TAP CHI SINH HOC 2019, 41(2se1&2se2): 15–21
DOI: 10.15625/0866-7160/v41n2se1&2se2.14142
RESOURCE OF MEDICINAL PLANTS FROM CON DAO NATIONAL PARK
IN BA RIA-VUNG TAU PROVINCE
Nguyen Cao Toan1, Truong Thi Dep1, Dang Van Son2,*
1
University of Medicine and Pharmacy in Ho Chi Minh City, Ho Chi Minh city, Vietnam
2
Institute of Tropical Biology, VAST, Vietnam
Received 12 August 2019, accepted 29 September 2019
ABSTRACT
A survey of the medicinal plant resources from Con Dao National Park in Ba Ria-Vung Tau
Province during March 2018 to May 2019 was given. A total of 396 species of medicinal plants
belonging to 300 genera, 118 families of six phyla of vascular plants (Lycopodiophyta,
Polypodiophyta, Pinophyta, Cycadophyta, Gnetophyta and Magnoliophyta) were recorded.
Among them, 5 species were listed in the Vietnam Red Data Book (Part II, Plants, 2007) and the
Decision No 06/2019/NĐ-CP. The medicinal plants was grouped according to useful parts of use,
method of use and therapeutic use. Stem forms of medicinal plants were divided into seven
groups, such as grasses with 135 species (34.1%), small trees with 120 species (30.3%), big trees
with 67 species (16.9%), shrubs with 36 species (9.1%), lianas with 34 species (8.6%),
hemiparasites with 2 species (0.5%), and epiphytics with 2 species (0.5%).
Keywords: Conservation value, biodiversity, medicinal plants, Con Dao, Ba Ria-Vung Tau.
Citation: Nguyen Cao Toan, Truong Thi Dep, Dang Van Son, 2019. Resource of medicinal plants from Con Dao
National Park in Ba Ria-Vung Tau Province. Tap chi Sinh hoc, 41(2se1&2se2): 15–21. />*
Corresponding author email:
©2019 Vietnam Academy of Science and Technology (VAST)
15
TAP CHI SINH HOC 2019, 41(2se1&2se2): 15–21
DOI: 10.15625/0866-7160/v41n2se1&2se2.14142
NGUỒN TÀI NGUYÊN CÂY THUỐC Ở VƢỜN QUỐC GIA CÔN ĐẢO,
TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU
Nguyễn Cao Toàn1, Trƣơng Thị Đẹp1, Đặng Văn Sơn2,*
Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh
Viện Sinh học nhiệt đới, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
1
2
Ngày nhận bài 12-8-2019, ngày chấp nhận 29-9-2019
TÓM TẮT
Kết quả điều tra từ tháng 3/2018 đến 4/2019, đã thống kê tài nguyên cây thuốc ở Vườn quốc gia
Cơn Đảo có 396 lồi thuộc 300 chi, 118 họ của 6 ngành thực vật bậc cao có mạch, bao gồm Thông
đất (Lycopodiophyta), Dương xỉ (Polypodiophyta), Thông (Pinophyta), Tuế (Cycadophyta), Dây
gắm (Gnetophyta) và Ngọc lan (Magnoliophyta). Trong đó, 5 lồi có giá trị bảo tồn theo Sách đỏ
Việt Nam (2007) và Nghị định 06/2019 của Chính Phủ. Giá trị sử dụng của cây thuốc được chia
theo bộ phận được sử dụng, phương thức sử dụng và nhóm bệnh chữa trị. Dạng thân của cây thuốc
được chia làm 7 nhóm, bao gồm cây thân thảo có 135 lồi (chiếm 34,1%), cây gỗ nhỏ có 120 lồi
(30,3%), cây gỗ lớn có 67 lồi (16,9%), cây bụi/bụi trườn có 36 lồi (9,1%), dây leo có 34 lồi
(8,6%), bán ký sinh có 2 lồi (0,5%) và phụ sinh có 2 lồi (0,5%).
Từ khóa: Cây thuốc, giá trị bảo tồn, Cơn Đảo, Bà Rịa-Vũng Tàu.
*Địa chỉ email liên hệ:
MỞ ĐẦU
Vườn quốc gia (VQG) Cơn Đảo ở phía
Nam Việt Nam, tách biệt với đất liền, có địa
bàn hành chính thuộc huyện đảo Cơn Đảo của
tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Diện tích tự nhiên của
VQG 19.990,7 ha với các sinh cảnh đặc trưng
là hệ sinh thái rừng thường xanh cây lá rộng,
rừng tre nứa và rừng ngập mặn ven biển. Đây
được xem là nơi bảo tồn nhiều loài thực vật
quý hiếm của Việt Nam. Theo kết quả nghiên
cứu của Lê Xuân Ái và Trần Đình Huệ
(2013), VQG Cơn Đảo có khoảng 1.077 lồi,
640 chi, 160 họ thuộc 6 ngành thực vật bậc
cao có mạch; trong đó đặc biệt là có hơn 100
lồi có giá trị dược liệu và 11 loài được đặt
tên theo địa danh của Côn Đảo. Việc điều tra,
cập nhật và xây dựng cơ sở dữ liệu về các loài
cây thuốc ở VQG Côn Đảo làm cơ sở khoa
học trong việc đề xuất các chiến lược phát
triển, bảo tồn nguồn gen và sử dụng bền vững
nguồn tài nguyên ở hiện tại và trong tương lai.
16
VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Với 500 mẫu cây thuốc được thu thập
trong quá trình khảo sát thực địa ở VQG Cơn
Đảo từ tháng 3/2018 đến tháng 4/2019. Tồn
bộ mẫu tiêu bản được lưu giữ ở VQG Côn
Đảo, Bảo tàng thực vật thuộc Viện Sinh học
nhiệt đới (VNM) và Phân viện điều tra quy
hoạch rừng Nam Bộ.
Tổng hợp, phân tích và sử dụng các tài liệu
đã được cơng bố liên quan đến khu vực nghiên
cứu, trong đó có hơn 100 lồi cây có giá trị
dược liệu đã được cơng bố ở VQG Côn Đảo.
Điều tra phỏng vấn: Điều tra kinh nghiệm
sử dụng cây thuốc và bài thuốc từ 45 người
(tuổi từ 25–60) là cán bộ của VQG Côn Đảo,
trạm y tế địa phương, thầy lang, thầy thuốc và
người hái thuốc.
Thu mẫu ngoài thực địa: Tiến hành khảo
sát thực địa theo tuyến qua các sinh cảnh đại
Nguồn tài nguyên cây thuốc
diện có sự tham gia của cán bộ VQG để thu
thập mẫu cây thuốc; 500 mẫu tiêu bản cây
thuốc thu được trong quá trình khảo sát; xác
định tên loài và xây dựng danh lục cây thuốc
dựa trên số mẫu thu được.
Xử lý mẫu và giám định tên: Các mẫu tiêu
bản sau khi xử lý sơ bộ ngồi thực địa được
đem về phịng thí nghiệm, sấy khơ lên tiêu
bản, giám định tên và lưu trữ trong bộ sưu tập
bảo tàng. Việc giám định tên khoa học theo
phương pháp hình thái so sánh theo các tài
liệu của Nguyễn Nghĩa Thìn (2007), Phạm
Hồng Hộ (1999, 2000), Đỗ Huy Bích và nnk.
(2006), xác định tên cây thuốc và vị thuốc
theo Đỗ Tất Lợi (2009), Võ Văn Chi (2012)
Viện Dược liệu (2016); đồng thời so mẫu với
bộ mẫu thực vật hiện được lưu giữ tại Bảo
tàng thực vật thuộc Viện Sinh học nhiệt đới.
Xác định loài nguy cấp theo Sách đỏ Việt
Nam (2007), xác định dạng thân theo Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2000),
sắp xếp các bậc taxon theo Takhtajan (2009)
và cập nhật tên khoa học của cây thuốc theo
The
Plant
List
(2019)
( />
Ngành
Lycopodiophyta
Polypodiophyta
Pinophyta
Cycadophyta
Gnetophyta
Magnoliophyta
Tổng cộng
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Thành phần loài cây thuốc
Từ kết quả điều tra, chúng tôi đã xác định
được cây thuốc ở VQG Cơn Đảo có 396 lồi
của 300 chi, thuộc 116 họ của 6 ngành thực vật
bậc cao có mạch, bao gồm Thông đất
(Lycopodiophyta), Dương xỉ (Polypodiophyta),
Thông (Pinophyta), Tuế (Cycadophyta), Dây
gắm
(Gnetophyta)
và
Ngọc
lan
(Magnoliophyta). Trong đó, ngành Thơng đất
có 2 lồi, 1 chi, 1 họ là Quyển bá
(Selaginellaceae); ngành Dương xỉ có 16 lồi,
14 chi, 9 họ gồm: họ Tóc thần (Adiantaceae),
Tổ
điểu
(Aspleniaceae),
Guột
rạng
(Blechnaceae), Cỏ sẹo gà (Pteridaceae), Vẩy
lợp (Davalliaceae), Guột (Gleicheniaceae), Rau
bợ (Marsileaceae), Ráng (Polypodiaceae), Bèo
ong (Salviniaceae) và Dớn (Thelypteridaceae);
ngành Thơng có 1 loài, 1 chi, 1 họ là Hoàng
đàn (Cupressaceae); ngành Tuế có 2 lồi, 1
chi, 1 họ là Tuế (Cycadaceae); ngành Dây gắm
có 1 lồi, 1 chi, 1 họ là Dây gắm (Gnetaceae)
và ngành Ngọc lan có 374 lồi, 282 chi, 103 họ
(bảng 1).
Bảng 1. Phân bố các taxon trong ngành thực vật
Họ
Chi
Loài
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
1
0,9
1
0,3
2
0,5
9
7,8
14
4,7
16
4,0
1
0,9
1
0,3
1
0,3
1
0,9
1
0,3
2
0,5
1
0,9
1
0,3
1
0,3
103
88,8
282
94,0
374
94,4
116
100
300
100
396
100
Bảng 2. Phân bố các taxon trong ngành Ngọc lan
Họ
Chi
Loài
Lớp Ngọc lan
Số lượng % Số lượng % Số lượng
Magnoliopsida
86
74,1
235
78,3
315
Liliopsida
17
14,7
47
15,7
59
Tổng cộng
103
88,8
282
94,0
374
Ở VQG Côn Đảo, trong ngành Ngọc lan
(Magnoliophyta)
lớp
Ngọc
lan
(Magnoliopsida) chiếm ưu thế với 315 loài
(chiếm 79,5% tổng số loài cây thuốc), 235 chi
%
79,5
14,9
94,4
(chiếm 78,3%) và 86 họ (chiếm 74,1%); trong
khi đó lớp Hành (Liliopsida) có số lồi ít hơn,
59 loài (chiếm 14,9%) trong 47 chi (chiếm
15,7%) và 17 họ (chiếm 14,7%). Như vậy, lớp
17
Nguyen Cao Toan et al.
Ngọc lan có số lượng lồi cây thuốc chiếm ưu
thế trong ngành Ngọc lan cũng như trong hệ
thực vật ở VQG (bảng 2).
Khi đánh giá sự đa dạng của một hệ thực
vật nói chung và cây thuốc nói riêng trong
một khu vực nghiên cứu, tỷ lệ (%) của họ và
chi có nhiều lồi nhất là chỉ số so sánh đáng
tin cậy và không phụ thuộc vào diện tích
nghiên cứu. Trong nghiên cứu này, chúng tơi
tiến hành phân tích 10 taxon ở bậc họ và chi
nhiều lồi nhất, trong đó có 10 họ thực vật
nhiều lồi nhất với tổng số 174 loài (chiếm
43,9%) tổng số loài cây thuốc ở VQG Cơn
Đảo. Họ Đậu (Fabaceae) có số lượng lồi
nhiều nhất với 33 lồi (chiếm 8,3%), sau đó
đến các họ khác, gồm họ Hịa thảo (Poaceae)
có 25 lồi (6,3%), Cà phê (Rubiaceae) có 23
lồi (5,8%), Hoa mơi (Lamiaceae) có 18 lồi
(4,5%), Thầu dầu (Euphorbiaceae) có 17 lồi
(4,3%), Cau (Arecaceae) và Dâu tằm
(Moraceae) mỗi họ 13 lồi (3,3%), Bơng
(Malvaceae) có 12 loài (3%), và sau cùng là
họ Sim (Myrtaceae) và Diệp hạ châu
(Phyllanthaceae) mỗi họ có 10 lồi (2,5%)
(bảng 3).
Bảng 3. Sự đa dạng loài của các họ thực vật
ở VQG Cơn Đảo
Họ
Số lượng lồi Tỷ lệ (%)
Fabaceae
33
8,3
Poaceae
25
6,3
Rubiaceae
23
5,8
Lamiaceae
18
4,5
Euphorbiaceae
17
4,3
Arecaceae
13
3,3
Moraceae
13
3,3
Malvaceae
12
3,0
Myrtaceae
10
2,5
Phyllanthaceae
10
2,5
Tổng cộng
174
43,9
Ở bậc chi, 10 chi có số lượng lồi nhiều
nhất với 49 loài, chiếm 12,4% tổng số loài cây
thuốc ở vùng nghiên cứu. Trong đó, chi Sung
có số lượng lồi nhiều nhất, với 10 lồi
(chiếm 2,5%); chi Ngọc nữ (Clerodendrum)
có 6 lồi (chiếm 1,5%); sau đó đến chi Ba bét
(Mallotus), Trâm (Syzygium) và Bình linh
18
(Vitex) mỗi chi có 5 lồi (chiếm 1,3%); các
chi Chiêu liêu (Terminalia), Thị (Diospyros)
và Nhàu (Morinda) mỗi chi có 4 lồi (chiếm
1%); sau cùng là chi Mây (Calamus), Diệp hạ
châu (Phyllanthus) mỗi chi có 3 lồi (chiếm
0,8%) (bảng 4).
Bảng 4. Sự đa dạng loài của các chi thực vật
ở VQG Cơn Đảo
Chi
Số lượng lồi Tỷ lệ (%)
Ficus
10
2,5
Clerodendrum
6
1,5
Mallotus
5
1,3
Syzygium
5
1,3
Vitex
5
1,3
Terminalia
4
1,0
Diospyros
4
1,0
Morinda
4
1,0
Calamus
3
0,8
Phyllanthus
3
0,8
Tổng cộng
49
12,4
Theo cách phân chia thực vật theo dạng
thân của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn (2000), dạng thân của cây thuốc ở VQG
Cơn Đảo được chia thành 7 nhóm chính, gồm
cây thân thảo, cây bụi/bụi trườn, dây leo, gỗ
lớn, gỗ nhỏ, bán ký sinh và phụ sinh. Trong
đó, nhóm cây thân thảo (CTT) có số lượng
lồi nhiều nhất, với 135 lồi, chiếm 34,1%
tổng số lồi cây thuốc; nhóm cây gỗ nhỏ
(GON) có 120 lồi, chiếm 30,3%; nhóm cây
gỗ lớn (GOL) có 67 lồi, chiếm 16,9%; nhóm
cây bụi/bụi trườn (BUI/BTR) có 36 lồi,
chiếm 9,1%; nhóm dây leo (DLG/GLT) có 34
lồi, chiếm 8,6%; nhóm cây bán ký sinh
(BKS) và nhóm cây phụ sinh (CPS) có số
lượng lồi ít nhất với 2 lồi, chiếm 0,5%.
Giá trị sử dụng của cây thuốc
Giá trị sử dụng của cây thuốc ở VQG Côn
Đảo được chia thành 3 nhóm: theo bộ phận sử
dụng, phương thức sử dụng và nhóm bệnh
chữa trị.
Nhóm theo bộ phận sử dụng dùng
Chúng tôi chia bộ phận sử dụng của cây
thuốc làm 6 nhóm chính gồm: Tồn cây, thânvỏ thân, rễ-vỏ rễ, lá, quả-hạt, hoa và bộ phận
Nguồn tài nguyên cây thuốc
khác (tinh dầu, nhựa,…). Ở VQG Côn Đảo,
bộ phận của cây thuốc được sử dụng nhiều
nhất là lá với 181 loài (chiếm 45,7% tổng số
loài); lá sau khi thu hái được phơi khô và bảo
quản để sử dụng lâu dài hoặc có thể dùng lúc
tươi; bộ phận rễ-vỏ rễ có 143 lồi (chiếm
36,1%), bộ phận này cũng được dùng tươi
hoặc phơi khô để lâu dài; thân-vỏ thân có 140
STT
1
2
3
4
5
6
lồi (chiếm 35,4%), bộ phận này dễ thu hái và
được sử dụng bằng hình thức sắc, nấu nước
uống, giã đắp; bộ phận quả-hạt có 102 lồi
(chiếm 25,6%); bộ phận tồn cây có 83 lồi
(chiếm 21%); và sau cùng là hoa và bộ phận
khác (tinh dầu, nhựa,…) có 59 loài (chiếm
14,9%) (bảng 5).
Bảng 5. Phân bố loài cây thuốc theo bộ phận sử dụng
Số loài cây thuốc
Bộ phận sử dụng
Số lượng
%
Lá
181
15,7
Rễ-vỏ rễ
143
36,1
Thân-vỏ thân
140
35,4
Quả-hạt
102
25,6
Toàn cây
83
21,0
Hoa và bộ phận khác (tinh dầu, nhựa,...)
59
14,9
Phân chia theo phương thức sử dụng
Có 2 phương thức sử dụng cây thuốc, đó là
sử dụng bên ngồi và sử dụng bên trong (uống).
Trong đó, có 134 lồi được sử dụng bên ngoài
với 4 cách khác nhau, bao gồm đun xông hơi,
ngâm rượu để xoa, đun nước tắm hoặc gội hoặc
rửa và nghiền nhỏ đắp; có 400 lồi được sử
dụng bên trong với 4 cách, bao gồm nghiền lấy
nước uống, thái nhỏ ngâm rượu uống, xay bột
uống, sắc với nước để uống (bảng 6). Cây thuốc
có thể dùng ở dạng tươi, phơi sấy dùng khô
hoặc cả nửa tươi nửa khô. Dạng dùng tươi
thường là cây thân thảo, bộ phận lá, rễ,… gồm
các loài phổ biến như Cỏ mực
(Eclipta prostrata),
Cơm
rượu
(Glycosmis pentaphylla),
Bụp
xước
(Hibiscus surattensis). Dạng dùng khô thường là
cây thuốc sau khi thu hái được chặt nhỏ phơi
khô để dùng dần, các lồi được sử dụng nhiều
như Sâm đất Cơn Đảo (Pouzolzia sp.), Thiên
niên kiện (Homalomena occulta), Tắt kè đá
(Drynaria fortunei), Nhàu (Morinda parvifolia),
Cù đèn Thorel (Croton thorelii).
Phân chia theo nhóm bệnh chữa trị
Theo kết quả điều tra, phỏng vấn các thầy
lang, thầy thuốc, người thu hái thuốc, cán bộ
VQG và người dân địa phương, so sánh với
các tài liệu đã công bố về cây thuốc (Đỗ Tất
Lợi, 2009; Đỗ Huy Bích và nnk., 2006; Võ
Văn Chi 2012; Phạm Hồng Hộ, 1999, 2000)
và Thông tư Ban hành Danh mục thuốc thiết
yếu thuốc đông y và thuốc từ dược liệu lần VI
ban hành ngày 18/11/2013 của Bộ Y tế, chúng
tôi chia cây thuốc ở VQG Cơn Đảo làm 15
nhóm bệnh chữa trị (bảng 7).
Bảng 6. Nhóm cây thuốc theo phương thức sử dụng
Phương thức sử dụng
Cách thức chế biến
Số lồi
Nấu để xơng hơi
7
Dùng rượu ngâm để xoa
7
Sử dụng bên ngoài
Nấu nước tắm, gội hoặc rửa
10
Nghiền nhỏ đắp
110
Nghiền lấy nước uống
4
Thái nhỏ ngâm rượu uống
43
Sử dụng bên trong (uống)
Xay bột uống
12
Sắc với nước để uống
341
Tổng cộng
134
400
19
Nguyen Cao Toan et al.
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
Bảng 7. Nhóm cây thuốc theo bệnh chữa trị
Các nhóm cây thuốc theo bệnh chữa trị
Số lồi
Bệnh về tiêu hóa
121
Bệnh về gan và thơng tiểu
106
Bệnh đau nhức, tê thấp
103
Bệnh cảm sốt
97
Bệnh ỉa chảy, lỵ
96
Bệnh về tai, mũi, họng
92
Bệnh ho, hen
85
Bệnh do rắn rết cắn, vết thương
79
Bệnh ngoài da: mẩn ngứa, sưng, mụn nhọt
78
Bệnh da liễu
76
Bệnh giun sán
32
Bệnh về huyết áp
16
Bệnh an thần, dễ ngũ
14
Bệnh tiểu đường
8
Bệnh rụng tóc, ngứa đầu
6
Bảng 7 cho thấy, ở VQG Cơn Đảo, nhóm
cây thuốc được sử dụng chữa 15 nhóm bệnh,
trong đó có tới 121 lồi được sử dụng chữa
bệnh về tiêu hóa (chiếm 30,6%). Các lồi cây
thuốc được khai thác và sử dụng nhiều ở VQG
Côn Đảo là Sâm đất Côn Đảo (Pouzolzia sp.),
Thiên niên kiện (Homalomena occulta), Tắt
kè đá (Drynaria bonii), Cỏ mực (Eclipta
prostrata), Diệp hạ châu (Phyllanthus
urinaria), Trôm hơi (Sterculia foetida), Chân
chim bầu dục (Schefflera elliptica) và Bình
vơi (Stephania rotunda).
Giá trị về nguồn gen quý hiếm của cây
thuốc
Theo Sách Đỏ Việt Nam (SĐVN, 2007),
Nghị định 06/2019 và 64/2019 của Chính
Phủ, ở Vườn quốc gia Cơn Đảo có 5 lồi
cây thuốc (chiếm 1,3% tổng số lồi) có giá
trị bảo tồn. Trong đó, có 4 lồi được xếp ở
thứ hạng Sẽ nguy cấp (VU) gồm: Bàng
vng (Barringtonia asiatica), Cóc đỏ
(Lumnitzera littorea), Tắt kè đá (Drynaria
bonii), Trúc đen (Phyllostachys nigra) và 1
loài được xếp ở thứ hạng Nguy cấp (EN) là
Trầm hương (Aquilaria crassna) theo Sách
Đỏ Việt Nam; và 1 loài là Tắt kè đá
(Drynaria bonii) được xếp vào Nhóm IIA
của Nghị định trên.
20
Tỷ lệ (%)
30,6
26,8
26,0
24,5
24,2
23,2
21,5
19,9
19,7
19,2
8,1
4,0
3,5
2,0
1,5
THẢO LUẬN
Có thể nói, nguồn tài nguyên cây thuốc ở
VQG Côn Đảo khá đa dạng và phong phú với
396 loài, chiếm 36,8% tổng số loài (1.077 lồi
của VQG), trong số đó nhiều lồi có tiềm
năng cho phát triển kinh tế địa phương như
Thiên niên kiện (Homalomena occulta), Tắt
kè đá (Drynaria fortunei), Chân chim bầu dục
(Schefflera elliptica), Sâm đất Cơn Đảo
(Pouzolzia sp.) và Trầm hương (Aquilaria
crassna).
Các lồi cây thuốc gặp nhiều ở VQG Côn
Đảo đã được nghiên cứu và chứng minh có
giá trị dược liệu cao như: Trung quân
(Ancistrocladus tectorius), chiết xuất alkaloid
naphthylisoquinolin, một nhóm alkaloid có tác
dụng sinh học mạnh trong kháng ký sinh
trùng, ức chế sinh trưởng và phát triển ở côn
trùng, kháng ung thư, kháng HIV; lồi Thiên
niên kiện (Homalomena occulta) có tác dụng
chống oxy hóa mạnh, kháng virus, kháng
khuẩn bởi thành phần có nhiều hợp chất
phenolic và flavonoid; hay cây Tắt kè đá
(Drynaria fortunei) được sử dụng như một
loại thuốc bổ thận, điều trị hội chứng thận hư
và chống loãng xương, và gần đây nhiều
nghiên cứu còn cho thấy khả năng kháng
viêm, khả năng phịng ngừa độc tính của
kháng sinh aminoglycoside trên tai và khả
Nguồn tài nguyên cây thuốc
năng ức chế xanthine oxidase trong điều trị
bệnh gout. Ngoài ra, một loài dược liệu mới
phát hiện ở Côn Đảo đang thu hút sự quan tâm
của giới khoa học, đó là Sâm đất Cơn Đảo
(Pouzolzia sp.), loài này theo kinh nghiệm của
người dân bản địa, củ ngâm với rượu uống có
tác dụng bổ thận, tăng cường sinh lực và bồi
bổ cơ thể.
Vườn quốc gia Côn Đảo là nơi có nguồn
tài nguyên đa dạng sinh học cao, trong đó có
nhiều lồi thực vật q, hiếm, đặc hữu có vai
trị quan trọng về mặt bảo tồn và phát triển
kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng của huyện
đảo Cơn Đảo. Vì vậy, kết quả nghiên cứu này
mới chỉ đưa ra là một đóng góp nhỏ trong
cơng tác nghiên cứu đa dạng và bảo tồn ở
VQG Phú Quốc.
KẾT LUẬN
Đã ghi nhận được 6 nhóm bộ phận sử
dụng, 2 phương thức dùng và 15 nhóm bệnh
được chữa trị bằng cây thuốc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lê Xuân Ái, Trần Đình Huệ, 2013. Bảo tồn tài
nguyên đa dạng sinh học cho sự phát
triển bền vững Côn Đảo. Báo cáo Khoa
học về sinh thái và tài nguyên sinh - Hội
nghị Khoa học toàn quốc lần thứ năm.
Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. Tr. 355–359.
Đỗ Huy Bích, Đặng Quang Chung, Bùi Xuân
Chương, Nguyễn Thượng Dong, Đỗ
Trung Đàm, Phạm Văn Hiển, Vũ Ngọc
Lộ, Phạm Duy Mai, Phạm Kim Mãn,
Đoàn Thị Nhu, Nguyễn Tập, Trần Toàn,
2006. Cây thuốc và động vật làm thuốc ở
Việt Nam, tập 1, 1138 tr; tập 2, 1255 tr.
Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
Bộ Khoa học và Công nghệ, Viện Khoa học
và Công nghệ Việt Nam, 2007. Sách Đỏ
Việt Nam - Phần 2-Thực vật. Nxb Khoa
học tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
2000. Tên cây rừng Việt Nam. Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội.
Võ Văn Chi, 2012. Từ điển cây thuốc Việt
Nam, tập 1, 2. Nxb Y Học, Hà Nội.
Phạm Hoàng Hộ, 1999–2000. Cây cỏ Việt
Nam, tập 1–3. Nxb Trẻ, thành phố Hồ
Chí Minh.
Đỗ Tất Lợi, 2009. Những cây thuốc và vị
thuốc Việt Nam. Nxb Y học, Hà Nội.
Takhtajan A., 2009. Flowering plants.
Springer.
Nguyễn Nghĩa Thìn, 2007. Các phương pháp
nghiên cứu thực vật. Nxb Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
Viện Dược liệu, 2016. Danh lục cây thuốc
Việt Nam. Nxb Khoa học và Kỹ thuật,
Hà Nội.
(truy cập ngày
20/4/2019).
21