Lời mở đầu
Ngân hàng là một bộ phận của tổ chức tài chính trung gian với nhiệm
vụ là kênh chuyển vốn, dẫn vốn trong nền kinh tế. Trong đó, Ngân hàng th-
ơng mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, có vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển . Ngân hàng giúp
vốn trong nền kinh tế chu chuyển một cách trôi chảy, điều hoà giữa cung,
cầu về vốn. Do đó, mối quan hệ giữa Ngân hàng với các thành phần kinh tế,
các loại hình doanh nghiệp, với khách hàng rất gắn bó, có tác động qua lại t-
ơng hỗ lẫn nhau.
Từ khi đất nớc ta chuyển sang cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà
nớc thì cơ cấu, tổ chức hệ thống Ngân hàng Việt Nam cũng có sự thay đổi t-
ơng ứng và phù hợp. Bắt đầu từ quyết định số 218/QĐ-CP của Chính phủ
năm 1987 cho đến Nghị định số 53/NĐ- CP năm 1988 đã đánh dấu một bớc
ngoặt lớn trong lịch sử phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam, hình
thành hệ thống Ngân hàng hai cấp và chuyển sang hoạt động hạch toán kinh
doanh. Các Ngân hàng đợc tự chủ tài chính, chủ động huy động vốn và cho
vay theo khuôn khổ pháp luật. Do đó, đã nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
trong nền kinh tế, đáp ứng một cách nhanh chóng kịp thời tình trạng thừa
thiếu vốn trong nền kinh tế với chi phí hợp lý. Sức cạnh tranh của Ngân hàng
nói riêng và của nền kinh tế nói chung ngày càng mạnh hơn, các quan hệ tài
chính đợc lành mạnh hoá.
Nh vậy, quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và khách hàng (đặc biệt là các
Doanh nghiệp) ngày càng gắn bó, tơng tác lẫn nhau. Doanh nghiệp không trả
đợc nợ đến hạn, doanh thu của Ngân hàng giảm , ảnh hởng đến việc cho
doanh nghiệp khác vay vốn, ảnh hởng đến sự tồn tại của Ngân hàng. Để tránh
đợc rủi ro tín dụng này, trong quá trình thẩm định cho vay, Ngân hàng cần
1
nâng cao chất lợng trong khâu phân tích đánh giá tài chính đối với doanh
nghiệp vay vốn tại Ngân hàng khâu quyết định xem doanh nghiệp có đủ
điều kiện vay vốn của Ngân hàng hay không .
Qua quá trình học tập, nghiên cứu và thực tập tại Chi nhánh NHNo & PTNT
Nam Hà Nội, em chọn đề tài: Giải pháp nâng cao chất lợng phân tích tài
chính đối với doanh nghiệp vay vốn tại Chi nhánh NHNo &PTNT Nam
Hà Nội làm Luận văn Tốt nghiệp của mình.
Kết cấu của Luận Văn nh sau:
Ch ơng I : Lý luận chung về Tín Dụng Ngân hàng và chất lợng phân tích
tài chính đối với doanh nghiệp vay vốn.
Ch ơng II : Thực trạng hoạt động phân tích tài chính đối với doanh nghiệp
vay vốn tại Chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội.
Ch ơng III : Giải pháp nâng cao chất lợng phân tích tài chính đối với doanh
nghiệp vay vốn tại NHNo & PTNT Nam Hà Nội.
Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu, em xin đa ra một vài đóng góp
nhỏ góp phần hoàn thiện công tác phân tích tài chính doanh nghiệp tại Chi
nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội đối với doanh nghiệp vay vốn.Vì trình độ
kiến thức còn nhiều hạn chế, bài viết không thể tránh đợc những thiếu sót,
em rất mong đợc sự đóng góp của các thầy cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn TS. Vũ Duy Hào đã tận tình hớng dẫn và
chỉ bảo em trong suốt quá trình viết Luận Văn Tốt nghiệp. Em xin cảm ơn
các cán bộ trong Chi nhánh, đặc biệt là các cô chú cán bộ của phòng Kế
hoạch- Kinh doanh đã hết sức nhiệt tình tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá
trình thực tập và hoàn thành bài viết này.
Hà Nội, năm 2002.
2
Ch ơng I . lý luận chung về tín dụng ngân hàng và
chất lợng phân tích tài chính đối với doanh nghiệp
vay vốn
1.1 tổng quan về tín dụng ngân hàng
1.1.1 Khái niệm về Ngân hàng Thơng mại:
Thuật ngữ Ngân hàng đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử, gần 3500
năm trớc Công nguyên trở về trớc, từ khi xuất hiện xã hội loài ngời, chính
nhu cầu phát triển của xã hội và nền kinh tế đã thúc đẩy hoạt động Ngân
hàng không ngừng phát triển từ mức thô sơ cho đến đa dạng và phức tạp nh
ngày nay. Mỗi thời kỳ phát triển của xã hội loài ngòi, hoạt động của Ngân
hàng ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp, ở mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh
thổ, mỗi dân tộc khác nhau, luật pháp, tập quán khác nhau dẫn đến một cách
nhìn nhận và quan niệm về Ngân hàng Thơng mại là khác nhau. Do đó,
không có một định nghĩa chung cho các quốc gia về Ngân hàng Thơng mại.
Riêng ở Việt Nam, theo tinh thần Luật tổ chức tín dụng của Việt Nam: Ngân
hàng Thơng mại là tổ chức kinh tế hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ
Ngân hàng với nội dung thờng xuyên là nhận tiền gửi , sử dụng số tiền này để
cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Tuy nhiên, dù theo kiểu
cách nào thì chắc chắn: Ngân hàng thơng mại là tổ chức kinh tế hoạt động
kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ với hai nội dung chính: nhận tiền gửi và cho
vay. Đây cũng là điểm đặc trng để phân biệt Ngân hàng thơng mại với các
loại hình Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác .
Hoạt động của Ngân hàng bao gồm ba loại nghiệp vụ chính: nghiệp vụ nợ
(huy động vốn), nghiệp vụ có (cho vay kinh doanh) và nghiệp vụ môi giới
trung gian ( dịch vụ thanh toán, đại lý, t vấn, thông tin, giữ hộ chứng từ, vật
quý giá...). Ba loại nghiệp vụ này có mối quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ,
thúc đẩy nhau phát triển, tạo uy tín cho Ngân hàng. Có huy động đợc vốn thì
3
mới có nguồn vốn cho vay; chỉ cho vay có hiệu quả thúc đẩy phát triển kinh
tế thì mới có nguồn vốn để huy động vào; đồng thời muốn cho vay và huy
động vốn tốt thì Ngân hàng phải làm tốt nghiệp vụ môi giới trung gian; ngợc
lại, nghiệp vụ môi giới trung gian tốt sẽ tạo việc thu hút nguồn vốn huy động
vào và có thể cho vay ra. Do đó cho vay thế nào để có hiệu quả nhất đối với
ngời đi vay và với Ngân hàng cho vay là một trong những vấn đề cơ bản nhất
của Ngân hàng hiện nay, đó luôn là vấn đề làm đau đầu các cán bộ Ngân
hàng trong việc tìm ra phơng pháp giải quyết cho mỗi thời kỳ khác nhau, mỗi
quốc gia khác nhau.
1.1.2 Tín dụng Ngân hàng:
Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt của Ngân hàng Thong mại
để tạo ra lợi nhuận. Kinh tế càng phát triển, lực lợng cho vay của các Ngân
hàng Thơng mại càng tăng nhanh, loại hình và cách thức cho vay cũng trở
nên vô cùng đa dạng. Hiện nay, ở những nớc đang phát triển, khi một Ngân
hàng đợc thành lập và đi vào hoạt động, mối quan tâm chính và thờng xuyên
của nó là sẽ cho ai vay và sẽ đầu t vào đâu, cho vay ngắn hạn vẫn chiếm bộ
phận lớn hơn cho vay dài hạn. Ngợc lại, ở những nớc đã phát triển, vấn đề đặt
ra ở những nớc này là lợi tức có cao không và an toàn không.
Cho vay của Ngân hàng Thơng mại, nói rộng ra là Tín dụng của Ngân
hàng Thơng mại, là một lĩnh vực phức tạp và thờng xuyên phải cập nhật theo
những biến chuyển của môi trờng kinh tế. Do đó, tìm hiểu thêm về lĩnh vực
này, ta cần biết thêm khái niệm về Tín dụng.
Danh từ Tín dụng để chỉ một hành vi kinh tế rất phức tạp, nh: bán chịu
hàng hoá, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, ký thác, phát hành giấy bạc. Nhà
kinh tế Pháp, ông Luis Baundin, đã định nghĩa tín dụng nh là một sự trao
đổi tài hoá hiện tại lấy một tài hoá tơng lai, nh vậy yếu tố thời gian đã xen
lẫn vào nên có thể có sự bất trắc rủi ro xảy ra nên cần có sự tín nhiệm của hai
bên đơng sự đối với nhau, hai bên đơng sự dựa vào sự tín nhiệm, sử dụng sự
4
tín nhiệm của nhau nên mới có danh từ Tín dụng. Những hành vi tín dụng
có thể do bất cứ ai, chẳng hạn hai ngời thờng có thể cho nhau vay tiền. Tuy
nhiên, với thời gian, chúng ta thấy có một sự chuyên nghiệp đã xảy ra và
ngày nay, khi nói tới Tín dụng, ngời ta nghĩ ngay tới các Ngân hàng.
Tóm lại, Tín dụng Ngân hàng có thể hiểu cơ bản là việc Ngân hàng tin
tởng nhờng quyền sử dụng vốn cho khách hàng trong một khoảng thời gian
nhất định và kết thúc thời gian đó, Ngân hàng sẽ thu về cả vốn lẫn lãi. Đặc tr-
ng của tín dụng là lòng tin, tính thời hạn và tính hoàn trả. Chính nhờ hoạt
động này mà Ngân hàng trang trải đợc mọi chi phí phát sinh và là nguồn thu
chủ yếu của Ngân hàng. Tuy nhiên, song hành với lợi nhuận thu đợc là độ rủi
ro cao. Vì vậy, chất lợng của hoạt động là nhân tố quyết định tới sự tồn tại và
phát triển của Ngân hàng. Để tăng trởng và phát triển, quy mô của hoạt động
cho vay mới chỉ là điều kiện cần, còn điều kiện đủ chính là chất lợng của
hoạt động này.
1.2 Vai trò của công tác phân tích tài chính khi cho vay của
Ngân hàng thơng mại:
Phân tích tài chính là một tập hợp các khái niệm, phơng pháp và công
cụ cho phép thu thập và xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác
trong quản lý Doanh nghiệp, nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng và
tiềm lực của Doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ, chất lợng và hiệu quả
hoạt động của Doanh nghiệp đó. Bất kỳ một Doanh nghiệp nào khi đợc thành
lập và đi vào hoạt động đều phải thành lập sổ sách kế toán và các loại sổ sách
khác. Những sổ sách này phản ánh tình hình hoạt động mọi mặt của Doanh
nghiệp, vấn đề là ngời sử dụng sổ sách đó phải khai thác thế nào, ở góc độ
nào, khía cạnh nào để phục vụ cho hoạt động, công tác, cơng vị của mỗi ng-
ời. Tức là có phân tích tài chính doanh nghiệp mới thấy hết vai trò ý nghĩa
của nó.
5
Trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của
Nhà nớc, các Doanh nghiệp thuộc loại hình sở hữu khác nhau đều bình đẳng
trớc pháp luật trong việc lựa chọn lĩnh vực, nghành nghề kinh doanh, mỗi
Doanh nghiệp khi kinh doanh đều có quan hệ với nhiều đối tợng khác nhau
nh: nhà cung cấp, nhà tiêu thụ, Ngân hàng, Nhà nớc, các nhà quản lý, những
ngời lao động. Do đó, mỗi đối tợng đó sẽ quan tâm tới tình hình tài chính của
doanh nghiệp trên các góc độ khác nhau, sẽ tập trung vào những khía cạnh
riêng trong bức tranh tài chính của một Công ty. Mặc dù vậy, họ vẫn có cái
chung là thờng sử dụng các công cụ và kỹ thuật cơ bản là giống nhau để phân
tích báo cáo tài chính. Đối với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh
nghiệp, mối quan tâm hàng đầu của họ là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả
nợ, bởi vì có lợi nhuận thì Doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển, khả
năng trả nợ tốt thì Doanh nghiệp mới có khả năng cạnh tranh trên thơng tr-
ờng ở cả đầu ra và đầu vào, tức là phải có tiềm lực tài chính đủ mạnh. Các
chủ Doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp trong nghĩa vụ và quyền
hạn của mình, họ cần quan tâm tới đảm bảo đủ nguồn tài chính cho Doanh
nghiệp bằng cách huy động mọi nguồn vốn bên trong và bên ngoài, đảm bảo
cho tiền tệ đuợc đầu t vào sản xuất kinh doanh một cách hợp lý nhất, hiệu
quả nhất, tiết kiệm nhất.
Đối với các nhà cung cấp vật t, thiết bị, hàng hoá, dịch vụ, họ phải
quyết định xem sắp tới có cho khách hàng đợc mua chịu hàng, thanh toán
chậm hay không, bởi vì nếu khả năng thanh toán hiện tại và tơng lai, tiềm lực
tài chính của Doanh nghiệp không đủ mạnh thì dẫn đến nợ thơng mại của
Doanh nghiệp đối với Doanh nghiệp khác lên cao thì không có khả năng trả
nợ.
Đối với các nhà đầu t, mối quan tâm của họ hớng vào các yếu tố nh: sự
rủi ro, thời gian hoàn vốn, mức sinh lãi, khả năng thanh toán vốn... Vì vậy,
họ cần những thông tin về điều kiện tài chính, tình hình hoạt động, kết quả
kinh doanh và các tiềm năng tăng trởng của doanh nghiệp. Đồng thời, các
6
nhà đầu t cũng rất quan tâm tới việc điều hành hoạt động và tính hiệu quả của
công tác quản lý. Những điều đó nhằm đảm bảo sự an toàn và tính hiệu quả
cho các nhà đầu t.
Ngoài ra, các cơ quan tài chính khác nh cơ quan thuế, thống kê, cơ
quan chủ quản, các nhà phân tích tài chính, những ngời lao động...Những
nhóm ngời này có nhu cầu thông tin về cơ bản giống nh các chủ Ngân hàng,
các nhà đầu t, các chủ doanh nghiệp...bởi vì nó liên quan đến quyền lợi và
trách nhiệm, đến khách hàng hiện tại và tơng lai của họ.
Đặc biệt với các chủ Ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, mối quan
tâm của họ chủ yếu hớng vào khả năng trả nợ của Doanh nghiệp . Phân tích
tài chính Doanh nghiệp là một khâu quan trọng trong quy trình thẩm định
cho vay của Ngân hàng. Mục đích của công tác phân tích này giúp Ngân
hàng có thể nhìn nhận một cách lôgic tình hình sản xuất kinh doanh của
Doanh nghiệp trong quá khứ, hiện tại và xu hớng phát triển trong tơng lai.
Qua phân tích tài chính Doanh nghiệp, Ngân hàng trả lời các câu hỏi:
- Doanh nghiệp có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn hay không?
- Khả năng tự chủ tài chính cũng nh khả năng sử dụng nợ vay của Doanh
nghiệp đến mức độ nào?
- Mức doanh thu Doanh nghiệp thực hiện so với số đầu t về các tài sản lu
động và cố định của nó?
- Doanh nghiệp đạt đợc mức lợi nhuận là bao nhiêu và mức lợi nhuận đó có
thể giảm bao nhiêu trớc khả năng không thể đáp ứng đợc các chi phí cố
định?
- Nếu Doanh nghiệp thua lỗ, các tài sản sẽ mất giá bao nhiêu so với con số
trong bảng tổng kết tài sản trớc khi các chủ nợ đợc Bảo hiểm chấp nhận
thiệt hại?
Bên cạnh đó, thông qua việc phân tích tài chính Doanh nghiệp, Ngân hàng có
thể t vấn kịp thời cho các Doanh nghiệp về quyết định tài chính nhằm tháo gỡ
khó khăn, ổn định và phát triển Doanh nghiệp. Phân tích, đánh giá tài chính
7
Doanh nghiệp trong Ngân hàng góp phần kiểm tra lại tính trung thực của
kiểm tra tài chính nội bộ. Từ đó, chủ doanh nghiệp có cái nhìn khách quan
hơn về nội lực Doanh nghiệp mình. Nh vậy, phân tích tài chính doanh nghiệp
có thể đánh giá đợc rủi ro của Doanh nghiệp, đặc biệt là rủi ro về khả năng
thanh toán ở hiện tại và tơng lai, và quyết định cho Doanh nghiệp có nên vay
không và mức độ tủi ro mà Ngân hàng gánh chịu khi chấp nhận cho Doanh
nghiệp vay , cho vay với số lợng là bao nhiêu. Có thể đa ra những nhận định
tinh tế hơn nh mục đích vay vốn của doanh nghiệp có thực sự trung thực
không( thông qua phân tích nhu cầu vốn và khả năng vốn hiện tại của doanh
nghiệp). Phân tích tài chính không chỉ giúp Ngân hàng đa ra những quyết
định đúng đắn khi tiến hành xét duyệt các khoản cho vay mà còn trong cả
quá trình cho vay. Trong thời hạn cho vay, Doanh nghiệp vẫn có nghĩa vụ
cung cấp cho Ngân hàng các báo cáo tài chính, các thông tin về tình hình tài
chính của mình, qua đó, Ngân hàng có thể phát hiện những dấu hiệu xấu về
tình hình tài chính của doanh nghiệp đó và thu hồi các khoản vay trớc hạn.
Ngoài ra còn giúp Ngân hàng xây dựng kế hoạch cho vay, trên cơ sở đánh giá
thực trạng sản xuất kinh doanh và tài chính của mỗi doanh nghiệp, Ngân
hàng có thể đánh giá nhu cầu vốn ngắn hạn, trung và dài hạn... Từ đó có
chiến lợc huy động vốn phù hợp, tránh lãng phí và đạt hiệu quả cao nhất.
Đồng thời, Ngân hàng có thể biết đợc xu hớng phát triển của từng giai đoạn,
từng lĩnh vực kinh tế, lập kế hoạch cung cấp tín dụng hớng vào lĩnh vực có
khả năng phát triển mạnh trong tơng lai. Xây dựng kế hoạch tín dụng phù
hợp sẽ giúp Ngân hàng nâng cao hiệu quả cho vay, đem lại lợi nhuận cao
cũng nh góp phần thực hiện chính sách phát triển kinh tế của Nhà nớc.
1.3 Nội dung công tác phân tích tài chính đối với doanh
nghiệp vay vốn
1.3.1 Các thông tin đợc sử dụng trong phân tích tài chính
doanh nghiệp vay vốn:
8
Các báo cáo tài chính phản ánh một cách hệ thống tình hình tài sản
của đơn vị tại những thời điểm khác nhau, kết quả hoạt động kinh doanh và
tinh hình sử dụng vốn trong những thời kỳ nhất định, Đồng thời đợc giải
trình, giúp cho các đối tợng sử dụng thông tin tài chính nhận biết đợc thực
trạng tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị để ra các quyết định
phù hợp.
* Bảng cân đối kế toán :
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính tổng hợp, mô tả thực
trạng tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm nào đó. Kết cấu của
bảng đợc chia làm hai phần: phần tài sản phản ánh toàn bộ tài sản hiện có
đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyên sở hữu và sử dụng của doanh nghiệp.
Bên nguồn vốn phản ánh nguồn hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp
đến thời điểm lập báo cáo.
Bảng cân đối tài sản là một t liệu quan trọng bậc nhất giúp các nhà
phân tích đánh giá đợc tổng quát tình hình tài chính, khả năng thanh toán, cơ
cấu vốn và trình độ sử dụng vốn của doanh nghiệp.
* Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh:
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là báo cáo tổng hợp cho biết
tình hình tài chính và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp tại những thời kỳ nhất định. Nó cung cấp các thông tin tổng hợp về
tình hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về sử dụng vốn, lao động, kỹ
thuật và trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời,
nó cũng giúp nhà phân tích so sánh đợc doanh thu và số tiền thực nhập quỹ
khi bán hàng, dịch vụ với tổng chi phí phát sinh và số tiền thực xuất quỹ để
vận hành Doanh nghiệp. Ngoài ra, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh còn
cho biết tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nớc của Doanh nghiệp đó.
*Báo cáo l u chuyển tiền tệ :
Báo cáo lu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh việc
hình thành và sử dụng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp.
9
Báo cáo lu chuyển tiền tệ cung cấp các thông tin giúp ngời sử dụng
đánh giá khả năng tạo tiền của doanh nghiệp, đánh giá khả năng thanh toán
của doanh nghiệp, phân tích mối quan hệ giữa lợi tức ròng và lu chuyển tiền
tệ ròng, dự đoán trong tơng lai lợng tiền mang lại từ các hoạt động của
Doanh nghiệp.
Báo cáo lu chuyển tiền tệ gồm 3 phần:
- Lu chuyển từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Lu chuyển tiền từ hoạt động đầu t.
- Lu chuyển tiền từ hoạt động tài chính.
Có hai phơng pháp lu chuyển tiền tệ: phơng pháp trực tiếp và phơng
pháp gián tiếp, mỗi phơng pháp có u điểm riêng.
* Thuyết minh báo cáo tài chính:
Thuyết minh báo cáo tài chính đợc lập nhằm cung cấp các thông tin về
tình hình sản xuất, kinh doanh cha có trong hệ thống các báo cáo tài chính,
đồng thời, giải thích thêm một số chỉ tiêu mà trong các báo cáo tài chính cha
đợc trình bày, giải thích rõ ràng, cụ thể nh các thông tin về đặc điểm hoạt
động của doanh nghiệp , chế độ kế toán áp dụng, tình hình và lý do biến
động một số tài sản và nguồn vốn quan trọng...
* Các thông tin khác liên quan đến tình hình tài chính của Doanh nghiệp.
1.3.2. Các phơng pháp đợc sử dụng trong phân tích tài chính:
Phơng pháp phân tích tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ và
biện pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tợng, các mối quan hệ
bên trong và bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ
tiêu tài chính tổng hợp và chi tiết nhằm đánh giá tình hình tài chính doanh
nghiệp.
10
Về lý thuyết, có nhiều phơng pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
nhng trên thực tế, ngời ta thờng sử dụng phơng pháp so sánh và phơng pháp tỉ
lệ.
* Ph ơng pháp so sánh :
Để áp dụng phơng pháp so sánh cần đảm bảo tính có thể so sánh đợc của
các chỉ tiêu tài chính ( thống nhất về không gian, thời gian, nội dung, tính
chính xác và đơn vị tính toán...) và theo mục đích phân tích mà xác định gốc
so sánh. Gốc so sánh đợc chọn là gốc thời gian và không gian, kỳ phân tích
đợc chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể đợc lựa chọn
bằng số tuyệt đối, số tơng đối hoặc số bình quân. Nội dung so sánh gồm:
- So sánh giữa số thực hiện kỳ này và số thực hiện kỳ trớc để thấy rõ xu h-
ớng thay đổi về tài chính doanh nghiệp.
- So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy mức độ phấn đấu của
Doanh nghiệp.
- So sánh giữa số liệu của Doanh nghiệp với số liệu của nghành, của các
Doanh nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính của Doanh nghiệp
mình đang phân tích tốt hay xấu, đợc hay cha đợc.
- So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng
thể, so sánh chiều ngang của nhiều kỳ để thấy đợc sự biến đổi cả về số l-
ợng tuyệt đối và số tơng đối của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế
toán liên tiếp.
* Ph ơng pháp tỷ lệ :
Phơng pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lợng tài
chính trong các quan hệ tài chính. Sự biến đổi các tỷ lệ cố nhiên là sự biến
đổi các đại lợng tài chính . Về nguyên tắc, phơng pháp tỷ lệ yêu cầu phải xác
định đợc các ngỡng, các định mức, để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính
tài chính doanh nghiệp, trên cơ sở so sánh các tỷ lệ doanh nghiệp với giá trị
các tỷ lệ tham chiếu.
11
Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính đựơc phân
thành các nhóm đặc trng , phản ánh những nội dung cơ bản theo các mục tiêu
hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán,
nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn và nguồn vốn, nhóm tỷ lệ về năng lực hoạt động
kinh doanh, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời.
Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao gồm nhiều tỷ lệ phản ánh riêng lẻ, từng bộ
phận của hoạt động tài chính trong mỗi trờng hợp khác nhau, tuỳ theo giác
độ phân tích, nguời phân tích lựa chọn các nhóm chỉ tiêu khác nhau để phục
vụ mục tiêu phân tích tài chính của mình.
1.3.3. Nội dung công tác phân tích tài chính đối với Doanh
nghiệp vay vốn :
Khi Doanh nghiệp vay vốn, điều mà Ngân hàng quan tâm nhất là khả
năng thanh toán và trả nợ của khách hàng (DN) vay vốn. Do đó, khi phân tích
tài chính, Ngân hàng quan tâm nhiều hơn tới việc đánh giá rủi ro thanh toán
của Doanh nghiệp. Tức là phân tích các chỉ tiêu về khả năng thanh toán, cơ
cấu nợ, báo cáo lu chuyển tiền tệ cũng nh trạng thái tài chính của Doanh
nghiệp nhằm đánh giá rủi ro trong tơng lai. Do đó Ngân hàng đặc biệt quan
tâm tới việc phân tích khái quát một số chỉ tiêu tài chính trung gian và cuối
cùng trong báo cáo kết quả kinh doanh .
1.3.3.1. Phân tích các chỉ tiêu tài chính trong báo cáo kết quả kinh
doanh đối với Doanh nghiệp vay vốn tại Ngân hàng:
Mục tiêu của phân tích này là xác định, phân tích mối liên hệ và đặc
điểm các chỉ tiêu trong báo cáo kết quả kinh doanh, đồng thời so sánh chúng
qua một số niên độ kế toán liên tiếp và với số liệu trung bình của nghành
(nếu có) với các Doanh nghiệp khác. Từ đó mà đánh giá đợc một phần của xu
hớng giai đoạn tiếp theo của Doanh nghiệp, có thể giúp Ngân hàng tránh
12
đựơc những rủi ro không có khả năng thanh toán của Doanh nghiệp do xu h-
ớng hoạt động kinh doanh không tốt của Doanh nghiệp.
Các chỉ tiêu đã đợc chuẩn hoá trong mẫu bảng phân tích nh sau:
Chỉ tiêu
Năm N-1 Năm N Năm N/ Năm
N-1
Lọng Tỷ
trọng
Lợng Tỷ
trọng
Lợng Tỷ
trọng
1.Doanh thu thuần
2.Giá vốn hàng bán
Trong đó:KHTSCĐ
3.Lãi gộp
4.Chi phí bán hàng và
quản lý
Trong đó:- KHTSCĐ
-Lãi vay
5. Lãi trớc thuế và lợi
tức vay
6.Lãi trớc thuế
-Thuế( TNDN)
7.Lãi sau thuế
8.Lãi không chia
* Nhóm chỉ tiêu về tình hình tài chính và khả năng thanh toán:
Đây là nhóm chỉ tiêu mà không riêng gì Ngân hàng mà rất nhiều đối tợng
khác quan tâm tới, bất kỳ đối tợng nào có liên quan đến Doanh nghiệp nh:
các nhà đầu t, các cán bộ công nhân viên... Phân tích tình hình thanh toán của
Doanh nghiệp đối với các khoản nợ trớc đây rất quan trọng vì nó phản ánh đ-
ợc phần nào mức độ tín nhiệm hay sự sẵn sàng chi trả của Doanh nghiệp
trong việc thực hiện các nghĩa vụ nợ và khả năng tài chính của nó. Một
13
Doanh nghiệp có lịch sử thanh toán lành mạnh, sòng phẳng sẽ an toàn hơn
một Doanh nghiệp luôn có nợ khó đòi hay quá hạn. Nếu có nợ khó đòi, nợ
quá hạn thì nguyên nhân khách quan hay chủ quan, bất khả kháng hay
không.
- Chỉ tiêu khả năng thanh toán ngắn hạn:
Tài sản lu động
Hệ số thanh toán ngắn hạn =
Nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này là thớc đo khả năng có thể trả nợ của doanh nghiệp bằng
cách chuyển đổi những tài sản lu động thành tiền trong thời kỳ phù hợp với
thời kỳ trả nợ.
Nợ đến hạn bao gồm các khoản trung và dài hạn. Tài sản lu động bao
gồm tiền, chứng khoán dễ chuyển nhợng, các khoản phải thu và dự trữ. Cả tài
sản lu động và nợ ngắn hạn đều có thời hạn dới 1 năm. Chỉ tiêu này càng lớn
chứng tỏ khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng cao hay trong ngắn hạn
hạn tài sản lu động có thể chuyển đổi để trả các khoản nợ quá hạn. Về mặt lý
thuyết, chỉ tiêu này bắt buộc lớn hơn 1. Nếu nhỏ hơn 1 chứng tỏ vốn lu động
ròng của doanh nghiệp là âm và có nghĩa là doanh nghiệp đã dùng nợ ngắn
hạn dể tài trợ một phần cho tài sản cố định.
- Chỉ tiêu khả năng thanh toán nhanh:
Vốn bằng tiền + Các khoản phải thu
Hệ số thanh toán nhanh =
Nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này có u điểm hơn chỉ tiêu ở trên là đã loại đợc sự ảnh hởng của
hàng hoá tồn kho ( phần dự trữ) đến khả năng thanh toán sao cho nhanh hơn
của tài sản lu động, bởi vì, nếu cơ cấu hàng hóa tồn kho trong tổng tài sản lu
động lớn thì sẽ làm cho hệ số thanh toán ngắn hạn lớn nhng không ảnh hởng
gì đến hệ số thanh toán nhanh, vì thanh toán nhanh cần ít thời gian hơn thanh
toán ngắn hạn, thanh toán ngắn hạn cần có việc chuyển đổi của hàng hoá tồn
14
kho mà thời gian của việc chuyển đổi này nhanh hay chậm lại còn tuỳ thuộc
vào từng nghành nghề, hàng hoá và lĩnh vực kinh doanh.
- Chỉ tiêu khả năng thanh toán tức thời:
Vốn bằng tiền
Hệ số thanh toán tức thời =
Nợ đến hạn
Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán ngay tức thì của doanh nghiệp
bằng nguồn vốn bằng tiền, không bị chi phối bởi thời gian chuyển đổi của
hàng hoá tồn kho và các khoản phải thu. Về mặt lý thuyết, hệ số này lớn hơn
0,5 là dấu hiệu tốt. Nếu quá lớn tức là vốn bằng tiền của doanh nghiệp để lại
quá lớn, chi phí cho việc lu trữ, ghi chép, kiểm đếm, phân loại khá lớn, mặt
khác lại không sinh lợi cho nên cũng không phải là càng lớn càng tốt. Cũng
nh vậy với hệ số thanh toán ngắn hạn và hệ số thanh toán nhanh, không hẳn
là càng cao càng tốt, chỉ vừa hợp lý sao cho tơng ứng với các khoản nợ ngắn
hạn để không gây ra hiện tợng d thừa nguồn lực, hiệu quả tài sản lu động
kém hay tài sản lu động quay vòng kém là không sinh lợi.
* Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tài chính:
Tổng nợ phải trả
- Hệ số nợ tổng tài sản =
Tổng tài sản
Tổng nợ phải trả
- Hệ số nợ vốn cổ phần =
Tổng vốn chủ sở hữu
Nhóm chỉ tiêu này để đo lờng phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh nghiệp
so với nợ vay. Chủ nợ a thích một hệ số nợ vừa phải, hệ số nợ càng thấp, hệ
số an toàn càng cao, món nợ của họ càng đợc đảm bảo và họ có cơ sở để tin
vào sự đáo nợ đúng hạn của con nợ. Khi hệ số nợ cao tức là chủ doanh
15
nghiệp chỉ góp một phần nhỏ trên tổng số vốn, thì rủi ro trong kinh doanh
chủ yếu chuyển sang cho chủ nợ gánh chịu, nhng bằng cách tăng vốn thông
qua vay nợ, các chủ nợ vẫn nắm đợc quyền kiểm soát và điều hành doanh
nghiệp. Tuy nhiên,vấn đề giữa vốn vay và vốn góp với cơ cấu nh thế nào còn
rất nhiều phức tạp, nó còn ảnh hởng đến quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên
tùy từng thời kỳ và đối với từng doanh nghiệp.
Lợi nhuận trớc thuế + Lãi vay
- Hệ số khả năng thanh toán lãi =
Lãi vay
Đây là chỉ tiêu đợc Ngân hàng quan tâm nh là một dhỉ tiêu khả năng thanh
toán lãi vay bằng kết quả hoạt động kinh doanh. Nếu lãi vay mà không trả đ-
ợc thì nợ gốc càng khó trả hơn.
Tài sản cố định hoặc tài sản lu động
- Hệ số cơ cấu tài sản =
Tổng tài sản
Hệ số này còn tuỳ thuộc vào từng nghành nghề, lĩnh vực và từng doanh
mghiệp vì có những nghành nghề kinh doanh quay vòng nhanh , tài sản lu
động cần nhiều, nhng có những nghành nghề thì tài sản cố định lại chiếm
phấn lớn nh mày móc, trang thiết bị, công nghệ, đặc biệt ngày nay tài sản cố
định vô hình chiếm tơng đối lớn.
Tổng vốn chủ sở hữu
- Hệ số cơ cấu nguồn vốn =
Tổng nguồn vốn
Hệ số này nói chung tốt nhất bằng 0,5 vì nếu nhỏ hơn thì vốn chủ sở hữu
chiếm rất ít, năng lực tài chính yếu, khả năng cạnh tranh thu hút vốn vay, vốn
đầu t thấp, khả năng rủi ro tơng đối cao.
* Nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động:
16
Tổng nợ phải trả
- Hệ số nợ tổng =
Tổng tài sản
Giá vốn hàng bán
- Vòng quay hàng tồn kho =
Hàng tồn kho
Hệ số này cho thấy lợng hàng hoá tồn kho có lâu hay không, có quay vòng
nhanh hay không. Bất kỳ doanh nghiệp nào khi đi vào hoạt động sản xuất
kinh doanh đều tất yếu có hàng hoá tồn kho , tuy nhiên số lợng nhiều hay ít
và hàng tồn kho quay vòng nhanh hay chậm còn tuỳ thuộc vào rất nhiều yếu
tố khách quan khác nhau nh: lĩnh vực kinh doanh, quy mô kinh doanh...
Doanh thu thuần
- Vòng quay vốn lu động =
Tài sản lu động
Doanh thu thuần
- Hiệu suất sử dụng TSCĐ =
Tổng tài sản cố định
Chỉ tiêu này cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, song hai chỉ tiêu
này phản ánh rất rõ tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu
quả hay không. Nếu sản xuất kém hiệu quả, vòng quay vốn lu động nhỏ,
doanh thu thuần, lãi thuần trong một kỳ kinh doanh thấp kéo theo nhiều chỉ
tiêu khác kém đi nh: nhóm chỉ tiêu về lợi nhuận, có những trờng hợp bị lỗ, tài
sản cố định còn trích khấu hao không đủ dẫn đến việc đầu t cho trang bị cho
tài sản cố định kém, hậu quả kéo theo là tiếp tục sản xuất kinh doanh kém tạo
ra vòng xoáy liên tiếp.
Doanh thu thuần
- Hiệu suất sử dụng tổng tài sản =
Tổng tài sản
Các khoản phải thu
17
- Kỳ thu tiền bình quân =
Doanh thu bình quân một ngày
Nếu kỳ thu tiền bình quân lớn do các khoản phải thu nhiều chứng tỏ
doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn hoặc do doanh nghiệp thu tiền bình quân
một ngày nhỏ, chứng tỏ sự tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp kém. Những
điều trên đều tác động tới khả năng thu hồi vốn của Ngân hàng.
* Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lợi :
Đây là nhóm chỉ tiêu phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất kinh
doanh và hiệu năng quản lý của Doanh nghiệp.
- Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lợi :
Lợi nhuận sau thuế
+ Hệ số sinh lợi doanh thu =
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng doanh thu đợc bao nhiêu đồng lợi
nhuận ròng. Tất nhiên hệ số này càng cao càng tốt nhng còn phụ thuộc rất
nhiều vào tỷ lệ thuế thu nhập doanh nghiệp của mỗi nớc và doanh thu thuần.
Nếu doanh thu thuần lớn do giá bán tăng cao thì sự bền vững và khả năng
cạnh tranh của sản phẩm là kém, nhng nếu hệ số cao vì doanh thu quá thấp
nói lên việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp kém hiệu quả.
Lợi nhuận trớc thuế + Tiền lãi phải trả
+ Hệ số sinh lợi của tài sản =
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh trớc khi phân chia
cho chủ sở hữu và chủ nợ. Nó xem xét một đồng tài sản tạo ra bao nhiêu
đồng lợi nhuận trớc thuế và lãi phải trả. Qua phân tích hệ số này, Ngân hàng
có thể thấy đợc hiệu quả của việc đầu t vào tài sản ở Doanh nghiệp.
18
Lợi nhuận sau thuế
+ Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu =
Vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu này đặc biệt quan trọng đối với những ngời muốn tham gia góp vốn
nhằm chia sẻ quyền sở hữu doanh nghiệp và với những ngời đang sở hữu
Doanh nghiệp.
- Nhóm chỉ tiêu về phân phối lợi nhuận:
Lợi nhuận sau thuế
+ Thu nhập cổ phần =
Số lợng cổ phiếu thờng
Lợi nhuận đem chia
+ Cổ tức =
Số lợng cổ phiếu thờng
Cổ tức Lãi đem chia
+ Tỷ lệ trả cổ tức = =
Thu nhập cổ phiếu Lãi sau thuế
Riêng nhóm chỉ tiêu này dành riêng cho công ty cổ phần.Nó cho biết tình
hình phân phối lợi nhuận( kết quả cuối cùng của hoạt động kinh doanh ) có
phù hợp hay không đối với doanh nghiệp trong tình trạng hiện nay, nếu
khộng phù hợp sẽ gây ra ảnh hởng gì không tốt đối với hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp. Về phía các cổ đông, đây là những chỉ tiêu rất đáng chú ý
và nó ảnh hởng đến quyền lợi riêng của họ.
1.3.3.2. Phân tích rủi ro kinh doanh:
Phân tích rủi ro kinh doanh đặc biệt quan trọng khi Ngân hàng cho
Doanh nghiệp vay vốn trung, dài hạn. Trong trờng hợp này, Ngân hàng đã
19
cùng Doanh nghiệp gánh chịu rủi ro trong một thời gian dài nên việc làm này
là rất cần thiết.
* Phân tích điểm hoà vốn:
Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó, mức doanh thu vừa đủ trang trải mọi phí
tổn. Phân tích điểm hoà vốn sẽ cung cấp những thông tin cần thiết về lợng
sản phẩm tiêu thụ, doanh thu cần đạt đợc khi biết sản lợng và doanh thu hòa
vốn, chỉ ra ngỡng Doanh nghiệp không bị lỗ nhằm đạt đợc lợi nhuận mong
muốn.
Tổng chi phí bất biến
- Sản lợng hoà vốn =
Giá đơn vị sản phẩm Chi phí khả biến đơn vị
Để trực quan thuận tiện hơn cho quá trình đánh giá, ngời ta còn đa ra khái
niệm doanh thu hoà vốn
Doanh thu hoà vốn = Sản lợng hoà vốn * Giá đơn vị sản phẩm
Doanh thu hoà vốn
-Thời gian hoà vốn = *12 tháng
Tổng doanh thu
Thời gian hoà vốn cho biết thời gian cần thiết để có mức doanh thu đủ bù đắp
chi phí sản xuất.
Khi phân tích, so sánh điểm hoà vốn kỳ này với kỳ trớc, điểm hoà vốn càng
cao, mức độ an toàn trong kinh doanh càng thấp.
* Đòn bẩy hoạt động kinh doanh:
Phân tích điểm hoà vốn cũng cha thấy hết đợc tầm quan trọng của sự
thay đổi doanh số bán đối với lợi nhuận của Doanh nghiệp. Vì vậy, đòn bẩy
hoạt động sẽ cho ta biết mức độ chi phí cố định mà Doanh nghiệp sử dụng
cho hoạt động kinh doanh của nó, mà chi phí thì ảnh hởng tới lợi nhuận. Mức
độ đòn bẩy(DOL) là chỉ sự thay đổi theo tỷ lệ phần trăm của thu nhập trớc lãi
20
và thuế( EBIT) do sự thay đổi 1% doanh số bán. Nếu chi phí cố định trong
tổng chi phí càng cao thì cũng có nghĩa là mức độ đòn bẩy hoạt động của
doanh nghiệp càng cao và khi các nhân tố khác không đổi thì một thay đổi
nhỏ trong số lợng bán hàng sẽ dẫn đến một sự thay đổi trong thu nhập trớc
thuế và trả lãi vay.
Tỉ lệ phần trăm thay đổi của EBIT Q(P-V)
DOL = =
Tỉ lệ phần trăm thay đổi của ds bán Q(P-V)-F
Q: sản lợng P: Giá bán
V: Chi phí biến đổi F: Chi phí cố định
Tóm lại, một Doanh nghiệp ở tình hình mạo hiểm khi tình hình kinh
doanh ở gần điểm hoà vốn và hệ số đòn bẩy hoạt động cao vì khi đó lợi
nhuận trứơc thuế và lãi của doanh nghiệp rất nhạy cảm với sự thay đổi của
doanh số bán. Bất cứ một lý do nào về chính trị, kinh tế hay thị hiếu... có thể
làm lợi nhuận trớc thuế và lãi giảm mạnh. Do đó, ảnh hởng đến khả năng trả
nợ Ngân hàng, cho nên Ngân hàng vẫn thận trọng khi cho Doanh nghiệp vay
vốn.
1.3.3.3. Phân tích báo cáo lu chuyển tiền tệ:
Bằng việc phân tích báo cáo lu chuyển tiền tệ, Ngân hàng có thể dự
báo, ớc tính lợng tiền lu chuyển trong tơng lai, đánh giá chất lợng thu nhập
của Doanh nghiệp, đánh giá khả năng Doanh nghiệp duy trì một mức độ sản
xuất kinh doanh nhất định, đánh giá độ linh động tài chính và thanh khoản
của Doanh nghiệp. Nếu trong kỳ báo cáo, chủ doanh nghiệp tăng các khoản
phải trả và nợ vay ngắn hạn để tài trợ cho nhu cầu vốn kinh doanh thì sẽ là
gánh nặng lu chuyển tiền tệ trong kỳ tới. Ngợc lại, nếu hàng tồn kho kém
chất lợng, luân chuyển chậm thì tình trạng thanh khoản của Doanh nghiệp
trong kỳ tới sẽ gặp khó khăn, khả năng thanh toán nợ đến hạn khó, do đó
Ngân hàng có thể không cho vay hoặc không cho vay thêm.
21
Sức mạnh tài chính của một Doanh nghiệp đợc đánh gía bằng khả
năng tạo tiền từ hoạt động kinh doanh chứ không phải từ hoạt động đầu t hay
hoạt động tài chính, bởi vì:
- Lu chuyển tiền tệ thuần từ hoạt động đầu t >0 thể hiện đầu t của Doanh
nghiệp bị thu hẹp.
- Lu chuyển tiền tệ thuần từ hoạt động tài chính >0 thể hiện lợng cung ứng
từ bên ngoài ra tăng.
Trên cơ sở các thông tin lu chuyển tiền tệ từ doanh nghiệp, các Ngân hàng có
thể phát hiện đợc hiện tợng kinh doanh vợt quá khả năng vốn khi tiền vào từ
hoạt động kinh doanh không đủ bù đắp sự gia tăng tồn kho và các khoản phải
thu, kết quả là lu ngân ròng từ hoạt động kinh doanh <0. Tức là tình hình tài
chính đang xấu, Doanh nghiệp phải lệ thuộc vào nguồn tài trợ bên ngoài, tình
hình thanh khoản của Doanh nghiệp rất khó khăn.
Ngợc lại, lu chuyển tiền tệ ròng > 0 và đang tăng, Ngân hàng thấy
rằng Doanh nghiệp không thể huy động đủ vốn trong nội bộ để trả nợ gốc và
lãi vay. Tình hình vẫn khó khăn hơn khi Doanh nghiệp vẫn có nhu cầu mở
rộng sản xuất. Một Doanh nghiệp đang trong thời kỳ hng thịnh, phát triển, sự
gia tăng đầu t vào tài sản sẽ sử dụng phần lớn số tiền mà lẽ ra đợc dùng để trả
nợ vay. Những Doanh nghiệp ấy cần đợc nhận tài trợ từ bên ngoài, trờng hợp
này Ngân hàng nên đáp ứng nhu cầu vốn của Doanh nghiệp.
Trên đây là việc phân tích những mặt và chỉ tiêu chủ yếu khi xem xét ,
đánh gía tình hình tài chính của doanh nghiệp vay vốn, tuỳ vào từng điều
kiện hoàn cảnh cụ thể mà ngời ta tiến hành phân tích, xem xét chú trọng vào
chỉ tiêu nào để khai thác tình hình tài chính phục vụ cho mục đích của ngời
phân tích. Ngoài ra, còn rất nhiều chỉ tiêu khác, trong những trờng hợp cụ thể
khác nhau thì ngời phân tích sẽ sử dụng đến nó.
22
1.4 các nhân tố ảnh hởng tới hoạt động phân tích tài chính
doanh nghiệp vay vốn:
Chất lợng phân tích tài chính doanh nghiệp đợc hiểu là tính chính xác của
những đánh giá về tình hình tài chính một Doanh nghiệp, về rủi ro , mức độ
và chất lợng hiệu quả hoạt động của Doanh nghiệp và sự sát xao của các dự
báo tài chính. Vì vậy, có rất nhiều nhân tố khác nhau gây những ảnh hởng
trực tiếp cũng nh gián tiếp tới chất lợng phân tích tài chính của doanh nghiệp,
ở đây xin đợc phân chia theo 2 nhóm nhân tố chính : nhân tố chủ quan và
nhân tố khách quan. Mỗi nhân tố có mức độ tác động mạnh yếu khác nhau
theo những chiều hớng khác nhau nhng tổng hợp lại thì có tác động rất lớn
tới chất lợng phân tích tài chính doanh nghiệp.
1.4.1 Nhân tố chủ quan:
*Nhân tố con ng ời (Cán bộ tín dụng Ngân hàng):
Đó là trình độ nghiệp vụ, nhận thức, đạo đức, kinh nghiệm của cán bộ
phân tích trong suốt quá trình đánh giá tài chính doanh nghiệp. Mỗi ngời cán
bộ đều có kinh nghiệm thực tế, trình độ nghiệp vụ, nhận thức và hiểu biết
khác nhau, do đó, ngoài việc đánh giá phân tích tài chính doanh nghiệp theo
các bớc quy định chung của Luật thì có độ nhạy bén, sắc sảo khác nhau.
Những thế hệ đi trớc có kinh nghiệm thực tế rất nhiều nhng trì trệ, bảo thủ,
trình độ nghiệp vụ nếu không đợc bổ sung, cập nhật thờng xuyên thì sẽ
không theo kịp tốc độ phát triển, cách thức hiện tại. Thế hệ trẻ mặc dù kiến
thức, trình độ đợc cập nhật mới nhng nóng vội, thiếu kinh nghiệm thực tế.
Cha kể tới đạo đức nghề nghiệp, tính cách của mỗi cá nhân, tất cả những vấn
đề trên đều ảnh hởng rất lớn tới hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp.
* Chính sách tín dụng của Ngân hàng:
23
Thông qua các văn bản về quy trình nghiệp vụ mà Ngân hàng đề ra
trong phân tích tín dụng, chính sách Tín dụng của Ngân hàng trong từng thời
kỳ: mở rộng hay thu hẹp tín dụng. Trong thời kỳ Ngân hàng thu hẹp tín dụng,
nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp có thể kỹ hơn, phức tạp hơn, khó
khăn hơn, và ngợc lại, thời kỳ Ngân hàng mở rộng tín dụng thì quy trình,
điều kiện tín dụng nói chung và đánh giá phân tích tài chính nói riêng có thể
thông thoáng hơn, tất nhiên không sai phạm một khâu nào trong quy trình
phân tích, đánh giá đó.
1.4.2 Nhân tố khách quan:
* Bản thân doanh nghiệp vay vốn:
Các Doanh nghiệp vay vốn là những loại hình Doanh nghiệp khác nhau,
lĩnh vực ngành nghề kinh doanh khác nhau, quy mô hoạt động khác
nhau...đều ảnh hởng rất lớn tới chất lợng phân tích của Ngân hàng
- Lĩnh vực nghành nghề kinh doanh: với những nghành nghề khác nhau thì
đặc trng của từng nghành đó là khác nhau, cho nên đối với các chỉ tiêu tài
chính thì mỗi nghành cũng có những mức chuẩn khác nhau. Do đó, không
thể áp dụng chuẩn của nghành này vào nghành khác để phân tích hoạt
động kinh doanh. Chẳng hạn, đối với các Doanh nghiệp sản xuất, thì các
chỉ tiêu về khả năng hoạt động của tài sản cố định sẽ đợc đề cao, trong
khi đó, các Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ thơng mại thì
các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn lu động sẽ đợc quan tâm hơn.
- Loại hình doanh nghiệp: với các loại hình Doanh nghiệp khác nhau thì
mức độ phức tạp của các báo cáo tài chính khác nhau, do đó sẽ gây khó
dễ cho cán bộ tín dụng, ví dụ nh các DNNN so với các Công ty t nhân,
góc độ phân tích là khác nhau, các chỉ tiêu quan tâm đợc chú trọng cũng
khác nhau. Mặt khác, trong bản thân mỗi loại hình Doanh nghiệp, các
Doanh nghiệp khác nhau cũng có quy mô lớn nhỏ khác nhau, do đó các
24
báo cáo tài chính cũng có độ phức tạp khác nhau. Với những Doanh
nghiệp số liệu ít phức tạp, cán bộ tín dụng càng cần thiết phải sử dụng hết
số liệu, tìm mối liên quan và lời giải thích giữa các chỉ tiêu. Với Doanh
nghiệp có báo cáo tài chính nhiều thông số phức tạp thì điều quan trọng
hơn là bóc tách đợc những chỉ tiêu quan trọng, tìm đợc mối liên quan giữa
chúng và từ đó nêu bật đợc tình hình tài chính hiện tại của Doanh nghiệp.
- Thời hạn của khoản vay mà doanh nghiệp vay vốn đa ra:
Tuỳ từng thời hạn của khoản vay mà Ngân hàng sẽ chú trọng đến các khía
cạnh khác nhau của tình hình tài chính doanh nghiệp. Chẳng hạn, với các
khoản cho vay ngắn hạn, các chỉ tiêu về khả năng thanh toán, cơ cấu vốn
cũng nh các nguồn có thể đáp ứng cho việc trả nợ trong ngắn hạn sẽ đợc
Ngân hàng quan tâm hơn, vì nó ảnh hởng tới khả năng trả nợ của Doanh
nghiệp. Trong khi đó, với các khoản cho vay trung và dài hạn, thì Ngân hàng
lại đề cao các chỉ tiêu về khả năng sinh lợi và hiệu quả hoạt động của Doanh
nghiệp, vì trong dài hạn chính lợi nhuận và sự vững mạnh về tài chính mới là
yếu tố đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của Doanh nghiệp.
- Hình thức bảo đảm khoản vay:
Những khoản vay đợc bảo đảm bằng những hình thức chắc chắn thì một phần
công việc thẩm định, đánh giá sẽ nhẹ hơn ở một số nội dung nhất định, còn
nếu vay không có bảo đảm thì phải tuân thủ một số quy định rất chặt chẽ.
Giả sử những khoản vay mà đợc thế chấp bằng tài sản của Doanh nghiệp thì
cần phải phân tích kỹ giá trị, khả năng chuyển đổi của tài sản thế chấp nói
riêng cũng nh của từng tài sản Doanh nghiệp sở hữu.
* Độ chính xác của các báo cáo tài chính :
Đây là một nhân tố đóng vai trò quyết định độ chính xác của nội dung
phân tích tài chính vì toàn bộ việc phân tích tài chính đợc thực hiên căn cứ
vào các số liệu trong các báo cáo này. Các báo cáo tài chính không trung
thực sẽ làm cho việc phân tích tài chính không chính xác với thực tế hiện có
dẫn đến những quyết định sai lầm. Do đó, việc kiểm tra lại độ chính xác
25