Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Điều tra, đánh giá nguồn tài nguyên cây thuốc ở vườn quốc gia tam đảo và vùng đệm làm cơ sở cho công tác bảo tồn và sử dụng bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.36 KB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

NGUYỄN THỊ THÚY VÂN

ĐIỀU TRA, ĐÁNH GIÁ NGUỒN TÀI NGUYÊN CÂY THUỐC Ở
VƯỜN QUỐC GIA TAM ĐẢO VÀ VÙNG ĐỆM LÀM CƠ SỞ CHO
CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ SỬ DỤNG BỀN VỮNG

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội, 2008


1

MỞ ĐẦU
Việt Nam là một trong những Trung tâm Đa dạng sinh học (ĐDSH) của
thế giới, với hệ động, thực vật rất phong phú. Theo thống kê chưa đầy đủ,
hiện nước ta có khoảng 10.000 loài thực vật có mạch đã được mô tả, trong đó
có đến 1/3 số loài cây cỏ đã và đang được sử dụng để làm thuốc chữa bệnh.
Trải qua lịch sử hơn bốn nghìn năm hình thành và phát triển, nhân dân
ta đã không ngừng tìm tòi, nghiên cứu, tích luỹ kinh nghiệm về mọi mặt trong
cuộc sống. Đặc biệt là việc sử dụng các cây cỏ quanh mình để chăm sóc, bảo
vệ sức khỏe cho bản thân, cho gia đình và cho cả cộng đồng. Do sự khác biệt
về phong tục tập quán, về hệ thực vật mà mỗi dân tộc, mỗi vùng lại có những
kinh nghiệm, kiến thức khác nhau trong việc sử dụng cây thuốc nam để chữa
các loại bệnh.


Trong những năm gần đây, dưới áp lực của phát triển kinh tế và sự
bùng nổ dân số nên nguồn tài nguyên rừng nói chung, cây thuốc nói riêng
đang bị suy thoái nghiêm trọng. Những cây thuốc có giá trị được thương mại
hoá, cung cấp cho các ông thầy thuốc, những công ty dược phẩm với giá
thành ngày càng cao. Do vậy chúng đang bị khai thác cạn kiệt. Những cây ít
giá trị hoặc chưa được nghiên cứu cũng bị tàn phá nhường chỗ cho việc sản
xuất nông nghiệp, công nghiệp. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu gây trồng cây
thuốc còn hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng của thị trường cũng là
nguy cơ rất lớn đối với sự tồn tại và phát triển của cây thuốc tự nhiên.
Các Vườn Quốc gia (VQG) và khu Bảo tồn thiên nhiên (BTTN) gần
như là thành luỹ cuối cùng bảo vệ cho tương lai của các loài động, thực vật
nói chung, cây thuốc nói riêng cũng đang bị xâm hại. Trong số đó có VQG
Tam Đảo, với nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng nhưng đang phải đối mặt
với sức ép rất lớn từ nhu cầu cuộc sống của người dân vùng đệm, nơi mà cuộc


2

sống còn nhiều khó khăn, thu nhập phụ thuộc một phần lớn vào nguồn tài
nguyên rừng.
Do đó một yêu cầu cấp bách đặt ra hiện nay là phải bảo tồn và phát
triển được nguồn tài nguyên cây thuốc vốn đang bị suy thoái của VQG Tam
Đảo. Bên cạnh đó lại phải nâng cao giá trị những kinh nghiệm, kiến thức sử
dụng cây thuốc nam cũng như đời sống của người dân vùng đệm.
Nhằm góp phần tìm hiểu các loài thực vật làm thuốc, cũng như kinh
nghiệm sử dụng cây thuốc của đồng bào dân tộc Dao và Sán Dìu trong vùng
đệm VQG Tam Đảo, giúp giải quyết những mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát
triển, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Điều tra, đánh giá nguồn tài
nguyên cây thuốc ở Vườn Quốc gia Tam Đảo và vùng đệm làm cơ sở cho
công tác bảo tồn và sử dụng bền vững”.



3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU CÂY THUỐC
1.1. Tình hình nghiên cứu và bảo tồn cây thuốc ở trên Thế giới
Từ khi con người ra đời, loài người đã biết dựa vào rừng để sống.
Không chỉ lấy ra từ rừng lương thực, thực phẩm cho cuộc sống hàng ngày,
con người còn biết lấy cây rừng làm rau ăn, nấu nước uống, lấy cây rừng làm
thuốc chữa bệnh. Trải qua nhiều thế kỷ, các cộng đồng người trên khắp thế
giới đã phát triển những phương thuốc cổ truyền của họ, làm cho các loài cây
thuốc và công dụng của chúng trở nên có ý nghĩa. Các kinh nghiệm dân gian
về sử dụng cây thuốc chữa bệnh được nghiên cứu ở các mức độ khác nhau tuỳ
thuộc vào sự phát triển của từng quốc gia. Và cũng từ đó, mỗi châu lục, mỗi
dân tộc hình thành nên một nền Y học cổ truyền mang nét đặc trưng riêng.
Nghiên cứu lịch sử dùng các cây làm thuốc của các dân tộc vùng lãnh
thổ được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đưa ra nhiều bằng chứng xác
thực. Trong cuốn “Lịch sử liên đại cây cỏ” ấn hành năm 1878, Charles
Pikering đã chỉ rõ: ngay từ năm 4271 trước Công nguyên (TCN) người dân
khu vực Trung Cận Đông đã sử dụng nhiều loại cây (sung, vả, cau dừa,..v.v.)
để làm lương thực và chữa bệnh [43].
Dựa trên các bằng chứng khảo cổ, Borisova B.(1960) chỉ ra rằng, vào
khoảng 5.000 năm TCN, cây thuốc đã được sử dụng rộng rãi và vì vậy là mục
tiêu chiếm đoạt (cùng với phụ nữ, các cây lương thực, cây có hoa đẹp) trong
các cuộc chiến tranh giữa các bộ tộc. Như vậy, tầm quan trọng của các cây
làm thuốc được loài người nhận thức rất sớm; việc thu thập, nhập nội các
giống cây thuốc quý được thực hiện ngay từ thời cổ đại bởi các chiến binh
[15].



4

Châu Úc được mệnh danh là cái nôi của nền văn minh cổ xưa nhất trên
thế giới. Người ta cho rằng, các thổ dân châu Úc đã định cư ở đây từ hơn
60.000 năm về trước và hình thành nên những kiến thức thực tiễn về các loài
cây thuốc bản xứ. Nhiều loài trong số này như cây Bạch đàn xanh (Eucalyptus
globulus) duy nhất chỉ có ở châu Úc, vốn được sử dụng rất hữu hiệu trong
việc chữa bệnh. Tuy nhiên, phần lớn kiến thức về dược thảo của thổ dân đã bị
mất đi khi người châu Âu đến định cư. Ngày nay, đa phần các dược thảo ở
châu Úc bắt nguồn từ phương Tây, Ấn Độ, Trung Quốc và các nước vùng ven
Thái Bình Dương .
Dược thảo ở châu Âu rất đa dạng và phần lớn dựa trên nền tảng của y
học truyền thống cổ điển. Người đầu tiên phải kể đến là Galen (131-200
SCN), một thầy thuốc của Hoàng đế La Mã Marcus Aurelius, có ảnh hưởng
sâu sắc đến sự phát triển của các vị thuốc bào chế từ thảo mộc. Ông đã viết
hàng trăm cuốn sách và đã được áp dụng trong ngành Y châu Âu hơn 1500
năm [1]. Ở thế kỷ I SCN, một thầy thuốc Hy Lạp tên là Dioscorides đã viết
một cuốn sách dược thảo có tên “De material Medica”. Quyển sách này bao
gồm 600 loại thảo mộc, gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến y học phương Tây và là
sách tham khảo chính được dùng ở châu Âu cho đến thế kỷ XVII. Cuốn sách
còn được dịch ra nhiều ngôn ngữ như: tiếng Anh cổ, tiếng Ba Tư và tiếng
Hebrew [12]. Vào thời Trung cổ, học thuyết “Dấu hiệu” khẳng định có một sự
kết nối giữa vẻ bề ngoài của một loài cây – “dấu hiệu của thần thánh”- và
công dụng y học của chúng. Chẳng hạn, những chiếc lá lốm đốm của cây Cỏ
phổi (Pulmonaria officinalis) giống như các mô của phổi, chữa rất hiệu quả
các bệnh về phổi. Cũng trong thời gian này, khoảng thế kỷ XI SCN, tại
Scotlan các thầy tu đã sử dụng cây thuốc Phiện (Papaver omnirierum) và cây
Cần sa (Cannabis sativa) để làm thuốc giảm đau và thuốc gây mê. Sau này,
Nicholas Culpeper (1616-1654) đã kế thừa một số kiến thức từ Dioscorides,



5

Paracelus và kinh nghiệm chữa bệnh của thầy thuốc địa phương, ông đã cho
xuất bản cuốn dược thảo “The English Physitian”. Đây là cuốn sách bán chạy
nhất và được tái bản nhiều lần [1].
Ở châu Phi, sự đa dạng của ngành dược thảo cổ truyền lớn hơn bất kỳ
châu lục nào khác. Việc sử dụng liệu pháp điều trị bằng cây thuốc ở châu Phi
đã có từ thời xa xưa. Những bản viết tay đã có từ thời Ai Cập cổ đại (1950
TCN) đã liệt kê hàng chục loài cây thuốc và công dụng của chúng. Trong bản
giấy cói của dân tộc Ebers (khoảng 1500 TCN ) ghi lại hơn 870 toa thuốc và
công thức, 700 loài dược thảo và các chứng bệnh, từ bệnh phổi cho đến các
vết thương do cá Sấu cắn. Việc buôn bán dược thảo giữa các vùng Trung
Đông, Ấn Độ và Đông Bắc châu Phi đã có ít nhất từ 3000 năm trước. Từ thế
kỷ V đến thế kỷ XIII SCN, các thầy thuốc Ả Rập là những người có công đầu
trong sự tiến bộ của ngành y. Vào giữa thế kỷ XIII, nhà thực vật học Ibn El
Beitar đã xuất bản cuốn “Các vấn đề y khoa” thống kê chủng loại cây thuốc ở
Bắc Phi [1].
Các nhà thực vật người Pháp được coi là những người đầu tiên của
châu Âu nghiên cứu về thực vật Đông Nam Á, với họ sau những cánh rừng
nhiệt đới còn tiềm ẩn rất nhiều giá trị. Vào những năm đầu thế kỷ XX, trong
chương trình nghiên cứu về thực vật Đông Dương, Perry công bố 1.000 loài
cây và dược liệu tại Đông Nam Á đã được kiểm chứng và gần đây (1985)
tổng hợp thành cuốn sách “Medicinal Plants of Eats and Southeast Asia” [48].
Nói đến dược thảo của châu Á không thể không nhắc đến hai quốc gia
có nền y học cổ truyền lâu đời là Trung Quốc và Ấn Độ. Lịch sử nền Y học
Trung Quốc đầu thế kỷ thứ II, người ta đã biết dùng thuốc là các loài cây cỏ
để chữa bệnh như: sử dụng nước cây Chè (Thea sinensis) đặc để rửa vết
thương và tắm ghẻ [37]. Trong cuốn sách “ Cây thuốc Trung Quốc” xuất bản

1985 đã liệt kê một loạt các cây cỏ chữa bệnh như: Rễ gấc (Momordica


6

cochinchinensis) chữa nọc độc, viêm tuyến hạch, hạt gấc trị sưng tấy, đau
khớp, sốt rét, vết thương tụ máu; Cải soong (Nasturtium officinale) giải nhiệt,
chữa lở mồm, chảy máu chân răng, bướu cổ. Từ những kinh nghiệm dân gian,
các nhà khoa học đã có nhiều công trình nghiên cứu về các loài cây thuốc, về
các sản phẩm chiết từ cây cỏ để chữa trị và đã đúc rút thành những cuốn sách
có giá trị. Từ đời nhà Hán (168 năm TCN) tại Trung Quốc trong cuốn sách
“Thủ hậu bị cấp phương” tác giả đã kê 52 đơn thuốc chữa bệnh từ các loài cây
cỏ [37]. Vào giữa thế kỷ XVI Lý Thời Trân đã thống kê được 12000 vị thuốc
trong tập “Bản thảo cương mục” được NXB Y học trích dẫn 1963 [40]. Và
gần đây nhất cuốn sách “ Cây thuốc Trung Quốc” xuất bản năm 1985 đã liệt
kê hầu hết các loài cây cỏ chữa bệnh có ở Trung Quốc được biết từ trước tới
nay [37].
Văn minh của người Ấn Độ cổ đại đã phát triển cách đây 5.000 năm
dọc theo bờ sông Indus ở miền Nam Ấn Độ [1]. Trong bộ sử thi Vedas được
viết vào năm 1500 TCN, chứa đựng những kiến thức phong phú về dược thảo
thời kỳ đó. Trong đó, nhiều loài cây được xem là những “cây thiêng” dành
cho những vị thần đặc biệt, chẳng hạn như cây Trái nấm (Aegle marmelos) là
cây dành cho thánh thần của người Hindu, thánh Lakshmi (Thánh mang lại sự
giàu có và may mắn), thánh Samhita (Vị thánh của sức khoẻ) và cây được
trồng gần các đền thờ. Những công dụng của cây thuốc này được ghi lại
trong cuốn sách dược thảo “ Charaka Samhita”, viết năm 400 TCN. Sau này,
vào khoảng 100 năm SCN, một học giả người Ấn Độ đã mô tả chi tiết 341
loại dược thảo cũng như những loại thuốc có nguồn gốc từ khoáng chất và
động vật [1].
Ngoài ra, Y học dân tộc Bungari “Đất nước của hoa hồng” đã coi Hoa

hồng là một vị thuốc chữa được nhiều bệnh, người ta dùng cả hoa, lá, rễ để
làm thuốc tan huyết ứ và bệnh phù thũng. Ngày nay, người ta đã chứng minh


7

rằng trong cánh Hoa hồng có một lượng tanin, glycosid, tinh dầu đáng kể.
Tinh dầu này không chỉ để chế nước hoa mà còn được dùng để chữa nhiều
bệnh [37].
Việc phát hiện ra các hoá chất chữa trị bệnh ung thư hiệu nghiệm trong
cây Thuỷ tùng vùng Thái Bình Dương, một loài cây bản địa của các rừng cổ
Bắc Mỹ đã mang lại lợi nhuận kinh tế cao. Trong vòng hai mươi năm qua
ngành công nghiệp chế biến Thuỷ tùng thành thuốc chữa ung thư đã mang lại
lợi nhuận là 500 triệu USD/năm, những cây thuốc này đang được sử dụng
rộng rãi ở Châu Âu và Châu Á [16]. Hãng dược phẩm danh tiếng Biotech của
Bỉ mỗi năm điều tra nghiên cứu sàng lọc 1.500 đến 2.000 loài cây thuốc từ
các quốc gia trên thế giới [22].
Cùng với phương thức dùng cây thuốc chữa bệnh theo lối cổ truyền và
dân gian, các nhà khoa học trên thế giới còn đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu cơ
chế và các hợp chất hoá học trong cây cỏ có tác dụng chữa bệnh. Vào thế kỷ
XVIII, một bác sĩ người Anh tên là William Withering (1741-1799) lần đầu
tiên khám phá ra công dụng chữa bệnh của cây thuốc Mao địa hoàng
(Digitalis purpurea), mở ra sự phát triển trong lịch sử y dược học [1]. Trong
nhiều loài Ba gạc (Rauwfolia sp.) chiết được chất resecpin, serpentin làm
thuốc hạ huyết áp. Chất vinblastin, vincristin được chiết xuất từ cây Dừa cạn
(Catharanthus roseus) vừa có tác dụng hạ huyết áp vừa làm thuốc chống ung
thư máu. Vài chục năm gần đây, ứng dụng các thành tựu nghiên cứu cấu trúc,
hoạt tính của các hợp chất hoá học tự nhiên, bằng con đường tổng hợp hoặc
bán tổng hợp hoá học, một số loài thuốc hiện đại có hiệu quả chữa bệnh cao
lần lượt ra đời.

Nhiều loài Hoàng Liên (Coptis spp) cũng được xếp vào danh lục thực
vật nguy cấp ở nhiều nước Đông Á. Loài Ba gạc (Rauvolfia serpentine (L.)


8

Benth. ex Kurz) đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng do bị khai thác lâu đời
ở Ấn Độ, Bănglađét, Srilanka, Thái Lan [46].
Chữa bệnh bằng cây cỏ đang dần trở thành xu hướng của thế giới.
Trong khoảng 30 năm gần đây, Viện Ung thư Hoa Kỳ (CNI) đã điều tra
nghiên cứu sàng lọc hơn 40.000 mẫu cây thuốc, phát hiện hàng trăm cây
thuốc có khả năng chữa trị bệnh ung thư, 25% đơn thuốc ở Mỹ sử dụng chế
phẩm có dược tính mạnh được điều chế từ một loài Hoa hồng (Cantharanthus
roseus). Đặc biệt ở Madagasca, người ta dùng cây này để chữa bệnh máu
trắng cho trẻ em và rất hiệu quả, đã làm tăng tỷ lệ sống của trẻ em từ 10 lên
đến 90% [32], [34].
Nhận thức rõ giá trị chữa bệnh của các cây thuốc chính là hợp chất tự
nhiên có hoạt tính sinh học chứa trong nguyên liệu, vì vậy nghiên cứu cây
thuốc theo các nhóm hợp chất được tiến hành và đã thu được nhiều kết quả
tốt. Tuy nhiên, hướng nghiên cứu này đòi hỏi kinh phí lớn, trang thiết bị hiện
đại và đội ngũ chuyên gia có trình độ cao. Do vậy, đây là các nghiên cứu
được triển khai ở các nước phát triển và một số các nước đang phát triển . Các
cây thuốc chứa các nhóm hoạt chất ancanoit, flavonoit, cumarin hiện đang
được quan tâm nghiên cứu [41], [42].
Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới- WHO năm 1985, trong số
250.000 loài thực vật bậc thấp cũng như bậc cao đã biết, có gần 20.000 loài
thực vật được sử dụng làm thuốc hoặc cung cấp các hoạt chất để chế biến
thuốc. Trong đó, ở Ấn Độ có khoảng 6.000 loài, Trung Quốc trên 5.000 loài,
riêng về thực vật có hoa ở một vài nước Đông Nam Á đã có tới 2.000 loài là
cây thuốc, vùng nhiệt đới châu Mỹ hơn 1.900 loài [7]. Cũng theo WHO thì

mức độ sử dụng cây thuốc ngày càng cao, ở các quốc gia đang phát triển có
tới 80% dân số sử dụng thuốc dân tộc. Trung Quốc là nước đông dân nhất thế
giới, lại có nền y học dân tộc phát triển, nên trong số cây thuốc đã biết hiện


9

nay có tới 80% số loài (tương đương với 4.200 loài) được sử dụng theo kinh
nghiệm cổ truyền của các dân tộc [7]. Điều này chứng tỏ đối với các nước
công nghiệp phát triển thì việc sử dụng cây thuốc phục vụ cho nền y học cổ
truyền cũng phát triển mạnh. Cây thuốc là loại cây kinh tế, nó cung cấp nhiều
loại thuốc dân tộc và thuốc hiện đại trong việc bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ con
người (Theo Tuyên ngôn Chiang Mai, 1988).
Tuy nhiên, ngày nay do các hoạt động mưu cầu của cuộc sống con
người đã và đang gây sức ép lên sự sinh tồn của các loài cây thuốc trên thế
giới. Nhiều loài cây thuốc quý hiếm bị khai thác bừa bãi nên đang đứng trước
nguy cơ bị tuyệt chủng hoặc đã bị tuyệt chủng. Theo P. Raven (1987) và Ole
Harmann (1988), trong vòng hơn 100 năm trở lại đây, có khoảng 1.000 loài
thực vật đã bị tuyệt chủng, có tới 60.000 loài gặp rủi ro hay sự tồn tại của
chúng bị đe doạ vào thế kỷ tới. Trong số những loài thực vật đã mất đi hoặc
đang bị đe doạ gay gắt, có một tỷ lệ không nhỏ là thực vật làm thuốc [7].
Trong đó có khoảng 120 loài ở Ấn Độ, 77 loài ở Trung Quốc, 75 loài ở
Macoro, 61 loài ở Thái Lan, 35 loài ở Bangladet [7].
Song song với các nghiên cứu về sử dụng cây thuốc, một vấn đề cấp
bách khác được đặt ra đó là việc bảo tồn nguồn tài nguyên cây thuốc, cùng
với những kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các dân tộc trên thế giới. Tại
Hội nghị Quốc tế về Bảo tồn cây thuốc, tổ chức ở Chiềng Mai (Thái Lan) năm
1993, một lần nữa các nhà khoa học đã khẳng định tầm quan trọng và vai trò
to lớn của cây thuốc trong sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Đồng
thời, đưa ra tài liệu “ Hướng dẫn bảo tồn cây thuốc”- “Guidelines on the

Conservation of Medicinal Plants”, kêu gọi các quốc gia có những giải pháp
và chương trình hành động thiết thực để bảo tồn cây thuốc [49].
Để phục vụ cho mục đích chăm sóc bảo vệ sức khoẻ con người, cho sự
phát triển của xã hội và để chống lại các bệnh nan y thì sự cần thiết phải kết


10

hợp giữa Đông - Tây y, giữa y học hiện đại với y học cổ truyền của các dân
tộc là một vấn đề cấp thiết. Chính từ những kinh nghiệm của y học cổ truyền
đã giúp cho nhân loại khám phá ra những loại thuốc có ích trong tương lai.
Cho nên, việc khai thác kết hợp với bảo tồn các loài cây thuốc là điều hết sức
quan trọng. Các nước trên thế giới đang hướng về thực hiện chương trình
Quốc gia kết hợp sử dụng, bảo tồn và phát triển bền vững cây thuốc [37].
1.2. Tình hình nghiên cứu và bảo tồn cây thuốc ở Việt Nam
Việt Nam có nền Y học cổ truyền giàu truyền thống, phong phú về các
cây thuốc, bài thuốc và vị thuốc. Cùng với 4000 năm dựng nước và giữ nước,
người Việt Nam đã phải đấu tranh với thiên nhiên, bệnh tật và chiến tranh,
dần dần đã tích luỹ được kinh nghiệm và tri thức trong sử dụng cây thuốc.
Nền Y học cổ truyền qua hàng nghìn năm Bắc thuộc nên chịu ảnh hưởng rất
lớn của Y học cổ truyền Trung Quốc.
Ngay từ thời Vua Hùng dựng nước (2900 năm TCN), qua các văn tự
Hán Nôm còn sót lại (Đại Việt sử ký ngoại ký, Lĩnh Nam chích quái liệt
truyện, Long Uý bí thư,..) và qua các truyền thuyết, tổ tiên ta đã biết dùng cây
cỏ làm gia vị kích thích sự ngon miệng và chữa bệnh [17], [18], [19], [20].
Tài liệu sớm nhất về cây thuốc Việt Nam là “ Nam Dược Thần Hiệu”
và “ Hồng nghĩa giác tư y thư” của Tuệ Tĩnh [26]. Trong tài liệu này đã mô tả
hơn 630 vị thuốc, 13 đơn thuốc chữa các loại bệnh và 37 đơn thuốc chữa bệnh
thương hàn. Ông được coi là một bậc kỳ tài trong lịch sử y học nước ta, là “Vị
thánh thuốc Nam”. Ông đã để lại nhiều bộ sách quý cho đời sau như: “Tuệ

Tĩnh y thư”, “Thập tam phương gia giảm”, “Thương hàn tam thập thất trùng
pháp” [39]. Tới thế kỷ XVIII, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã xuất bản
bộ sách lớn thứ hai “ Y tông Tâm tĩnh” cho nước ta. Bộ sách gồm 28 tập, 66
quyển đã mô tả khá chi tiết về thực vật, các đặc tính chữa bệnh [26].


11

Trong thời kỳ thực dân pháp xâm lược có một số nhà thực vật học,
dược học người Pháp đã đến nước ta nghiên cứu. Điển hình là các nhà dược
học Crévost, Pétélot đã xuất bản bộ “Catalogue des produit de L’Indochine”
(1928-1935), trong đó tập V (Produits medicinaux, 1928) đã mô tả 368 cây
thuốc và vị thuốc là các loài thực vật có hoa [45]. Đến năm 1952, Pétélot bổ
sung và xây dựng thành bộ “Les plantes médicinales du Cambodge, du Laos
et du Vietnam”, gồm 4 tập đã thống kê 1482 vị thuốc thảo mộc trên ba nước
Đông Dương [47].
Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhất là sau khi miền Bắc được
giải phóng năm 1954, các nhà khoa học Việt Nam có nhiều thuận lợi trong
việc sưu tầm, nghiên cứu nguồn tài nguyên cây thuốc. Đỗ Tất Lợi- người đã
dày công nghiên cứu trong nhiều năm và đã xuất bản được nhiều tài liệu về
việc sử dụng cây, con làm thuốc của đồng bào dân tộc. Đáng chú ý nhất là
năm 1957, ông đã biên soạn bộ “ Dược liệu học và các vị thuốc Việt Nam”
gồm 3 tập. Năm 1961 tái bản in thành 2 tập, trong đó tác giả mô tả và nêu
công dụng của hơn 100 cây thuốc nam. Từ năm 1962 - 1965, Đỗ Tất Lợi lại
cho xuất bản bộ “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” gồm 6 tập. Đến
năm 1969 tái bản thành 2 tập, trong đó giới thiệu hơn 500 vị thuốc có nguồn
gốc thảo mộc, động vật và khoáng vật. Ông đã kiên trì nghiên cứu, bổ sung
liên tục các loài cây thuốc trong các công trình được tái bản nhiều lần vào các
năm 1970, 1977, 1981, 1986, 1995, 1999, 2001, 2003. Lần tái bản thứ 7
(1995) số cây thuốc của ông nghiên cứu đã lên tới 792 loài và gần đây nhất là

lần tái bản lần thứ 10 (2005); trong đó, ông đã mô tả tỉ mỉ tên khoa học, phân
bố, công dụng, thành phần hoá học, chia tất cả các cây thuốc đó theo các
nhóm bệnh khác nhau [26]. Đây là một bộ sách có giá trị lớn về khoa học và
thực tiễn, kết hợp giữa khoa học dân gian và khoa học hiện đại.


12

Năm 1960, Phạm Hoàng Hộ và Nguyễn Văn Dương cho xuất bản bộ
“Cây cỏ Việt Nam”. Tuy chưa giới thiệu được hết hệ thực vật Việt Nam,
nhưng phần nào cũng đưa ra được công dụng làm thuốc của nhiều loài thực
vật [23], [24], [25]. Đỗ Tất Lợi (1965) đã xuất bản bộ sách “Những cây thuốc
và vị thuốc Việt Nam” và được tái bản vào năm 2000. Công trình liệt kê gần
800 loài cây, con và vị thuốc, trong đó phần lớn mô tả về thực vật, phân bố,
thu hái và chế biến, thành phần hoá học, công dụng và liều dùng.
Năm 1966, để phục vụ cho công tác giảng dạy và nghiên cứu cây thuốc
dược sĩ Vũ Văn Chuyên đã cho ra đời cuốn “Tóm tắt đặc điểm các họ cây
thuốc” và được in lần thứ hai vào năm 1976 [14]. Năm 1980, Đỗ Huy Bích,
Bùi Xuân Chương đã giới thiệu “Sổ tay cây thuốc Việt Nam”, với 519 loài
cây thuốc, trong đó có 150 loài mới phát hiện [5].
Liên quan đến vấn đề cây thuốc, tập thể các nhà khoa học Viện Dược
liệu đã xuất bản cuốn “Dược điển Việt Nam” tập I, II đã tổng kết các công
trình nghiên cứu về cây thuốc trong những năm qua [10]. Viện Dược liệu, Bộ
Y tế cùng với hệ thống trạm nghiên cứu dược liệu, điều tra ở 2795 xã,
phường, thuộc 35 huyện, thị xã của 47 tỉnh, thành phố trong cả nước, đã có
những đóng góp đáng kể trong công tác điều tra sưu tầm nguồn tài nguyên
cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc trong y học cổ truyền dân gian
[21].
Có rất nhiều công trình về cây thuốc ở Việt Nam với quy mô lớn nhỏ
khác nhau đã được công bố như: Đỗ Huy Bích, Bùi Xuân Chương và cộng sự

đã cho ra đời cuốn “Tài nguyên cây thuốc Việt Nam” (1993) với khoảng 300
loài cây thuốc được khai thác và sử dụng ở các mức độ khác nhau trong toàn
quốc [6]. Trình Đình Lý (1995) đã xuất bản cuốn “1900 loài cây có ích”, cho
biết trong số các loài thực vật bậc cao có mạch đã biết ở Việt Nam, có 76 loài


13

cho nhựa thơm, 160 loài cho tinh dầu, 260 loài cho dầu béo, 600 loài chứa
tanin, 50 loài cây gỗ có giá trị cao, 40 loài tre nứa, 40 loài song mây [27].
Võ Văn Chi (1997) đã biên soạn “Từ điển cây thuốc Việt Nam”, gồm
khoảng 3.200 loài cây thuốc, trong đó thực vật có hoa có 2.500 loài thuộc
1050 chi, được xếp vào 230 họ thực vật theo hệ thống A. L. Takhtajan. Tác
giả đã giới thiệu sơ bộ về nhận dạng, bộ phận sử dụng, nơi sống và thu hái,
thành phần hoá học, tính vị và tác dụng, công dụng,.. của từng loài thực vật
[11].
Nhóm tác giả của Viện Dược liệu (2003) đã tiến hành biên soạn bộ
sách “Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam” với hơn 1.000 loài, trong
đó 920 cây thuốc và 80 loài động vật được sử dụng làm thuốc.
Các nhà nghiên cứu của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật đã thu
thập, nghiên cứu và công bố một số tài liệu liên quan tới cây thuốc: Đáng chú
ý là hai tập sách “Tài nguyên thực vật có tinh dầu ở Việt Nam” của tác giả Lã
Đình Mỡi và cộng sự (2001; 2002) các tác giả đã đề cập đến giá trị sử dụng
làm thuốc của nhiều loài thực vật có tinh dầu ở Việt Nam [28]
Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (2003, 2005) đã công bố bộ sách “Danh
lục các loài thực vật Việt Nam” đây là bộ sách có ý nghĩa quan trọng trong tra
cứu hệ thực vật nói chung và tra cứu thành phần cây thuốc nói riêng. Tập sách
đã đề cập tới các tên khoa học, tên thường gọi, nhận dạng, phân bố, dạng
sống- sinh thái và công dụng, rất tiện lợi cho các nhà nghiên cứu về thực vật
làm thuốc [2], [3].

Các dân tộc thiểu số trên thế giới nói chung, và ở Việt Nam nói riêng,
do cuộc sống còn gắn liền với việc khai thác và sử dụng thực vật nên có nhiều
kinh nghiệm và tri thức quý trong lĩnh vực chế biến, sử dụng thực vật: đặc
biệt là các kinh nghiệm sử dụng cây thuốc. Tuy nhiên, các tri thức và kinh
nghiệm dân tộc thường chỉ được sử dụng và lưu truyền trong một phạm vi hẹp


14

(dân tộc, dòng họ, gia đình) vì vậy không được phát huy để phục vụ cho xã
hội và có nguy cơ thất thoát rất cao. Nhận thức được tầm quan trọng này,
trong khoảng hơn 10 năm trở lại đây nghiên cứu cây thuốc dân tộc
(Ethnomedical plants) được đặc biệt quan tâm tại một số cơ quan của nước ta
và đã thu được nhiều kết quả khả quan [31].
Với phương châm xây dựng nền Y học hiện đại - dân tộc và đại chúng,
Nhà nước đã có nhiều nỗ lực để đầu tư cho công tác điều tra, nghiên cứu về
cây thuốc và kế thừa nền y học cổ truyền, phục vụ cho yêu cầu chữa bệnh và
chăm sóc sức khoẻ toàn dân.
Tuy nhiên, phần lớn số loài được ghi nhận đều xuất phát từ kinh
nghiệm sử dụng của các cộng đồng các dân tộc ở các địa phương trong cả
nước.
Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật trong những năm qua đã có nhiều
công trình nghiên cứu về tri thức và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các
dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Các công trình nghiên cứu về cây thuốc cổ
truyền của dân tộc Thái, Mường, Tày, Nùng,... đã cập nhật và bổ sung cho dữ
liệu về cây thuốc dân tộc Việt Nam.
Nguyễn Thị Phương Thảo và cộng sự (2001) đã điều tra, đánh giá về tài
nguyên cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng các loài thực vật làm thuốc của
một số dân tộc (Dao, Tày, Hoa) tại Yên Tử - Quảng Ninh và đã thu thập được
326 loài thực vật làm thuốc. Tại Chiềng Yên - Mộc Châu - Sơn La, 2005), tác

giả đã điều tra đánh giá tài nguyên cây thuốc của người Mường và Dao tại
khu vực nghiên cứu, đã thống kê được 209 loài cây thuốc được người Mường
và 176 loài cây thuốc được người Dao sử dụng [35].
Lưu Đàm Cư (2005), trong nghiên cứu “Cây thuốc truyền thống của
người Dao, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai”, đã xác định được 312 loài cây thuốc
thuộc 88 họ mà người Dao ở Sa Pa sử dụng [16]. Báo cáo khoa học hội nghị


15

toàn quốc, nghiên cứu cơ bản trong khoa học sự sống, định hướng y dược
học. NXB KH và KT, Hà Nội)
Theo thống kê của ngành Lâm nghiệp, diện tích rừng nước ta từ 14,3
triệu ha vào năm 1943, đến năm 1993 chỉ còn 9,3 triệu ha (Bộ lâm nghiệp,
1995) trong đó diện tích rừng nguyên sinh còn lại không tới 1% tổng diện tích
lãnh thổ (Averyanov, L.V. et al., 2004.). Rừng bị phá huỷ sẽ làm cho toàn bộ
tài nguyên rừng ở đó mất đi, trong đó có cây thuốc. Trong quá trình điều tra
dược liệu ở Việt Nam từ năm 1961 đến nay, Viện Dược liệu đã phát hiện
nhiều vùng rừng có cây thuốc phong phú, nay đã bị phá huỷ làm nương rẫy,
trồng cà phê, cao su (ở miền Nam) hoặc thay vào đó là các công trình dân sự,
Bên cạnh các hoạt động có chủ ý của con người, nạn cháy rừng, lũ lụt và lở
đất cũng làm mất đi nhiều vùng rừng có nhiều cây thuốc quý hiếm mọc tập
trung.
Hơn nữa, do sức ép của thị trường tài nguyên cây thuốc bị khai thác
quá mức, nên ngày càng cạn kiệt và đứng trước nguy cơ bị đe doạ. Chính phủ
và ngành y tế đã có những nỗ lực để bảo tồn tài nguyên sinh vật nói chung và
tài nguyên cây thuốc nói riêng. Nhiều công trình Nhà nước về bảo tồn cây
thuốc (Bảo tồn nguồn gen cây thuốc - Viện Dược liệu, Bộ Y tế) hoặc các mô
hình bảo tồn nguồn gen cây thuốc ở các dự án đầu tư của Nhà nước, cũng như
các dự án của tổ chức phi chính phủ (Bảo tồn cây thuốc của đồng bào Dao tại

Ba Vì, Hà Tây - CREDEP; Bảo tồn nguồn gen cây thuốc- Bộ Y tế; Mô hình
Bảo tồn và phát triển cây thuốc ở Sa Pa; Mô hình Bảo tồn cây thuốc ở Nà Ớt,
Sơn La,.. của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật) đã được hình thành
nhằm duy trì bảo tồn nguồn gen cây thuốc quý hiếm.
Trong Vườn Quốc gia (VQG) Tam Đảo và vùng đệm có từ 300 - 500
loài cây thuốc được người dân địa phương sử dụng như cây thuốc nam (Trần
Văn Ơn, VNPPAA, 2001). Những loài cây này được sử dụng ở địa phương


16

với những kinh nghiệm và kiến thức khác nhau: Theo gia đình, theo thầy
thuốc nam, và các trạm y tế xã, cũng như chúng được thu mua qua những
người trung gian và công ty dược trong vùng. Phần lớn các loài cây thuốc này
được khai thác trực tiếp từ rừng tự nhiên của VQG Tam Đảo, đây là nguyên
nhân dẫn đến việc giảm thiểu về số lượng và mức độ phong phú của các loài
cây thuốc. Theo số liệu hiện có thì có ít nhất 30 loài cây thuốc trở nên hiếm
hoặc bị đe doạ đã được cấp báo trong Sách Đỏ Việt Nam (1996) và trên 6 loài
có tên trong danh lục của IUCN (1994).
Trong khi khối lượng cây thuốc được khai thác đáp ứng nhu cầu sử
dụng trong các hộ gia đình vẫn chưa được kiểm chứng, theo ước tính thì có
khoảng 450-570 tấn cây thuốc được khai thác từ rừng tự nhiên Tam Đảo
(Trần Văn Ơn, 2000). Con số này cũng chỉ dựa trên những nghiên cứu còn rất
hạn chế với số lượng nhỏ các xã, thôn và đòi hỏi có nghiên cứu kiểm chứng
kỹ hơn khi một hoạt động mua bán được đánh giá đúng đắn. Hiện nay, chúng
ta đã biết có khoảng 31 loài cây đang mua bán trong khu vực, nhưng con số
thực tế dường như còn cao hơn nhiều. Thực tế cho thấy, chúng ta không biết
giá trị kinh tế của hoạt động mua bán cây thuốc đối với hộ gia đình. Tuy
nhiên, theo ước tính việc thu hái các sản phẩm từ rừng tự nhiên trong VQG
chiếm khoảng 24% tổng thu nhập của hộ gia đình (VNPPAA, 2001).

Việc khai thác cây thuốc đang diễn ra ở mức độ cao trong VQG là một
thách thức đối với công tác quản lý bảo tồn cũng như điều kiện sống của
người dân địa phương.


17

CHƯƠNG 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Điều tra các loài cây có giá trị làm thuốc, trong đó có các loài cây bị đe
doạ cạn kiệt do người dân địa phương khai thác và sử dụng quá mức.
Nghiên cứu thành phần, dạng sống, công dụng chữa bệnh và giá trị
kinh tế của chúng để xác định ưu tiên trong công tác bảo tồn.
Nghiên cứu các vấn đề kinh tế, xã hội, thói quen của các cộng đồng dân
tộc thiểu số (Dao, Sán Dìu) sống xung quanh VQG liên quan đến việc thu hái,
sử dụng và bảo tồn các loài cây thuốc.
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Các loài cây có giá trị làm thuốc tại VQG Tam Đảo và vùng đệm
Tập quán sử dụng cây thuốc của người dân vùng đệm
2.3. Nội dung nghiên cứu
2.3.1. Điều tra, đánh giá tính đa dạng về các taxon cây thuốc ở VQG Tam
Đảo
- Đa dạng về ngành, họ, chi, loài thực vật
- Đa dạng về dạng sống
2.3.2. Tình hình khai thác và sử dụng tài nguyên cây thuốc của cộng đồng
dân tộc tại khu vực nghiên cứu
- Tình hình khai thác cây thuốc trong khu vực nghiên cứu
- Đa dạng về bộ phận sử dụng

- Tìm hiểu kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc vùng đệm
VQG
- Tìm hiểu phương pháp thu hái, sơ chế, bảo quản cây thuốc


18

2.3.3. Đánh giá mức độ đe doạ đối với loài cây thuốc tại khu vực nghiên
cứu
- Những cây thuốc quý hiếm và nguy cấp cần được bảo vệ
- Cách gọi tên một số loài cây thuốc theo tiếng Dao và Sán Dìu
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp kế thừa tài liệu
Kế thừa có chọn lọc các số liệu, tài liệu, kết quả nghiên cứu có liên
quan tới vấn đề nghiên cứu: Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, tài nguyên
rừng của khu vực nghiên cứu, các kết quả nghiên cứu đã có, các báo cáo khoa
học,...
2.4.2. Phương pháp nghiên cứu thực vật
2.4.2.1 Phương pháp nghiên cứu đa dạng về thành phần loài
- Phương pháp thu hái mẫu vật: Các mẫu vật được thu thập theo kinh
nghiệm sử dụng của người dân địa phương.
Các mẫu tiêu bản tốt phải đảm bảo có đầy đủ các bộ phận, đặc biệt là
cành, lá cùng với hoa, quả (đối với cây lớn) hay cả cây (đối với cây thảo nhỏ
hay dương xỉ) các cây lớn thu từ 3-5 mẫu trên cùng cây; các cây thảo nhỏ và
các cây dương xỉ thu từ 3-5 cây (mẫu) sống gần nhau. Các mẫu được thu thập
phải có tỷ lệ tương đối phù hợp với kích thước chuẩn của mẫu tiêu bản: 41x
29cm [4], [36].
Tuy nhiên trong điều tra thực vật dân tộc học, các mẫu tiêu bản thu
được thường không đầy đủ các tiêu chuẩn trên. Trong các trường hợp này,
chúng tôi tiến hành thu thập và làm mẫu tiêu bản nhỏ. Mẫu tiêu bản nhỏ: là

mẫu tiêu bản thực vật không đủ tiêu chuẩn phân loại với kích thước nhỏ,
thuận tiện cho việc mang theo để so sánh, đối chiếu trong các đợt điều tra,
kích thước khoảng 20- 30cm, nhưng có những đặc điểm dễ nhận.


19

Bên cạnh các tiêu bản điển hình để phân loại, chúng tôi còn thu thập
các vật về các bộ phận sử dụng hoặc các sản phẩm có nguồn gốc từ thực
vật,..v.v [30].
- Xử lý mẫu: Trong khi đi thực địa, các mẫu được cắt tỉa cho phù hợp
sau đó kẹp vào giữa hai tờ báo (kích thước khoảng 45 x 30cm) và được ngâm
trong dung dịch cồn 400- 450, sau đó được sấy khô tại phòng thí nghiệm [4].
- Phương pháp xác định tên cây: Sử dụng theo phương pháp hình thái so sánh.
[23], [24], [25] với sự hướng dẫn và giúp đỡ của các chuyên gia phân loại
học.
2.4.2.2. Phương pháp nghiên cứu đa dạng về giá trị sử dụng
Dựa vào danh lục thực vật, tiến hành tra cứu công dụng theo các tài
liệu: “Từ điển cây thuốc” của Võ Văn Chi và qua điều tra trong nhân dân.
2.4.3. Phương pháp điều tra phỏng vấn người dân về những kinh nghiệm
sử dụng các loài cây làm thuốc
Đối tượng phỏng vấn được lựa chọn là những người có hiểu biết về cây
thuốc cũng như khả năng chữa bệnh cho gia đình và cộng đồng. Khi tiến hành
phỏng vấn, cần phải có thái độ tốt để hoà mình vào cuộc sống của họ, tạo
niềm tin để họ thấy rõ việc làm này mang lại lợi ích cho chính bản thân họ và
cộng đồng.
Trong quá trình điều tra cộng đồng, chúng tôi sử dụng hai phương pháp
tiếp cận là RRA và PRA [29], [30].
RRA (Đánh giá nhanh nông thôn): là quá trình nghiên cứu được coi
như là điểm bắt đầu cho sự hiểu biết tình hình địa phương (theo Jame Beebe,

1985) [29].
PRA (Đánh giá nông thôn có sự tham gia): là một loạt các cách và
phương pháp cho phép người dân nông thôn cùng chia sẻ, nâng cao và phân
tích kiến thức của họ về đời sống và điều kiện nông thôn để lập kế hoạch và


20

hành động (theo Robert Chambert, 1994) [29]. Một số kỹ thuật thường được
sử dụng trong PRA:
- Phỏng vấn mở: Là dạng phỏng vấn tự do, chúng ta có thể hỏi bất kỳ câu
hỏi nào với những câu hỏi tuỳ ý dựa trên hoàn cảnh khi đó, thứ tự các nội
dung cần hỏi có thể thay đổi tuỳ ý dựa trên câu trả lời của câu hỏi trước của
người cung cấp thông tin.
- Phỏng vấn bán cấu trúc: Một số câu hỏi được chuẩn bị trước và một số
câu hỏi có thể thêm vào tuỳ theo các tình huống cụ thể.
2.4.4. Đánh giá mức độ đe doạ
Chúng tôi dựa trên các tài liệu đã ban hành về sự nguy cấp của thực vật
để đánh giá mức độ bị đe doạ của các loài thực vật có giá trị làm thuốc. Các
tài liệu đó gồm: Sách Đỏ Việt Nam (2007) [8]; Danh lục Đỏ cây thuốc Việt
Nam [33]; Nghị định 32/2006/NĐ-CP về quản lý thực vật rừng, động vật rừng
nguy cấp, quý hiếm [13]. Ngoài ra, chúng tôi còn căn cứ vào tình hình khai
thác và sử dụng cây thuốc tại địa phương để chỉ ra các loài có nguy cơ bị đe
doạ trong khu vực nghiên cứu .


21

CHƯƠNG 3
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU

Tam Đảo là tên của 3 đỉnh Thiên Thị, Thạch Bàn và Phú Nghĩa nổi lên
trên biển mây trắng trong dãy núi Tam Đảo. Dãy Tam Đảo rộng từ 10- 15km,
chạy dài trên 80km theo hướng Tây Bắc - Đông Nam trên địa bàn 3 tỉnh:
Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang, cách thủ đô Hà Nội 75 km về phía
Bắc [38].
Rừng tự nhiên Tam Đảo giữ vai trò điều hoà khí hậu, điều tiết nguồn
nước, bảo vệ môi trường sống cho một phần đồng bằng Bắc Bộ trong đó bao
gồm cả Thủ đô Hà Nội [38].
Đầu thế kỷ XX, người Pháp đã chọn Tam Đảo xây dựng thành khu nghỉ
mát ở độ cao 950m so với mực nước biển với nhiều biệt thự kiểu dáng Châu
Âu. Khí hậu nơi đây mát mẻ, trong lành mang sắc thái như vùng ôn đới [38].
Tài nguyên rừng Tam Đảo rất phong phú và đa dạng với trên 2000 loài
thực vật và hàng trăm loài động vật, côn trùng tạo nên tính đa dạng sinh học
cao; trong số đó có nhiều loài quí hiếm và đặc hữu không chỉ riêng cho Tam
Đảo còn cho Việt Nam. Rừng núi Tam Đảo đẹp và hùng vĩ, từ lâu đã được
nhiều người trong và ngoài nước biết đến với khu nghỉ mát Tam Đảo nổi
tiếng và thơ mộng; Khu danh thắng Tây Thiên kỳ thú với ba đỉnh “Tam Đảo”
tạo thành thế vững chãi như “Đỡ lấy trời” ở đây có Thác Bạc trắng xoá giữa
thảm rừng xanh biếc, có hệ thống đền, chùa cổ được xây dựng từ thế kỷ XX
để thờ cúng những người có công dựng nước và giữ nước [38].
Vì vậy, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập rừng cấm Tam
Đảo (Quyết định số 41/TTg ngày 24/01/1977) thuộc địa giới 3 tỉnh Vĩnh
Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang và giao trách nhiệm cho Bộ Lâm nghiệp
(cũ) và UBND các tỉnh và thành phố có rừng cần phải sớm điều tra quy
hoạch, xây dựng luận chứng kinh tế- kỹ thuật cho các khu rừng cấm [38]


22

Thực hiện quyết định trên, Bộ Lâm nghiệp (cũ) và UBND 3 tỉnh Vĩnh

Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang đã xây dựng dự án trình Chính phủ phê
duyệt và nâng cấp khu rừng cấm Tam Đảo thành VQG Tam Đảo [38].
Ngày 06/03/1996 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 139/TTg về
việc phê duyệt “Dự án khả thi đầu tư xây dựng VQG Tam Đảo” với tổng diện
tích tự nhiên là 36.883 ha nằm trên địa giới 3 tỉnh Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và
Tuyên Quang và giao cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là chủ
quản dự án.
Ngày 15/05/1996 Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn có quyết
định số 601NN.TCCB/QĐ thành lập VQG Tam Đảo trực thuộc Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn [38].
Hiện nay, VQG Tam Đảo có tổng diện tích đất là 34.995 ha (do có
1.888 ha đã được giao lại cho huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang quản lý
theo quyết định số 155/2002/QĐ - TTg ngày 12/11/2002 của Thủ tướng
Chính phủ) [38].
VQG Tam Đảo có những chức năng, nhiệm vụ chủ yếu sau:
+ Bảo vệ nguyên vẹn các hệ sinh thái rừng trên núi Tam Đảo.
+ Bảo vệ nguồn gen các loài động, thực vật quý hiếm, đặc biệt là các
loài động, thực vật đặc hữu và cảnh quan thiên nhiên.
+ Thực hiện công tác nghiên cứu và thực nghiệm khoa học và dịch vụ
khoa học, tạo môi trường tốt phục vụ công tác nghiên cứu khoa học, du lịch
và nghỉ mát.
+ Tổ chức công tác tuyên truyền, giáo dục phổ cập cho nhân dân lòng
yêu thiên nhiên và ý thức bảo vệ môi trường.
+ Thực hiện vai trò giữ và điều tiết nước của khu vực đầu nguồn, góp
phần cải thiện môi trường sống cho đồng bằng trung du Bắc Bộ và Thủ đô Hà
Nội.


23


+ Tham gia tổ chức việc tham quan du lịch và nghỉ mát.
+ Góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân trong vùng đệm
[38].
3.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1. Địa lý
VQG Tam Đảo nằm trải dài từ 21o21’- 21o42’ độ vĩ Bắc và từ 105o23’105o44’ độ kinh Đông, nằm trên địa phận của 3 tỉnh: Vĩnh Phúc, Thái Nguyên
và Tuyên Quang. Đây là dãy núi lớn dài 80 km, chạy theo hướng Tây Bắc Đông Nam.
Phía Bắc giáp xã Quân Chu;
Phía Nam giáp xã Hướng Đạo;
Phía Đông giáp xã Minh Quang;
Phía Tây giáp xã Tam Quan.
Phía Đông Bắc khu Tam Đảo giới hạn bởi quốc lộ 13A, từ ranh giới
huyện Phổ Yên - Đại Từ (Thái Nguyên) đến Đèo Khế (Tuyên Quang). Phía
Tây Nam là đường ôtô mới mở kéo dài từ quốc lộ 13A chỗ gần chân Đèo Khế
dọc chân núi Tam Đảo đến xã Mỹ Khê, ranh giới huyện Bình Xuyên và huyện
Mê Linh (Vĩnh Phúc).
Trung tâm VQG Tam Đảo cách Thủ đô Hà Nội 75 km về phía Tây Bắc
và cách Thành phố Vĩnh Yên 13 km về phía Bắc [38].
3.1.2. Địa hình, địa chất thổ nhưỡng
3.1.2.1. Địa hình
Địa hình Tam Đảo có đặc điểm là đỉnh nhọn, sườn rất dốc, độ chia cắt
sâu, dày bởi nhiều dông phụ gần như vuông góc với dông chính. Phía Đông
Bắc các suối chính đều chảy về sông Công tạo nên vùng bồn địa Đại Từ. Phía
Tây Nam, các lưu vực sông đều đổ về sông Phó Đáy.


24

Núi Tam Đảo chạy dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, gồm trên 20
đỉnh núi được nối với nhau bằng đường dông sắc, nhọn. Nó như một bức bình

phong chắn gió mùa Đông Bắc cho vùng đồng bằng. Các đỉnh có độ cao trên
dưới 1000 m. Đỉnh cao nhất là Tam Đảo Bắc (ranh giới giữa 3 tỉnh) cao 1.592
m. Ba đỉnh núi nổi tiếng của Tam Đảo là Thiên Thị (1.375 m), Thạch Bàn
(1.388 m) và Phù Nghĩa (1.300 m). Chiều ngang của khối núi rộng 10 – 15
km, sườn rất dốc và chia cắt mạnh. Độ dốc bình quân từ 16o-35o, nhiều nơi
độ dốc trên 35o. Độ cao của núi giảm nhanh về phía Đông Bắc xuống lòng
chảo Đại Từ tạo nên những mái dông đứng. Hướng Đông Nam có xu hướng
giảm dần đến giáp địa phận Hà Nội [38].
3.1.2.2. Địa chất và thổ nhưỡng
Trong quá trình điều tra lập địa 4 loại đất chính ở Tam Đảo đã được
phát hiện là:
Đất Feralit mùn vàng nhạt phân bố ở độ cao trên 700 m.
Đất Feralit mùn vàng đỏ phân bố ở các sườn núi độ cao từ 400 – 700 m.
Đất Feralit đỏ vàng phát triển trên nhiều loại đá khác nhau như: Shale,
Mica, Phillite và đá cát. Phân bố ở độ cao từ 100 – 400 m.
Đất phù sa dốc tụ phân bố dưới chân núi và các thung lũng hẹp ven
sông suối lớn. Loại đất này có thành phần cơ giới trung bình, tầng dày, độ ẩm
cao, màu mỡ được sủ dụng để trồng lúa và các loại hoa màu [38].
3.1.3. Khí hậu thuỷ văn
3.1.3.1. Khí hậu
Tam Đảo nằm trong vùng khí hậu ẩm nhiệt đới mưa mùa. Điều kiện khí
tượng thuỷ văn ở mỗi khu vực là có sự khác biệt. Có thể coi trạm khí tượng
Tuyên Quang và Vĩnh Yên đặc trưng cho khí hậu sườn phía Tây, trạm Đại từ
đặc trưng cho sườn phía Đông, trạm Thị trấn Tam Đảo ở độ cao 900 m đặc


×