Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Quan điểm về con người trong triết học mác và ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp giải phóng con người ở việt nam hiện nay tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170 KB, 25 trang )

1

Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển và hoàn thiện con người là lý tưởng cao cả nhất của nhân
loại. Lịch sử xã hội loài người, nhìn từ logíc của nó, không gì khác, là lịch
sử con người không ngừng tìm tòi, khám phá, sáng tạo, xây dựng cuộc
sống, vươn tới sự phát triển và hoàn thiện chính mình. Tuy nhiên, trong các
xã hội dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và đối kháng giai cấp, con
người không được tự do biểu hiện và hoàn thiện mình, con người bị tha
hóa. Sự tha hóa con người đã lên đến đỉnh cao trong xã hội tư bản chủ
nghĩa.
C.Mác (1818 – 1883) và Ph.Ăngghen (1820-1895), bằng thiên tài trí
tuệ của bản thân, trên cơ sở khái quát những điều kiện kinh tế - xã hội, kế
thừa và phát triển sáng tạo những tinh hoa văn hóa của nhân loại, đã xây
dựng học thuyết cách mạng và khoa học với nội dung cốt lõi là giải phóng
con người. Tiếp tục nghiên cứu và triển khai học thuyết ấy trên nhiều bình
diện, phù hợp với từng giai đoạn phát triển, nhằm mục tiêu cao nhất là giải
phóng con người khỏi mọi sự nô dịch vẫn là một đòi hỏi cấp thiết trong
điều kiện hiện nay.
Hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và xu thế
toàn cầu hóa đã đem lại những điều tốt lành cho nhân loại. Nhưng loài
người cũng đang phải chịu đựng những hậu quả nghiêm trọng của các chính
sách phát triển không bền vững đe đọa đến sự sống, như ô nhiễm môi
trường, cạn kiệt tài nguyên, các bệnh hiểm nghèo… Sự phụ thuộc lẫn nhau
giữa các quốc gia, các dân tộc cũng ngày càng gia tăng. Thậm chí nhiều lúc
nhiều nơi vẫn ngấm ngầm xảy ra những cuộc chạy đua vũ trang, những sự
đối đầu quyết liệt để thực hiện âm mưu bá chủ thế giới. Những hạn chế này
nếu không kiểm soát nổi sẽ trở thành lực lượng thống trị con người, phá
hoại con người về nhiều mặt.



2

Đối với nước ta, xu thế toàn cầu hóa, hội nhập, giao lưu quốc tế
mang lại điều kiện, cơ hội thuận lợi cho sự phát triển, nhưng cũng gây ra
nhiều khó khăn, thách thức cho sự nghiệp giải phóng con người ở Việt
Nam hiện nay. Về mặt lý luận, chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận đối với sự nhận thức quá
trình giải phóng con người Việt Nam khỏi mọi áp bức, bóc lột và bất công,
tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện. Nó vừa đóng vai trò quyết
định trong hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước, vừa là
cơ sở lý luận để bảo vệ, phát triển những thành quả cách mạng mà dân tộc
ta đã đạt được bằng máu và nước mắt của nhiều thế hệ, cũng như trong
cuộc đấu tranh tư tưởng phức tạp đang diễn ra hiện nay.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay hàm chứa trong mình cả những mặt tích cực, phù hợp với xu thế chung
của thế giới, và những hạn chế, khuyết tật vốn có của nó. Những hạn chế
này không những tạo ra nguy cơ phát triển không bền vững, không đồng
đều trên các mặt của đời sống xã hội mà còn cản trở quá trình giải phóng
con người Việt Nam hiện nay.
Thực tiễn đất nước nói trên đang đặt ra nhiều vấn đề mà lý luận cần
phải giải đáp, trong đó việc nghiên cứu quan điểm về con người trong triết
học Mác, cũng như thấy được ý nghĩa to lớn về mặt lý luận và thực tiễn
của quan điểm này đối với sự nghiệp giải phóng con người ở Việt Nam
hiện nay là vấn đề có tính cấp thiết. Quan điểm đó là căn cứ tin cậy để
Đảng cộng sản Việt Nam xác định mục tiêu, phương hướng giải phóng con
người trong quá trình lãnh đạo cách mạng, đồng thời cũng là luận cứ khoa
học để Đảng xác định phương thức giải phóng con người Việt Nam. Xuất
phát từ nhữn lý do trên, tôi chọn đề tài Quan điểm về con người trong
triết học Mác và ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp giải phóng con người

ở Việt Nam hiện nay làm đề tài luận án tiến sỹ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài


3

Quan điểm về con người trong triết học Mác đã được thể hiện trong
hầu hết các tác phẩm và ở mọi thời kỳ hoạt động cách mạng của C.Mác và
Ph.Ăngghen, từ bài khóa luận tốt nghiệp phổ thông trung học Những suy
tư của một chàng trai trong việc lựa chọn nghề nghiệp, luận án tiến sỹ Sự
khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrít và triết học tự nhiên của
Êpiquya, đến những tác phẩm trước năm 1848 như: Phê phán triết học
pháp quyền của Hêghen, Bản thảo Kinh tế – triết học năm 1844, Hệ tư
tưởng Đức… Tuyên ngôn của Đảng cộng sản… và những tác phẩm sau
năm 1848: Tư bản, Chống Duy Rinh, Biện chứng của tự nhiên, Lútvích
Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức…. Có thể nói rằng,
quan điểm về con người trong triết học Mác đã đặt nền móng quan trọng
cho việc hình thành và phát triển học thuyết về con người, giải phóng con
người của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Nghiên cứu quan điểm về con người trong triết học Mác và ý nghĩa
của nó đối với sự nghiệp giải phóng con người ở Việt Nam có thể chia ra
hai hướng: Thứ nhất, nghiên cứu quan điểm về con người trong triết học
Mác; và thứ hai, nghiên cứu ý nghĩa của quan điểm đó đối với sự nghiệp
giải phóng con người ở Việt Nam hiện nay.
Hướng thứ nhất, nghiên cứu quan điểm về con
người trong triết học Mác
Ở nước ngoài, chủ nghĩa Mác nói chung và vấn đề con người trong
triết học Mác nói riêng được nhiều học giả quan tâm, trong đó, không ít
nhà nghiên cứu là các học giả tư sản nổi tiếng. Các nhà nghiên cứu nước
ngoài quan tâm nghiên cứu chủ nghĩa Mác cũng như quan điểm về con

người trong triết học Mác dưới các góc độ cơ bản sau: góc độ thứ nhất –
công kích chủ nghĩa Mác dưới nhiều hình thức; góc độ thứ hai – đánh
giá nghiêm túc chủ nghĩa Mác, phát triển triết học Mác theo cách riêng
và tách mình khỏi phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; góc độ thứ
ba – các quan điểm của các nhà Mácxít.


4

Ở Việt Nam, có nhiều công trình nghiên cứu quan điểm về con
người trong triết học Mác, tiêu biểu như: Vấn đề con người và chủ nghĩa
“Lý luận không có con người” của tác giả Trần Đức Thảo (Nxb. Thành
phố Hồ Chí Minh, năm 1989); Con người và phát triển con người trong
quan niệm của Mác – Ăngghen của Hồ Sỹ Quý (Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, năm 2003); Quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về con người
và sự nghiệp giải phóng con người của Bùi Bá Linh (Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, năm 2003); v.v…
Hướng thứ hai, nghiên cứu ý nghĩa của quan điểm về con người
trong triết học Mác đối với sự nghiệp giải phóng con người ở Việt Nam
hiện nay
Các công trình nghiên cứu theo hướng này quan tâm khai thác dưới
các góc độ cơ bản sau:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu các vấn đề cơ bản của triết học
Mác, từ bản thể luận, nhận thức luận, đến nhân sinh, xã hội… trong đó,
quan điểm về con người cũng được các tác giả phân tích, làm rõ và chỉ
ra sự vận dụng cụ thể quan điểm đó trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, phát huy nhân tố con người Việt Nam hiện nay. Ở góc độ
này, có thể kể tên các công trình như: Chủ nghĩa Mác – Lênin và công
cuộc đổi mới ở Việt Nam của tác giả Đặng Hữu Toàn (Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, năm 2002); Một số vấn đề triết học – con người – xã

hội của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội,
năm 2002); Những chuyên đề triết học của tác giả Nguyễn Thế Nghĩa
(Nxb. Khoa học xã hội, năm 2007); Triết học Mác và thời đại do tập thể
tác giả Phạm Văn Đức, Đặng Hữu Toàn, Nguyễn Đình Hòa đồng chủ
biên (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2009); …
Thứ hai, những nghiên cứu mang tính chuyên sâu quan điểm triết học
Mác về con người gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và gắn
với xây dựng nguồn lực con người Việt Nam với tư cách là một công trình


5

độc lập. Ở góc độ này có thể kể đến các công trình như: Quan điểm của
triết học Mác – Lênin về con người với việc xây dựng con người Việt Nam
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Vũ Thiện Vương (Luận án
Tiến sĩ Triết học – Chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ
nghĩa duy vật lịch sử, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, năm
2000); Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa do Phạm Minh Hạc chủ biên (Nxb. Chính trị quốc gia, năm 2002);
Con người và phát triển con người của Hồ Sỹ Quý (Nxb. Giáo Dục, Hà
Nội, năm 2007); Vấn đề con người và giáo dục con người nhìn từ góc độ
triết học xã hội của Nguyễn Thanh (Nxb. Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, năm
2007); Quan niệm của Các Mác về tha hóa và ý nghĩa của quan niệm đó
đối với phát triển con người Việt Nam hiện nay của Nguyễn Thị Thanh
Huyền (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2010)…
Ngoài ra, còn có rất nhiều bài viết liên quan tới quan điểm về con
người và giải phóng con người trong triết học của Mác được đăng trên các
tạp chí như: Tạp chí Triết học, Tạp chí cộng sản, Tạp chí khoa học xã hội,
v.v…
Những công trình trên đã cung cấp cho tác giả luận án những tư liệu

quý báu, vừa có tính khái quát cao, vừa hết sức đa dạng trong cách tiếp cận
để tác giả luận án tham khảo trong quá trình nghiên cứu và giải quyết các
vấn đề được nêu ra trong luận án của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
3.1. Mục đích của luận án
Luận án tập trung phân tích, làm rõ nội dung quan điểm về con người (bản
chất con người, vị trí, vai trò của con người; sự tha hóa con người; và giải phóng
con người) trong triết học Mác, ý nghĩa lý luận và thực tiễn của quan điểm này
đối với sự nghiệp giải phóng con người ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận án
Để đạt được mục đích nói trên, luận án thực hiện những nhiệm vụ sau:


6
– Phân tích điều kiện và tiền đề hình thành quan điểm về con người trong
triết học Mác;
– Phân tích nội dung của quan điểm về con người trong triết học Mác;
– Phân tích, luận giải ý nghĩa lý luận và thực tiễn của quan điểm về con
người trong triết học Mác đối với sự nghiệp giải phóng con người ở Việt Nam
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Luận án không nghiên cứu chủ nghĩa Mác nói chung, mà chỉ tập trung
nghiên cứu quan điểm triết học Mác về con người, về sự tha hóa con người, tiền
đề, điều kiện, con đường, phương pháp giải phóng con người; từ đó rút ra ý
nghĩa lý luận và thực tiễn của quan điểm về con người trong triết học Mác đối
với sự nghiệp giải phóng con người ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Vấn đề con người gồm nhiều góc độ, triết học Mác bàn về con người trên
nhiều khía cạnh, nhưng trong khuôn khổ của một luận án, tác giả chỉ phân tích

quan điểm của triết học Mác: về bản chất, vị trí, vai trò của con người; về sự tha
hóa con người (biểu hiện, hậu quả của sự tha hóa con người, nguồn gốc và các
yếu tố làm tha hóa con người); về giải phóng con người (nội dung giải phóng
con người, tiền đề và điều kiện giải phóng con người, con đường và phương
pháp giải phóng con người) thông qua một số tác phẩm tiêu biểu của C.Mác và
Ph.Ăngghen. Đồng thời, luận án cũng chỉ ra, phân tích ý nghĩa lý luận và thực
tiễn của quan điểm về con người trong triết học Mác đối với sự nghiệp giải
phóng con người ở Việt Nam hiện nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
5.1. Cơ sở lý luận của luận án
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của


7

Đảng Cộng sản Việt Nam về con người, về phát triển nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra,
luận án còn sử dụng các phương pháp phân tích – tổng hợp, lịch sử – logic,
đối chiếu, khái quát hóa triết học…
6. Đóng góp mới của luận án
Một là, luận án phân tích một cách có hệ thống và toàn diện quan
điểm triết học Mác về bản chất con người, về vai trò và vị trí của con
người, về tha hóa con người, nguồn gốc và các yếu tố làm tha hóa con
người, tiền đề, điều kiện, nội dung và con đường giải phóng con người.
Từ đó, góp phần nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn quan điểm về con

người trong triết học Mác.
Hai là, trên cơ sở phân tích nội dung quan điểm về con người trong
triết học Mác, luận án đã rút ra và phân tích ý nghĩa lý luận và thực tiễn
của quan điểm về con người trong triết học Mác đối với sự nghiệp giải
phóng con người ở Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
7.1. Ý nghĩa khoa học của luận án
Luận án làm sáng tỏ nội dung quan điểm về con người trong triết học
Mác, và ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp giải phóng con người ở Việt Nam
hiện nay.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu, giảng dạy, học tập chuyên đề triết học Mác về con người.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm cơ sở cho việc hoạch định
các chủ trương, chính sách nhằm giải phóng con người Việt Nam hiện nay.
8. Kết cấu của luận án


8

Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm ba
chương, tám tiết.

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1:
ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC
1.1. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ HÌNH THÀNH QUAN ĐIỂM VỀ CON
NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC


1.1.1. Điều kiện kinh tế – xã hội châu Âu cuối thế kỷ XVIII đầu
thế kỷ XIX với việc hình thành quan điểm về con người trong triết học
Mác
Cuộc cách mạng công nghiệp do giai cấp tư sản tiến hành đã tạo ra lực
lượng sản xuất đủ sức phá bỏ tất cả những phương thức sản xuất mang tính
chất bảo thủ trước kia, nó đem lại sự thay đổi lớn lao cho cuộc sống của
con người. Tuy nhiên, sự phát triển của nền sản xuất tư bản dựa trên các
thành tựu khoa học, kỹ thuật của nhân loại, dù đã thúc đẩy về cơ bản sự
vận động xã hội tiến lên phía trước, vẫn không khắc phục được những mâu
thuẫn cố hữu của xã hội có các giai cấp đối kháng, sự bần cùng và sự tha
hóa con người, biến toàn bộ con người thành con người phiến diện, thành
một thực thể mất hết tính người cả về tinh thần lẫn thể xác.
1.1.2. Điều kiện chính trị – xã hội ở châu Âu cuối
thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX với việc hình thành quan
điểm về con người trong triết học Mác
Sau các cuộc cách mạng tư sản sơ kỳ, chủ nghĩa tư bản tiếp tục vận
động theo hướng đi lên, nhưng tính chất đối kháng của sự phát triển cũng


9

trở nên gay gắt, biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản
và giai cấp tư sản. Bản thân giai cấp vô sản giờ đây đã trở thành một lực
lượng chính trị độc lập và bước lên vũ đài chính trị, cuộc đấu tranh của họ
đang chuyển dần từ đấu tranh tự phát, sang trình độ tự giác, gắn liền cuộc
đấu tranh vì lợi ích vật chất với lý tưởng chính trị, hướng tới mục tiêu nhân
văn, dân chủ, công bằng và tự do. Cuộc đấu tranh của họ đòi hỏi phải có
một hệ thống lý luận cách mạng soi đường, lý giải một cách khoa học về
bản chất con người, về vị trí và vai trò của con người trong thế giới,
nguyên nhân của mọi nô dịch và con đường giải phóng con người khỏi mọi

áp bức, bất công.
1.2. TIỀN ĐỂ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH QUAN ĐIỂM VỀ CON
NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC

1.2.1. Tư tưởng về con người trong lịch sử triết học phương Tây với
việc hình thành quan điểm về con người trong triết học Mác
Quan điểm về con người trong triết học Mác là một vòng khâu trong
chuỗi các vòng khâu nối tiếp nhau qua các thời đại, với sự mở rộng không
ngừng tri thức triết học về con người trong mối liên hệ với hoạt động thực
tiễn, với khoa học và trình độ nhận thức chung. Tư tưởng về con người
trong triết học Hy Lạp cổ đại, triết học thời kỳ Phục hưng, triết học ánh
sáng, triết học cổ điển Đức là tiền đề lý luận dẫn đến sự hình thành quan
điểm về con người trong triết học Mác.
1.2.2. Những biến đổi về văn hóa – tư tưởng và
khoa học ở phương Tây trong những thập niên đầu
thế kỷ XIX với việc hình thành quan điểm về con
người trong triết học Mác
Quan điểm về con người trong triết học Mác ra đời trong bối cảnh
diễn ra quá trình phi cổ điển hóa trong tư duy triết học, vốn bắt đầu từ
những năm hai mươi của thế kỷ XIX. Quá trình này, về phần mình, lại gắn
liền với sự ra đời của phong cách sáng tạo mới trong văn hóa với các biểu


10

hiện khác nhau của xu hướng đánh giá lại truyền thống, vượt qua cái
truyền thống. Trong tình hình phức tạp như thế, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
thể hiện một thái độ khác đối với truyền thống. Khi xác lập học thuyết triết
học của mình, hai ông chẳng những không xét lại truyền thống một cách
cực đoan, mà còn kế thừa, phát triển những yếu tố tích cực của nó. Bước

ngoặt có tính cách mạng trong quan niệm về con người do C.Mác và
Ph.Ăngghen thực hiện, thực chất là sự kế thừa, đổi mới, phát triển lên trình
độ cao các giá trị truyền thống, đặc biệt là truyền thống phương Tây, cải
tạo và khắc phục hạn chế của các học thuyết trước đó mà hai ông có dịp
tìm hiểu.
Triết học không thể phát triển, nếu tách ra khỏi trình độ nhận thức
chung của thời đại, trong đó có trình độ phát triển của tri thức khoa học tự
nhiên. Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển như
vũ bão với hàng loạt phát minh quan trọng, đưa đến sự biến đổi trong cách
thức tư duy của con người. Trong những phát minh đó, phải kể đến ba phát
minh quan trọng là thuyết bảo toàn và chuyển hóa năng lượng; thuyết tế
bào; thuyết tiến hóa. Đó là những phát minh có ý nghĩa vạch thời đại, bởi
những tác động quyết định của chúng đến chủ nghĩa duy vật nói chung và
quan điểm về con người trong triết học Mác nói riêng.
1.3. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN QUAN ĐIỂM VỀ
CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC

Xét về thực chất, sự hình thành và phát triển quan điểm về con người
trong triết học Mác trải qua các thời kỳ chính là thời kỳ chuyển tiếp, định
hình, và thời kỳ phát triển. Về mặt thời gian, có thể chia ra các thời kỳ sau:
Thời kỳ chuyển tiếp tư tưởng và xác lập những luận điểm đầu tiên về con
người trong triết học Mác (1837 – 1848); Thời kỳ phát triển quan điểm về
con người trong triết học Mác từ năm 1848 đến Công xã Paris, bao gồm
các chặng ngắn, đó là trong hoàn cảnh cách mạng dân chủ tư sản 1848 –
1852, trong những năm 1850 – 1870; Sự phát triển quan điểm về con người


11

trong triết học Mác sau Công xã Paris trên cơ sở khái quát các thành tựu

của khoa học và các vấn đề của đời sống xã hội – lịch sử.
1.3.1. Thời kỳ chuyển tiếp tư tưởng và xác lập những luận điểm
đầu tiên về con người trong triết học Mác (1837 –1848)
Có thể nói, đây là thời kỳ mang tính bước ngoặt trong quá trình phát
triển học thuyết Mác nói chung, quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về
con người và giải phóng con người nói riêng. Thực chất của bước ngoặt
này là ở chỗ, lần đầu tiên C.Mác và Ph.Ăngghen đã trình bày một cách
tương đối đầy đủ các luận điểm cơ bản của quan niệm duy vật về xã hội, về
con người. Trên cơ sở đó, các ông luận chứng cho triển vọng cải tạo chủ
nghĩa tư bản và xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
1.3.2. Sự phát triển quan điểm về con người trong
triết học Mác thời kỳ 1848–1870
Trong thời kỳ này, bên cạnh việc tiếp tục làm sáng tỏ các vấn đề
chung của quan niệm duy vật về lịch sử như tồn tại xã hội và ý thức xã hội,
quy luật vận động khách quan của lịch sử, mối quan hệ giữa nhân tố chủ
quan và nhân tố khách quan trong hoạt động của con người, C.Mác và
Ph.Ăngghen tiếp tục đào sâu lý luận cách mạng không ngừng, liên minh
công nông, bản chất nhà nước chuyên chính vô sản, liên minh vô sản
“chính quốc” và các dân tộc bị áp bức… để phát triển quan niệm về con
người và giải phóng con người. Cũng thông qua các tác phẩm ở giai đoạn
này, C.Mác và Ph.Ăngghen còn chỉ cho giai cấp công nhân thấy rõ lực
lượng xã hội nào có thể đồng hành cùng với giai cấp công nhân trong công
cuộc giải phóng mình và toàn thể nhân loại. Trong quá trình xây dựng quan
điểm về con người và giải phóng con người, C.Mác và Ph.Ăngghen không
quên tổng kết thực tiễn cách mạng, bổ sung và làm sâu sắc thêm về mặt lý
luận.
1.3.3. Sự phát triển quan điểm về con người trong
triết học Mác trên cơ sở khái quát các thành tựu của



12

khoa học và các vấn đề của đời sống xã hội – lịch sử
(1871–1895)
Thời kỳ này, quan điểm về con người trong triết học Mác được củng
cố và hoàn thiện thông qua quá trình C.Mác và Ph.Ăngghen đấu tranh
chống hai khuynh hướng trái ngược nhau trong phong trào công nhân châu
Âu là “tả khuynh” và “hữu khuynh”, phiêu lưu chính trị và thỏa hiệp giai
cấp. Sau năm 1883, thông qua việc đánh giá và tổng kết lịch sử triết học,
Ph.Ăngghen đã làm sâu sắc thêm các quan điểm triết học nói chung và
quan điểm về con người nói riêng trong triết học Mác.
Kết luận chương 1
Những thành tựu về kinh tế dưới chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là sự phát
triển của lực lượng sản xuất, đã thể hiện bước tiến vượt bậc của con người
trong chinh phục tự nhiên. Tuy nhiên, sự phát triển của nền sản xuất tư bản
dựa trên các thành tựu khoa học, kỹ thuật vẫn không khắc phục được
những mâu thuẫn cố hữu của xã hội dựa trên chế độ sở hữu tư sản về tư
liệu sản xuất, mà thậm chí còn làm cho những mâu thuẫn ấy ngày càng trở
nên trầm trọng và không thể kiểm soát. Nó làm cho cuộc sống của người
công nhân trở nên tồi tệ và sa sút, biến họ thành con người phiến diện,
thành một thực thể mất hết tính người cả về tinh thần lẫn thể xác.
Trên cơ sở sức mạnh về kinh tế, giai cấp tư sản đã tiến hành các cuộc
cách mạng để xóa bỏ nốt những tàn dư phong kiến, củng cố thêm sức mạnh
về chính trị. Dưới chủ nghĩa tư bản, mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai
cấp tư sản được đẩy đến tình trạng gay gắt không thể dung hòa. Cuộc đấu
tranh giải phóng xã hội giờ đây gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp vô
sản hiện đại chống lại sự áp bức của các lực lượng thống trị và trật tự xã
hội tư sản nói chung. Nó cần phải có một hệ thống lý luận cách mạng soi
đường, lý giải một cách khoa học về bản chất con người, về vị trí và vai trò
của con người trong thế giới, nguyên nhân của mọi nô dịch và con đường



13

giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công. Học thuyết Mác
nói chung, quan điểm về con người và giải phóng con người trong triết học
Mác nói riêng ra đời từ phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản và trở
thành lý luận mang tính định hướng, soi đường cho phong trào đấu tranh
đó.
Khi xác lập quan điểm về con người trong triết học của mình, C.Mác
và Ph.Ăngghen chẳng những không xét lại truyền thống một cách cực
đoan, mà còn phát triển những yếu tố tích cực của nó. Tư tưởng về con
người trong triết học Hy Lạp cổ đại, triết học thời kỳ Phục hưng, triết học
ánh sáng, triết học cổ điển Đức cùng với những biến đổi trong văn hóa,
những thành tựu trong khoa học tự nhiên luôn được C.Mác và Ph.Ăngghen
đánh giá cao và kế thừa những yếu tố hợp lý, để xây dựng quan điểm về
con người trong triết học của mình. Quá trình C.Mác và Ph.Ăngghen xây
dựng và phát triển quan điểm về con người trải qua các thời kỳ chính là
thời kỳ chuyển tiếp, định hình, và thời kỳ phát triển. Quan điểm đó ra đời
gắn liền với hoạt động khoa học và hoạt động thực tiễn của bản thân
C.Mác và Ph.Ăngghen trong phong trào công nhân. Nó đã dạy cho công
nhân tự nhận thức được mình và có ý thức về mình, thực hiện sứ mệnh giải
phóng mình và giải phóng toàn xã hội.
Chương 2
NỘI DUNG QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC VỀ CON NGƯỜI
2.1. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC VỀ BẢN CHẤT, VỊ TRÍ VÀ
VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI

2.1.1. Quan điểm triết học Mác về bản chất con người
Khác với các nhà triết học trước đó, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng,

sự tồn tại bản tính tự nhiên trong con người là một tất yếu khách quan,


14

song để nhận thức được bản chất con người phải xuất phát từ chính đời
sống hiện thực, từ những quan hệ xã hội của họ.
Với việc “phát minh” ra phạm trù “Praxis” (thực tiễn), đưa phạm trù
này vào hệ thống triết học, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tạo ra một cuộc cách
mạng trong lịch sử triết học nói chung và trong cách tiếp cận về con người
nói riêng. Theo các ông, “bản chất con người không phải là một cái trừu
tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất
con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” [56; tr.11]. Đó không phải là
một hệ thống khép kín, cứng đờ, mà là hệ thống mở, luôn biến đổi, tương
ứng với điều kiện tồn tại của con người. Bằng hoạt động thực tiễn của
mình, con người tác động làm biến đổi tự nhiên và xã hội, thúc đẩy các
quan hệ xã hội biến đổi ngày một đa dạng và phong phú hơn. Cùng với
việc biến đổi của các quan hệ xã hội thì bản chất con người cũng thay đổi
theo.
2.1.2. Quan điểm triết học Mác về vị trí, vai trò của con người
Xuất phát từ quan niệm “bản thân xã hội sản xuất ra con người với
tính cách là con người như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như
thế”[72; tr.169], C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận giải về vị trí và vai trò của
con người với tư cách là chủ thể của lịch sử và xã hội.
Con người là sản phẩm của quá trình phát triển hết sức lâu dài của thế
giới tự nhiên và lịch sử xã hội. Mỗi một xã hội, một thời đại với những
quan hệ xã hội nhất định đều ghi những dấu ấn đặc trưng ở con người. Là
sản phẩm của tự nhiên và xã hội nhưng con người có thể cải biến tự nhiên
theo nhu cầu của mình và sáng tạo lịch sử của chính mình thông qua thực
tiễn lao động sản xuất vật chất. Con người còn sáng tạo ra chính bản thân

mình với tư cách là tổng hòa các những lực lượng bản chất người được
phát triển không ngừng trong lịch sử.
2.2. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC VỀ SỰ THA HÓA CON
NGƯỜI


15

2.2.1. Những biểu hiện của tha hóa con người và hậu quả của nó
Tha hóa con người, hiểu theo nghĩa chung nhất là con người trở thành
xa lạ với chính mình. Theo triết học Mác, tha hóa về cơ bản là sự tự tha
hóa. Tha hóa lao động là biểu hiện tập trung của tha hóa trên lĩnh vực kinh
tế. Từ tha hóa trong lĩnh vực kinh tế dẫn đến tha trong hóa lĩnh vực xã hội
– chính trị, biến các thiết chế xã hội – chính trị, đặc biệt là nhà nước thành
hệ thống quan liêu, xa rời cuộc sống và cuối cùng, đưa đến sự tha hóa về
mặt tinh thần mà biểu hiện rõ nét nhất là sự tha hóa trong sinh hoạt tôn
giáo.
2.2.2. Nguồn gốc và những yếu tố làm tha hóa con người
C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích nguồn gốc của tư hữu, chỉ ra mối
quan hệ hữu cơ giữa tư hữu với sự tha hóa – trước hết là tha hóa lao động,
và nêu lên quan niệm về sự xuất hiện của tư hữu từ lao động bị tha hóa,
xác lập những luận cứ lý luận và kinh tế chứng minh cho quan niệm này.
Các ông nhận thấy nội dung khái niệm lao động bị tha hóa được xem xét
như kết quả vận động của sở hữu tư nhân. Tuy nhiên, sự phân tích tiếp theo
cho thấy, dù là cơ sở, nguyên nhân của lao động bị tha hóa nhưng sở hữu tư
nhân hóa ra là “kết quả của lao động bị tha hóa”[72; tr.142].
Mặc dù sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là nguyên nhân của sự tha
hóa con người. Tuy nhiên, sự tồn tại của sở hữu tư nhân không có nghĩa là
nó trực tiếp làm nảy sinh hiện tượng tự tha hóa nói trên. Sự tự tha hóa diễn
ra khi có sự tách rời giữa lao động và đối tượng lao động. Đồng thời, sự

đối tượng hóa kết quả của người lao động đã cung cấp cho người khác khả
năng chiếm hữu kết quả lao động ấy.
Bên cạnh đó, C.Mác và Ph.Ăngghen còn chỉ ra một hiện tượng nữa có
mối quan hệ với sở hữu tư nhân và tha hóa đó là phân công lao động. Sự
phân công lao động đưa đến sự “phân chia” con người. Sự chuyên môn hóa
sản xuất không những buộc người lao động phải tập trung vào một công
việc nhất định, một mảnh, một khâu nhất định, phải hy sinh những năng


16

khiếu thể lực và trí lực khác mà còn biến bản thân con người thành một
khâu, một công cụ thực hiện một thao tác nhất định.
Muốn xóa bỏ hiện tượng tha hóa con người, không những phải xóa bỏ
sở hữu tư nhân mà còn phải xóa bỏ cả sự đối lập trong phân công lao động
xã hội. Đồng thời, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, những lĩnh vực khác của đời
sống xã hội như tôn giáo, gia đình, nhà nước, …. Chỉ là những hình thức
đặc biệt của của sản xuất và phải phục tùng các quy luật chung của sản xuất.
Vì vậy, đi tìm nguồn gốc của tha hóa trong lĩnh vực kinh tế cũng có nghĩa là
tìm ra căn nguyên sâu xa của sự tha hóa ở các lĩnh vực khác của đời sống
xã hội.
2.3. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC VỀ GIẢI PHÓNG CON
NGƯỜI

2.3.1. Nội dung giải phóng con người trong triết học Mác
Trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen, giải phóng con người
trước hết là giải phóng họ khỏi sự nô lệ vào tự nhiên, giúp con người nhận
thức và vận dụng được các quy luật khách quan trong tự nhiên, phục vụ
cuộc sống của mình. Giải phóng con người khỏi sự nô lệ vào tự nhiên còn là
đảm bảo sự hài hòa trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên.

Giải phóng con người còn là giải phóng họ khỏi sự nô lệ vào người
khác. Cùng với sự ra đời và phát triển của đại công nghiệp, giai cấp vô sản
cũng được hình thành, phát triển nhanh chóng và tồn tại với tư cách là giai
cấp đối lập với giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản là kẻ nắm toàn bộ những tư
liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, là lực lượng thống trị về kinh tế, chính trị,
pháp luật, văn hóa tinh thần của toàn xã hội. Do vậy, giai cấp công nhân
không phải nô lệ cho một vật phẩm nào, quá trình nào mà là nô lệ của chính
giai cấp tư sản. Vì thế, để giải phóng con người khỏi sự nô lệ vào người
khác, cũng là xóa bỏ sự tha hóa, hai ông cho rằng phải xóa bỏ chế độ chiếm
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội – mà cụ thể là chế độ tư
hữu tư sản. Giải phóng con người, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, còn là giải


17

phóng họ khỏi sự nô lệ vào chính bản thân mình và khỏi sự nô lệ về tinh
thần.
2.3.2. Tiền đề và điều kiện giải phóng con người theo quan điểm
triết học Mác
Phát triển lực lượng sản xuất, xoá bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu
đồng nghĩa với việc “khẳng định sinh hoạt của con người là xoá bỏ một
cách tích cực mọi sự tha hoá, nghĩa là việc con người từ tôn giáo, gia đình,
nhà nước, v.v. quay về tồn tại con người, nghĩa là tồn tại xã hội của
mình”[72; tr.168]. Sự xoá bỏ đó diễn ra một cách có ý thức và luôn giữ lại
tất cả những gì là hợp lý, tiến bộ của sự phát triển trước đó.
2.3.3. Con đường và phương pháp giải phóng con
người theo quan điểm triết học Mác
Trong tiến trình phát triển của lịch sử từ trước đến nay, mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã xảy ra nhiều lần và kết cục
đều phải nổ ra thành một cuộc cách mạng. Với nghĩa như vậy, có thể nói,

cách mạng xã hội là giá đỡ cho sự ra đời của một quan hệ sản xuất mới,
một phương thức sản xuất mới và một hình thái kinh tế – xã hội mới.
Cùng với việc chỉ ra con đường để giải phóng con người, C.Mác và
Ph.Ăngghen còn phác họa một chế độ xã hội mới mà ở đó, lao động trở
thành hoạt động tự giác của con người và như vậy, con người được giải
phóng những năng lực, sức mạnh tiềm ẩn của mình. Chế độ xã hội đó là sự
giải quyết thực sự mâu thuẫn giữa con người và tự nhiên, giữa con người và
con người. Chế độ xã hội đó là chủ nghĩa cộng sản – “chủ nghĩa tự nhiên
hoàn bị”. Không chỉ phác thảo ra mô hình một xã hội tương lai tốt đẹp,
C.Mác và Ph.Ăngghen còn đề xuất những nguyên lý căn bản cho mô hình
xã hội tương lai đó.
Kết luận chương 2


18

Xuất phát từ quan điểm thực tiễn, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng,
bản chất con người, trong tính hiện thực của nó, là tổng hoà các quan hệ xã
hội. Bản chất con người chỉ có thể được hình thành, được nhận thức thông
qua các quan hệ xã hội của nó. Tất cả các mối quan hệ xã hội vật chất –
tinh thần đều góp phần vào việc hình thành bản chất con người, trong đó
quan hệ sản xuất đóng vai trò quyết định nhất. Con người là sản phẩm của
tự nhiên nhưng con người không phụ thuộc một cách vô điều kiện vào giới
tự nhiên, ngược lại, con người đã cải tạo tự nhiên, làm biến đổi nó theo nhu
cầu của mình. Con người là sản phẩm của các quan hệ xã hội, đồng thời,
cũng là người sáng tạo ra nội dung của các quan hệ xã hội đó. Bằng hoạt
động thực tiễn, con người đã sáng tạo ra lịch sử của chính mình – lịch sử
xã hội.
Tuy nhiên, dưới chủ nghĩa tư bản, con người đã bị tha hóa. Sự tha hóa
con người không chỉ diễn ra trong đời sống hiện thực, tức trên lĩnh vực

kinh tế mà còn tha hóa cả trên lĩnh vực chính trị, tôn giáo, tức là lĩnh vực
thuộc kiến trúc thượng tầng. Chính sự xuất hiện của sở hữu tư nhân cùng
với sự tách rời giữa người lao động và tư liệu lao động mới là nguyên nhân
trực tiếp làm nảy sinh hiện tượng tự tha hóa. Bên cạnh đó, C.Mác và
Ph.Ăngghen còn chỉ ra một hiện tượng nữa có mối quan hệ với sở hữu tư
nhân và tha hóa đó là phân công lao động.
Giải phóng con người, theo quan điểm triết học Mác là giải phóng họ
khỏi sự nô lệ vào tự nhiên; Giải phóng con người còn là giải phóng họ khỏi
sự nô lệ vào người khác, điều này bao hàm việc giải phóng con người khỏi
sự tha hóa về kinh tế, chính trị và tinh thần; Giải phóng con người cũng là
giải phóng họ khỏi sự nô lệ vào chính mình, đưa họ thoát khỏi những dục
vọng cá nhân; Đồng thời giải phóng họ về mặt tinh thần, thoát khỏi những
ảo vọng về thần thánh và sự tha hóa vào tôn giáo.
Tiền đề vật chất cho sự giải phóng con người là phát triển lực lượng
sản xuất đạt đến trình độ phá vỡ quan hệ sản xuất hiện tồn, xác lập một


19

quan hệ sản xuất phù hợp, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Bản thân giai cấp vô sản và nhân dân lao động cũng phải có sự trưởng
thành về mặt nhận thức, học vấn, hiểu biết và hành động theo quy luật
khách quan, đồng thời phát triển ý thức tự giác, tính tích cực trong việc cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa mà giai đoạn
cao là chủ nghĩa cộng sản. Để giải phóng mình và qua đó giải phóng toàn
nhân loại, giai cấp vô sản phải tiến hành cuộc cách mạng xã hội – với tư
cách là “giá đỡ” cho sự ra đời của một xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa
mà giai đoạn cao là chủ nghĩa cộng sản. Trong xã hội đó, sự tự do và phát
triển toàn diện của mỗi người là điều kiện cho sự tự do và phát triển toàn
diện của tất cả mọi người.

Chương 3
Ý NGHĨA CỦA QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT
HỌC MÁC ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC LÀ
CƠ SỞ LÝ LUẬN GIÚP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM XÁC ĐỊNH LÝ
TƯỞNG, MỤC TIÊU VÀ NỘI DUNG GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI
TRONG QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG

3.1.1. Quan điểm về con người trong triết học Mác là cơ sở lý
luận để Đảng Cộng sản Việt Nam xác định lý tưởng, mục tiêu giải
phóng con người trong cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước
Trước khi Nguyễn Tất Thành tìm ra con đường cứu nước, phong trào
yêu nước Việt Nam đã từng có hai trải nghiệm: phong trào yêu nước theo ý
thức hệ phong kiến và phong trào yêu nước theo ý thức hệ dân chủ tư sản.
Tuy nhiên, giải phóng dân tộc và phát triển đất nước theo hai con đường
phục quốc phong kiến và dân chủ tư sản đều bị thất bại.


20

Trên hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã đến được
với chủ nghĩa nhân văn cách mạng – học thuyết Mác về con người và giải
phóng con người. Người đã tiếp nhận học thuyết ấy và thực hiện quá trình
truyền bá vào Việt Nam, tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào
đầu năm 1930. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời mà đứng đầu là chủ tịch
Hồ Chí Minh, trên nền tảng lý luận của học thuyết Mác, đã xác định được
đường lối cứu nước đúng đắn – đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội – thắp sáng trong trái tim, khối óc nhân dân Việt Nam một

niềm tin mãnh liệt - niềm tin vào lý tưởng xã hội chủ nghĩa, động viên họ
kiên trì đấu tranh nhằm từng bước hiện thực hoá lý tưởng ấy trong cuộc
sống và trong xã hội.
3.1.2. Quan điểm về con người trong triết học Mác là cơ sở lý
luận để Đảng Cộng sản Việt Nam xác định nội dung giải phóng con
người thời kỳ đổi mới
Trong điều kiện hiện nay, giải phóng con người Việt Nam theo quan
điểm triết học Mác là xóa bỏ những vướng mắc đang cản trở quá trình xây
dựng và phát triển đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”, tạo điều kiện để con người phát huy mọi khả năng
của mình, làm chủ bản thân và xã hội, là tạo dựng không gian xã hội cho
con người và vì con người. Điểm xuất phát của quá trình này là nhận thức
lại mô hình phát triển đất nước, được bắt đầu từ Đại hội VI (1986), đó là
xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, giải phóng mọi năng lực sản
xuất hiện có, khai thác mọi tiềm năng của đất nước và sử dụng có hiệu quả
sự giúp đỡ của quốc tế để phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng
và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Đổi mới toàn diện đất nước,
trong đó chú trọng giải phóng mọi tiềm năng con người, chống duy ý chí,
chủ quan, nóng vội cả trong nhận thức lẫn trong thực tiễn.


21
3.2. QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC LÀ
CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN ĐỂ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM XÁC
ĐỊNH CÁCH THỨC GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY

3.2.1. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa – cách thức chủ yếu để giải
phóng con người Việt Nam trên phương diện kinh tế - xã hội
Phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay trước hết là phát

triển nhân tố con người, phát triển khoa học công nghệ, cải tiến công cụ lao
động, mở rộng đối tượng lao động, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là
nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay đa dạng, không đồng đều,
nhiều trình độ, nên quan hệ sản xuất phải đươc xây dựng một cách phong
phú, đa dạng. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta vừa vận động theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa được dẫn
dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Trong
đó, cơ chế thị trường được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh
mẽ, có hiệu quả mọi nguồn lực để thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển
nhanh và bền vững vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”. Cùng với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong xu
thế toàn cầu hóa nền kinh tế, việc chủ động hội nhập quốc tế là điều cần
thiết, để quá trình xóa bỏ từng bước, từng phần những rào cản về thương
mại, đầu tư, văn hóa… giữa các quốc gia, tạo điều kiện mở rộng thị trường
ngoài nước, khơi thông các nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển.
3.2.2. Phát triển văn hóa, đổi mới tư duy lý luận trên cơ sở tăng
cường tổng kết thực tiễn – cách thức chủ yếu để giải phóng con người
Việt Nam ở phương diện tư tưởng – lý luận


22

Phát triển văn hóa, giáo dục để không ngừng nâng cao trình độ dân
trí cho nhân dân, đổi mới tư duy lý luận trên cơ sở tăng cường tổng kết
thực tiễn, khuyến khích tinh thần phê phán, xác lập cơ chế phản biện xã hội
đối với các chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước; đồng
thời, xoá đi những vùng cấm không đáng có, chấm dứt tình trạng “bao sân”

về lý luận là cách thức giải phóng con người khỏi những biến thái của chủ
nghĩa giáo điều lẫn không tưởng chính trị, ….
Việc nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác –
Lênin, kế thừa di sản tinh thần quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiếp thu những thành tựu lý luận từ các học
thuyết khác nhau, những kinh nghiệm của các nước trên thế giới là rất cần
thiết, trên cơ sở nhận thức đúng đắn biện chứng giữa cái phổ biến và cái
đặc thù. Bản thân chủ nghĩa Mác –Lênin nói chung và quan điểm về con
người trong triết học Mác nói riêng cũng cần được bổ sung những “cơ sở
lịch sử” mới bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà ở thời của
C.Mác và Ph.Ăngghen không thể có được.
3.2.3. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao vai trò của hệ
thống phản biện xã hội, hình thành chiến lược con người trong điều
kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế – cách thức
chủ yếu để phát huy nhân tố con người
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhân tố con người luôn được
đặt vào vị trí trung tâm của chiến lược phát tiển kinh tế - xã hội, coi con
người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển. Xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân,
nâng cao năng lực của các cơ quan phản biện xã hội; hình thành chiến lược
con người đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế là cách thức để phát huy nhân tố con người thời kỳ đổi
mới đất nước.


23

Kết luận chương 3
Dưới ánh sáng của học thuyết Mác nói chung, quan điểm về con

người trong triết học Mác nói riêng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định
được con đường của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, nhằm mục tiêu cao nhất là giải phóng con người. Trong
điều kiện đổi mới đất nước, giải phóng con người Việt Nam theo quan
điểm triết học Mác thực chất là xóa bỏ những vướng mắc đang cản trở quá
trình xây dựng và phát triển đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”. Cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ
nghĩa Mác nói chung và quan điểm về con người trong triết học Mác nói
riêng vẫn còn nguyên giá trị, là cơ sở lý luận để Đảng Cộng sản Việt Nam
xác định cách thức giải phóng con người Việt Nam, thực hiện thắng lợi
mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” cũng như
đấu tranh chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù.
KẾT LUẬN CHUNG
Dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp, đến những năm 30 –
40 của thế kỷ XIX, ở châu Âu, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
được củng cố và không ngừng phát triển. Tuy nhiên, sự phát triển đó không
những không khắc phục được mâu thuẫn cố hữu của xã hội có đối kháng
giai cấp, mà còn làm cho những mâu thuẫn ấy ngày càng trầm trọng và
không kiểm soát được. Ở hầu khắp các nước tư bản, giai cấp công nhân bị
đẩy tới cảnh khốn cùng, đau khổ, suy sụp về thể chất và tinh thần. Trên cơ
sở sức mạnh kinh tế, giai cấp tư sản đã tiến hành các cuộc cách mạng để
xóa bỏ nốt những tàn dư phong kiến, củng cố quyền lực chính trị. Dưới chủ
nghĩa tư bản, mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản được đẩy
đến tình trạng gay gắt, không thể dung hòa. Cuộc đấu tranh giải phóng xã
hội giờ đây gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản hiện đại chống
lại sự áp bức của giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân
đặt ra yêu cầu là phải có một hệ thống lý luận cách mạng soi đường, lý giải


24


một cách khoa học về bản chất con người, về vị trí và vai trò của con người
trong thế giới, nguyên nhân của mọi nô dịch và con đường giải phóng con
người khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công. Điều kiện đó trở thành cơ sở thực
tiễn để C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng quan điểm đúng đắn về con người.
Tư tưởng về con người trong triết học Hy Lạp cổ đại, triết học thời kỳ
Phục hưng, triết học ánh sáng, triết học cổ điển Đức được C.Mác và
Ph.Ăngghen đánh giá cao và kế thừa những yếu tố hợp lý, để xây dựng
quan điểm về con người trong triết học của mình. Những biến đổi về văn
hóa, khoa học đầu thế kỷ XIX ở châu Âu, và xa hơn nữa, việc làm quen với
di sản văn hóa đồ sộ của nhân loại, đặc biệt là văn hóa Hy Lạp cổ đại và
văn hóa Phục hưng, đã tạo nên hình ảnh C.Mác và Ph.Ăngghen hết sức
cách mạng và giàu tính nhân văn, luôn đấu tranh để giải phóng con người
khỏi sự áp bức, bất công, đưa lịch sử tiến lên phía trước.
Tiếp thu có chọn lọc các yếu tố hợp lý trong quan niệm về con người
của các nhà triết học tiền bối, đặc biệt là triết học Cổ điển Đức, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học nói chung
và trong cách tiếp cận về con người nói riêng. Xuất phát từ quan điểm thực
tiễn, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, bản chất con người, trong tính hiện
thực của nó, là tổng hoà các quan hệ xã hội.
Con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội, nhưng con người có
thể cải biến tự nhiên và sáng tạo lịch sử. Tuy nhiên, dưới chủ nghĩa tư
bản, con người đã bị tha hóa. Sự tha hóa con người không chỉ diễn ra trên
lĩnh vực kinh tế mà còn tha hóa cả trên lĩnh vực hính trị, và tinh thần. Sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và sự tách rời giữa người lao động và tư
liệu sản xuất là nguyên nhân của sự tha hóa con người. Bên cạnh đó, phân
công lao động cũng là một hiện tượng có mối quan hệ với sở hữu tư nhân
và tha hóa con người.
Giải phóng con người, theo quan điểm triết học Mác là giải phóng họ
khỏi sự nô lệ vào tự nhiên, khỏi sự nô lệ vào người khác, khỏi sự nô lệ vào



25

chính mình, đưa họ thoát khỏi những dục vọng cá nhân, và, giải phóng họ
thoát khỏi những ảo vọng về thần thánh, vào tôn giáo. Tiền đề vật chất cho
sự giải phóng con người là phát triển lực lượng sản xuất đạt đến trình độ
phá vỡ quan hệ sản xuất hiện tồn, xác lập một quan hệ sản xuất phù hợp,
mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Bản thân giai cấp vô sản và
nhân dân lao động cũng phải có sự trưởng thành về mặt nhận thức, học
vấn, hiểu biết và hành động theo quy luật khách quan, đồng thời phát triển
ý thức tự giác, tính tích cực trong việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới. Để giải phóng mình và qua đó giải phóng toàn nhân loại, giai cấp vô
sản phải tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
Quan điểm về con người trong triết học Mác là cơ sở lý luận để Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định lý tưởng, mục tiêu và nội dung giải phóng
con người trong cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Trong
thời kỳ đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, quan điểm về con người
trong triết học Mác vẫn còn nguyên giá trị. Cùng với tư tưởng Hồ Chí
Minh, chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và quan điểm về con người trong
triết học Mác nói riêng là cơ sở lý luận để Đảng Cộng sản Việt Nam xác
định cách thức giải phóng con người Việt Nam.


×