Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

ĐỀ án THƯƠNG mại thái thị hồng dung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.04 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TẠI KON

THÁI THỊ HỒNG DUNG

ĐỀ ÁN MÔN HỌC

PHÁP LUẬT VỀ MÔI GIỚI THƯƠNG MẠI
TẠI VIỆT NAM

Kon Tum, tháng 11 năm 2020


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TẠI KON

ĐỀ ÁN MÔN HỌC

PHÁP LUẬT VỀ MÔI GIỚI THƯƠNG MẠI
TẠI VIỆT NAM

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: CHÂU THỊ NGỌC TUYẾT
SINH VIÊN THỰC HIỆN
: THÁI THỊ HỒNG DUNG
LỚP
: K11LK1
MSSV
: 17152380107032

Kon Tum, tháng 11 năm 2020




MỤC LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4

TÊN VIẾT TẮT
LTM
BLDS
BĐS
MGTM

GIẢI THÍCH
Luật Thương mại
Bộ Luật Dân sự
Bất động sản
Môi giới thương mại

DANH MỤC BẢNG BIỂU
5


6



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Pháp luật về các hoạt động trung gian thương mại của Việt Nam nhìn chung ra đời
muộn hơn các chế định pháp luật khác, chỉ từ khi Việt Nam chính thức trở thành thành
viên của Tổ chức Thương mại quốc tế thế giới (WTO) thì các quy định pháp luật mới bắt
đầu được đề cập đến LTM 2005, trong các luật chuyên ngành như Luật kinh doanh bảo
hiểm, Bộ Luật Hàng hải, Luật Du lịch, Luật Kinh doanh chứng khoán và các văn bản
hướng dẫn. Việc áp dụng pháp luật điều chỉnh quan hệ phát sinh mại trong hoạt động
trung gian thương mại nói chung và hoạt động mơi giới thương nói riêng đã được xác
định rõ ràng, phù hợp với nguyên tắc áp dụng luật chung.
Nhằm đáp ứng những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam và những yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, việc tìm hiểu các
quy định của pháp luật về hoạt động môi giới thương mại một trong những hoạt động khá
phổ biến hiện nay là hoàn toàn cần thiết. Xuất phát từ nhu cầu thiết yếu đó, em chọn đề
tài “Pháp luật về môi giới thương mại tại Việt Nam” nhằm nâng cao nhận thức về vấn đề
này và đưa ra các ý kiến, quan điểm cá nhân nhằm hoàn thiện hơn các quy định pháp luật
về vấn đề này.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài: “Pháp luật về môi giới thương mại tại Việt Nam” được thực hiện nhằm
tổng hợp các quy định hiện hành và cung cấp một số thơng tin về tình hình hoạt động mơi
giới thương mại tại Việt Nam. Đồng thời, trên cơ sở tìm hiểu những quy định của Luật
thương mại Việt Nam 2005 về mơi giới thương mại, qua đó phân tích việc áp dụng Luật
trong thực tế và chỉ ra bất cập trong các quy định đó cũng như những vấn đề phát sinh
trong thực tiễn áp dụng; đề tài đề xuất giải pháp và kiến nghị sửa đổi, bổ sung để các quy
định về môi giới thương mại của Luật này hồn thiện hơn, mang tính khả thi cao hơn,
phù hợp với thực trạng hoạt động thương mại hiện nay ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định của Luật thương mại Việt Nam

2015 về môi giới thương mại và những văn bản dưới luật có liên quan. Thực tiễn thực
hiện các quy định của pháp luật Việt Nam và các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp
dụng pháp luật về môi giới thương mại ở Việt Nam hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Trong nội dung nghiên cứu của đề tài, người viết chỉ tìm hiểu các hoạt động của
mơi giới trong giới hạn là môi giới thương mại, sơ lược về những quy định chung của
bên môi giới về người môi giới, nôi dung củ thể của việc môi giới, mức thù lao mà bên
môi giới được nhận, quyền và nghĩa vụ của các bên. Trên cơ sở đó người viết nêu ra một
số quy định về môi giới thương mại hiện hành cần xem xét sửa đổi, bổ sung.

7


Về mặt nội dung, đề án nghiên cứu những quy định của Luật thương mại năm
2005 về môi giới thương mại. Đồng thời, đề tài cũng nghiên cứu những quy định có liên
quan đến mơi trường thương mại của Luật thương mại 1997.
Về mặt thời gian, đề án tập trung phân tích những vấn đề liên quan đến hoạt động
mơi giới thương mại kể từ khi Luật thương mại năm 2005 ra đời và dự báo về sự phát
triển của hoạt động môi giới thương mại trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để tìm hiểu nội dung của đề tài, vận dụng các phương pháp cụ thể như: Tổng
hợp, phân tích, so sánh các quy định của pháp luật về mơi giới và các quy định của pháp
luật có liên quan. Sử dụng cac ví dụ thực tế để phân tích các vấn đề có liên quan đến hoạt
động mơi giới.
5. Bố cục
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề án bao
gồm hai chương:
Chương 1: Tổng quan về hoạt động môi giới thương mại
Chương 2: Quy định của pháp luật về hoạt động môi giới thương mại.


8


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI THƯƠNG MẠI
1.1. LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH HOẠT ĐỘNG MƠI GIỚI THƯƠNG MẠI
1.1.1. Lược sử hình thành mơi giới thương mại trên thế giới
Hoạt động thương mại và sự ra đời của tầng lớp thương nhân, kết quả tất yếu của
quá trình phân cơng lao động xã hội và trao đổi hàng hóa đã xuất hiện quá sớm trong lịch
sử phát triển xã hội lồi người từ thời chiếm hữu nơ lệ, các hoạt động mua bán hàng hóa
của thương nhân nhằm mục đích kiếm lời đã hình thành.
Việc mua bán, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ thương mại lúc đầu được thực hiện theo
phương thức giao dịch trực tiếp giữa người bán hàng và người mua hàng, người cung ứng
dịch vụ và người sử dụng dịch vụ. Dần dần, do thực tiễn kinh doanh đã làm thương nhân
xuất hiện nhu cầu cần có sự hợp tác với người khác để phát triển kinh doanh. Từ đó,
phương thức giao dịch qua người trung gian ra đời.
Một trong các hoạt động trung gian thương mại cũng đã xuất hiện trong quá trình
phát triển của hoạt động thương mại đặc biệt là thương mại quốc tế, đó là mơi giới
thương mại. Lúc đầu người mơi giới chỉ đơn thuần là người phiên dịch, sau đó họ đóng
vai trị là người chuyển tại các thơng điệp về pháp luật, kinh tế tại các hội chợ thương mại
quốc tế. Dần dần họ trở thành một bên ủy thác để giúp các bên tìm hiểu thị trường, tìm
hiểu đối tác, đàm phán ký kết hợp đồng. Hoạt động của họ trở thành một nghành nghề
kinh doanh thực hiện việc chọn lọc, phân loại và chắp nối các đối tác với nhau. Môi giới
thương mại được thực hiện trong nhiều lĩnh vực, từ mua bán hàng hóa đến các lĩnh vực
dịch vụ khác như: môi giới bảo hiểm, môi giới th tàu, mơi giới chứng khốn,…
Như vậy, trên thế giới hoạt động thương mại nói chung và hoạt động mơi giới
thương mại nói riêng hình thành từ những địi hỏi khách quan của hoạt động thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, các hoạt động thương mại nói chung và hoạt động
mơi giới thương mại nói riêng ngày càng phát triển để đáp ứng nhu cầu mở rộng việc
mua bán, tiêu thụ hàng hóa, cung ứng và sử dụng dịch vụ thương mại.

1.1.2. Lược sử hình thành môi giới thương mại ở Việt Nam
Ở Việt Nam, trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung hoạt động thương mại chủ
yếu do các cơ sở thương nghiệp nhà nước đảm bảo và thực hiện chủ yếu theo phương
thức giao dịch trực tiếp, phương thức giao dịch qua trung gian không được chú trọng. Từ
sau Đại hội VI năm 1986, nền kinh tế đất nước từng bước chuyển đổi từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc
chuyển đổi này, tạo điều kiện cho hoạt động thương mại của các cơ sở kinh doanh thuộc
mọi thành phần kinh tế tồn tại và phát triển vì mục tiêu lợi nhuận. Trong đó, các hoạt
động trung gian thương mại bắt đầu xuất hiện và dần dần khẳng định vai trị của mình
trong việc phát triển kinh doanh.
Tuy nhiên mãi đến năm 1997, với sự ra đời của Luật Thương mại 1997, hoạt động
mơi giới thương mại mới chính thức được thừa nhận và tiếp theo đó là sự ra đời của Luật

9


Thương mại 2005, trong các luật chuyên ngành như Luật Kinh doanh bảo hiểm, Bộ Luật
Hàng Hải, Luật Du lịch, Luật Kinh doanh chứng khoán và các văn bản hướng dẫn.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI THƯƠNG MẠI
1.2.1. Khái niệm về hoạt động môi giới thương mại
“Mơi giới” là “chủ thể (một cá nhân, một nhóm, một tổ chức, một hãng…) làm
trung gian cho hai hoặc nhiều chủ thể khác để những chủ thể này có thể tạo được quan hệ
trong giao tiếp, trong hoạt động kinh doanh”. 1Cũng có thể hiểu, “mơi giới là người làm
trung gian giúp hai bên tiếp xúc, trao đổi việc gì đó”.2
Như vậy, có thể hiểu hoạt động mơi giới là hoạt động kết nối giữa người mua và
người bán, giúp người mua và người bán gặp nhau để họ tiến hành giao dịch nhằm thực
hiện mục đích từ mình. Từ đó suy ra, mơi giới thương mại (MGTM) là hoạt động trung
gian giúp các bên tiếp xúc với nhau nhằm thực hiện các hoạt động thương mại. Theo điều
93 Luật thương mại 1997: “người môi giới thương mại là thương nhân là thương nhân
làm trung gian cho các bên mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại trong việc

đàm phán, ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại và được
hưởng thù lao theo hợp đồng môi giới”.
Tương tự như với cách hiểu thông thường về môi giới, Điều 150 Luật Thương mại
2005 quy định: “môi giới thương mại là hoạt động thương mại, theo đó một thương nhân
làm trung gian (gọi là bên môi giới) cho các bên mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ
(gọi là bên được mơi giới) trong việc đàm phán, giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa,
dịch vụ và được hưởng thù lao theo hợp đồng môi giới”.
Trong Luật thương mại Việt Nam năm 2005, khái niệm về hoạt động thương mại
đã được mở rộng hơn rất nhiều so với Luật thương mại so với Luật thương mại năm
1997. Theo khoản 1, Điều 3, Luật thương mại năm 2005, hoạt động thương mại là hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc
tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Có thể thấy, theo Luật
này, khái niệm “hoạt động thương” mại được hiểu rất rộng.
Sự mở rộng của khái niệm “hoạt động thương mại” nói trên phù hợp với xu hướng
phát triển của thương mại và cách hiểu của các nước trên thế giới về thuật ngữ này. Sự
mở rộng như thế cũng tạo cơ sở pháp lý cho các nhà môi giới khi họ thực hiện hoạt động
MGTM.
Từ những phân tích ở trên, có thể kết luận, hoạt động MGTM là hoạt động thương
mại, trong đó một người đóng vai trò là trung gian giúp người mua và người bán hoặc các
chủ thể khác gặp nhau để họ tiến hành đàm phán, ký kết các hợp đồng thương mại.
1.2.2. Đặc điểm của môi giới thương mại
a. Về chủ thể
Chủ thể của quan hệ môi giới thương mại gồm bên mơi giới và bên được mơi giới,
trong đó bên mơi giới phải là thương nhân, có đăng kí kinh doanh để thực hiện dịch vụ
1 Từ điện Tiếng Việt, truy cập ngày 9/11/2020, .
2 Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, tr1134, Nhà xuất bản Văn hóa Thơng tin, Hà Nội.

10



mơi giới thương mại và khơng nhất thiết phải có ngành nghề đăng kí kinh doanh trùng
với ngành nghề kinh doanh của các bên được môi giới. Bên được môi giới không nhất
thiết phải là thương nhân. Trong hoạt động môi giới thương mại, không phải tất cả các
bên được mơi giới đều có quan hệ mơi giới thương mại với bên môi giới mà chỉ bên được
môi giới nào kí hợp đồng mơi giới với bên mơi giới thì giữa họ mới phát sinh quan hệ
môi giới thương mại.
b. Về nội dung hoạt động môi giới thương mại
Nội dung của hoạt động môi giới rất rộng, bao gồm nhiều hoạt động như: Tìm
kiếm và cung cấp thơng tin cần thiết về đối tác cho bên được môi giới, tiến hành các hoạt
động về giới thiệu hàng hóa, dịch vụ cần môi giới, thu xếp để các bên được môi giới tiếp
xúc với nhau, giúp đỡ các bên được môi giới soạn thảo hợp đồng thi có u cầu.
Mục đích của hoạt động môi giới thương mại khi thực hiện mơi giới là tìm kiếm
lợi nhuận. Bên mơi giới thường được hưởng thù lao khi các bên được môi giới đã giao
kết hợp đồng với nhau.
c. Về phạm vi của hoạt động môi giới
Luật thương mại năm 2005 được mở rộng hơn nhiều so với Luật thương mại 1997
về phạm vi của hoạt động môi giới, chỉ bao gồm những hoạt động mơi giới hàng hóa
mua, bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ thương mại liên quan đến mua bán hàng hóa. Do
đó mơi giới thương mại bao gồm tất cả các hoạt động mơi giới có mục đích kiếm lợi như
mơi giới mua bán hàng hóa, mơi giới chứng khốn, mơi giới bảo hiểm, mơi giới tàu
biển…Tuy nhiên những quy định về môi giới thương mại trong Luật thương mại là
những quy định mang tính chất nguyên tắc, còn các quy định trong từng lĩnh vực riêng
biệt cụ thể được các luật chuyên ngành quy định cụ thể.
d. Quan hệ môi giới được thực hiện trên cơ sở là hợp đồng môi giới
Hợp đồng môi giới được giao kết giữa bên môi giới và bên được môi giới, bên
mơi giới phải là thương nhân cịn bên được mơi giới không nhất thiết phải là thương
nhân. Đối tượng của hợp đồng mơi giới chính là cơng việc mơi giới nhằm chắp nối quan
hệ giữa các bên được môi giới với nhau. Hình thức của hợp đồng mơi giới khơng được
Luật thương mại 2005 quy định.
Luật 2005 đã bỏ quy định về nội dung chủ yếu của hợp đồng môi giới nhưng xuất

phát từ bản chất quan hệ môi giới để hạn chế tranh chấp xảy ra trong quá trình thực hiện
hợp đồng môi giới, khi giao kết hợp đồng này các bên có thỏa thuận những điều khoản về
nội dung cụ thể của việc môi giới, mức thù lao mà bên môi giới sẽ được nhận, thời hạn
thực hiện hợp đồng môi giới, quyền và nghĩa vụ của các bên; trách nhiệm do vi phạm
hợp đồng; hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng mơi giới.
1.2.3. Vai trị của hoạt động mơi giới thương mại
Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, nhu cầu mua bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ của các chủ thể này càng tăng lên. Các nhà môi giới xuất hiện với vai trò là
người kết nối người mua và người bán gặp gỡ nhau, thương lượng về các điều kiện giao
11


dịch và cuối cùng là giao kết hợp đồng. Vai trò quan trọng của hoạt động MGTM trong
nền kinh tế thị trường thể hiện qua những điểm sau:
Thứ nhất, hoạt động MGTM mang lại nhiều lợi thế cho các thương nhân trong
việc tìm kiếm đối tác giao dịch.
Thứ hai, hoạt động MGTM thúc đẩy sản xuất, lưu thơng hàng hóa, từ đó tạo điều
kiện cho nền kinh tế phát triển.
Thứ ba, hoạt động MGTM góp phần cải thiện mơi trường kinh doanh, ổn định trật
tự an ninh, trật tự xã hội.
Thứ tư, góp phần đẩy mạnh sự đổi mới chính sách pháp luật của Nhà nước.

KẾT CHƯƠNG I
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các hoạt động thương mại trên thế giới nói
chung và ở nước ta nói riêng hiện nay ngày càng phát triển phong phú và đa dạng. Các
giao dịch thương mại do đó cũng được mở rộng, trở nên phức tạp; một giao dịch thương
mại có thể liên quan tới nhiều lĩnh vực. Khi đó, người mua và người bán muốn tiết kiệm
thời gian, công sức tìm kiếm đối tác giao dịch thường nhờ đến người mơi giới thương
mại.
Nhận thức được vai trị của mơi giới đối với sự phát triển của thương mại, Luật

thương mại 2005 đã đưa hoạt động môi giới vào đối tượng điều chỉnh của Luật. Chính vì
vậy, trong chương này em tập trung giải quyết các vấn đề sau:
- Trình bày lược sử hình thành của mơi giới thương mại trên thế giới và ở Việt
Nam;
- Nêu khái niệm về mơi giới thương mại;
- Trình bày và phân tích đặc điểm của mơi giới thương mại;
- Trình bày vai trị của môi giới thương mại trong nền kinh tế thị trường hiện nay.

12


CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI THƯƠNG MẠI
2.1. CHỦ THỂ TRONG QUAN HỆ MÔI GIỚI THƯƠNG MẠI
2.1.1. Bên môi giới trong hoạt động môi giới thương mại
Khi thực hiện hoạt động MGTM, bên môi giới nhân danh chính mình để quan hệ
với các bên được môi giới và là người trung gian cho các bên trong quan hệ giao dịch
thương mại, giới thiệu cho các bên cơ hội giao kết hợp đồng, cung cấp dịch vụ hỗ trợ có
liên quan đến những giao dịch thương mại. Đó là những hoạt động trung gian nhằm chắp
nối cho các giao dịch rất phong phú và đa dạng, có thể là giao dịch mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ thương mại để giúp các bên được môi giới đến với nhau.
Khi thực hiện dịch vụ môi giới, bên mơi giới có thể thực hiện các hoạt động tìm
kiếm và cung cấp các thơng tin cần thiết về đối tác cho bên được môi giới, tiến hành các
hoạt động giới thiệu về hàng hóa, dịch vụ cần mơi giới, thu xếp để các bên được môi giới
tiếp xúc với nhau, giúp các bên soạn thảo văn bản hợp đồng khi họ u cầu. Sau đó, các
bên được mơi giới trực tiếp giao kết hợp đồng với nhau.
Hơn nữa, để đảm bảo tính khách quan, trung thực trong hoạt động môi giới, pháp
luật cũng quy định các bên môi giới không được tham gia vào thực hiện hợp đồng giữa
các bên được mơi giới, trừ trường hợp có sự ủy quyền của bên được môi giới. Trong
trường hợp này, bên môi giới hành động với tư cách của bên đại diện. Khi người môi giới

được người được môi giới ủy quyền thực hiện hợp đồng thì giữa họ nảy sinh một quan hệ
khác đó là quan hệ ủy quyền, chứ không phải là quan hệ môi giới.
2.1.2. Bên được môi giới trong hoạt động môi giới thương mại
Trong hoạt động môi giới thương mại, không phải tất cả các bên được mơi giới
đều có quan hệ mơi giới thương mại với bên môi giới mà chỉ bên được môi giới nào kí
hợp đồng mơi giới với bên mơi giới thì giữa họ mới phát sinh quan hệ mơi giới thương
mại. Ví dụ: Cơng ty Nhà nước A ký hợp đồng thuê Công ty Trách nhiệm hữu hạn B làm
môi giới trong việc tiêu thụ sản phẩm do công ty sản xuất ra, giữa công ty A và công ty B
phát sinh quan hệ môi giới thương mại. Công ty B tìm được cơng ty C có nhu cầu mua
các sản phẩm của công ty A và giới thiệu công ty A với cơng ty C. Do đó, giữa B và C có
thể tồn tại hợp đồng mơi giới hoặc không, nếu B và C ký hợp đồng môi giới thì giữa họ
cũng phát sinh mỗi quan hệ thương mại.
Các quy định của mục 2 chương V LTM 2005 về môi giới thương mại không thể
hiện bên được môi giới có nhất thiết phải là thương nhân hay khơng? Nhưng nếu căn cứ
theo Điều 3 khoản 11 định nghĩa về các hoạt động trung gian thương mại trong đó có
hoạt động mơi giới thương mại thì bên được mơi giới cũng phải là thương nhân. Điều này
dẫn đến những bất hợp lý sau:
13


- Bên được mơi giới là chủ thể có nhu cầu sử dụng dịch vụ môi giới chứ không
thực hiện dịch vụ này do đó khơng thể bắt buộc là thương nhân;
- Nếu bên môi giới cũng là thương nhân thì quan hệ giữa bên mơi giới (là thương
nhân hoạt động thương mại) với bên được môi giới không phải là thương nhân sẽ không
phải là môi giới thương mại và sẽ không chịu sự điều chỉnh của LTM mà chỉ chịu sự điều
chỉnh của BLDS. Các quy định về MGTM sẽ không được áp dụng cho bên là thương
nhân.
2.1.3. Quy định về điều kiện để thương nhân được tiến hành hoạt động môi giới
thương mại
Theo Điều 150 LTM 2005, môi giới thương mại là hoạt động thương mại, theo đó

một thương nhân làm trung gian (gọi là bên mơi giới) cho các bên mua bán hàng hóa,
dịch vụ (gọi là bên được môi giới) trong việc đàm phán, giao kết hợp đồng mua bán, dịch
vụ và được hưởng thù lao theo hợp đồng môi giới. Như vậy, theo luật này, cá nhân, tổ
chức muốn tiến hành hoạt động môi giới thương mại trước hết phải là thương nhân.
Theo khoản 1, Điều 6 LTM 2005, thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được
thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có
đăng ký kinh doanh.
Những quy định về điều kiện đối với thương nhân mơi giới tại Sở giao dịch hàng
hóa chặt chẽ hơn so với thương nhân mơi giới nói chung. Thương nhân mua bán hàng
hóa qua Sở giao dịch hàng hóa chỉ được phép hoạt động tại Sở giao dịch hàng hóa khi
đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật 3. Vấn đề này, Chính phủ đã ban
hành Nghị định 158/2006/NĐ-CP về việc quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt động
mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch (được sửa đổi bổ sung bởi NĐ số 51/2018/NĐ-CP).
Theo đó, thành viên mơi giới phải đáp ứng đủ các điều kiện: doanh nghiệp được thành
lập theo quy định của luật Doanh nghiệp; vốn điều lệ từ 5 tỷ đồng trở lên; các điều kiện
khác theo quy định của Điều lệ hoạt động của Sở giao dịch hàng hóa4.
Luật thương mại 2005 chỉ quy định một cách khái quát về điều kiện thương nhân
được tiến hành hoạt động môi giới thương mại. Điều kiện này được quy định cụ thể hơn
ở các luật chuyên ngành. Ví dụ, theo khoản 2, Điều 8 Luật Kinh doanh Bất động sản: tổ
chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ môi giới BĐS phải thành lập doanh nghiệp hoặc hợp
tác xã và đăng ký kinh doanh; đồng thời phải có ít nhất một người có chứng chỉ mơi giới
BĐS. Theo khoản 3, Điều 8 Luật Kinh doanh BĐS, trong trường hợp cá nhân kinh doanh
dịch vụ môi giới BĐS độc lập, cá nhân này cần đăng ký kinh doanh có chứng chỉ mơi
giới BĐS.
2.2. HÌNH THỨC CỦA HỢP ĐỒNG MƠI GIỚI THƯƠNG MẠI
Điều 150 Luật thương mại 2005 quy định về môi giới thương mại như sau: “Môi
giới thương mại là hoạt động thương mại, theo đó một thương nhân làm trung gian (gọi là
bên môi giới) cho các bên mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ (gọi là bên được môi
3 Khoản 1, Điều 69 LTM 2005
4 Điều 19, Nghị định 158/2006/NĐ-CP


14


giới) trong việc đàm phán, giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ và được hưởng
thù lao theo hợp đồng môi giới.”
Như vậy, theo quy định trên, môi giới thương mại là quan hệ giữa bên môi giới với
bên được mơi giới. Hình thức mơi giới được thể hiện qua hợp đồng môi giới. LTM 2005
không quy định về hình thức của hợp đồng mơi giới thương mại trong khi hầu hết các
hoạt động trung gian thương mại như ủy thác,đại diện, đại lý thương mại lại quy định
phải lập thành văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Tuy nhiên,
nếu căn cứ vào khoản 1, Điều 153 LTM 2005 thì hợp đồng mơi giới phải được lập thành
văn bản, vì điều này quy định: “trừ các trường hợp có thỏa thuận khác, quyền hưởng thù
lao môi giới phát sinh từ thời điểm các bên môi giới đã được ký hợp đồng với nhau”. Nên
căn cứ theo quy định tại Điều 119 BLDS 2015 quy định hình thức hợp đồng dân sự như
sau:
1. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng
hành vi cụ thể.
Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thơng điệp dữ liệu
theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được gọi là giao dịch bằng văn bản.
2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn
bản có cơng chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tn theo các
quy định đó.
Như vậy, hợp đồng môi giới thương mại không chỉ được xác lập dưới hình thức
văn bản hay các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương văn bản mà cịn được xác
lập bằng lời nói, hay hành vi cụ thể. Do đó, LTM 2005 cần phải quy định rõ về hình thức
của hợp đồng mơi giới, tránh dẫn đến cách hiểu nhầm khác nhau về trường hợp này.
2.3. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÁC BÊN TRONG QUAN HỆ HỢP ĐỒNG
MƠI GIỚI THƯƠNG MẠI
Quan hệ mơi giới thương mại được thực hiện dựa trên cơ sở hợp đồng môi giới.

Hợp đồng môi giới được giao kết giữa bên môi giới và bên được môi giới. Đối tượng của
hợp đồng môi giới chính là cơng việc mơi giới, cung cấp cơ hội giao kết hợp đồng giữa
bên được môi giới với bên thứ ba.
Quyền và nghĩa vụ của bên môi giới và bên được môi giới khi tham gia quan hệ
hợp đồng môi giới được quy định trong LTM 2005, trong các luật về những hoạt động
môi giới đặc thù như: môi giới bảo hiểm, môi giới hàng hải, môi giới chứng khốn, mơi
giới bất động sản,..được quy định như sau:
2.3.1. Quyền và nghĩa vụ của bên môi giới
a. Quyền của bên môi giới
Điều 153 Luật thương mại 2005 quy định về quyền hưởng thù lao môi giới như
sau: “1. Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, quyền hưởng thù lao môi giới phát sinh từ
thời điểm các bên môi giới đã ký kết với nhau. 2. Trừ trường hợp không có thỏa thuận,
mức thù lao mơi giới được xác định theo quy định tại Điều 86 của Luật này”.

15


Ngồi ra Luật thương mại năm 2005 cịn quy định các khoản thanh tốn chi phí
phát sinh liên quan đến hoạt động mơi giới như sau: “trừ trường hợp có thỏa thuận khác,
bên được mơi giới phải thanh tốn các chi phí phát sinh hợp lý liên quan đến việc môi
giới, kể cả khi việc môi giới không mang lại kết quả cho bên được môi giới.”
- Quyền hưởng thù lao
Quyền quan trọng đầu tiên của bên môi giới là quyền hưởng thù lao và tương ứng
với nó là nghĩa vụ trả thù lao cho bên được môi giới. Thù lao môi giới là khoản tiền mà
bên được môi giới phải trả cho bên môi giới khi bên môi giới khi bên môi giới đem đến
cho bên được môi giới một cơ hội giao kết hợp đồng dự định. Khoản 1 Điều 153 LTM
2005 quy định: “trừ trường hợp có thỏa thuận khác, quyền hưởng thù lao môi giới phát
sinh từ thời điểm các bên được môi giới đã ký kết hợp đồng với nhau”.
Theo quy định trên, quyền được hưởng thù lao của bên mơi giới, nếu khơng có
thỏa thuận khác, sẽ được phát sinh từ thời điểm các bên được mơi giới ký hợp đồng với

nhau. Điều đó có nghĩa là nếu các bên ký hợp đồng nhưng kgoong thực hiện hợp đồng thì
cũng khơng ảnh hưởng đến quyền được hưởng thù lao của bên môi giới. Quy định như
vậy là không phù hợp với chức năng môi giới, bởi lẽ bên môi giới chỉ chịu trách nhiệm
về tư cách pháp lý của các bên được môi giới, nhưng khơng chịu trách nhiệm về khả
năng thanh tốn của họ5.
Tuy nhiên, nếu trong hợp đồng có thỏa thuận thù lao môi giới chỉ phát sinh khi các
bên được môi giới thực hiện hợp đồng thì pháp luật tơn trọng thỏa thuận đó.
Trong trường hợp các bên mơi giới khơng giao kết hợp đồng với nhau, bên môi
giới không được hưởng thù lao mơi giới nhưng nếu các bên có thỏa thuận khác, bên mơi
giới vẫn có quyền u cầu bên được mơi giới thanh tốn cho mình các chi phí liên quan
đến việc mơi giới.
Quy định này đảm bảo cho bên mơi giới có trách nhiệm đối với hành vi của mình.
Chỉ khi hoạt động trung gian mơi giới có kết quả thì bên mơi giới mơi được hưởng thù
lao (nếu các bên khơng có thỏa thuận khác). Nhằm đảm bảo sự tự do thỏa thuận, pháp
luật cho phép các bên tự do thỏa thuận thời điểm phát sinh quyền hưởng thù lao mơi giới.
Trong trường hợp khơng có thỏa thuận thì quyền hưởng thù lao mơi giới phát sinh từ thời
điểm các bên được môi giới ký hợp đồng với nhau. Quy định trên xuất phát từ bản chất
của hoạt động mơi giới, bên mơi giới chỉ có nghĩa vụ làm trung gian đến khi các bên đã
hoàn thành việc giao kết hợp đồng chứ không giám sát việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng
giữa các bên.
Dưới góc độ thực tiễn và pháp lý, việc xác định thời điểm được hưởng thù lao
trong trường hợp các bên không có thỏa thuận khác sẽ hạn chế việc bên được môi giới
trốn tránh nghĩa vụ trả thù lao trong quan hệ môi giới.
Khoản 1 Điều 153 LTM 2005 quy định: “trường hợp khơng có thỏa thuận, mức
thù lao mơi giới được xác định theo quy định tại Điều 86 của Luật này”. Theo đó, trường
hợp khơng có thỏa thuận về dịch vụ, khơng có thỏa thuận về phương pháp xác định giá
5 Khoản 3, Điều 151, LTM 2005

16



dịch vụ và khơng có bất kỳ chỉ dẫn nào khác về giá dịch vụ thì giá dịch vụ được xác định
theo giá của loại dịch vụ đó trong các điều kiện tương tự về phương thức cung ứng, thời
điểm cung ứng, thị trường địa lý, phương thức thanh toán và các điều kiện khác có ảnh
hưởng đến giá dịch vụ6.
- Quyền được thanh tốn các chi phí
Một quyền khác của bên mơi giới là quyền được thanh tốn các chi phí phát sinh
liên quan đến việc mơi giới. Điều 154 LTM 2005 quy định: “trừ trường hợp có thỏa
thuận khác, bên được mơi giới phải thanh tốn các chi phí hợp lý liên quan đến việc mơi
giới, kể cả khi việc môi giới không mang lại kết quả cho bên được môi giới”.
Trên thực tế, đối với những hợp đồng có giá trị lớn, bên mơi giới chỉ được thanh
tốn khi các bên được mơi giới đã thanh tốn cho nhau. Vì vậy, quyền và nghĩa vụ của
hai bên có thể phát sinh từ thời điểm các bên được môi giới đã giao kết hợp đồng, nhưng
mốc thời gian thực hiện nghĩa vụ thanh tốn có thể lại là một thời điểm khác. Thỏa thuận
thời điểm thực hiện nghĩa vụ thanh toán thường nằm trong điều khoản thời hạn thanh
tốn của hợp đồng mơi giới. Theo đó, bên được mơi giới có nghĩa vụ thanh tốn cho các
bên mơi giới trong thời hạn nhất định kể từ ngày nhận được tiền thanh toán từ đối tác.
Thỏa thuận như vậy mang lại rất nhiều rủi ro cho bên môi giới:
Thứ nhất, bên mơi giới khó có thể kiểm sốt được việc thực hiện nghĩa vụ giữa
các bên.
Thứ hai, quyền lợi của các bên môi giới bị ràng buộc với các bên được môi giới:
nếu các bên được môi giới không nhận được tiền thì bên mơi giới cũng khơng được thanh
tốn.
b. Nghĩa vụ của bên mơi giới
Theo quy định tại Điều 151 LTM 2005, bên mơi giới có những nghĩa vụ sau:
- Bảo quản các mẫu hàng hoá, tài liệu được giao để thực hiện việc mơi giới và phải
hồn trả cho bên được mơi giới sau khi hồn thành việc môi giới.
- Không được tiết lộ, cung cấp thông tin làm phương hại đến lợi ích của bên được
mơi giới.
Trong q trình thực hiện hợp đồng mơi giới, có thể bên môi giới biết được một số

thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh của bên được mơi giới thì Bên mơi giới chỉ
được sử dụng các thơng tin này để thực hiện việc môi giới theo hướng có lợi cho bên
được mơi giới.
- Chịu trách nhiệm về tư cách pháp lý của các bên được môi giới, nhưng khơng
chịu trách nhiệm về khả năng thanh tốn của họ.
Có nghĩa, thứ nhất, bên mơi giới có trách nhiệm cung cấp chính xác về tư cách
pháp lý của đối tác cho bên được môi giới. Thứ hai, bên môi giới khơng tham gia vào q
trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa hay cung ứng dịch vụ thương mại được giao
kết giữa các bên nên vấn đề về khả năng thanh toán, thực hiện nghĩa vụ hợp đồng của đối
tác, bên mơi giới khơng có bất kỳ trách nhiệm nào.
6 Điều 86, LTM 2005

17


- Không được tham gia thực hiện hợp đồng giữa các bên được mơi giới, trừ trường
hợp có uỷ quyền của bên được môi giới.
Nhằm bảo vệ quyền lợi của bên được môi giới, khoản 1 Điều 151 LTM 2005 quy
định nghĩa vụ của bên môi giới như sau: “Bảo quản các mẫu hàng hoá, tài liệu được
giao để thực hiện việc mơi giới và phải hồn trả cho bên được mơi giới sau khi hồn
thành việc mơi giới”.
Theo đó, để ngăn chặn khả năng bên môi giới thông đồng với bên thứ ba, khoản 2
Điều 151 LTM 2005 quy định: “ bên môi giới không được tiết lộ, cung cấp thơng tin làm
phương hại đến lợi ích của bên được mơi giới”. Tuy nhiên, ở khía cạnh khác, quy định
này dẫn đến cách hiểu là bên môi giới sẽ khơng được quyền cung cấp thơng tin có liên
quan đến giao dịch mà họ chắp nối bởi trong nhiều trường hợp, việc cung cấp thơng tin
cho bên thứ ba có thể làm phương hại đến lợi ích của bên được mơi giới. Do đó, quy
định này có thể cản trở hoạt động môi giới trung thực của bên môi giới, làm cho hoạt
động mơi giới thương mại khó có thể trở thành chuyên nghiệp.
Là người trung gian, bên môi giới có trách nhiệm cung cấp thơng tin, tư vấn cho

bên được mơi giới. Bên mơi giới phải có trách nhiệm cung cấp thơng tin chính xác về tư
cách pháp lý của đối tác cho bên được môi giới. Đồng thời, phải chịu trách nhiệm về tư
cách pháp lý của các bên được môi giới, nhưng không chịu trách nhiệm về khả năng
thanh toán của họ7.
Căn cứ vào bản chất của hoạt động môi giới, bên môi giới không tham gia vào q
trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa hay cung cấp dịch vụ thương mại được giao
kết giữa các bên. Do đó, bên mơi giới khơng chịu bất kỳ trách nhiệm nào trước hành vi vi
phạm hợp đồng của các bên được môi giới với nhau.
Theo khoản 4 Điều 151 LTM 2005, bên môi giới thương mại “không được tham
gia thực hiện hợp đồng giữa các bên được mơi giới, trừ trường hợp có uỷ quyền của bên
được môi giới”. Trong thực tế, do hoạt động thương mại ngày càng phức tạp, phong phú
và đa dạng, người được môi giới luôn muốn tiết kiệm thời gian và công sức thường ủy
quyền cho người môi giới thực hiện một số cơng việc khác ngồi việc kết nối người mua
và người bán. Ví dụ: người mơi giới trong lĩnh vực hàng hải có thể tham gia vào việc
giao nhận hàng, làm thủ tục hải quan; người môi giới trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng
hóa có thể thay mặt chủ hàng tu tiền…
2.3.2. Quyền và nghĩa vụ của bên được môi giới
a. Quyền của bên được môi giới
Luật thương mại 2005 không quy định về quyền của bên được môi giới, tuy nhiên
từ các căn cứ về nghĩa vụ của bên mơi giới, có thể thấy bên được mơi giới có các quyền
sau:
- u cầu bên mơi giới bảo quản các mẫu hàng hóa, tài liệu đã được giao để thực
hiện việc mơi giới và phải hồn trả cho bên được mơi giới sau khi hồn thành việc mơi
giới.
7 Khoản 1, Điều 151, LTM 2005

18


- Yêu cầu bên môi giới không được tiết lộ, cung cấp thơng tin làm phương hại đến

lợi ích của mình.
b. Nghĩa vụ của bên được mơi giới
Theo quy định tại Điều 152 Luật thương mại 2005, nếu khơng có thỏa thuận khác
bên được mơi giới có các nghĩa vụ sau:
1. Cung cấp các thông tin, tài liệu, phương tiện cần thiết liên quan đến hàng hoá,
dịch vụ;
2. Trả thù lao mơi giới và các chi phí hợp lý khác cho bên môi giới.
Khi thực hiện hoạt động môi giới, bên được mơi giới phải có nghĩa vụ cung cấp
các thông tin, tài liệu, phương tiện cần thiết liên quan đến hàng hóa, dịch vụ cho bên mơi
giới để thực hiện việc môi giới. Đồng thời, khi bên được môi giơi cung cấp những thơng
tin, tài liệu đó thì bên mơi giới phải có nghĩa vụ bảo quản nó và hồn trả cho bên được
mơi giới sau khi hồn thành việc mơi giới.
Bên được mơi giới phải có nghĩa vụ trả thù lao cho bên môi giới khi việc môi giới
thành công. Kể cả khi hợp đồng giữa các bên được môi giới và bên thứ ba không được ký
kết, bên được mơi giới vẫn phải thanh tốn các chi phí phát sinh liên quan đến việc mơi
giới, trừ trường hợp có thỏa thuận khác (Điều 154 LTM 2005). Nghĩa là, cho dù việc môi
giới không mang lại kết quả, bên môi giới vẫn chắc chắn thu hồi được những “chi phí
phát sinh hợp lý” mà họ đã bỏ ra để thực hiện việc môi giới. Vấn đề nằm ở chỗ, thế nào
là “chi phí phát sinh hợp lý”? Luật thương mại 2005 hồn tồn khơng quy định về vấn đề
này, do đó, cách hiểu thế nào tùy thuộc vào bên môi giới, bên được môi giới và người
giải quyết tranh chấp (nếu có tranh chấp xảy ra).
2.4. CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG MƠI GIỚI
LTM 2005 khơng quy định về các trường hợp chấm dứt hợp đồng môi giới thương
mại. Tuy nhiên, căn cứ vào Điều 422 BLDS 2015 về các trường hợp chấm dứt hợp đồng
dân sự thì hợp đồng môi giới thương mại được chấm dứt theo thỏa thuận của các bên và
trong những trường hợp sau:
- Hợp đồng hết thời hạn;
- Mục đích mơi giới đã được hồn thành;
- Một trong các bên tham gia hợp đồng chết, mất hoặc hạn chế năng lực hành vi
dân sự, bên môi giới mất tư cách thương nhân;

- Hợp đồng môi giới bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện.
LTM hiện hành không quy định về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng của các
bên tham gia hợp đồng môi giới thương mại. Tuy nhiên hợp đồng này là một loại hợp
đồng dịch vụ nên căn cứ theo Điều 520 BLDS 2015, bên được mơi giới có quyền đơn
phương chấm dứt việc thực hiện hợp đồng nếu việc tiếp tục thực hiện dịch vụ khơng có
lợi cho mình nhưng phải thông báo cho bên môi giới biết trước một thời gian hợp lý và
thanh tốn tiền cơng cho phần dịch vụ đã tiến hành và bồi thường thiệt hại. Nếu bên được
môi giới không thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện khơng đúng theo thỏa thuận
19


thì bên mơi giới có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi
thường thiệt hại.
2.5. PHÂN BIỆT HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI THƯƠNG MẠI VỚI MỘT SỐ HOẠT
ĐỘNG TRUNG GIAN KHÁC
Người trung gian thương mại và các hoạt động của họ là đối tượng quan tâm của
pháp luật các nước trên thế giới. Điểm chung nhận thấy trong các văn bản pháp luật nước
ngồi là khó có thể tìm thấy một định nghĩa chính thức về hoạt động trung gian thương
mại, nhưng thay vào đó có thể tìm thấy khá nhiều quy định về từng loại người trung gian
tham gia giúp đỡ đểcác bên xác lập, thực hiện các giao dịch thương mại .
Luật thương mại Việt Nam năm 1997 khơng có điều nào quy định khái niệm về
hoạt động trung gian thương mại, chỉ có các quy định về những loại hình của hoạt động
này. Ví dụ: Quy định về Đại diện cho thương nhân (Điều 83), Môi giới thương mại (Điều
93), Ủy thác mua bán hàng hóa (Điều 99), Đại lý mua bán hàng hóa (Điều 111).
Khoản 11, Điều 3, Luật thương mại Việt Nam năm 2005 định nghĩa: “Các hoạt
động trung gian thương mại là hoạt động của thương nhân để thực hiện các giao dịch
thương mại cho một hoặc một số thương nhân được xác định, bao gồm hoạt động đại
diện cho thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng hóa và đại lý thương
mại”. Như vậy, theo Luật thương mại Việt Nam 2005, có bốn loại hình trung gian
thương mại, đó là: Đại diện cho thương nhân, Mơi giới thương mại, Ủy thác mua bán

hàng hóa, Đại lý thương mại.
2.5.1. Hoạt động môi giới thương mại và hoạt động Đại diện cho thương nhân
Theo Điều 141, Luật thương mại Việt Nam năm 2005: “Đại diện cho thương
nhân là việc một thương nhân nhận ủy nhiệm (gọi là bên đại diện) của thương nhân khác
(gọi là bên giao đại diện)để thực hiện các hoạt động thương mại với danh nghĩa, theo
sự chỉ dẫn của thương nhân đó và được hưởng thù lao về việc đại diện”. Hình thức này
thường xuất hiện khi quy mô hoạt động kinh doanh chưa lớn, việc đặt văn phịng đại
diện là khơng có lợi, hoặc bên giao đại diện gặp nhiều khó khăn về mặt nhân sự.
Bảng 2.1. So sánh hoạt động MGTM và hoạt động Đại diện cho thương nhân
Hoạt động MGTM
Bên môi giới hỗ trợ cho bên được môi
giới trong việc đàm phán, giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa; bên mơi giới
đóng vai trị là cầu nối để người mua và
người bán gặp gỡ nhau.
Bên môi giới không tham gia vào việc
thực hiện hợp đồng giữa các bên được
môi giới, trừ trường hợp có ủy quyền của
bên được mơi giới.
Bên mơi giới không đại diện cho quyền
lợi của bên nào.

Hoạt động Đại diện cho thương nhân
Bên đại diện thực hiện các hoạt động
thương mại cho bên giao đại diện.

Bên đại diện được ủy quyền để thay mặt
bên giao đại diện thực hiện giao dịch
thương mại với bên thứ ba.


Bên đại diện làm việc theo sự chỉ dẫn của
bên giao đại diện, đại diện cho quyền lợi
của bên giao đại diện.
Bên môi giới thực hiện hoạt động môi giới Bên đại diện thực hiện các hoạt động
20


với danh nghĩa của chính mình.

thương mại với danh nghĩa của bên giao
đại diện.
Quyền hưởng thù lao môi giới phát sinh từ Quyền hưởng thù lao đại diện phát sinh
thời điểm các bên được môi giới đã ký từ thời điểm do các bên thỏa thuận trong
hợp đồng với nhau(trừ trường hợp có thỏa hợp đồng đại diện.
thuận khác).
Hợp đồng môi giới thương mại không Hợp đồng đại diện cho thương nhân phải
nhất thiết phải lập thành văn bản.
được lập thành văn bản hoặc bằng hình
thức khác có giá trị pháp lý tương đương
(điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu
và các hình thức khác theo quy định của
pháp luật).
2.5.2. Hoạt động môi giới thương mại và hoạt động Ủy thác mua bán hàng hóa
Theo Điều 155, Luật thương mại Việt Nam năm 2005: “Ủy thác mua bán hàng hóa
là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận ủy thác thực hiện việc mua bán hàng hóa với
danh nghĩa của mình theo những điều kiện đã thỏa thuận với bên ủy thác và được nhận
thù lao ủy thác”.
Bảng 2.2. So sánh hoạt động MGTM và hoạt động Ủy thác mua bán hàng hóa
Hoạt động MGTM
Bên mơi giới đóng vai trị là cầu nối để

người mua và người bán gặp nhau, là
trung gian trong việc đàm phán, giao kết
hợp đồng; không tham gia thực hiện
hợp đồng giữa các bên (trừ khi được ủy
quyền).
Bên mơi giới hoạt động với danh nghĩa
của chính mình, khơng đại diện cho quyền
lợi của bên nào trong các bên được mơi
giới.
Bên mơi giới có nghĩa vụ chịu trách
nhiệm về tư cách pháp lý của bên được
môi giới, khơng chịu trách nhiệm về khả
năng thanh tốn của họ.

Hoạt động Ủy thác mua bán hàng hóa
Bên nhận ủy thác thực hiện việc mua
bán hàng hóa cho bên ủy thác.

Bên nhận ủy thác hoạt động với danh
nghĩa của chính mình, đại diện cho quyền
lợi của bên ủy thác.

Bên nhận ủy thác có nghĩa vụ liên đới
chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm pháp
luật của bên ủy thác, nếu nguyên nhân của
hành vi vi phạm pháp luật đó có một phần
do lỗi của mình gây ra.
Hợp đồng mơi giới thương mại khơng Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa phải
nhất thiết phải lập thành văn bản.
được lập thành văn bản hoặc bằng hình

thức khác có giá trị pháp lý tương đương.
2.5.3. Hoạt động môi giới thương mại và hoạt động Đại lý thương mại
Điều 166, Luật thương mại Việt Nam năm 2005 quy định: “Đại lý thương mại là
hoạt động thương mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thỏa thuận việc bên đại lý
nhân danh chính mình mua, bán hàng hóa cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của
bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao”. Như vậy, hoạt động đại lý thương mại
không chỉ liên quan đến việc mua bán hàng hóa đơn thuần mà cịn bao gồm cả việc cung
ứng các dịch vụ kèm theo (ví dụ:dịch vụ trong lĩnh vực vận tải, bảo hiểm, giao nhận
hàng hóa, hải quan, giám định...).
21


Bảng 2.3. So sánh hoạt động MGTM và hoạt động Đại lý thương mại
Hoạt động MGTM
Hoạt động Đại lý thương mạ
Bên mơi giới đóng vai trị là người Bên đại lý là người trung gian trong việc
trung gian trong việc đàm phán, ký kết mua, bán hàng hóa cho bên giao đại lý
hợp đồng của các bên được môi giới.
hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý
cho khách hàng.
Bên môi giới hoạt động với danh nghĩa Bên đại lý hoạt động với danh nghĩa của
của chính mình, khơng đại diện cho chính mình; đứng tên trên hợp đồng, là
quyền lợi của bên nào, không tham gia chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa,
thực hiện hợp đồng giữa các bên (trừ cung ứng dịch vụ.
trường hợp được ủy quyền).
Quan hệ giữa bên môi giới và bên được Quan hệ giữa bên đại lý và bên giao đại lý
môi giới là quan hệ hợp đồng từng lần, là quan hệ hợp đồng dài hạn.
ngắn hạn.
Bên môi giới không có quyền quyết Đại lý bao tiêu có quyền quyết định giá
định giá bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho

giữa các bên được môi giới.
khách hàng.
Hợp đồng môi giới không nhất thiết phải Hợp đồng đại lý phải được lập thành văn
lập thành văn bản.
bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị
pháp lý tương đương.
2.6. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI
THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
2.6.1. Thực trạng áp dụng pháp luật trong hoạt động môi giới thương mại tại Việt
Nam
a. Về điều kiện chủ thể trong môi giới thương mại
Là một hoạt động trung gian thương mại, quan hệ môi giới thương mại cũng được
phát sinh giữa bên thuê dịch vụ(bên được môi giới) và bên thực hiện nhiệm vụ (bên môi
giới).
So sánh với các hoạt động trung gian thương mại khác quy định trong LTM 2005
như: hoạt động đại diện cho thương nhân, ủy thác mua bán hàng hóa, đại lý thương
mại.Có thể thấy trong hoạt động mơi giới thương mại luật chỉ quy định điều kiện của bên
môi giới mà không quy định điều kiện của bên được môi giới, cịn các hoạt động trung
gian thương mại khác thì LTM quy định điều kiện của các bên thuê dịch vụ và bên thực
hiện dịch vụ. Do LTM 2005 không quy định điều kiện của các bên môi giới nên có ý kiến
cho rằng quan hệ mơi giới thương mại có thể phát sinh giữa bên mơi giới (phải là thương
nhân) cịn bên được mơi giới là bất cứ ai.
Để có cơ sở pháp lý trong việc xác định hoạt động nào là hoạt động môi giới
thương mại, tránh những tranh cãi từ nhiều ý kiến quan điểm không cần thiết, LTM cần
quy định rõ ràng hơn về điều kiện của bên được môi giới trong hoạt động trung gian
thương mại. Việc quy định hoạt động môi giới thương mại phát sinh giữa các bên mơi
giới là thương nhân có đăng ký kinh doanh ngành nghề dịch vụ môi giới thương mại với
bên được môi giới (không nhất thiết là thương nhân).
b. Về hình thức của hợp đồng
22



Việc LTM 2005 khơng quy định về hình thức hợp đồng môi giới thương mại,
trong khi các hoạt động trung gian thương mại khác đều có quy định cụ thể về hình thức
của hợp đồng phát sinh giữa bên thuê dịch vụ và bên thực hiện dịch vụ trung gian sẽ dễ
đẩy các bên vào rủi ro khi hợp đồng mơi giới được lập bằng hình thức phi văn bản. Hợp
đồng là cơ sở quan trọng để giải quyết tranh chấp, rất khó để tìm được cơ sở vững chắc
để giải quyết.
Vì vậy, để cơ sở pháp lý rõ ràng cho các bên tham gia quan hệ môi giới thương
mại để dễ dàng xác lập hợp đồng, cần có những văn bản hướng dẫn thi hành LTM cần
quy định hình thức hợp đồng môi giới thương mại sao cho phù hợp với hình thức của các
loại hợp đồng phát sinh trong quan hệ trung gian thương mại khác như: hợp đồng đại
diện cho thương nhân, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa, hợp đồng đại lý thương mại.
c. Chế độ thanh tốn chi phí, thù lao
Thứ nhất, LTM 2005 cần làm rõ thế nào là chi phí phát sinh hợp lý cũng như xác
định chi phí phát sinh hợp lý.
Theo khoản 1, Điều 153, Luật Thương mại 2005, quyền hưởng thù lao của các bên
môi giới phát sinh từ thời điểm bên môi giới đã ký kết hợp đồng với nhau (trừ khi có thỏa
thuận khác). Kể cả khi bên môi giới và bên thứ ba không ký kết hợp đồng với nhau, bên
được môi giới vẫn phải thanh tốn các chi phí phát sinh hợp lý liên quan đến việc mơi
giới (Điều 154, LTM 2005).
“Chi phí phát sinh hợp lý” là một khái niệm không rõ ràng và cũng không dễ để
xác định rõ ràng. Để tiến hành công việc môi giới, người môi giới đương nhiên phải chịu
một chi phí nhất định. Trên thực tế, rất khó để xác định những chi phí nào đã được bên
mơi giới bỏ ra để phục vụ một khách hàng cụ thể. Đặc biệt, khi việc môi giới không
mang lại kết quả, bên được mơi giới khơng có lợi thế như bên mơi giới trong việc xác
định “chi phí hợp lý” bởi bên môi giới là người tiến hành các công việc tạo ra chi phí đó.
Thứ hai, Luật nên xem xét lại quy định người môi giới được quyền nhận cả thù lao
mơi giới và chi phí mơi giới khi việc môi giới thành công (khoản 1, Điều 153 và Điều
154).

Luật thương mại 2005 khơng có sự phân định rõ ràng khi bên môi giới được
hưởng thù lao và khi nào thì được hưởng chi phí mơi giới. Trong khi đó, luật này khơng
có quy định bên mơi giới phải tiến hành một cơng việc cụ thể nào về tính chi phí mơi giới
sẽ khơng dễ dàng khi các bên khơng có thỏa thuận về vấn đề này. Điều này cũng có nghĩa
bên mơi giới có thể hướng cả hai khoản thù lao và chi phí theo thỏa thuận trong khi họ
chỉ phải chắp nối một quan hệ hợp đồng.
Do đó, sẽ hợp lý hơn nếu bên mơi giới chỉ được nhận một trong hai khoản: thù lao
môi giới hoặc chi phí mơi giới (trừ khi các bên có thỏa thuận khác).
Thứ ba, Luật nên bổ sung những quy định về trường hợp loại trừ quyền hưởng thù
lao của bên môi giới8.
8 Nguyễn Thanh Thủy (2009), những quy định của Luật Thương mại Việt Nam 2005 về hoạt động trung gian
thương mại, thực tiễn áp dụng và những vấn đề phát sinh, tr.44, Đại học Ngoại thương Hà Nội

23


Trong trường hợp việc môi giới thành công, nhưng các bên được môi giới phát
người môi giới là việc không trung thực, gây thiệt hại lợi ích cho khách hàng, bên mơi
giới có được nhận thù lao mơi giới khơng? Trên thực tế, thơng thường bên mơi giới có
nhận thù lao mơi giới vì đã hồn thành cơng việc mơi giới (Điều 153 LTM 2005); đồng
thời bên môi giới phải đền bù những thiệt hại mà mình gây ra trên cơ sở hợp đồng môi
giới. Trừ khi trong hợp đồng mơi giới có quy định rõ về nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của
bên môi giới, quy định của LTM vẫn tạo cho các bên mơi giới có lợi thế hơn bên được
môi giới.
d. Quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên môi giới và bên được môi giới
khi hợp đồng thương mại chấm dứt
Như đã phân tích ở trên, có nhiều trường hợp, khi hợp đồng mơi giới đã chấm dứt,
các bên được môi giới mới phát hiện ra bên môi giới mắc sai phạm, gây thiệt hại đến
quyền lợi của họ.
Bổ sung các quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên khi hợp đồng mơi giới

thương mại chấm dứt là nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan, tránh
việc hai bên thông đồng với nhau để lừa gạt các bên cịn lại.
2.6.2. Kiến nghị nhằm hồn thiện việc mơi giới thương mại ở Việt Nam
a. Nâng cao hiệu quả hoạt động các cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động
môi giới thương mại
Hiện nay, nhiều tổ chức, các nhân kinh doanh dịch vụ môi giới thương mại trong
các lĩnh vực khác nhau chưa đăng ký với cơ quan có thẩm quyền, dẫn đến nhà nước bị
thất thu một khoản thuế lớn9. Không những thế, đội ngũ nhân lực môi giới thương mại
cịn có những tổ chức, cá nhân yếu về chun mơn và khả năng tài chính, đạo đức nghề
nghiệp chưa nâng cao, gây ra các sai phạm nhằm thiệt hại quyền lợi cho khách hàng.
Do đó, Nhà nước cần quản lý, giám sát chặt chẽ hoạt động môi giới thương mại
thông qua các cơ quan quản lý Nhà nước về mơi giới thương mại nói riêng và trung gian
thương mại nói chung.
b. Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động môi giới
thương mại
Thực trạng hiện nay cho thấy, người môi giới không được đào tạo bài bản kỹ năng
mơi giới chun nghiệp, ít có khả năng cung cấp dịch vụ mang tính chun môn cao cho
khách hàng. Hoạt động môi giới thương mại liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau như
kinh tế, tài chính, pháp luật, hành chính,…Do đó, người mơi giới khơng chỉ cần có hiểu
biết về lĩnh vực mà mình tham gia hoạt động mà còn cần am hiểu về các lĩnh vực liên
quan, ngồi ra cịn phải nắm vững các kỹ năng thuyết trình, đàm phán,...Việc đảm bảo
nhân lực cho hoạt động mơi giới thương mại cần mang tính tồn diện và có sự phối hợp
giữa Nhà nước và doanh nghiệp.

9 Phạm Duy Liên (2005), Sử dụng trung gian thương mại trong hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam – Thực trạng
và giải pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, tr.120, Đại học Ngoại thương Hà Nội

24



Việc đảm bảo nhân lực cho hoạt động MGTM có thể diễn ra dưới nhiều hình thức.
Các doanh nghiệp tổ chức các khóa đào tạo trong và ngồi nước cho nhân viên của mình
nhằm nâng cao chất lượng cho nguồn nhân lực trong hoạt động môi giới thương mại; tổ
chức các hội thảo trao đổi kinh nghiệm hay khảo sát thực tế. Đồng thời, doanh nghiệp
cũng nên phối hợp với các hiệp hội về môi giới thương mại trong và các lĩnh vực khác
nhau, các trường Đại học, cao đẳng,…để tìm nguồn kinh phí và đề ra cách thức tạo
nguồn nhân lực.
c. Nâng cao hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt động môi giới
thương mại
Một trong những nguyên nhân khiến chất lượng dịch vụ môi giới thương mại ở
Việt Nam chưa cao là cơ sở vật chất kỹ thuật thiếu thốn, hệ thống thông tin còn lạc hậu,
gây cản trở cho các doanh nghiệp trong việc lưu trữ thông tin, giao dịch với khách hàng,
theo dõi, giám sát quá trình kinh doanh.
Đề cao chất lượng dịch vụ môi giới, doanh nghiệp cần chú trọng phát triển hệ
thống cơ sở vật chất kỹ thuật. Phát triển cơ sở vật chất chính là cách nâng cao năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp nước ngồi, tránh được
những tranh chấp khơng đáng có giữa doanh nghiệp thành viên. Góp phần tạo ra hệ thống
thông tin minh bạch, công khai về MGTM trên thị trường, tạo điều kiện để các doanh
nghiệp hợp tác với nhau, hồn thiện thơng lệ kinh doanh và quy định pháp lý nhằm nâng
cao chất lượng dịch vụ môi giới.

KẾT CHƯƠNG II
Tiêu thụ sản phẩm là một khâu hết sức quan trọng trong quá trình kinh doanh. Để
sản xuất kinh doanh phát triển, thương nhân phải biết lựa chọn phương thức phân phối,
tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa phù hợp, trong đó việc sử dụng hoạt động mơi giới thương
mại sẽ mang lại hiệu quả lớn cho các thương nhân trong quá trình tổ chức mạng lưới
phân phối; tiêu thụ hàng hóa dịch vụ ở trong nước cũng như ở nước ngồi. Vì vậy, việc
nghiên cứu các quy định của mơi giới thương mại là cần thiết, từ đó pháp luật có các quy
định điều chỉnh phù hợp hơn, tạo điều kiện cho hoạt động môi giới thương mại ngày một
phát triển.

Vì vậy, trong chương này em tập trung giải quyết các vấn đề sau:
- Phân tích những quy định của pháp luật về chủ thể của môi giới thương mại;
- Dựa trên các căn cứ xác định hình thức hợp đồng môi giới thương mại;
- Nêu ra các quy định của pháp luật về việc chấm dứt hợp đồng mơi giới thương
mại;
- Phân tích quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng môi giới
thương mại;
- Phân biệt hoạt động MGTM với một số hoạt động trung gian khác;
- Nêu ra thực trạng áp dụng luật trong môi giới thương mại tại Việt Nam trong thực
tiễn hiện nay. Từ đó, làm rõ những vấn đề phát sinh trong quá trình thực thi những quy
định của pháp luật về môi giới thương mại của Luật thương mại 2005. Đồng thời đưa ra
25


×