HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA TÀI CHÍNH
MƠN: HOẠT ĐỘNG HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM
Đề tài:
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ THUẾ HỖ TRỢ DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM
Nhóm môn học:
FIN91A05
Hà Nội, ngày 21 tháng 03 năm 2022
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Trong cơ cấu phát triển kinh tế của địa phương nói riêng hay cả nước nói chung,
các DNNVN ln chiếm vị trí và vai trị vơ cùng quan trọng. DNVVN được coi là “cỗ
máy tạo việc làm”, là động lực tăng trưởng góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời
sống cho người dân và đóng góp một phần không nhỏ cho ngân sách Nhà nước, đảm
bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội. Mặc dù chiếm đa số trong
tổng số doanh nghiệp nhưng các DNVVN cũng gặp phải khơng ít khó khăn, đặc biệt là
trong bối cảnh đại dịch COVID-19 lan rộng và diễn biến phức tạp. Ngồi việc gặp khó
khăn trong tiếp cận nguồn vốn, sự cạnh tranh đối đầu quyết liệt của những cơng ty, tập
đồn lớn và từ chính những doanh nghiệp với nhau, DNVVN còn gặp phải những trở
2
2
ngại trong việc thực hiện các chính sách, nghĩa vụ về thuế. Khi thành lập một doanh
nghiệp để kinh doanh, điều mà doanh nghiệp lo lắng nhất đó là các thủ tục hành chính,
đặc biệt là các thủ tục với cơ quan thuế. Đối với doanh nghiệp là người thực thi các luật
thuế, mỗi nghiệp vụ kinh tế phát sinh có thể liên quan đến một hoặc nhiều sắc thuế.
Bên cạnh đó, các luật định, nghị định, thơng tư về thuế luôn thay đổi liên tục khiến các
doanh nghiệp đôi khi khơng nắm bắt kịp, từ đó dẫn đến những rắc rối pháp lý khơng
đáng có. Chính vì vậy, các dịch vụ thuế ra đời với nhiệm vụ thực hiện các hoạt động kê
khai thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, khiếu nại thuế, làm việc với cơ quan thuế thay cho
người làm thuế, giúp đỡ doanh nghiệp giải quyết những vấn đề khó khăn một cách
nhanh chóng, an tồn và hiệu quả hơn.
3
3
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DNVVN VÀ DỊCH VỤ THUẾ ĐỐI VỚI
DNVVN
1. Những vấn đề chung về DNVVN
I.1. Khái niệm
DNVVN hay còn được biết đến với tên SME là viết tắt của cụm từ Small and
Medium Enterprise là những doanh nghiệp có quy mơ nhỏ bé về mặt vốn, lao động hay
doanh thu. DNVVN được phân theo quy mô bao gồm doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh
nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa. Theo tiêu chí của Nhóm Ngân hàng Thế giới, doanh
nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người, doanh nghiệp
nhỏ có số lượng lao động từ 10 đến dưới 200 người và nguồn vốn 20 tỷ trở xuống, cịn
doanh nghiệp vừa có từ 200 đến 300 lao động nguồn vốn 20 đến 100 tỷ.
Ở Việt Nam, theo Điều 5 Nghị định 80/2021/NĐ-CP quy định như sau:
•
Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực nơng nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; lĩnh vực
công nghiệp và xây dựng sử dụng lao động có tham gia bảo hiểm xã hội bình qn năm
khơng q 10 người và tổng doanh thu của năm không quá 3 tỷ đồng hoặc tổng nguồn
vốn của năm không quá 3 tỷ đồng.
Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ sử dụng lao động có
tham gia bảo hiểm xã hội bình qn năm khơng q 10 người và tổng doanh thu của
năm không quá 10 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn của năm khơng q 3 tỷ đồng.
•
Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; lĩnh vực cơng
nghiệp và xây dựng sử dụng lao động có tham gia bảo hiểm xã hội bình qn năm
khơng q 100 người và tổng doanh thu của năm không quá 50 tỷ đồng hoặc tổng
nguồn vốn của năm không quá 20 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ
theo quy định tại khoản 1 Điều này.
4
4
Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ sử dụng lao động có tham
gia bảo hiểm xã hội bình qn năm khơng q 50 người và tổng doanh thu của năm
không quá 100 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn của năm không quá 50 tỷ đồng, nhưng
không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định tại khoản 1 Điều này.
•
Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực nơng nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; lĩnh vực công
nghiệp và xây dựng sử dụng lao động có tham gia bảo hiểm xã hội bình qn năm
khơng q 200 người và tổng doanh thu của năm không quá 200 tỷ đồng hoặc tổng
nguồn vốn của năm không quá 100 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp siêu
nhỏ, doanh nghiệp nhỏ theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này.
Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ sử dụng lao động có tham
gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 100 người và tổng doanh thu của năm
không quá 300 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn của năm không quá 100 tỷ đồng, nhưng
không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ theo quy định tại khoản 1,
khoản 2 điều này.
I.2. Đặc điểm
a) Tính chất hoạt động kinh doanh
Các DNVVN ở nước ta hiện nay thường tập trung vào các khu vực chế biến và dịch
vụ, để nó tiếp cận gần hơn với người tiêu dùng, cụ thể được thể hiện như sau:
• Với những DNVVN sẽ là vệ tinh, chế biến các bộ phận chi tiết cho các doanh nghiệp
lớn với tư cách tham gia vào các sản phẩm đầu tư.
• Doanh nghiệp vừa và nhỏ thực hiện các dịch vụ đa dạng và phong phú trong nền kinh
tế như: các dịch vụ trong q trình phân phối và thương mại hóa, dịch vụ sinh hoạt và
giải trí, dịch vụ tư vấn và hỗ trợ.
• Trực tiếp tham gia chế biến các sản phẩm cho người tiêu dùng ở phân đoạn cuối cùng
với tư cách là Nhà sản xuất.
5
5
Chính nhờ tính chất hoạt động kinh doanh này mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ có
lợi thế về tính linh hoạt. Đây được xem là tính chất nổi trội và ưu việt nhất của những
DNVVN, nhờ cấu trúc và quy mô vừa và nhỏ nên khả năng thay đổi mặt hàng, chuyển
hướng kinh doanh hay thậm chí cả địa điểm kinh doanh được coi là mặt mạnh và giúp
ích rất nhiều cho các doanh nghiệp.
b) Nguồn lực vật chất
Nhìn chung các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị hạn chế bởi nguồn vốn, tài nguyên, đất
đai, công nghệ và nhân lực. Sự hữu hạn về nguồn lực vật chất là do quy định của pháp
luật và nguồn gốc hình thành doanh nghiệp. Mặt khác, với những DNVVN còn do sự
hạn hẹp trong các quan hệ với thị trường tài chính – tiền tệ, vì vậy q trình tự tích lũy
thường đóng vai trị quyết định của từng doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhận thức về vấn
đề này các quốc gia đang tích cực hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ để họ có thể
tham gia tốt hơn trong quá trình phát triển doanh nghiệp của mình
c) Năng lực quản lý điều hành
Năng lực quản lý điều hành cũng là một trong những yếu tố quan trọng, xuất phát từ
nguồn gốc hình thành, tính chất, quy mơ... các quản trị gia doanh nghiệp vừa và nhỏ
thường nắm bắt và quán xuyến hầu hết các mặt của hoạt động kinh doanh. Điều này
cũng tạo ra những thuận lợi và khó khăn riêng. Thông thường họ được coi là Nhà quản
trị doanh nghiệp hơn là Nhà quản lý chuyên sâu ... Chính vì vậy mà nhiều kỹ năng,
nghiệp vụ quản lý trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn rất thấp so với yêu cầu.
d) Tính phụ thuộc hay bị động
Do các đặc trưng kể trên nên các DNVVN bị động ở nhiều thị trường. Cơ hội đánh
thức và dẫn dắt, chiếm lĩnh thị trường là rất khó. Cùng với đó là rất nhiều khó khăn mà
các doanh nghiệp gặp phải đó dễ bị bỏ rơi, phó mặc được minh chứng bằng con số
DNVVN bị phá sản ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Theo thống kê thì
6
6
tỷ lệ phá sản ở Mỹ bình quân mỗi ngày có tới hàng trăm DNVVN phá sản (đương
nhiên lại có số doanh nghiệp tương ứng phù hợp các doanh nghiệp vừa và nhỏ mới
xuất hiện), nói cách khác các doanh nghiệp vừa và nhỏ có “tuổi thọ” trung bình thấp.
Điều đó cho thấy những DNVVN muốn đứng vững và phát triển thì cần rất nhiều cố
gắng và định hướng đúng đắn.
I.3. Vai trị
•
Tạo việc làm cho người lao động, góp phần giảm thất nghiệp: các doanh nghiệp nhỏ và
vừa thường chiếm tỷ trọng lớn, thậm chí áp đảo trong tổng số doanh. Hiện nay có tổng
số 95% các doanh nghiệp đăng ký hoạt động tại Việt Nam hoạt động dưới mơ hình này.
Vì thế, đóng góp của họ vào tổng sản lượng và tạo việc làm là rất đáng kể.
• Đóng vai trị quan trọng trong việc giữ ổn định và thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế: ở
phần lớn các nền kinh tế, các doanh nghiệp nhỏ và vừa là những nhà thầu phụ cho các
doanh nghiệp lớn. Sự điều chỉnh hợp đồng thầu phụ tại các thời điểm cho phép nền
kinh tế có được sự ổn định. Vì vậy, DNNVV được xem như thanh giảm sốc cho nền
kinh tế trước những biến động lớn. Với lợi thế về vốn đầu tư ít và nguồn lao động dồi
dào, trong những năm qua, DNNVV phát triển ngày càng nhanh và chiếm tỉ trọng ngày
càng lớn trong tổng số doanh nghiệp. DNNVV cung cấp cho thị trường nhiều mặt hàng
phong phú, đa dạng ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế, tạo ra nhiều sự lựa chọn, đáp
ứng được mọi nhu cầu của người tiêu dùng, từ đó thúc đẩy sức tiêu thụ của nền kinh tế.
Vì thế mức độ đóng góp của các DNNVV vào tổng sản lượng của nền kinh tế là rất
lớn.
•
Làm cho nền kinh tế năng động: DNNVV có quy mơ nhỏ nên dễ điều chỉnh hoạt động
và thích nghi được với những biến động thị trường bắt kịp xu hướng của nền kinh tế
thế giới
7
7
•
Tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng: doanh nghiệp nhỏ và vừa
thường chun mơn hóa vào sản xuất một vài chi tiết được dùng để lắp ráp thành một
sản phẩm hồn chỉnh.
• Là trụ cột của kinh tế địa phương: nếu như doanh nghiệp lớn thường đặt cơ sở ở những
trung tâm kinh tế của đất nước, thì doanh nghiệp nhỏ và vừa lại có mặt ở khắp các địa
phương và là người đóng góp quan trọng vào thu ngân sách, vào sản lượng và tạo cơng
ăn việc làm ở địa phương.
• Đóng góp khơng nhỏ giá trị GDP cho quốc gia.
2. Những vấn đề chung về dịch vụ thuế hỗ trợ DNVVN
2.1. Khái niệm
Dịch vụ thuế (dịch vụ đại lý thuế) là hoạt động chun nghiệp có trình độ chun
mơn do một cá nhân, một tổ chức cung cấp cho cá nhân khác về các thủ tục thuế (đăng
ký thuế, kê khai thuế, tính thuế, nộp thuế, hoàn thuế, miễn giảm thuế, gia hạn thuế…)
và các dịch vụ khác có liên quan nhằm hỗ trợ người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ với
ngân sách nhà nước (hỗ trợ kê khai, nộp thuế, tư vấn hoặc lập kế hoạch kinh doanh phù
hợp với pháp luật thuế, tư vấn giải quyết các tranh chấp về thuế,…)
Dịch vụ thuế giúp tiết kiệm chi phí và nhân lực cho doanh nghiệp, đại diện cho
doanh nghiệp làm việc trực tiếp với cơ quan thuế và các cơ quan Nhà nước, tham gia
giải trình mọi vấn đề liên quan đến thuế cho doanh nghiệp.
2.2. Các loại hình dịch vụ thuế
a) Phân loại theo đối tượng chủ thể cung cấp dịch vụ
Các loại hình dịch vụ thuế phân loại theo đối tượng chủ thể cung cấp được chia ra
làm hai loại là dịch vụ thuế cơng và dịch vụ thuế tư.
•
Dịch vụ thuế công là dịch vụ do cơ quan quản lý thuế cung cấp, gắn liền với việc thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thuế nhằm nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật về
thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ của mình. Đó có
thể là hoạt động tun truyền, quảng bá thơng tin về chính sách, thủ tục về thuế cho
8
8
người nộp thuế và cộng đồng xã hội; hoặc cũng có thể là một loại dịch vụ hành chính
cơng thực hiện giải quyết các hồ sơ về thuế, …
• Dịch vụ thuế tư là dịch vụ do các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh
dịch vụ thuế cung cấp. Dịch vụ thuế tư có liên quan trực tiếp đến lợi ích của doanh
nghiệp mua dịch vụ, của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ và của nhà nước. Không phải
bất kỳ doanh nghiệp nào trong nền kinh tế cũng có thể cung cấp được dịch vụ thuế tư,
mà cần phải có những tiêu chuẩn, điều kiện nhất định và được điều chỉnh bởi các văn
bản quy phạm pháp luật. Do đó, dịch vụ thuế tư phải được coi là ngành nghề kinh
doanh có điều kiện và cần một khuôn khổ pháp lý phù hợp để quản lý hoạt động kinh
doanh này.
b) Phân loại theo hình thức cung cấp dịch vụ
Các loại hình dịch vụ thuế phân loại theo hình thức cung cấp dịch vụ được chia ra
làm hai loại là dịch vụ thuế thủ công và dịch vụ thuế điện tử (eTax)
•
Dịch vụ thuế thủ cơng là dịch vụ thuế được cung cấp thông qua các phương thức chưa
có sự hỗ trợ của các phương tiện hiện đại.
• Dịch vụ thuế điện tử là dịch vụ được cung cấp thông qua các ứng dụng mạnh mẽ của
công nghệ thông tin. Trong dịch vụ thuế điện tử được chia thành 2 loại là dịch vụ thuế
điện tử (tra cứu tờ khai thuế, kê khai, nộp thuế) qua internet tại trang
và ứng dụng Thuế điện tử dành cho thiết bị di dộng (eTax
mobile). Với những ưu điểm vượt trội về tích hợp nhiều loại hình dịch vụ, các tính
năng tiện ích hỗ trợ (như: đăng ký tài khoản; tra cứu nghĩa vụ thuế; tra cứu thông báo
xử lý hồ sơ; thơng báo lệ phí trước bạ ơ tơ, xe máy; tra cứu hồ sơ khai thuế; hồ sơ
quyết tốn thuế; hồ sơ đăng ký thuế; lệ phí trước bạ ô tô, xe máy; thông tin người phụ
thuộc, người nộp thuế,...), ứng dụng eTax Mobile đã góp phần hỗ trợ người nộp thuế
thực hiện các thủ tục hành chính thuế và tiếp cận, nắm bắt thông tin về nghĩa vụ thuế,
chính sách thuế một cách nhanh chóng, thuận lợi; tạo sự kết nối chặt chẽ giữa cơ quan
thuế với người nộp thuế.
9
9
Dịch vụ thuế điện tử đang ngày càng phát triển, ngày càng chiếm ưu thế và thay thế
dần dịch vụ thuế thủ công. Tuy nhiên, trong một số trường hợp hai dịch vụ này có thể
đan xen nhau, khơng nhất thiết phải tách rời nhau. Chẳng hạn khi cung cấp một dịch vụ
thuế điện tử thì ở khâu chuẩn bị có thể có một số cơng việc phải tiến hành thủ cơng;
hoặc khi tiến hành tư vấn trực tiếp thì có thể sử dụng những kỹ thuật điện tử để phối
hợp, …
c) Phân loại theo nội dung dịch vụ được cung cấp
Các loại hình dịch vụ thuế theo nội dung dịch vụ được cung cấp được chia ra làm 2
loại là dịch vụ làm thủ tục thuế (đăng ký thuế, khai thuế, …) và dịch vụ tư vấn thuế
(dịch vụ hướng dẫn làm thủ tục thuế, dịch vụ kế toán và xây dựng kế hoạch thuế, …)
Theo cách phân loại này, tùy theo đặc điểm tình hình sản xuất kinh doanh, quy mơ
kinh doanh, điều kiện hồn cảnh và khả năng của từng doanh nghiệp mà các tổ chức,
cá nhân có nhu cầu về các loại dịch vụ khác nhau. Chẳng hạn như, những cơ sở kinh
doanh nhỏ thì thường có nhu cầu về dịch vụ làm thủ tục thuế, cịn những doanh nghiệp
lớn thì có nhu cầu cao về dịch vụ xây dựng kế hoạch về thuế. Dịch vụ tư vấn thuế nói
chung là cần thiết đối với người nộp thuế
3.
Kinh nghiệm quốc tế
Ở nhiều nước trên thế giới vai trò và nguồn lợi nhuận từ các DNVVN rất quan trọng
trong việc phát triền nền kinh tế chung. Vì vậy có rất nhiều các dịch vụ được cung cấp
nhằm hỗ trợ các DNVVN trong quá trình hoạt động tài chính. Đặc biệt dịch vụ thuế là
một dịch vụ khơng thể thiếu với các DNVVN. Ở Việt Nam dịch vụ thuế đang ngày
phát triển rộng rãi vì vậy khinh nghiệm từ các nước sẽ là những bài học bổ ích cho dịch
vụ thuế ở Việt Nam để có thể hồn thiện và phát triển hơn trong tương lai.
Singapore
Riêng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs, là những doanh nghiệp có doanh thu
hàng năm đến 100 triệu SGD/74 triệu USD), tuyển dụng đến 2/3 lực lượng lao động và
đóng góp gần ½ GDP của Singapore. Cho thấy các DNVVN có vai trò rất quan trọng
trong nền kinh tế chung của Singapore. Dù ở bất kỳ quốc gia nào, thuế luôn là lĩnh vực
10
10
được quan tâm đặc biệt bởi các doanh nghiệp Đặc biệt đối với những doanh nghiệp
thành lập tại Singapore, hiểu về hệ thống và những quy định về thuế sẽ giúp các chủ
doanh nghiệp trong việc duy trì kinh doanh và quản lý sổ sách, chứng từ, kê khai kế
toán để từ đó nắm thế chủ động đối với dịng tiền của mình hàng tháng, hạn chế được
những vấn đề như sau:
•
Hạn chế đưa ra những quyết định khơng phù hợp vì khơng hiểu rõ về thuế suất
nói chung cũng như từng loại thuế dành cho các ngành hàng riêng biệt.
•
Hạn chế được những chi phí phát sinh trong q trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp khơng hợp lệ vì chưa nắm rõ về chính sách thuế suất và chưa có
chiến lược tài chính cụ thể dẫn đến những chi phí thuế khơng đáng có.
•
Chủ doanh nghiệp vừa thành lập cơng ty chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc
chuẩn bị chứng từ, cần được tư vấn kỹ càng từ chuyên viên kế toán Singapore ở
những bước đầu đưa doanh nghiệp dần vào hoạt động ổn định.
•
Hạn chế tối đa những sai sót trong việc xuất hóa đơn (invoices) và chứng từ cho
khách hàng đối với những cơng ty có lượng giao dịch lớn trong tháng.
•
Việc cân bằng giữa doanh thu và chi phí hàng tháng trong năm tài chính rất quan
trọng cho việc đưa ra những quyết định chủ trương hoạt động trong năm tài
chính tiếp theo.
Trung Quốc
Phó Thủ tướng Trung Quốc Liu He cho biết: “Các doanh nghiệp vừa và nhỏ là trụ
cột của thị trường và là nguồn việc làm chính”. Theo Cục Thống kê Quốc gia Trung
Quốc, 99,8% doanh nghiệp trong nước là doanh nghiệp vừa và nhỏ vào cuối năm
2018. Là quốc gia đầu tiên trên thế giới ghi nhận ca mắc COVID-19, như bao nước
khác, Trung Quốc không thể tránh khỏi những tác động tiêu cực của đại dịch đến nền
11
11
kinh tế. Ước tính số lượng DNVVN hủy đăng ký vào năm 2021 có khả năng vượt
4,45 triệu, con số này gần gấp đôi so với năm 2019 và gấp khoảng 10 lần so với năm
2018. Do các doanh nghiệp vừa và nhỏ là trụ cột của nền kinh tế Trung Quốc nên tác
động của làn sóng phá sản này khiến tốc độ tăng trưởng GDP (tổng sản phẩm quốc
nội) của Trung Quốc có thể giảm xuống trong tương lai nếu khơng được khắc phục
tình hình. Trước tình hình tiêu cực trên Trung quốc đưa ra nhiều chính sách kinh tế,
trong đó có các chính sách thuế nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp. Tính từ ngày 1/1 đến
ngày 17/ 3/2020, Trung Quốc đã ban hành 14 văn bản quy phạm pháp luật để hỗ trợ
doanh nghiệp cắt giảm thuế và phí. Đặc biệt, đối với các DNVVN, có 3 văn bản của Bộ
Tài chính và Tổng cục Thuế về gia hạn thời gian quyết toán thuế, kéo dài thời gian
chuyển lỗ, miễn thuế GTGT cho DNVVN …
Thái Lan
Khoảng 20.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) của Thái Lan, chủ yếu trong lĩnh
vực du lịch, đã đóng cửa trong quý đầu tiên của năm 2021, do ảnh hưởng của đại dịch
Covid-19. Trước tình hình trên, tại Thái Lan, doanh nghiệp được gia hạn nộp thuế
TNDN đến tháng 9/2021, gia hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt của các doanh nghiệp dịch
vụ thêm một tháng, các nhà sản xuất gia hạn đến ngày 15 của tháng tiếp theo trong 3
tháng tới. Miễn thuế nhập khẩu đối với các sản phẩm liên quan đến phòng ngừa và điều
trị Covid-19. Miễn thuế và giảm phí cho tái cơ cấu nợ với các chủ nợ của tổ chức phi
tài chính.
Bài học rút ra cho Việt Nam:
Các DNVVN chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế của mỗi quốc gia. Vì vậy dịch vụ
thuế cần cung cấp nhưng dịch vụ cấp thiết để giúp các DNVVN hạn chế được những
khuyết điểm trong hoạt động tài chính. Ngồi ra nền kinh tế chung có thể bị tác động
bởi nhiều rủi ro hệ thống gây ảnh hưởng lớn đến tốc độ tăng trưởng của mỗi quốc gia.
Đứng trước những khó khăn như vậy các dịch vụ thuế cần linh hoạt có nhiều chính
sách hỗ trợ các DNVVN để giảm thiểu rủi ro giúp các DNVVN thoát khỏi khủng
hoảng, khó khăn trong thời kì kinh tế hiện nay. Tùy vào đặc điểm kinh tế, chính trị của
12
12
mỗi nước các dịch vụ thuế có những cách thức hỗ trợ khác nhau với mục tiêu giảm
thiểu tối đa những bất lợi về tài chính giúp các DNVVN hoạt động ổn định và phát
triển lâu dài trong tương lai.
II.THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC DỊCH VỤ THUẾ HỖ TRỢ DNVVN Ở
VIỆT NAM
1. Nhu cầu về dịch vụ thuế của DNVVN
1.1. Những khó khăn mà DNVVN đang gặp phải
Theo thống kê tại Việt Nam, số lượng DNVVN chiếm áp đảo - xấp xỉ 97% trên tổng
số doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam, đóng góp khoảng 45% vào GDP, 31%
vào tổng thu ngân sách và thu hút hơn 5 triệu việc làm. Các DNVVN đang ngày càng
khẳng định vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế. Tuy nhiên, hầu hết các
DNVVN tồn tại dưới dạng nhỏ lẻ, phát triển tự phát, trình độ quản lý, năng lực tài
chính hạn hẹp... Chính vì những điều này nên các DNVVN thường xuyên gặp phải khó
khăn trong các thủ tục hành chính của Nhà nước cũng như khơng thường xun cập
nhật các chính sách mới nên dễ mắc vào các vấn đề pháp lý.
Theo khảo sát của Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho thấy đa số các
doanh nghiệp đều ghi nhận quá trình cải cách thủ tục hành chính của ngành Thuế trong
thời gian qua, song vẫn có ý kiến cho rằng hồ sơ, thủ tục còn rườm rà, phức tạp. Doanh
nghiệp cần được hỗ trợ về mặt chính sách ưu đãi thuế của Nhà nước cũng như các dịch
vụ tư vấn, kê khai, quản trị rủi ro về thuế của các cơng ty kế tốn hay kiểm tốn, đại lý
thuế bên ngồi để có thể vượt qua giai đoạn hội nhập và cạnh tranh cao như hiện nay.
1.2. Nhu cầu cấp thiết để phát triển ngành dịch vụ thuế
Cùng với sự phát triển và hội nhập không ngừng của nền kinh tế, số lượng các doanh
nghiệp ngày càng gia tăng và khẳng định vị thế của mình. Theo Cục Thống kê TP Hà
Nội ước tính Thành phố có khoảng 24000 doanh nghiệp thành lập mới trong năm 2021,
13
13
kéo theo nhu cầu đối với dịch vụ thuế ngày càng lớn. Tuy nhiên, chủ thể cung cấp thuế
còn hạn chế rất nhiều về số lượng.
Trước năm 2007, việc cung cấp các dịch vụ thuế chỉ được thực hiện bởi một số các
đơn vị trong số các công ty kiểm tốn, cơng ty tư vấn về tài chính, kế tốn và các cơng
ty tư vấn luật, trong đó nội dung chủ yếu của dịch vụ thuế được cung cấp là tư vấn
thuế, lập báo cáo thuế... nên doanh thu và khách hàng sử dụng các dịch vụ này chiếm
số lượng không đáng kể. Tuy nhiên, từ khi thực hiện thống nhất và đồng bộ cơ chế tự
khai, tự nộp, Luật Quản lý thuế ra đời đã xác lập hành lang pháp lý cho hoạt động cung
cấp dịch vụ thuế. Bên cạnh các cơng ty kiểm tốn, kế tốn và cơng ty luật thì các đại lý
thuế cũng sẽ tham gia vào hoạt động cung cấp các dịch vụ thuế. Người nộp thuế có thể
kí kết hợp đồng với các đại lý thuế để được cung cấp dịch vụ về đăng ký thuế, kê khai
thuế, nộp thuế, hoàn thuế, miễn, giảm, gia hạn thuế...
Đại lý thuế đã được luật hóa tại Điều 20 trong Luật Quản lý thuế, tuy nhiên sau
nhiều năm thực hiện thì số lượng đại lý thuế, người hành nghề dịch vụ phụ trách thủ
tục về thuế vẫn cịn ít so với nhu cầu. Như vậy, có thể nói thị trường cung cấp dịch vụ
thuế của khu vực tư ở Việt Nam chưa thực sự phát triển.
2. Các dịch vụ thuế chủ yếu hỗ trợ cho DNVVN
Dịch vụ thuế được phân loại thành dịch vụ thuế công và dịch vụ thuế tư.
2.1. Thực trạng cung cấp dịch vụ thuế cơng
a) Quy trình hỗ trợ nộp thuế
Hiện nay, quy trình nộp thuế cũng đã được ban hành theo hai mơ hình cơ bản đó là:
mơ hình hỗ trợ theo cơ chế một cửa và mơ hình hỗ trợ thơng thường.
• Mơ hình hỗ trợ thuế một cửa
Với mơ hình hỗ trợ thuế một cửa thì mọi yêu cầu cần hỗ trợ của NNT khi NNT trực
tiếp đến cơ quan thuế, hoặc liên hệ bằng điện thoại sẽ được bộ phận Hỗ trợ NNT tiếp
nhận và trả kết quả cho NNT ở tại cùng một địa điểm. Trong trường hợp yêu cầu của
14
14
NNT được gửi bằng đường bưu điện đến cơ quan thuế thì bộ phận Hành chính văn thư
sẽ tiếp nhận yêu cầu, khi có kết quả trả lời, bộ phận Hành chính văn thư có trách nhiệm
thực hiện thủ tục đóng dấu, đăng ký văn bản đi và gửi kết quả trả lời cho NNT.
Sơ đồ: Quy trình hỗ trợ theo cơ chế một cửa
Với việc áp dụng cơ chế một cửa trong việc hỗ trợ NNT đã giúp doanh nghiệp được
thuận lợi hơn trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế, tiết kiệm được nhiều chi phí về thời
gian và tiền của.
• Mơ hình hỗ trợ theo quy trình hỗ trợ thơng thường.
Sơ đồ: Quy trình hỗ trợ thơng thường
15
15
Như vâỵ, thơng qua mơ hình hỗ trợ thơng thường thì NNT gửi yêu cầu đến cơ quán
thuế, sau khi tiếp nhận yêu cầu cơ quan thuế sẽ tiến hành xử lí và giải đáp thắc mắc
theo u cầu. Nhìn chung, quy trình xử lí có quy cách, bài bản và thống nhất tuy nhiên
các quy trình nêu trên cịn khá rườm rà, chưa thể hiện việc hiện đại hóa trong các
thao tác nghiệp vụ.
b) Hình thức hỗ trợ doanh nghiệp nộp thuế
Hiện nay, việc hỗ trợ doanh nghiệp nộp thuế được thực hiện thơng qua rất nhiều
hình thức: hỗ trợ qua điện thoại, bằng văn bản; tổ chức đối thoại, tập huấn... Bên cạnh
các hình thức đó, cơ quan thuế cũng đã mở rộng thêm nhiều hình thức hỗ trợ khác tạo
thuận lợi hơn cho doanh nghiệp trong quá trình thực hiện nghĩa vụ như: Triển khai các
dự án tin học, cung cấp miễn phí phần mềm hỗ trợ kê khai (iHTKK); triển khai ứng
dụng nộp hồ sơ khai thuế qua mạng và qua các nhà truyền nhận dữ liệu điện tử trung
gian (T-VAN)…
• Hỗ trợ qua điện thoại
Ngày nay, NNT có thể liên hệ với cơ quan thuế thông qua đường dây hotline để
được giải đáp các thắc mắc. Các số điện thoại này được công bố trên các Website của
ngành Thuế, các trang điện tử của các Chi cục Thuế, trên các ấn phẩm tuyên truyền
hoặc quảng cáo trên các tờ báo địa phương. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn một số
trường hợp giải quyết chưa thoả đáng theo đề nghị của người nộp thuế, chất lượng trả
lời chưa cao, chưa có trách nhiệm trả lời qua loa, hoặc tìm cách đùn đẩy, thậm chí trả
lời, hướng dẫn thiếu chính xác.
• Hỗ trợ bằng văn bản:
Việc giải đáp vướng mắc bằng văn bản là hình thức hỗ trợ được coi là căn cứ pháp
lý để giải quyết các trường hợp vướng mắc về thuế mang tính phức tạp. Với các vấn đề
vướng mắc vượt quá thẩm quyền giải quyết, các cơ quan thuế cấp dưới phải báo cáo
lên Tổng cục Thuế để được hướng dẫn thực hiện hoặc Tổng cục Thuế phải tổng hợp để
trình Bộ Tài chính sửa đổi chính sách cho phù hợp.
16
16
Tuy nhiên cũng có một số lượng nhất định văn bản khơng được trả lời kịp thời, có
văn bản được trả lời chậm so với quy định vài tháng. Ngoài ra cũng có cá biệt một vài
văn bản trả lời cho các doanh nghiệp còn chưa thống nhất mặc dù nội dung hỏi là như
nhau.
c) Về hình thức nộp thuế điện tử qua mạng
• Kê khai thuế qua phần mềm HTKK
Hiện nay, việc kê khai thuế qua mạng là bắt buộc đối với các doanh nghiệp, điều đó
cũng được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật:
- Tại Điều 19 Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 quy định: “Nhà
nước đảm bảo đầu tư, khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia phát triển công
nghệ và phương tiện kỹ thuật tiên tiến để áp dụng phương pháp quản lý thuế
hiện đại; khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng, thực hiện giao dịch
điện tử và quản lý thuế điện tử; đẩy mạnh phát triển các dịch vụ thanh tốn
thơng qua hệ thống ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác để từng bước
hạn chế các giao dịch thanh toán bằng tiền mặt của người nộp thuế. Chính phủ
ban hành chính sách về hiện đại hóa quản lý thuế”.
17
17
- Tại Khoản 1, Điều 48, Nghị định số 83/2013/NĐ-CP ngày 22/7/2013 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế và Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế ghi: “Người nộp thuế là tổ chức
kinh doanh tại địa bàn có cơ sở hạ tầng về cơng nghệ thông tin phải khai thuế,
nộp thuế, giao dịch với cơ quan quản lý thuế thông qua phương tiện điện tử…”.
Kê khai thuế qua mạng thực chất là việc gửi các Tờ khai thuế đã được kết xuất ra file
PDF từ phần mềm HTKK lên website của Tổng cục Thuế.
Với mơ hình mới nộp tờ khai qua mạng sẽ giúp doanh nghiệp:
- Thứ nhất, tiết kiệm thời gian không phải đến cơ quan Thuế, tiết kiệm chi phí và
nhân lực khi không phải in tờ khai và bảng kê;
- Thứ hai, phần mềm hỗ trợ kê khai thuế sẽ hỗ trợ việc tính tốn, kiểm tra lỗi khơng
cố ý khi kê khai;
- Thứ ba, tiện lợi, bất kỳ lúc nào, bất kỳ ở đâu NTT đều có thể gửi hồ sơ khai thuế,
thông tin và số liệu kê khai của doanh nghiệp được gửi đến cơ quan Thuế nhanh
chóng, chính xác chỉ cần có kết nối Internet;
- Thứ tư, doanh nghiệp được tra cứu, xem, in và tải các loại tờ khai thuế, Thông báo
xác nhận đã nộp hồ sơ khai thuế nhanh chóng;
18
18
- Thứ năm, việc lưu trữ hồ sơ khai thuế được an tồn, bảo mật; thuận tiện hơn và có
tính pháp lý cao hơn.
* Về quy trình đăng ký sử dụng dịch vụ nộp thuế điện tử qua mạng:
- Bước 1: Đăng ký sử dụng dịch vụ nộp thuế điện tử trên cổng thông tin điện tử
theo các bước trong tài liệu hướng dẫn sử dụng.
- Bước 2: Tải bản đăng ký ủy quyền trích nợ tài khoản với ngân hàng.
- Bước 3: Đăng ký ủy quyền trích nợ tài khoản cho dịch vụ nộp thuế điện tử.
- Bước 4: Nộp thuế điện tử.
Để tạo thuận lợi cho DN trong việc khai nộp thuế, Tổng cục Thuế đã đẩy mạnh cơng
tác cải cách thủ tục hành chính, trong đó đã triển khai hạ tầng kỹ thuật, hệ thống kết nối
với cổng dịch vụ cơng quốc gia và hồn thành việc tích hợp 150 thủ tục hành chính
(TTHC) thuế lên Cổng dịch vụ công Quốc gia, đạt 161% kế hoạch (150/93 TTHC)
theo kế hoạch.
Ông Cao Anh Tuấn, Tổng cục trưởng, Tổng cục Thuế cho biết hiện nay đã có 100%
doanh nghiệp (DN) kê khai điện tử, đăng ký nộp thuế điện tử thông qua cổng thông tin
điện tử của Tổng cục thuế, số doanh nghiệp kê khai thuế điện tử và liên kết với các
ngân hàng hiện chiếm trên 98%, với hình thức nộp thuế này giúp doanh nghiệp dễ tiếp
cận với phương pháp mới vừa hỗ trợ doanh nghiệp nộp ngân sách Nhà nước một cách
hiệu quả và không phát sinh nhiều chi phí “khơng có trên giấy tờ”.
Với việc triển khai có hiệu quả việc nộp thuế qua mạng, số giờ nộp thuế của doanh
nghiệp đã giảm được nhiều giờ, đặc biệt, đây là hình thức vơ cùng thích hợp và thiết
thực trong giai đoạn dịch COVID-19 này.
Ngồi ra Tổng cục thuế và nhà thầu đã và đang phát triển phần mềm eTax Mobile là
ứng dụng dịch vụ thuế điện tử được cài đặt trên thiết bị thông minh. Tuy nhiên ứng
dụng eTax Mobile mới chỉ đang triển khai cung cấp dịch vụ cho đối tượng là cá nhân
NNT. Theo đó, đối với đối tượng NNT là Doanh nghiệp, Tổng cục Thuế sẽ thực hiện
sau khi cơ bản đáp ứng các chức năng ứng dụng dành cho cá nhân theo các nội dung để
việc cung cấp dịch vụ cho NNT được đầy đủ, hoàn thiện.
19
19
Nhận xét: Nhìn chung, tổng cục Thuế tổng kết có 4 nỗi lo chính khiến các DN
ngần ngại khi tự thực hiện nộp thuế điện tử:
Thứ nhất, nhân viên phụ trách nộp thuế sợ mất tiền trong thời gian khá dài chờ đợi xác
nhận của cơ quan liên quan gửi tới. Nhiều DN chưa mặn mà nộp thuế qua NH hiện
nay do cịn lo ngại mạng liên thơng giữa cục thuế nhiều địa phương chưa hoạt động
trơn tru, mà bỏ qua những hình thức nộp thuế điện tử khác mà DN vẫn làm qua các
nghiệp vụ thanh toán của các NH.
Thứ hai, nộp thuế điện tử, DN sẽ dễ phát sinh thêm chi phí khi chuyển tiền từ tài khoản
ngân hàng vào kho bạc và chịu phí chuyển khoản hoặc phí chuyển tiền liên ngân hàng.
Điều này làm chi phí hoạt động của DN tăng lên.
Thứ ba, nhiều DN (nhất là nhóm DN nhỏ) chủ yếu thuê dịch vụ kế tốn làm ngồi, do
đó khơng muốn giao chữ ký số cho người ngồi, sợ làm lộ bí mật kinh doanh.
Thứ tư, bản thân các DN không muốn đầu tư thêm nhân sự và hạ tầng cơng nghệ (máy
tính, phần mềm) chỉ để phục vụ việc khai và nộp thuế điện tử. Đối với những DN nhỏ
doanh thu dưới 1 tỷ đồng/năm thì việc đầu tư thêm máy móc, sẽ đội chi phí thêm 50-60
triệu đồng, khiến DN cần phải cân nhắc.
Ngồi những lý do trên, sở dĩ vẫn cịn một lượng lớn các DN chưa đăng ký nộp thuế
điện tử hoặc đã đăng ký nhưng chưa thực hiện nộp thuế là vì hiện nay một số lượng lớn
các DN mới đăng ký thành lập, chưa phát sinh nghĩa vụ nộp thuế. Tính chung năm
2021 cả nước có 116.800 DN đăng ký thành lập mới. Chỉ riêng trong quý 4/2021 cả
nước đã có 31.400 DN đăng ký thành lập mới. Số DN hầu như chưa phát sinh thuế phải
nộp nên chưa đăng ký nộp thuế điện tử. Trong khi đó, trong năm 2021 cũng có khoảng
119.800 DN rơi vào tình trạng khó khăn do ảnh hưởng của làn sóng COVID-19 lần thứ
tư phải tạm ngừng hoạt động. Số DN này dù đã đăng ký nộp thuế điện tử thì khả năng
thanh toán thuế cũng bị chững lại. Bên cạnh các giải pháp, giãn hoãn thuế và hỗ trợ cho
DN, ngành Thuế đã triển khai đồng bộ các giải pháp quản lý thu ngân sách. Theo đó,
năm 2021, tồn ngành thực hiện 66.449 cuộc thanh tra, kiểm tra; kiểm tra 943.725 hồ
20
20
sơ khai thuế tại cơ quan thuế. Tổng số tiền kiến nghị xử lý qua thanh tra, kiểm tra đạt
45.332 tỷ đồng. Tổng số tiền thuế nộp vào ngân sách là 7.616 tỷ đồng.
2.2 Thực trạng cung cấp dịch vụ thuế tư:
Dịch vụ thuế tư là dịch vụ do các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực kinh
doanh dịch vụ thuế cung cấp. Dịch vụ thuế tư có liên quan trực tiếp đến lợi ích của
doanh nghiệp mua dịch vụ, của bản thân doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thuế và của
nhà nước. Không phải bất kỳ doanh nghiệp nào trong nền kinh tế cũng có thể cung cấp
được dịch vụ thuế tư, mà cần phải có những tiêu chuẩn, điều kiện nhất định và được
điều chỉnh bởi các văn bản quy phạm pháp luật. Do đó, dịch vụ thuế tư phải được coi
là ngành nghề kinh doanh có điều kiện và cần một khn khổ pháp lý phù hợp để quản
lý hoạt động kinh doanh này.
Các dịch vụ thuế tư:
a) Đối với các doanh nghiệp dịch vụ, kiểm toán, kế toán, tư vấn luật...
Trước năm 2007, việc cung cấp các dịch vụ thuế được thực hiện bởi một số đơn vị
trong số các cơng ty kiểm tốn, cơng ty tư vấn về tài chính, kế tốn và các cơng ty tư
vấn luật, trong đó nội dung chủ yếu của dịch vụ thuế được cung cấp là:
•
•
•
•
Tư vấn thuế
Dịch vụ kế tốn thuế
Lập báo cáo thuế
...
Ví dụ: Cơng ty TNHH Dịch vụ thuế và kế toán Tây Nguyên, Cơng ty TNHH Dịch vụ
kế tốn VBP, Cơng ty TNHH Giải pháp kế toán thuế TAS,...
Doanh thu từ việc cung cấp dịch vụ thuế chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số
doanh thu của các doanh nghiệp này và khách hàng sử dụng dịch vụ thuế cũng chiếm
tỷ trọng không đáng kể trong tổng số khách hàng của những công ty này. Hơn hết, dịch
vụ thuế chủ yếu được cung cấp là dịch vụ tư vấn thuế, vì vậy mà nếu doanh nghiệp có
21
21
nhu cầu về tư vấn các vấn đề khác liên quan thì phải có thêm một người có kiến thức
và kinh nghiệm trong lĩnh vực thuế.
Từ ngày 1/7/2007, Nhà nước đã trao quyền cho doanh nghiệp để tự khai, tự nộp, tự
chịu trách nhiệm về thuế, đa phần các doanh nghiệp đã hiểu được cơ chế này, nhưng
trong số đó vẫn còn một vài doanh nghiệp nhỏ, hộ kinh doanh gia đình chưa hiểu rõ về
luật thuế nên vẫn trơng chờ vào sự tư vấn của các cơ quan Thuế.
Hiểu rõ được khó khăn gặp phải của người dân, từ tháng 7/2007 đến nay, Nhà nước
tiến hành thực hiện thống nhất và đồng bộ cơ chế tự khai, tự nộp; cùng với việc Luật
Quản lý thuế ra đời, đã xác lập hành lang pháp lý cho hoạt động cung cấp dịch vụ thuế.
Theo đó, người nộp thuế có thể thực hiện các thủ tục về thuế thông qua các đại lý
thuế
Như vậy, sau khi Luật Quản lý thuế có hiệu lực, việc cung cấp dịch vụ thuế,
bên cạnh các cơng ty kiểm tốn, kế tốn, tư vấn luật, sẽ được thực hiện chủ yếu
bởi các đại lý thuế.
b) Đối với đại lý thuế (ĐLT)
Khi nói đến ĐLT, nhiều người lầm tưởng rằng đây là tổ chức được cơ quan thuế ủy
quyền thu thuế, tức là làm đại lý thu thuế cho Nhà nước. Nhưng thực chất ĐLT là một
đối tượng nộp thuế theo ủy quyền để thực hiện các thủ tục liên quan đến nghĩa vụ thuế
của người nộp thuế (NNT). ĐLT thay mặt cho đối tượng nộp thuế thực hiện nghĩa vụ
và quyền lợi về thuế của NNT trước pháp luật và trước cơ quan quản lý thuế. ĐLT có
đủ các dịch vụ như:
• Quản lý rủi ro về thuế
• Dịch vụ rà sốt, hồn thiện sổ sách chứng từ trước khi quyết tốn thuế
• Dịch vụ kế tốn trọn gói
• Dịch vụ giám sát, sốt xét hồ sơ thuế, báo cáo thuế
• Dịch vụ tư vấn kế tốn.
• ...
22
22
Theo đó các DN chỉ cần kí kết hợp đồng với ĐLT để được cung cấp tất cả các dịch
vụ về thuế. Điểm đáng lưu ý của ĐLT so với các cơng ty tài chính kế tốn kiểm tốn là
ĐLT là cơ quan duy nhất có quyền kí vào tờ khai thuế điện tử, nộp thuế điện tử thay
cho DN, ĐLT cũng sẽ là đại diện pháp lí hợp pháp của DN trước cơ quan quản lí thuế,
trong trường hợp DN có tranh cãi tố tụng về thuế thì ĐLT sẽ là đại diện hợp pháp của
DN tham gia tranh cãi, tố tụng. Trong khi đó các cơng ty tài chính kế tốn kiểm tốn
khơng làm được điều này.
Hết năm 2014, cả nước có 201 ĐLT được thành lập trên 27 tỉnh, thành, và khoảng
2.150 người được cấp chứng chỉ hành nghề dịch vụ làm thủ tục về thuế và đến tháng
11/2015, cả nước có 256 đại lý thuế. Đến ngày 19/1/2022, con số đã tăng lên rõ rệt khi
cả nước có khoảng 6006 người được cấp chứng chỉ hành nghề dịch vụ làm thủ tục về
thuế và 859 đại lý thuế.
Nhìn chung, số lượng ĐLT tăng rõ rệt như vậy là do những tính ưu Việt của nó mang
lại.
Đại lý thế giúp giảm tải gánh nặng cho doanh nghiệp. Các doanh nghiệp chỉ riêng
vận hành công việc kinh doanh cũng như quảng cáo tiếp thị cũng là những vấn đề đau
đầu. Tuy vậy, thuế là vấn đề mà không doanh nghiệp nào có thể ngó lơ, một số doanh
nghiệp thì kế tốn sẽ chịu trách nhiệm về thuế nhưng như vậy số lượng cơng việc q
tải. Bên cạnh đó kiến thức về thuế và luật mà kế toán nắm được cũng không thể rõ ràng
như các nhân viên thuế. Do vậy việc sử dụng đại lý thuế là để giảm bớt gánh nặng
công việc cho các doanh nghiệp và cũng là xu thế hoạt động ngày nay
Việc các doanh nghiệp sử dụng đại lý thuế sẽ tránh được những rủi ro về tính chính
xác và giúp họ tiết kiệm được một khoản chi phí cho việc thuê thêm kế tốn để đảm
nhận cơng việc này. Trung bình, một kế tốn chun nghiệp và có kinh nghiệm cũng sẽ
phải nhận được mức lương từ 10-15 triệu đồng. Nếu sử dụng ĐLT sẽ tiết kiệm được
50-70% chi phí đó.
23
23
Tuy nhiên, quan sát biểu đồ ta có thể nhận thấy số lượng ĐLT và số người được cấp
chứng chỉ hành nghề có tăng song tốc độ vẫn cịn rất chậm. Cụ thể, qua 8 năm (từ 2014
đến 2022) số lượng ĐLT chỉ tăng 658 ĐLT, số lượng người được cấp chứng chỉ hành
nghề chỉ tăng 3856 người. Những con số này quá nhỏ bé khi so với các nước trong
cùng khu vực, đơn cử như Malaysia, tính đến năm 2006 đã có tới 2.500 đại lý thuế
đăng ký hoạt động ( gấp gần 3.8 lần so với số lượng ĐLT của nước ta ở thời điểm hiện
tại ). Ở Nhật Bản, tính đến cuối tháng 3 năm 2011 có 2140 đại lý thuế là pháp nhân
(gấp gần 3.8 lần so với số lượng ĐLT của nước ta ở thời điểm hiện tại). Còn nếu so với
lượng khách hàng tiềm năng trên 710.000 DN, 5 triệu hộ cá nhân kinh doanh thì số
lượng ĐLT càng q ít ỏi.
Bên cạnh đó, các ĐLT vẫn cịn tồn tại một số nhược điểm:
• Các Đại lý thuế bị hạn chế về phạm vi nghề nghiệp, họ chỉ được thực hiện các
công việc kê khai thuế cho DN chứ không được phép tư vấn về thuế.
• Hiện nay cịn nhiều ĐLT chưa thực sự chất lượng, gây hoang mang lo sợ cho
người sử dụng
• ĐLT chưa được nhiều người biết đến về các dịch vụ nên còn nhiều hạn chế trong
hoạt động.
Dù vậy, dịch vụ thuế tư rất có tiềm năng phát triển ở Việt Nam. Hiện nay, 1 số doanh
nghiệp Việt Nam đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đang thuê các ĐLT để
giảm thiểu các rủi ro trong công tác kế tốn cũng như cắt giảm các khoản chi phí thay
vì tuyển dụng và đào tạo nhân sự cho bộ máy kế tốn thuế của cơng ty. Lý do là các
doanh nghiệp đã nhìn thấy được những lợi ích thiết thực khi sử dụng dịch vụ kế
tốn/thuế có uy tín, chuyên nghiệp. Thực tế cho thấy, đây cũng là xu hướng chung của
các nước trên thế giới (Nhật Bản, Trung Quốc và các nước Châu Âu...đã áp dụng từ
nhiều năm trước đây). Đa số doanh nghiệp chọn phương thức thuê ngồi vì vừa đảm
bảo tính chun nghiệp vừa đạt được lợi ích kinh tế.
24
24
2.3 So sánh
Có thể thấy, dịch vụ đại lý thuế tuy vẫn còn tồn tại một số nhược điểm nhưng đây là
một dịch vụ vượt trội hơn so với dịch vụ thuế cơng hay các cơng ty kiểm tốn. Theo
thống kê, Việt Nam là quốc gia có thời gian tiêu tốn cho nộp thuế gần như cao nhất khu
vực với 872 giờ mỗi năm, gấp 4 lần mức trung bình của các nước châu Á - Thái Bình
Dương và cao hơn Indonesia (259 giờ), Thái Lan (264 giờ), Phillipines (193 giờ),
Malaysia (133 giờ) và Singapore (82 giờ), nếu khơng có sự trợ giúp của các ĐLT thì
các doanh nghiệp sẽ phải mất rất nhiều thời gian và công sức để xử lí các nghiệp vụ
thuế
Hơn hết, ĐLT là cơ quan duy nhất có quyền kí vào tờ khai thuế điện tử, nộp thuế điện
tử thay cho DN, ĐLT cũng sẽ là đại diện pháp lí hợp pháp của DN trước cơ quan quản
lí thuế, trong trường hợp DN có tranh cãi tố tụng về thuế thì ĐLT sẽ là đại diện hợp
pháp của DN tham gia tranh cãi, tố tụng. Trong khi đó các cơng ty tài chính kế tốn
kiểm tốn khơng làm được điều này.
Như vậy, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa khi mới thành lập đã nên tính ngay đến
việc thuê dịch vụ kế toán thuế từ các ĐLT để tiết kiệm chi phí đầu tư và hạn chế rủi ro
về kế tốn và chi phí thuế. Rõ ràng đây là một lựa chọn phù hợp và thông minh.
3. Đánh giá thực trạng phát triển các dịch vụ thuế hỗ trợ DNVVN
3.1. Thành tựu
•
Đề cao trách nhiệm và tính chủ động của người nộp thuế.
+ Tính đến 19/8/2021, số lượng doanh nghiệp đã đăng ký tham gia sử dụng
dịch vụ với cơ quan thuế là 832.802 doanh nghiệp, đạt 99% tổng số
doanh nghiệp đang hoạt động. Số lượng doanh nghiệp hoàn thành đăng
ký dịch vụ với hệ thống ngân hàng là 831.154 doanh nghiệp, đạt 98,8%.
Từ ngày 1/1 đến nay, các doanh nghiệp đã nộp tiền thuế thông qua
2.425.472 giao dịch nộp thuế điện tử với số tiền là trên 486.844 tỷ đồng
và 29.350.060 USD. Với những tiện ích thực sự của dịch vụ nộp thuế
25
25