của học
sinh, sinh viên Việt Nam trong thời đại ngày nay.
Khi nhắc đến bốn chữ “Học sinh – Sinh viên”, mọi người đều nghĩ ngay đó
là tầng lớp tri thức của mỗi quốc gia; là những thỏi vàng thô đã và đang được mài
dũa hàng ngày để một mai có thể tỏa sáng, trở thành những báu vật đắt giá quyết
định sự phồn thịnh của cả dân tộc. Khắp nơi, mọi người đều tung hô “Giới trẻ là
tương lai của đất nước, của cả nhân loại”. Nhưng thực tế, liệu nó có hồn tồn tốt
đẹp như người ta vẫn nghĩ hay khơng?
Bàn về tình trạng đạo đức của giới trẻ, cụ thể hơn là các bạn học sinh, sinh
viên, ta khơng cịn cảm thấy lạ lẫm gì về hiện trạng một tốp những bạn trẻ sống bng
thả, khơng coi trọng thậm chí là xem thường giá trị đạo đức trong đời sống thường
ngày. Họ chạy theo lối sống hưởng thụ mà họ cho là hợp thời, sành điệu; họ sẵn sàng bỏ
qua những giá trị đạo đức để chạy theo những giá trị vật chất xa xỉ. Nói tóm lại, họ hồn
tồn bị tha hóa bởi vật chất, bởi sự xa hoa phù phiếm của đồng tiền. Điển hình trên các

trang thơng tin và truyền hình thời sự, phóng viên liên tiếp đăng tải những bài viết phản
ánh thực trạng đáng buồn này. Các bạn sinh viên, thậm chí có cả những bạn học sinh chỉ
đang trong độ tuổi vị thành niên lại có hành vi lơi kéo bè phái để đánh nhau, lăng mạ,
hành hung giáo viên, tồi tệ hơn là cảnh tượng con giết cha, anh giết em,… và rất nhiều
vụ việc thương tâm khác. Là một người học sinh, sinh viên, hẳn là nhiều người sẽ rất
quen thuộc với lời răn dạy của ông cha ta để lại: “Tiên học lễ, hậu học văn”; và cả
dòng nội quy mà ngơi trường nào cũng có: “Học sinh phải kính thầy yêu bạn, thực hiện
nếp sống văn hóa, trang phục gọn gàng, sạch sẽ phù hợp với học sinh”. Để học được
thành tài thì trước hết ta phải học cách làm người, học cách sống ngay thẳng, đạo đức
tốt đẹp. Nhưng trong thực tế lại rất đáng mỉa mai khi môi trường học đường trang
nghiêm giờ đây lại trở thành nơi để một phần nhỏ các bạn học sinh “thanh toán” lẫn
nhau. Họ hồn tồn qn đi những lời dặn dị của các bậc tiền nhân đi trước, để rồi
đây, họ thẳng tay vứt bỏ giá trị cốt lõi của đạo đức con người và hành xử một cách
“thú tính”. Để làm rõ hiện trạng này, chúng tôi xin phép được lấy một ví dụ cụ thể đã
từng xảy ra trong hiện thực. Cách đây không lâu, trên nền tảng mạng xã hội lan truyền
một đoạn clip “Nữ sinh đánh bạn” khiến nhiều người khơng khỏi chống váng. Hành
động bạo lực kèm theo đó là những lời mắng chửi thơ tục, xúc phạm nặng nề đến danh
dự, nhân phẩm của bạn nữ bị đánh đã trở thành yếu tố thu hút rất nhiều lượt xem và
chia sẻ trên Internet. Trong khi đó, nhiều học sinh khác vẫn ngồi ung dung ở ghế đá
xung quanh, thản nhiên “thưởng thức” vụ đánh hội đồng mà khơng có bất kỳ động tĩnh
ngăn cản nào. Một sự lạnh lùng, vô cảm đã và đang bao trùm lên tiềm thức của những
đứa trẻ này. Tuy nhiên, những hành động tàn bạo phi nhân tính được đăng trên báo
đài chỉ là “phần nổi của tảng băng chìm” , thực tế vẫn còn rất nhiều vụ án đau thương
khác khiến chúng ta khơng thể khơng nhìn nhận lại tốc độ tha hóa về đạo đức, lối sống
của lớp thanh-thiếu niên Việt Nam ngày nay.
Để hiểu rõ hơn và tìm ra phương án giải quyết hợp lý vấn đề này, chúng ta nên
xuất phát từ nguyên nhân gốc rễ đã dẫn đến nó. “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. Vì vậy
chúng ta sẽ xu ất phát tìm hiểu từ những nguyên nhân chủ quan trước. Trong một xã hội có
nền kinh tế phát triển, cuộc sống trở nên thoải mái và dư dả hơn so với trước kia, thực
17


download by :


tế có khơng ít các bạn trẻ lợi dụ ng sự tự do họ có để thực hiện những hành vi trái với đạo
đức, “bán linh hồn” cho đồng tiền để được sống buông thả, sống một cuộc đời chỉ làm
những gì họ thích và cho rằng nó là đúng. Chính những suy nghĩ đó đã kéo đến vơ số hệ
quả phía sau, d ẫn họ đến bờ vực bị tha hóa, suy đồ i v ề đạo đức và lố i sống. Đến với
các nguyên nhân khách quan, trước hết ta nên bắt đầu từ mối quan hệ xã hội gần gũi nhất
với họ - gia đình. Gia đình chính là một phần tử của xã hội, gia đình tốt đẹp thì xã hội mới
tốt đẹp. Tuy nhiên, ngày nay, có vơ số “lỗ hổng” đang dần xuất hiện rõ nét trong các gia đình
thời hiện đại. Cuộc sống phát triển vội vã, các bậc phụ huynh khơng có thời gian để quan
tâm chăm sóc con em mình, thay vào đó là đầu tư vào những buổi học thêm, học kỹ
năng “xốp” mà khơng hay biết liệu con có thật sự u thích chúng hay khơng. Cha mẹ
khơng quan tâm nhưng lại đặt áp lực cho con cái, khiến chúng từ tủi thân, cô độc đến tách
biệt khỏi xã hội. Một số bạn sẽ hình thành thói quen sống khép kín, một số khác sẽ chọn cách
bộc lộ tất cả cảm xúc tiêu cực lên người khác, bản chất con người cũng dần bị bóp méo
đến xấu xí. Một ngun nhân khác nhưng khơng kém phần quan trọng chính là vấn đề
giáo dục tại nhà trường. Hiện nay, đại đa số các trường đều chú trọng đến việc nhồi nhét
kiến thức, đề cao vai trò đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế thị
trường. Vì vậy, việc giáo dục đạo đức và lối sống gần như bị bỏ quên hoặc chỉ được xem là
vấn đề thứ yếu. Sự lãng quên trong vô thức ấy lại dẫn đến hệ lụy nghiêm trọng, nhưng
nguyên nhân dẫn đến sự tha hóa đạo đức chưa dừng lại ở đó. Nếu chúng ta nhìn vào
những gì đang diễn ra hàng ngày, ta sẽ nhận ra hiện tượng tha hóa đạo đức khơng phải là
những hành vi bộc phát đột ngột mà hầu như chúng đều tuân theo “quy luật nhân quả”.
Ngồi gia đình và nhà trường, ảnh hưởng từ xã hội cũng là một nguyên nhân dẫn đến sự
tha hóa về đạo đức của tầng lớp học sinh, sinh viên Việt Nam. Đứng giữa làn sóng phát triển
khơng ngừng của nền kinh tế thị trường, khơng ít các bạn trẻ sẽ dễ dàng bị cuốn theo làn
sóng đó. Như chúng tôi đã nêu
ở phần trên, họ ganh đua nhau chạy theo những giá trị vật chất xa xỉ, những thứ có thể đảm

bảo cho một cuộc sống hồn hảo như họ mong ước. Như một cách mỉa mai thực trạng này,
có người cịn cho rằng “thật thà ăn cháo, láo nháo ăn cơm” hay là “khơng tiền thì cạp đất
mà ăn”. Nhìn nhận một cách nghiêm túc vào thực tế, ta có thể thấy được hậu quả của sự
phát triển chớp nhống của xã hội. Đó là lối sống bng thả, gian lận trong thương trường,
chính trường và cả lối sống hưởng thụ. Không ở đâu xa, những vụ việc “múa riều”, tham
ô tham nhũng của các vị viên chức Nhà nước lại được du di bỏ qua. Việc này khiến người
trẻ sẽ nghĩ rằng “làm sai thì cũng khơng sao cả, ngay cả ăn hối lộ cịn không bị phạt”.
Không những thế, do sự hưởng ứng phong trào hội nhập văn hóa quốc tế theo chiều hướng
tiêu cực làm cho các bạn sinh viên, học sinh dần “hùa” theo phong cách sống “Tây hóa”, từ
đó khơng chỉ đánh mất nền tảng đạo đứng cốt lõi của con người, mà còn nảy sinh ra
nhiều kiểu sống sai trái, làm ảnh hưởng xấu đến những giá trị văn hóa dân tộc. Tóm lại,
mặc dù kinh tế và khoa học kỹ thuật phát triển rất nhanh nhưng xã hội sẽ rất khó đi lên
nếu thế hệ trẻ của đất nước lại không coi trọng việc học để chạy theo lối sống khơng lành
mạnh, khiến trình độ đạo đức bị tha hóa.
Vậy làm thế nào để khắc phục thực trạng tha hóa đạo đức và lối sống của một
phần nhỏ thế hệ sinh viên, học sinh Việt Nam? Để trả lời câu hỏi, trong phần này chúng tôi
đã đề ra một số phương hướng giải quyết theo quan điểm chủ quan của mình. Đầu tiên,
phải thường xuyên chăm lo đời sống giáo dục, đạo đức cách mạng, lối sống trong sạch,
lành mạnh cho học sinh, sinh viên. Trước hết, chúng ta cần quan tâm truyền tải nhữ ng vấn
đề cơ bản về chủ nghĩa Mác-Lenin; Tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh, nhằm
xây dựng cho học sinh, sinh viên một thế giới quan, phương pháp luận đúng đắn để giải
quyết hiệu quả các vấn đề xảy ra trong thực tiễn. Tiếp theo, phải có sự
18

download by :


kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục và rèn luyện
lối sống, đạo đức cho học sinh, sinh viên. Gia đình giữ vai trị rất quan trọng trong vấn
đề hình thành nhân cách của mỗi con người, là nơi gìn giữ những tình cảm tốt đẹp lưu

truyền qua nhiều thế hệ. Vì vậy, để giáo dục đạo đức cho thế hệ thanh – thiếu niên, mỗi
gia đình cần giữ gìn nền nếp, phát huy các giá trị truyền thống góp phần bồi dưỡng tư
tưởng tình cảm của các thế hệ con cháu sau này. Về phía nhà trường, thầy cơ khơng chỉ
dạy chữ, dạy nghề mà còn phải dạy người, lấy giáo dục tư tưởng, đạo lý làm người là
vấn đề luôn được đặt lên hàng đầu. Trong thời kỳ công nghệ thông tin bùng nổi và nền
kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ, việc giao lưu quốc tế trở nên phổ biến rộng rãi.
Chính vì thế, học sinh, sinh viên đã và đang chịu ảnh hưởng rất nhiều từ tích cực đến
tiêu cực của mơi trường kinh tế, chính trị, xã hội. Giải pháp khả quan hiện nay là các tổ
chức, đoàn thể cần quan tâm và tạo mọi điều kiện tốt nhất để các bạn trẻ phấn đấu và
rèn luyện đạo đức, cùng nhau trưởng thành; phải kịp thời phát hiện và kiên quyết uốn
nắn những bạn có xu hướng lệch lạc trong đạo đức và lối sống thanh – thiếu niên. Và
hơn hết, chính bản thân các bạn học sinh, sinh viên phải nâng cao tinh thần tự học tập, tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức và lối sống lành mạnh. Nhiệm vụ của các thế hệ đi trước
chính là chủ động tạo điều kiện tuyệt đối, quan tâm và ủng hộ thế hệ trẻ phát huy hết
sức ý thức tự làm chủ chính mình, mỗi học sinh, sinh viên phải biết xác định rõ trách
nhiệm của bản thân đối với Tổ quốc và xã hội, sống có lý tưởng, hoài bão, khát khao
đưa đất nước vươn tới những thành tựu tốt đẹp hơn, tiến bộ hơn.

19

download by :


Tổng kết:
Nói tóm lại, thơng qua q trình nghiên cứu về hiện tượng tha hóa con người và
vấn đề giải phóng con người, chúng ta rút ra: con người là trung tâm của xã hội, mọi
sự tranh đấu cốt yếu cũng hướng đến quyền lợi, ước muốn hạnh phúc và sự phát triển
nói chung của con người, đó cũng là mục tiêu, sứ mệnh cao cả của những người sáng
lập chủ nghĩa Mác. Hiện tượng tha hóa con người theo quan điểm của C.Mác cuối
cùng thực chất chính là quá trình lao động bị tha hóa chỉ diễn ra trong xã hội có giai

cấp và xuất phát từ chính nội tại trong lịng xã hội đó: do chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất. Hiện tượng tha hóa con người chính là một hiện tượng tất yếu xảy ra trong tiến
trình lịch sử con người, chịu sự tác động bởi nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan
nhưng suy cho cùng, tha hóa nảy sinh từ trong bản thân mỗi người. C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát hiện ra chân lý đó trong hồn cảnh xã hội phương Tây đang được bao
trùm bởi đa phần từ nền thống trị của giai cấp tư sản trong xã hội tư bản chủ nghĩa;
người lao động bị bần cùng hóa đến mức khơng cịn nơi nương tựa – người ta gọi họ
là vô sản. Trước nỗi đau “tha hóa” thống khổ đến cùng cực, bị những vật phẩm mình
làm ra biến thành những cơng cụ xiềng xích sự tự do của giai cấp vơ sản. Và đồng thời
để khắc phục tình trạng chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, tạo ra giá trị thặng
dư từ việc bóc lột sức lao động của người công nhân; đề cao giá trị đồng tiền; làm tha
hóa nhân cách con người, gây đảo lộn những giá trị xã hội… đó, C.Mác và Ph.Ăng ghen đã thức tỉnh người lao động ở nước Nga nói riêng và trên thế giới nói chung phải
đứng lên thực hiện sứ mệnh của mình: sống tự do, lao động tự do bằng cách xây dựng
nên tuyên ngôn của Đảng cộng sản để vạch trần bản chất của nhà nước chủ nghĩa tư
bản. Tuyên ngôn như kim chỉ nam dẫn lỗi cho giai cấp công nhân tiến hành những
cuộc đấu tranh đã có một chính đảng lãnh đạo, có một học thuyết soi đường để xóa bỏ
những bất cơng, giải phóng sức lao động, thốt khỏi sự áp bức, được hưởng quyền tự
do, độc lập – đó chính là chân lý, quy luật phát triển của xã hội, con người.
Để giúp con người thốt khỏi sự “tha hóa”, nghiên cứu của C.Mác và Ph.Ăngghen khơng chỉ nhận ra tha hóa chỉ có ở lao động mà nó cịn tồn tại ở các phương diện
khác của đời sống xã hội (chính trị, tơn giáo,…) nghĩa là giải phóng khơng chỉ diễn ra
trên mặt trận lao động mà phải trên tất cả các lĩnh vực mà tha hóa đang tồn tại. Song,
để giải quyết mâu thuẫn nói chung, theo quy luật mâu thuẫn của chủ nghĩa Mác-lênin,
chúng ta phải đấu tranh chứ khơng thể giải quyết bằng con đường điều hịa, thương
thuyết. Đồng thời, giải phóng con người phải được thực hiện dựa trên quan điểm duy
vật biện chứng, đặt trong mối quan hệ với cộng đồng; giải phóng con người trên cơ sở
giải phóng xã hội và xây dựng xã hội mới. Học thuyết của C.Mác và Ph.Ăng-ghen xoáy
sâu, nhấn mạnh vào mâu thuẫn, đấu tranh giai cấp mà ẩn chứa sau những câu chữ,
luận điểm là những giá trị nhân văn, nhân bản, đề cập trực tiếp đến quyền được sống,
quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc của con người, nhất là phụ nữ, trẻ em. C.Mác xuất
thân từ tầng lớp trí thức, nhưng ơng lại hướng lý tưởng của mình đến giai cấp vơ sản,
ơng đã dành trọn cả đời để đi tìm con đường giải phóng cho nhân loại cần lao, xóa bỏ

mọi bất cơng, áp bức, tiến đến xã hội đại đồng của chủ nghĩa cộng sản; bởi với C.
15

Mác, “khơng có gì thuộc về con người lại xa lạ” .[15]

15 16 17

“Những dự báo xuyên thời đại của C. Mác, Ph. Ăng-ghen về văn hóa trong Tun ngơn của Đảng Cộng
sản.” Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, 3 March 2018, />
20

download by :


Như vậy, theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin, cách mạng giải phóng dân tộc
được ghi nhận trong Tun ngơn của Đảng Cộng sản là điều kiện đầu tiên và quyết định
sự nghiệp giải phóng con người; đưa con người từ thân phận nô lệ lên địa vị làm chủ, giải
phóng con người khỏi áp bức dân tộc. Bước tiếp theo có phần khó khăn, phức tạp và lâu
dài hơn là xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa, giải phóng con người khỏi áp bức giai
cấp, khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng con người về mặt
chính trị càng được tiến hành triệt để bao nhiêu thì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
16

giải phóng con người về mặt kinh tế càng thuận lợi bấy nhiêu .[16]
Ph. Ăng-ghen từng khẳng định: Mặc dầu hoàn cảnh đã thay đổi nhiều nhưng cho
đến nay, xét về đại thể, những nguyên lý tổng qt trình bày trong bản Tun ngơn này vẫn
cịn hồn tồn đúng. Ở đơi chỗ, cần có một vài chi tiết cần phải xem lại. Chính ngay Tun
ngơn cũng đã giải thích rõ rằng, bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những
nguyên lý đó cũng phải tùy theo hồn cảnh lịch sử đương thời. Đó là nhận định mang tính
khách quan, khoa học, biện chứng. Tuy nhiên, dù một vài luận điểm đã bị thời đại vượt qua

và chủ nghĩa tư bản có những điều chỉnh phù hợp với xu thế thời đại, nhưng những quan
điểm về văn học, văn hóa và quyền tự do của con người được đề cập trong Tun ngơn thì
17

vẫn mang giá trị, sức sống và tinh thần thời đại sâu sắc .[17]
Việt Nam đã từng tiếp thu tinh hoa tốt đẹp từ quan niệm tha hóa và giải phóng con
người của chủ nghĩa Mác-Lênin để vận dụng vào các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
khỏi ách áp bức, thống trị của chế độ phong kiến, các nước đế quốc, thực dân, phát xít.
Hiện nay, Việt Nam vẫn cịn đang vận dụng quan niệm đó một cách khéo léo, sáng tạo để
đảm bảo vừa gìn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc, vừa bắt kịp tiến độ phát triển của thế
giới, thời đại trong quá trình quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.

thoi-dai-cua-c-mac-ph -ang-ghen-ve-van-hoa-trong-tuyen-ngon-cua-dang-cong-san-n50117.html. Accessed
29 December 2021.

21

download by :


Danh mục tài liệu tham khảo
[1] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.378.
[2] “Tư tưởng Các Mác về con người, giải phóng con người và phát triển con người toàn
diện ở Việt Nam.” Tạp chí Tuyên giáo, 4 May 2018, Accessed 29 December 2021
[3] Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số tháng 6.2006
[4] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.42, tr.57
[5] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.42, tr.126-146
[6] [7] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.42, tr.133
[8] “Từ cách tiếp cận của C.Mác về tha hóa đến các hiện tượng tha hóa ở Việt Nam hiện


nay.” Tạp chí Lý luận chính trị, 28 May 2018,
Accessed 29
December 2021.
[9] [10] [11] Giáo trình triết học Mác-Lênin. Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự

thật, 2021.
[12] “Dạy thêm, học thêm nhu cầu hay vấn nạn – Bài 3: Giáo dục khơng phải là
'món hàng.'” Báo Đại Đồn Kết, 19 November 2021, />
Accessed 29 December 2021.
[13] “Người trẻ thời nay quá ích kỷ?” Báo Thanh Niên, 4 October 2018,

/>December 2021.

Accessed

29

[14] “Ở Việt Nam 39% học sinh trung học đã từng quan hệ tình dục - VietNamNet.”

Vietnamnet, 29 March 2018.

[15] [16] [17] “Những dự báo xuyên thời đại của C. Mác, Ph. Ăng-ghen về văn

hóa trong Tun ngơn của Đảng Cộng sản.” Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam,
3 March 2018, Accessed
29 December 2021.

22

download by :



Đánh giá thành viên
STT
1
2
3
4
5

Tên thành viên
Đỗ Khánh Ngân
Dương Hoàng Nguyên
Đặng Thị Thanh Tuyền
Nguyễn Thị Thảo
Nguyễn Thy Thảo

6

Nguyễn Văn Trường Phúc


×