Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Một số giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Agribank hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.02 KB, 84 trang )


LỜI NÓI ĐẦU
Công cuộc đổi mới đất nước ta được khởi xướng từ Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI và hiện nay chúng ta đang trong quá trình thực
hiện.Tại Đại hội VI Đảng đã khẳng đònh “ Việc chuyển nền kinh tế mang
tính tự cấp với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thò trường có sự quản lý Vó
mô của Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn, là cần thiết để giải phóng và
phát huy các tiềm năng sản xuất của xã hội”. Sự nghiệp này đồng nghóa
với việc vực dậy và phát triển một nền kinh tế lạc hậu, cơ sở hạ tầng yếu
kém về nhiều mặt do đó chúng ta cần có rất nhiều vốn. Đảng và Nhà
nước đã chỉ rõ “ Nguồn vốn trong nước là chủ yếu, nguồn vốn nước ngoài
là quan trọng”, phải đi lên bằng chính đôi chân của mình, bằng nội lực của
mình là chính. Thực hiện chủ trương đó chúng ta cần phải tổ chức thật tốt
các kênh dẫn vốn mà quan trọng nhất là hệ thống Ngân hàng. Đây là hệ
thống huyết mạch của nền kinh tế giúp vốn lưu chuyển đến những nơi cần
thiết, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, để hệ thống
này có thể phát huy hết khả năng, hoàn thành tốt nhiệm vụ đó thì còn
nhiều vấn đề được đặt ra cần giải quyết trong đó có vấn đề rủi ro tín dụng.
Tín dụng Ngân hàng được coi như là“ đòn bẩy” cho sự phát triển
kinh tế, là nguồn vốn quan trọng chủ động để phát triển nguồn vốn trong
nước. Nghiệp vụ tín dụng cũng là nghiệp vụ hàng đầu, có ý nghóa quan
trọng quyết đònh của mỗi Ngân hàng. Giống như mọi hoạt động kinh doanh
khác, hoạt động tính dụng cũng chứa đựng những rủi ro. Do đặc thù kinh
doanh tín dụng là kinh doanh của yếu dựa trên tiền của người khác, kinh
doanh qua tay người khác nên rủi ro trong hoạt động tín dụng của Ngân
hàng còn cao hơn rủi ro của các doanh nghiệp vì nó vừa phụ thuộc vào kết
qủa kinh doanh của Ngân hàng, vừa phụ thuộc vào kết qủa kinh doanh của
1

doanh nghiệp. Hơn nữa, rủi ro xảy ra trong hoạt động của Ngân hàng nói


chung và rủi ro tín dụng nói riêng còn nguy hiểm hơn rất nhiều so với rủi
ro trong các ngành kinh doanh khác. Hậu qủa của nó rất dễ lan truyền
trong cả hệ thống Ngân hàng, gây ra những vụ sụp đổ hàng loạt Ngân
hàng và những hậu qủa nghiêm trọng về kinh tế xã hội và đặc biệt là suy
giảm lòng tin của người dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, điển
hình là vụ đổ vỡ hàng loạt của gần 500 quỹ tín dụng đô thò và hàng nghìn
hợp tác xã tín dụng nông thôn ở nước ta những năm 1989-1990.
Với các Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay, rủi ro tín dụng
đang là vấn đề cấp bách như là thách thức đối với các nhà quản trò Ngân
hàng. Sự gia tăng các khoản nợ qúa hạn, nợ khó đòi, thất thoát vốn tín
dụng do bò lừa đảo, chiếm dụng… đã khiến cho nhiều Ngân hàng điêu
đứng, đẩy nhiều Ngân hàng vào tình trạng co cụm không dám đầu tư, cho
vay. Nhưng đã kinh doanh thì phải chấp nhận rủi ro. Chính vì vậy, vấn đề
đặt ra cho các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay là cần biết
chấp nhận rủi ro và tìm ra biện pháp giảm thiểu rủi ro đến mức thấp nhất
có thể, để trên cơ sở đó nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng lợi nhận và
góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.
Nhân thấy tính cấp bách của vấn đề, sau một thời gian thực tập ở
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội, dưới sự hướng
dẫn tận tình của cô giáo Nguyễn Minh Hạnh và các cán bộ phòng kinh
doanh em đã lựa chọn đề tài :
“Một số giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại
ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội.”
Kết cấu luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 chương:
2

Chương I : Những vấn đề lý luận chung về rủi ro tín dụng trong hoạt
động kinh doanh của các Ngân hàng Thương mại
Chương II : Thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn Hà Nội.

Chương III : Một số giải pháp, kiến nghò nhằm hạn chế rủi ro tín
dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội.
3

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ RỦI RO TÍN DỤNG
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI.
I. VÀI NÉT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1. Khái niệm Ngân hàng thương mại :
“ Ngân hàng thương mại là một tổ chức tín dụng kinh doanh trên lónh
vực tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng mà hoạt động chủ yếu thường
xuyên của nó là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và
sử dụng số tiền đó để cho vay, để đầu tư, chiết khấu và làm phương tiện
thanh toán”
Như vậy, ngân hàng thương mại trước hết là một trung gian tài chính
trên thò trường tài chính, làm nhiệm vụ thu hút và chuyển giao vốn giữa
người có vốn nhàn rỗi và người cần vốn để đầu tư. Trong nền kinh tế luôn
xảy ra trạng thái mất cân bằng về vốn giữa các doanh nghiệp, dân cư…Tại
một thời điểm có người thừa vốn sẽ có nhu cầu cho vay lấy lãi, lại có
những người thiếu vốn muốn có vốn để kinh doanh. Với tư cách là trung
gian tài chính, ngân hàng thương mại đứng ra thu hút mọi khoản tiền nhàn
rỗi trong xã hội để cung cấp cho nền kinh tế dưới nhiều hình thức khác
nhau, làm cho đồng tiền luôn ở trạng thái vận động mang lại lợi nhuận
đồng thời góp phần điều hòa vốn cho toàn bộ nền kinh tế.
2. Các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế
thò trường :
4


Trong nền kinh tế thò trường Ngân hàng thương mại thực hiện các
nghiệp vụ sau :
2.1. Nghiệp vụ huy động vốn :
Đây là nghiệp vụ cơ bản, đầu tiên của Ngân hàng thương mại. Chính
qua nghiệp vụ này, các Ngân hàng thương mại đã thực hiện chức năng tạo
tiền. Ngân hàng thương mại có thể huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh
tế bằng cách nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế, cá nhân, tổ chức tín
dụng khác thông qua hình thức gửi tiền không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn,
tiền gưi tiết kiệm và các loại tiền khác. Ngoài ra, khi cần thêm vốn, Ngân
hàng thương mại có thể phát hành các chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các
giấy tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước. Ngân hàng thương mại cũng có thể vay vốn của các tổ chức tín
dụng khác trong và ngoài nước hoặc vay vốn của Ngân hàng Nhà nước.
Tuy nhiên, Ngân hàng phải huy động vốn trên cơ sở vốn tự có được quy
đònh theo luật của mỗi nước. Luật của Việt Nam quy đònh các Ngân hàng
thương mại không được huy động vốn quá 20 lần vốn tự có và quỹ dự trữ.
2.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn :
Đây là nghiệp vụ kinh doanh mang lại phần lớn lợi nhuận cho Ngân
hàng thương mại. Trong nghiệp vụ này, Ngân hàng thương mại dùng vốn
tự có và vốn huy động cấp tín dụng cho khách hàng, có nghóa là Ngân
hàng thương mại thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với
nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết
khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh Ngân hàng và các nghiệp vụ khác. Là
hoạt động kinh doanh mang lại nhiều lợi nhuận nhưng đồng thời cũng là
hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất, do vậy các Ngân hàng thương mại
5

luôn chú trọng tới việc thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tín dụng để
đảm bảo thu về cả gốc và lãi đúng hạn.
2.3. Nghiệp vụ trung gian :

-Nghiệp vụ thanh toán :
Các Ngân hàng mại thực hiện nghiệp vụ thanh toán thông qua việc
phát hành các công cụ thanh toán như thẻ tín dụng, thẻ thanh toán, séc,
cung cấp các dòch vụ thanh toán cho công chúng, thực hiện các dòch vụ thu
chi hộ. Để làm tốt chức năng này Ngân hàng đã tham gia vào hệ thống
thanh toán liên ngân hàng, hệ thống thanh toán bù trừ hay thông qua các
ngân hàng đại lý.
-Tham gia hoạt động trên thò trường ngoại hối :
Nghiệp vụ này xuất phát từ sự phát triển hoạt động kinh doanh theo
xu hướng hội nhập và phân công lao động quốc tế. Đồng thời, nó cũng là
động lực thúc đẩy trở lại sự phát triển của hoạt động này. Các Ngân hàng
thương mại thu được lợi nhuận từ việc mua bán ngoại tệ, kim loại quý…
trên thò trường ngoại hối trên cơ sở mua vào với giá thấp, bán ra với giá
cao. Ngoài ra, các Ngân hàng thương mại còn kinh doanh trên cơ sở chên
lệch tỷ giá giao dòch ngay, giao dòch có kỳ hạn…
-Tham gia các hoạt động trên thò trường chứng khoán :
Trên thò trường chứng khoán, các Ngân hàng thương mại tham gia
với tư cách là người phát hành, người mua bán, người môi giới, người đầu
tư… trong đó chức năng môi giới của Ngân hàng rất được quan tâm thông
qua các hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán cho các công ty, mua
chứng khoán hộ khách hàng.
6

-Cung cấp các dòch vụ khác cho khách hàng:
Lợi nhuận đem lại từ việc cung cấp dòch vụ cho khách hàng chiếm tỷ
trọng ngày càng cao trong tổng lợi nhuận của ngân hàng. Do đó ngân hàng
rất chú trọng tới việc đa dạng hoá các dòch vụ, nâng cao hiệu quả chất
lương phục vụ. Hiện nay, các dòch vụ của Ngân hàng rất đa dạng phong
phú từ việc bảo lãnh đến việc cung cấp các dòch vụ tư vấn tài chính, quản
lý tài sản cho khách hàng, lưu giữ và bảo quản các chứng từ, tài sản có giá,

cho thuê két, thực hiện nghiệp vụ đại lý ủy thác, quản lý danh mục đầu
tư……
3. Vai trò của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thò
trường:
Là một ngành kinh doanh đặc biệt, hoạt động của Ngân hàng thương
mại, có những đặc thù riêng gắn liền với loại hàng hoá đặc biệt đó là tiền
tệ. Trong nền kinh tế thò trường, hoạt động của Ngân hàng thương mại rất
đa dạng và phong phú, nó đóng vai trò quan trọng đến sự phát triển của
nền kinh tế thể hiện trên một số khía cạnh sau :
-Ngân hàng thương mại tạo ra tín dụng, giúp cho doanh nghiệp có
điềi kiện mở rộng sản xuất kinh doanh. Như chúng ta đã biết, Ngân hàng
thương mại là nơi tích tụ và tập trung vốn, nơi khơi dậy và thu hút mọi tiềm
năng của xã hội, phục vụ cho các mục tiêu kinh tế xã hội như giải quyết
công ăn việc làm, tăng trưởng kinh tế… Do vậy, giữa các Ngân hàng
thương mại và các ngành kinh tế có mối quan hệ hữu cơ với nhau : trên cơ
sở các nguốn tiền nhàn rỗi, tạm thời chưa sử dụng trong nền kinh tế mà
Ngân hàng huy động được, Ngân hàng tiến hành phân phối cho các nhu
cầu của các doanh nghiệp. Trong cơ chế thò trường, vấn đề vốn là vấn đề
rất quan trọng đối với các doanh nghiệp, nhu cầu về vốn của các doanh
7

nghiệp cho việc đầu tư phát triển mở rộn sản xuất kinh doanh là rất lớn,
trong khi đó nguồn vốn tự có của doanh nghiệp là có giới hạn, do đó muốn
thực hiện được nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh thì các doanh nghiệp
cần thiết phải nhờ đến các nguồn vốn khác, mà lớn nhất là nguồn vốn tiết
kiệm trong xã hội.
-Ngân hàng thương mại giúp cho các doanh nghiệp quản lý hoạt
động sản xuất kinh doanh có hệu quả. Đăc trưng cơ bản của tín dụng Ngân
hàng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả và có lợi tức. Như ta đã biết giá cả
của tiền vay là lãi suất, qua lãi suất Ngân hàng thúc đẩy các doanh nghiệp

phải hạch toán kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng khả năng sinh
lợi… để doanh nghiệp có thể trả được lãi vay mà Ngân hàng vẫn đảm bảo
có lãi. Mặt khác, qua khâu thẩm đònh dự án vay của doanh nghiệp, Ngân
hàng chỉ quyết đònh cho vay với những đơn vò có khả năng hoàn trả nợ và
lãi vay. Vì vậy. Để được Ngân hàng cho vay vốn thì các doanh nghiệp cần
phải sắp xếp tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh sao cho tốt nhất và
sao cho tạo được lòng tin đối với Ngân hàng.
-Ngân hàng giúp cho nền kinh tế phân bổ vốn giữa các vùng
trong một quốc gia, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế vùng.
Do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên mà giữa các vùng thường có sự phát
triển kinh tế xã hội không đồng đều. Ngân hàng TW sẽ đứng ra điều hoà
vốn từ nơi ế thừa(không sử dụng hết) sang nơi thiếu(huy động không đủ)
đảm bảo thuận lợi cho sự phát triển kinh tế vùng, xoá dần sự khác biệt
giữa các vùng trên lãnh thổ về kinh tế xã hội.
-Ngân hàng góp phần chống lạm phát và là một trong những công
cụ quản lý Nhà nước có hiệu quả, tạo nên sự ổn đònh và tăng trưởng trong
nền kinh tế.
8

-Ngân hàng là cầu nối giữa nền kinh tế trong nước và nền kinh tế
thế giới, tạo môi trường quyết đònh phát triển ngoại thương và các ngành
kinh tế có liên quan. Ngày nay, sự phát triển kinh tế của một nước luôn
gắn liền với thò trường thế giới và Ngân hàng thương mại có vai trò quan
trọng trong việc mua bán hàng hoá giữa các nước, đồng thời nhờ nguồn tín
dụng ở bên ngoài để có thể công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
II. MẠI RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG:
1. Rủi ro trong kinh doanh nói chung :
1.1.Khái niệm rủi ro kinh doanh :
Các hoạt động trong lónh vực kinh tế cũng như trong mọi lónh vực

khác của đời sống đều phải chòu ảnh hưởng của nhiều yếu tố của môi
trường xung quanh và của chính bản thân hoạt động đó. Những yếu tố này
do chủ quan hay khách quan có thể có tác động tích cực hay tiêu cực.
Những yếu tố tác động theo hướng tiêu cực sẽ làm cản trở thậm chí phá
hoại quá trình thực hiện công việc, chúng được coi là những yếu tố gây rủi
ro. Vậy rủi ro là gì? Đã có nhiều quan niệm khác nhau về rủi ro.
Học giả người Mỹ, Frank Knight cho rằng “ Rủi ro là sự bất trắc có
thể đo lường được”. Allan Willett cho rằng “ Rủi ro là sự bất trắc cụ thể
liên quan đến một biến cố không mong đợi”. Còn theo Inring Perfer “ Rủi
ro là tổng hợp của những sự ngẫu nhiên có thể đo lường bằng xác suất”.
Như vậy, các đònh nghóa tuy có những mặt khác nhau nhưng đều thống
nhất một nội dung, coi rủi ro là sự bất trắc không mong đợi gây ra mất mát
thiệt hại và có thể đo lường được.
Từ đó có thể thấy rủi ro trong kinh doanh là một tất yếu như người ta
thường nói “ Rủi ro là người bạn đồng hành nhưng xấu bụng của các nhà
9

kinh doanh”. Nó có thể xuất hiện trong bất cứ khâu nào của quá trình sản
xuất kinh doanh, có khi còn dẫn đến sự phá sản của doanh nghiệp. Đặc
biệt trong nền kinh tế thò trường cạnh tranh khốc liệt, kinh doanh luôn gắn
liền với rủi ro. Chiến lược kinh doanh càng táo bạo thì các nhà kinh doanh
càng dễ thu lợi nhuận nhưng cũng rất dễ gặp rủi ro, tổn thất nặng nề. Ngay
cả những người biết kinh doanh cũng chỉ có thể giảm bớt rủi ro chứ không
thể hoàn toàn loại trừ nó. Nó luôn xuất hiện bất ngờ đe dọa từ những
người kinh doanh nhỏ đến các công ty đa quốc gia.Chính vì vậy, để tồn tại
và phát triển các doanh nghiệp không còn con đường nào khác là phải
đương đầu với rủi ro bằng cách phán đoán các rủi ro có thể xảy ra và tìm
biện pháp phòng ngừa, hạn chế nhằm giảm đến mức tối thiểu thiệt hại do
rủi ro gây ra. Như vậy, sau khi đã phân tích kỹ doanh nghiệp phải biết các
chấp nhận rủi ro, điều đó cũng có nghóa là mạo hiểm nhưng không phải là

sự liều lónh, thiếu cân nhắc.
1.2. Phân loại rủi ro :
Tùy theo mục đích nghiên cứu, người ta đã phân loại rủi ro theo
những tiêu thức khác nhau.
Vào thế kỷ XIX, John Bates Clavek, học giả người Mỹ đã chia rủi ro
thành 2 loại : rủi ro tónh và rủi ro động. Cách phân loại này dựa trên cơ sở
phân biệt trạng thái tónh và trạng thái động của nền kinh tế từ đó có thể
phân biệt các rủi ro tónh và rủi ro động do xuất phát điểm của nó là tónh
hay động.
Có 3 cách phân biệt :
10

-Cách thứ nhất : dựa vào cách thức ảnh hưởng đến tài sản. Các
rủi ro tónh xảy ra khi tài sản bò hủy hoại về vật chất ( cháy, bão lụt … ) hoặc
bò chuyển giao sở hữu cho người khác bằng các hành vi phi pháp như : giả
mạo giấy tờ, ăn cắp, lừa đảo. Trái lại, các rủi ro động xảy ra khi giá trò của
một số sản phẩm hoặc một dòch vụ bò suy giảm do kết quả của quá trình
vận động của nền kinh tế : cung cầu, giá cả sản phẩm thay đổi, năng suất
lao động tăng…
-Cách thứ hai : là dựa vào mức độ ảnh hưởng. Các rủi ro tónh
thường ảnh hưởng tương đối ít đến các tài sản và thường là trong mỗi
trường hợp riêng biệt nào đó. Còn các rủi ro động thường ảnh hưởng đến
nhiều loại tài sản với mức độ nặng nề hơn.
-Cách thứ ba : là dựa vào mức độ đều đặn hay bất thường của các
rủi ro. Các rủi ro tónh thường xuất hiện đều đặn trong một giai đoạn nào
đó.Trong khi đó các rủi ro động thường xuất hiện bất thường cả về thời
gian và không gian. Ví dụ như hỏa hoạn, bão lụt thường xảy ra đều đặn
hơn ở những thời kỳ nào đó hàng năm, còn biến động giá cả thò trường thì
có thể xuất hiện bất kỳ lúc nào, ở đâu.
Đến đầu thế kỷ XX, một số nhà kinh tế học lại cố gắng phân đònh rõ

và tách biệt hai loại rủi ro, đó là rủi ro có thể tính toán được và rủi ro
không thể tính toán được. Họ cho rằng các rủi ro có tần số xuất hiện của
chúng mà có thể dự đoán được ở một mức độ tin cậy nào đó gọi là rủi ro
có thể tính toán được. Còn những loại rủi ro mà tần số xuất hiện quá bất
thường đến nỗi thách thức sự tiên đoán trong bất cứ phạm vi nào gọi là rủi
ro không thể tính toán được. Tuy nhiên, sự đo lường chỉ có tính chất tương
đối, một số hiện tượng có thể đo lường nhiều hơn, một số khác lại đo lường
ít hơn và cũng có vô số mức độ chính xác, mức độ tin cậy khác nhau. Rất ít
11

rủi ro kinh doanh hoàn toàn đo lường được. Do đó, về sau khi đề cập đến
các vấn đề rủi ro kinh doanh vì các loại rủi ro đó không thể xử lý bằng kỹ
thuật bảo hiểm hay bảo vệ trực tiếp.
Ngày nay, khi nói đến rủi ro thuộc về tài chính, người ta phân chia
thành hai loại rủi ro là rủi ro thuần tuý( khách quan) và rủi ro có thể dự
đoán (chủ quan). Rủi ro thuần túy là rủi ro thường liên quan đến việc phá
hủy tài sản hoặc mất mát, tổn thất như thiên tai, lừa đảo, trộm cắp… thường
được chống đỡ, phòng ngừa bằng kỹ thuật bảo hiểm hay bảo vệ trực tiếp.
Rủi ro có thể dự đoán là rủi ro liên quan đến hoạt động có thể sinh lời
hoặc lỗ vốn như giá cả thay đổi, cung cầu thay đổi… Những rủi ro này
không thể chống đỡ bằng kỹ thuật bảo hiểm hay biện pháp an ninh mà
phải sử dụng các phương pháp phân tích kinh tế rất phức tạp.
2. Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
thương mại :
Cũng như bất kỳ ngành kinh doanh nào khác, Ngân hàng có thể gặp
rủi ro và có thể mất vốn. Hơn nữa, Ngân hàng là một ngành kinh tế nhạy
cảm, hoạt động Ngân hàng với bản chất của nó, chòu ảnh hưởng của rất
nhiều loại rủi ro.. Bản thân người quản lý Ngân hàng và người lập chính
sách cần biết và hiểu những rủi ro này để tìm mọi cách hạn chế sự đổ vỡ
dễ gây thiệt hại, trước hết là đến Ngân hàng sau đó là đến toàn bộ nền

kinh tế. Có rất nhiều loại rủi ro phát sinh trong hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng thương mại, bao gồm các loại chủ yếu sau :
2.1. Rủi ro lãi suất:
12

Lãi suất được đònh nghóa là chi phí để vay hoặc giá phải trả để thuê
vốn trong một thời gian nào đó. Trong Ngân hàng có 2 loại lãi suất : lãi
suất cho vay và lãi suất huy động, chúng tạo ra thu nhập và chi phí cho
Ngân hàng. Trong nền kinh tế thò trường, lãi suất là một loại giá cả luôn
biến động theo quy luật cung cầu. Rủi ro lãi suất mà Ngân hàng phải gánh
chòu là sự biến động về lãi suất làm thay đổi tiền lãi của Ngân hàng.
Chẳng hạn, lãi suất cho vay giảm trong khi lãi suất tiền gửi hoặc trái phiếu
giữ nguyên làm giảm thu nhập của Ngân hàng. Những thiệt hại do rủi ro
lãi suất gây ra làm cho chi phí nguồn vốn cao hơn thu nhập từ sử dụng vốn
làm cho kinh doanh Ngân hàng bò thua lỗ.
2.1. Rủi ro hối đoái :
Là rủi ro xảy ra khi có sự biến động giá cả ngoại tệ so với bản tệ
của Ngân hàng. Việc Ngân hàng nắm giữ các chứng khoán, các khoản vay
ngoại tệ hoặc ngoại tệ tiền mặt sẽ khiến Ngân hàng gặp rủi ro khi tỷ giá
thay đổi. Ngân hàng lỗ hay lãi phụ thuộc phụ thuộc vào Ngân hàng có tình
thế ngoại hối trường hay đoản. Khi Ngân hàng có tình thế trường một
ngoại tệ, nếu ngoại tệ đó lên giá, Ngân hàng có lãi qua đánh giá lại và
Ngân hàng lỗ khi ngoại tệ xuống giá. Ngược lại, Ngân hàng có tình thế
ngoại hối đoản, Ngân hàng này bò lỗ khi ngoại tệ đó lên giá và có lãi khi
ngoại tệ đó xuống giá.
2.2. Rủi ro hoạt động ngoại bảng :
Một xu hướng đang phát triển mạnh mẽ trong hoạt động của một
Ngân hàng hiện đại là việc mở rộng các nghiệp vụ ngoại bảng. Theo đònh
13


nghóa hoạt động ngoại bảng là các hoạt động không thuộc bảng cân đối tài
sản ( nội bảng). Tuy nhiên, các hoạt động ngoại bảng có ảnh hưởng tới
trạng thái tương lai của bảng cân đối tài sản nội bảng, bởi vì các hoạt động
ngoại bảng có thể tạo ra những tài sản có và tài sản nợ bổ sung cho bảng
cân đối nội bảng. Ví dụ về hoạt động ngoại bảng của Ngân hàng như phát
hành tín dụng dự phòng bảo lãnh cho công ty phát hành trái phiếu. Rất
nhiều công ty không thể phát hành được trái phiếu nếu không có bảo lãnh
thư của ngân hàng.
Xuất phát từ tính chất của các hoạt động ngoaiï bảng là Ngân hàng
thu được lãi trong khi không phải sử dụng vốn kinh doanh cho nên đã
khuyến khích các hoạt động ngoại bảng ngày càng phát triển. Tuy nhiên,
những hoạt động này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Chẳng hạn, trong trường
hợp công ty phát hành trái phiếu phá sản thì Ngân hàng phải đứng ra thanh
toán toàn bộ gốc và lãi chứng khoán do công ty đó phát hành, điều này
dẫn đến bảo lãnh thư đã trở thành một bộ phận trong bảng cân đối tài sản
nội bảng, nghóa là Ngân hàng phải sử dụng vốn kinh doanh của mình để
trang trải những gì cam kết trong thư bảo lãnh. Trong thực tế, những trường
hợp thua lỗ nghiêm trọng trong các hoạt động ngoại bảng đã trở thành
những nguyên nhân chính khiến cho Ngân hàng có thể phá sản.
2.3. Rủi ro ứ đọng vốn :
Rủi ro này xuất hiện trong trường hợp nguồn vốn của ngân hàng bò ứ
đọng, không ho vay được hoặc không thể chuyển sang các tài sản sinh lời
khác. Điều này gây ra rủi ro lớn cho Ngân hàng, bởi vì ngân hàng thương
mại kiếm lợi nhuận bằng cách “ Nhận gửi để cho vay”, nguồn vốn tự có
rất ít, chỉ là cái đệm để chống đỡ sự sụt giá của tài sản có, nguồn vốn hoạt
động chủ yếu của Ngân hàng làvốn huy động. Nếu vì một lý do nào đó,
14

Ngân hàng không cho vay ta được nguồn vốn này hoặc không sử dụng hết
nghóa là tồn tại tiền dự trữ quá mức không sinh lãi, trong khi đến hàng

ngân hàng vẫn phải trả lãi cho số tiền huy động và các chi phí nghiệp vụ
khác có liên quan, như vậy sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của Ngân hàng.
Tình trạng này kéo dài đến một mức nào đó sẽ đẩy Ngân hàng vào hoàn
cảnh khó khăn thua lỗ hoặc thậm chí phá sản.
2.4. Rủi ro tín dụng :
Là rủi ro xảy ra trong hoạt động tín dụng và là loại rủi ro lớn nhất và
thường xuyên nhất vì các món cho vay của Ngân hàng thương mại chiếm
tới 2/3 tổng tài sản có. Hoạt động cho vay sẽ mang lại nguồn thu nhập lớn
nhất cho các Ngân hàng thương mại nếu các khoản tín dụng được cấp ra
không gặp phải rủi ro, ngược lại các khoản tín dụng được cấp ra cũng có
thể gây nên nhiều phiền toái, tổn thất cho Ngân hàng nếu các khoản tín
dụng đó không được thu hồi cả gốc và lãi. Trong nhiều trường hợp rủi ro
tín dụng quá lớn so với vốn tự có của Ngân hàng thì Ngân hàng sẽ gặp rất
nhiều khó khăn và thậm chí có thể bò vỡ nợ hoặc phá sản.
2.5. Rủi ro mất khả năng thanh toán :
Rủi ro thanh toán phát sinh khi dân chúng mất lòng tin vào Ngân hàng
hoặc nhu cầu rút tiền có tính chất thời vụ mà ngân hàng không dự tính
trước được đòi hỏi Ngân hàng phải chi trả tức thời một khoản tiền lớn hơn
mức bình thường. Trong bối cảnh đó, hầu hết các ngân hàng đều phải đối
phó với tình huống tương tự, thì chi phí để huy động vốn bổ sung tăng lên
một cách đáng kể do lượng vốn cung ứng trên thò trường giảm. Hậu quả là
ngân hàng phải bán một số tài sản có độ thanh khoản thấp càng ngày càng
nghiêm trọng, nếu tất cả người gửi tiền đồng loạt yêu cầu chi trả toàn bộ
15

tiền gửi của họ thì dẫn đến Ngân hàng chỉ đang từ chỗ phải đối phó với rủi
ro thanh khoản đến chỗ phải đối mặt với rủi ro phá sản.
2.6.Các rủi ro thuần túy khác :
Đó là những rủi ro do biến động của thiên nhiên gây ra như thiên tai,
hoả hoạn, động đất… hoặc các rủi ro như lừa đảo, trộm cắp, tham nhũng…

làm thiệt hại hay phá hủy các tài sản của Ngân hàng. Các chính sách của
Nhà nước cũng có ảnh hưởng dẫn đến làm mất cơ hội kinh doanh của
Ngân hàng.
III. RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA NGÂN HÀNG.
1. Khái niệm và phân loại rủi ro tín dụng :
Tín dụng là qua vay mượn dưới dạng tiền tệ có hoàn trả gốc và lãi
giữa người có vốn (Ngân hàng) và người thiếu vốn (doanh nghiệp, dân cư).
Tín dụng hoàn toàn khác các nghiệp vụ tài trợ đang cấp vốn của Nhà nước
cho doanh nghiệp. Trong quan hệ tín dụng, quyền sử dụng tạm tách rời
quyền sở hữu. Theo nghóa nguyên thủy của khái niệm tín dụng là tin mà
đưa tiền cho sử dụng thì hoạt động tín dụng tốt hay xấu phụ thuộc rất nhiều
vào chữ tín của người vay tiền. Theo nghóa rộng chữ tín này bao hàm cả
năng lực tài chính và sự sẵn sàng trả tiền của người đi vay hay không.
Hoạt động tín dụng là hoạt động tiêu biểu của hầu hết các Ngân hàng phải
tìm mọi các để kiểm soát được khả năng hoàn trả nợ của khách hàng, ít
nhất cũng là dự tính, phán đoán khả năng này.
16

Qua tìm hiểu về hoạt động của Ngân hàng thương mại nói chung
cũng như hoạt động tín dụng nói riêng cùng những khái niệm rủi ro, chúng
ta có thể rút ra khái niệm rủi ro tín dụng như sau :
“ Rủi ro tín dụng là rủi ro trong hoạt động tín dụng xảy ra khi người
đi vay khôn có khả năng hoàn trả được hoặc lãi hoặc gốc hoặc cả hai”
Rủi ro tín dụng thường được biểu hiện bằng các khoản nợ khó đòi,
nợ quá hạn, nợ khoanh… hay ở dạng tiềm ẩn như các khoản nợ gia hạn, nợ
đảo…
Rủi ro tín dụng được phân loại theo nhiều tiêu thức :
-Theo thời hạn cho vay : gồm rủi ro tín dụng ngắn hạn, và rủi ro
tín dụng trung-dài hạn.

-Theo các hình thức cho vay : gồm rủi ro tín dụng thông thường,
rủi ro tín dụng chiết khấu, rủi ro tín dụng thuê mua…
-Theo các lónh vực cho vay : gồm rủi to tín dụng nông nghiệp, rủi
ro tín dụng công nghiệp, rủi ro tín dụng thương nghiệp…
-Theo thành phần kinh tế : gồm rủi ro tín dụng kinh tế quốc
doanh và rủi ro tín dụng kinh tế ngoài quốc doanh.
2. nh hưởng của rủi ro tín dụng :
Rủi ro của Ngân hàng thương mại tùy theo các mức độ có thể ảnh
hưởng ít hay nhiều đến bản thân ngân hàng và khách hàng, thậm chí toàn
bộ nền kinh tế.
Đối với bản thân Ngân hàng, tác hại của rủi ro tín dụng là rất rõ, nó
ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của Ngân hàng. Khi rủi ro xảy ra ở mức
17

độ nhỏ, Ngân hàng có thể sử dụng qũy dự phòng, vốn tự có để bù đắp, ở
mức độ này Ngân hàng chỉ bò giảm lợi nhuận kinh doanh. Nhưng nếu rủi ro
ở mức độ cao hơn, vốn tự có cũng không đủ bù đắp thì Ngân hàng có nguy
cơ phá sản. Rủi ro tín dụng còn gây ra khó khăn cho Ngân hàng đến việc
thanh toán tiền gửi đến hạn cho khách hàng. Vốn vay không may chưa thu
hồi đủ tron gkhi đến hạn Ngân hàng vẫn phải trả đủ cả gốc và lãi cho
người gửi. Như vậy, các kế hoạch chi trả của Ngân hàng đều bò đảo
lộn.Trong trường hợp đến hạn trả tiền mà Ngân hàng chưa có đủ tiền trả
cho người gửi thì Ngân hàng còn phải mất các chi phí cho việc bán chứng
khoán, vay Ngân hàng trung ương hay vay các Ngân hàng thương mại
khác… Ngoài ra, rủi ro còn làm giảm uy tín của Ngân hàng trên thò trường,
ảnh hưởng đến việc huy động vốn cũng như tác động xấu đến quan hệ với
các Ngân hàng khác.
Không dừng lại ở đó, rủi ro tín dụng còn ảnh hưởng tới toàn bộ nền
kinh tế. Ngân hàng được coi như trung tâm thần kinh của nền kinh tế và
hoạt động của nó thể hiện một bức tranh kinh tế thu nhỏ của đòa bàn nơi

Ngân hàng đặt trụ sở. Qua đánh giá hoạt động của Ngân hàng, người ta có
thể biết được tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, tình
hình thu nhập của dân cư… Khi Ngân hàng gặp rủi ro tín dụng đến một mức
độ nào đó sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống kinh tế xã hội. Rủi ro tín
dụng xảy ra, Ngân hàng không thu hồi được vốn cho vay đúng hạn sẽ ảnh
hưởng đến khả năng chi trả, tình trạng này kéo dài đến một mức độ nào đó
sẽ làm người gửi tiền mất lòng tin và ồ ạt kéo đến Ngân hàng đòi rút tiền.
Nếu Ngân hàng không kòp thời chuẩn bò cho tình huống này hoặc không đủ
khả đáp ứng được nhu cầu rút tiền lớn nhu vậy thì Ngân hàng sẽ lâm vào
tình trạng mất khả năng thanh toán và có thể dẫn tới phá sản. Tâm lý
hoang man mất lòng tin vào Ngân hàng sẽ làm nhiều người gửi tiền khác
18

kéo đến Ngân hàng khác rút tiền hàng loạt gây mất ổn đònh trên thò
trường, ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.
3. Kinh nghiệm các nước trong việc phòng ngừa và hạn chế rủi
ro tín dụng.
3.1. Kinh nghiệm phòng chống rủi ro tín dụng của Ngân hàng Đức :
Đức là một quốc gia có hệ thống tài chính thuộc loại phát triển trên
thế giới để có được kết qủa đó, công tác phòng chống rủi ro của họ khá
hoàn thiện. Nó đảm bảo an toàn của đầu ra cũng như đầu vào của các
khoản tín dụng thông qua “Qũy đảm bảo tiền gửi” và “Ngân hàng bảo
lãnh”.
“Qũy bảo hiểm tiền gửi” là một hiệp hội do các Ngân hàng thương
mại Đức thành lập từ năm 1956, hiện nay nó có trên 300 hội viên là các
Ngân hàng thương mại cổ phần. Chức năng chính của Qũy là tạo ra khả
năng thanh toán cho các Ngân hàng thương mại là thành viên của hiệp hội
và đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền khi Ngân hàng bò phá sản.
Qũy bảo hiểm tiền gửi của Ngân hàng Đức chỉ đơn thuần là một tổ
chức với chức năng bảo đảm mà không hề kinh doanh. Tỷ lệ đóng góp của

các thành viên là 0.03% tính trên tổng số tiền gửi. Tổng số tiền đóng góp
của các thành viên có thể được dùng để mua tín phiếu kho bạc nhà nước
hoặc gửi vào một Ngân hàng thương mại có uy tín là một trong những
thành viên của Qũy. Tuy nhiên, việc gửi hay mua tín phiếu không nhằm
mục đích sinh lời nên qua các kỳ hạn gửi hay mua tín phiếu hết sức linh
hoạt, nó có khả năng chi trả khách hàng cả vốn lẫn lãi trong vòng 3 tuần lễ
nếu như một Ngân hàng thành viên phá sản hay thiếu khả năng thanh
khoản.
19

“Ngân hàng bảo lãnh” là một tổ chức được thành lập theo luật công
ty với chức năng chính là bảo lãnh các doanh nghiệp vay vốn Ngân hàng
nếu các doanh nghiệp không có đủ tài sản thế chấp. Nguồn thu chủ yếu
của các Ngân hàng bảo lãnh là từ lệ phí bảo lãnh và lợi nhuận từ kinh
doanh chứng khoán.
Để đủ điều kiên bảo lãnh, các doanh nghiệp đệ trình các dự án đầu
tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình đến Ngân hàn g bảo lãnh.
Sau đó Ngân hàng bảo lãnh có trách nhiệm thẩm đònh xem có tính khả thi
hay không. Nếu kết thúc quá trình thẩm đònh cho kết quả tốt mà doanh
nghiệp không đủ tài sản thế chấp cho khoản tín dụng thì Ngân hàng bảo
lãnh sẽ đứng ra bảo lãnh cho doanh nghiệp được vay vốn. Theo luật đònh,
nếu có rủi ro xảy ra Ngân hàng bảo lãnh sẽ chòu 80% giá trò tài sản thiệt
hại và Ngân hàng thương mại chòu 20%.
Theo luật Ngân hàng Đức quy đònh thì tổng mức bảo lãnh tối đa
bằng 36 lần vốn tự có của Ngân hàng, không được bảo lãnh cho doanh
nghiệp quá 1 triệu ĐM, thời hạn bảo lãnh đối với các công trình xây dựng
là 23 năm, các trường hợp khác tối đa là 15 năm. Các khoản tín dụng dùng
để mua sắm vật liệu sản xuất thì chỉ được bảo lãnh từ 35% đến 50% vốn
vay. Thông qua Bộ tài chính, Nhà nước hỗ trợ một phần vốn cho Ngân
hàng bảo lãnh bằng các hình thức tái bảo lãnh miễn phí, miễn thuế doanh

thu nhằm đảm bảo chính sách giá cả và tăng trưởng kinh tế.
3.2. Kinh nghiệm hạn chế rủi ro tín dụng của Mỹ và một số nước Châu
á.
Khoản nợ khó đòi khổng lồ của hệ thống ngân hàng đang trở thành
trở lực chính trong quá trình cả cách và phục hồi kinh tế của các nền kinh
tế Châu á. Theo ước tính của các nhà phân tích, số nợ thực tế lớn hơn rất
20

nhiều so với con số mà Chính phủ công bố, thường chiếm từ 25% đến 35%
tổng dư nợ của hệ thống Ngân hàng. Cụ thể, nợ khó đòi của hệ thống
Ngân hàng Trung Quốc lên tới 2,5 nghìn tỷ nhân dân tệ, tương đương 300
tỷ USD, Nhật Bản là 250 tỷ USD, Hàn Quốc 100 tỷ USD, Thán Lan 70 tỷ
USD, Malaisia 10 tỷ USD… Số nợ khó đòi này nếu không được nhanh
chóng tháo gỡ, hệ thống Ngân hàng sẽ có nguy cơ rơi vào tình trạng mất
khả năng thanh toán và sự sụp đổ hệ thống là khó tránh khỏi.
Có nhiều cách để xử lý số nợ này, đơn giản nhất là xoá nợ hoặc cơ
cấu lại các khoản nợ này bằng nguồn vốn của Chính phủ. Nhưng do số nợ
của hệ thống Ngân hàng quá lớn nên chi phí sẽ rất tốn kém. Mặt khác, làm
như vậy sẽ không thúc đẩy được quá trình cải cách nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động của hệ thống Ngân hàng. Có một phương pháp khác đáp
ứng cả hai mục tiêu tiết kiệm chi phí và thúc đẩy quá trình cải cách nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng đó là mô hình công
ty quản ký tài sản (Asset Management Company-AMC).
AMC lần đầu tiên được đưa ra và áp dụng ở Mỹ để giải quyết cuộc
khủng hoảng và tiết kiệm vào cuối những năm 80. Do một số quỹ tiết
kiệm quá lớn để có thể đóng cửa một cách đơn giản mà không gây ra
những tác động xã hội nhất đònh nên Chính phủ Mỹ đã đưa ra giải pháp
thành lập “Công ty ủy thác xử lý tài sản”, một loại hình của AMC. Công ty
này với tư cách là một cơ quan Trung ương đứng ra mua lại các khoản nợ
khó đòi của các quỹ tiết kiệm và sau đó tìm mọi các làm tối đa hoá khả

năng thu hồi thông qua các khoản nợ thông qua việc bán trên thò trường.
Sự thành công của mô hình này đã giúp Mỹ thoát ra khỏi cuộc khủng
hoảng một cách nhẹ nhàng.
21

Từ kinh nghiệm của Mỹ có thể nêu một số đặc điểm chung của
AMC như sau:
-AMC là một đònh chế tài chính phi ngân hàng có mục tiêu đặc
biệt, có trách nhiệm và quyền lực đặc biệt trong việc thực hiện chức năng
mua các khoản nợ khó đòi từ hệ thống ngân hàng và xử lý các khoản nợ
khó đòi đó một cách tối ưu.
-Mục tiêu hoạt động của AMC không vì lợi ích của chính bản
thân công ty mà nhằm phục hồi lại sức mạnh cho cả hệ thống ngân hàng.
-Vai trò: AMC là một tổ chức đóng vai trò trung gian hay như một
công cụ của Chính phủ trong việc giải quyết các khó khăn của hệ thống
Ngân hàng. Nhờ có AMC, chi phí cho quá trình cải tổ hệ thống Ngân hàng
sẽ được giảm nhẹ, hiệu quả cả về mặt kinh tế và xã hội đều được nâng
lên.
-Chức năng: AMC mua lại các khoản nợ của Ngân hàng, sau đó
tìm mọi cách để tối đa hoá khả năng thu hồi nợ thông qua các biện pháp
khác nhau như: sử dụng tài sản thế chấp để góp vốn liên doanh, liên kết;
cho thuê; sửa chữa, đầu tư làm tăng giá trò tài sản trước khi bán; chuyển nợ
thành cổ phần để tham gia vào công việc điều hành các công ty con nợ
nhằm làm cho các công ty này hoạt động có hiệu quả hơn và có khả năng
trả nợ…
Sự cần thiết phải thành lập AMC:
Một câu hỏi đặt ra là nếu chuyển toàn bộ số nợ khó đòi của Ngân
hàng sang cho AMC thì có nghóa là các Ngân hàng sẽ không phải chòu
trách nhiệm gì về những thiệt hại do chính mình gây ra?
22


Trước hết, sức khỏe của hệ thống ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến
sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Vì vậy, khi hệ thống Ngân hàng rơi
vào tình trạng khó khăn, Chính phủ cần phải có sự trợ giúp để khôi phục
lại hệ thống Ngân hàng để đạt được mục tiêu tăng trưởng chung của nền
kinh tế. Thứ hai, thực tế cho thấy, tình trạng nợ khó đòi quá lớn ở hầu hết
các nước bò khủng hoảng không thể nói không có liên quan tới việc điều
hành kinh tế sai lầm của Chính phủ.
Mặt khác, chuyển nợ từ các Ngân hàng sang AMC không có nghóa
là các Ngân hàng được xoá sạch nợ và trở nên hoàn toàn trong sạch. Quy
trình mua bán nợ của các AMC nhu sau: AMC phát hành trái phiếu do
Chính phủ (Bộ tài chính) đứng ra bảo lãnh và các Ngân hàng sẽ mua toàn
bộ số trái phiếu này. AMC dùng số tiền thu được từ việc phát hành trái
phiếu đó để mua lại toàn bộ số nợ của các Ngân hàng theo mệnh giá hoặc
theo tỷ lệ chiết khấu nhất đònh. Như vậy, thực chất của quá trình trên là
các Ngân hàng đổi nợ của mình để lấy trái phiếu do AMC phát hành. Tất
nhiên, trong quá trình xử lý nợ sẽ phát sinh rất nhiều vấn đề phức tạp và
không phải khoản nợ nào cũng có thể thu hồi được đầy đủ ( theo kinh
nghiệm các nước đã áp dụng mô hình này, tỷ lệ thu hồi vào khoản từ 40%
- 60%). Cuối cùng Chính phủ vẫn phải bỏ ra một khoản chi phí để trang
trải cho các hoạt động của công ty và số nợ không thể thu hồi được.
Nhưng ở đây cần lưu ý rằng nếu không có AMC, chi phí để xử lý các
khoản nợ khó đòi sẽ lớn hơn rất nhiều, do:
-Các Ngân hàng không có đủ nguồn lực và kỹ năng cần thiết để
xử lý các khoản nợ trong khi đó AMC được chuyên môn hoá để thực hiện
công việc này.
23

-Các Ngân hàng bò hạn chế và thiếu quyền lực đặc biệt để xử lý
nợ trong kho AMC có thể thúc đẩy các thay đổi pháp lý cần thiết.

-Các Ngân hàng chỉ được áp dụng biện pháp duy nhất để thu hồi
nợ là bán đấu giá các tài sản thế chấp trong khia AMC có thể tối đa hoá
khả năng thu hồi nợ thông qua nhiều biện pháp.
Dù là một công cụ hữu hiệu, nhưng AMC cũng chỉ là một giải pháp
tình thế để giải quyết số nợ khó đòi quá lớn đã phát sinh. Để giải quyết
vấn đề một các căn bản các Ngân hàng vẫn phải cải tổ, nâng cao hiệu quả
các hoạt động đặc biệt là trong hoạt động tín dụng. Vì lý do này, AMC có
thời hạn hoạt động không dài, thông thường từ 5-10 năm. Sau khi giải
quyết xong số nợ, AMC sẽ được giải thể, hoặc cổ phần hoá hoặc sát nhập
lại với các Ngân hàng. Thời gian tồn tại của AMC càng ngắn cộng với tỷ
lệ thu hồi nợ cao chứng tỏ mức độ thành công của mô hình này.
Sau Mỹ rất nhiều nước đã áp dụng mô hình AMC, song để phù hợp
với nhiều tên gọi như y ban cơ cấu lại nợ, Ngân hàng cầu nối và có khi
giữ nguyên là Công ty quản lý tài sản.
 Trung Quốc:
Ngày 20/4/1999, Trung Quốc đã quyết đònh thành lập Công ty quản
lý tài sản thí điểm đầu tiên lấy tên là Cinda để xử lý số nợ khó đòi của
Ngân hàng xây dựng Trung Quốc, một trong 4 ngân hàng quốc doanh lớn
nhất nước này. Cinda là một pháp nhân độc lập với Ngân hàng Xây dựng
có số vốn 1,2 tỷ USD do Bộ tài chính cấp và có nhiệm vụ mua lại 80% nợ
khó đòi của Ngân hàng Xây dựng. Cinda sẽ tăng lượng vốn cần thiết chính
bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ. Cinda bán toàn bộ số trái phiếu này cho
Ngân hàng Xây dựng (CCB) và dùng số tiền thu được để mua lại số nợ
24

khó đòi của CCB theo mệnh giá. Trong kế hoạch xử lý nợ của mình Cinda
nhấn mạnh việc chuyển nợ thành cổ phần của Cinda trong công ty đó. Sau
đó, Cinda sẽ có quyền can thiệp vào việc điều hành, buộc các doanh
nghiệp phải nâng cao hiệu quả kinh tế để có khả năng trả nợ. Như vậy,
quá trình cải tổ Ngân hàng sẽ gắn liền với quá trình cải tổ doanh nghiệp.

Chính vì vậy, việc Cinda ra đời được các nhà kinh tế nước ngoài đánh giá
cao. Coi đâ là một bước tiế quan trọng trong việc cải tổ hệ thống Ngân
hàng của Trung Quốc.
 Nhật Bản:
Cuộc cải tổ hệ thống Ngân hàng của Nhật bản được bắt đầu từ giữa
những năm 1998. Trước hết Nhậ Bản thành lập cơ quan giám sát tài chính
(FSA), cơ quan tiến hành kiểm toán để phân loại các Ngân hàng và quyết
đònh Ngân hàng nào phải đóng cửa. Sau khi phân loại, các Ngân hàng quá
ốm yếu sẽ được bán cho các nhà đầu tư và trong trường hợp nếu không có
người mua thì sẽ được bán cho Ngân hàng cầu nối – chính là một hình thức
của AMC. Mỗi Ngân hàng có vấn đề của Nhật Bản sẽ có một ngân hàng
cầu nối riêng. Các Ngân hàng cầu nối này được đăng ký kinh doanh như
một công ty và có thể cung cấp các khoản vay mới bằng tiền từ nguồn tài
chính của Chính phủ. Về thực chất, đây là một kên cấp vốn mới của Chính
phủ Nhật Bản cho các Ngân hàng ốm yếu.
Qua thực tế áp dụng của các nước, kinh nghiệm rút ra là:
“ Dù dưới bất kỳ tên gọi nào, nguyên tắc số một cần phải quán triệt
trong suốt quá trình hoạt động của AMC đó là sự rõ ràng, minh bạch và
dựa trên nguyên tắc thò trường. Các khoản nợ phải được phân loại theo khả
năng thu hồi, các nguyên tắc và thời hạn mục tiêu để xử lý các khoản nợ
phải được công bố công khai và thực hiện nghiêm túc. Các tài sản cần xử lý
25

×