Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH CỦA CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐẠI HỌC CÔNG LẬP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (494.83 KB, 16 trang )

CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH CỦA CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CƠNG LẬP
TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐẠI HỌC CƠNG LẬP
1. CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH CỦA CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
1.1. Khái niệm
 Tự chủ tài chính là gì?
Tự chủ tài chính là một trong những cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập,
được hiểu là cơ chế theo đó các đơn vị sự nghiệp công được trao quyền tự quyết định,
tự chịu trách nhiệm về các khoản thu, khoản chi của đơn vị mình trong khn khổ mà
pháp luật quy định.
 Đơn vị sự nghiệp cơng lập là gì?
Đơn vị sự nghiệp công lập là các đơn vị do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết
định thành lập, thuộc sở hữu của Nhà nước, là đơn vị dự toán độc lập, có con dấu và tài
khoản riêng, tổ chức bộ máy kế tốn theo quy định của Luật Kế tốn. Có thể kể đến các
đơn vị sự nghiệp công lập, như: trường học, bệnh viện, cơ sở y tế, văn hóa, sở khoa học
cơng nghệ, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thơng tấn xã Việt Nam…
1.2. Nội dung tự chủ tài chính
Theo đó, những vấn đề về tự chủ tài chính đã quy định chi tiết tại Nghị định số
16/2015/NĐ-CP, cụ thể:
1.2.1. Tự chủ về giá, phí:
Đối với loại dịch vụ sự nghiệp cơng khơng sử dụng kinh phí NSNN thì đơn vị
được tự xác định giá dịch vụ theo nguyên tắc thị trường. Đối với loại dịch vụ sự nghiệp
công sử dụng kinh phí NSNN thì Nhà nước ban hành danh mục và định giá.
1.2.2. Tự chủ về tài chính:
Đơn vị tự chủ cao về nguồn tài chính thì được tự chủ cao về quản lý, sử dụng các
kết quả tài chính và ngược lại (đi kèm theo đó là tự chủ về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức
bộ máy, nhân sự). Tự chủ tài chính có các mức độ sau: Tự bảo đảm chi thường xuyên
và chi đầu tư; Tự bảo đảm chi thường xuyên; Tự bảo đảm một phần chi thường xun
(do giá, phí dịch vụ sự nghiệp cơng chưa kết cấu đủ chi phí) và Được Nhà nước bảo
đảm chi thường xun (theo quy định khơng có nguồn thu hoặc nguồn thu thấp, chẳng
hạn các trường tiểu học).
1.2.3 Tự chủ trong chi đầu tư và chi thường xuyên:


Các đơn vị được chủ động sử dụng các nguồn tài chính được giao tự chủ, bao
gồm nguồn thu từ hoạt động dịch vụ sự nghiệp công (kể cả nguồn NSNN đấu thầu, đặt


hàng), nguồn thu phí theo quy định được để lại chi và nguồn thu hợp pháp khác, để chi
thường xuyên.
1.2.4. Về chi tiền lương:
Các đơn vị sự nghiệp chi trả tiền lương theo lương ngạch, bậc, chức vụ và các
khoản phụ cấp do Nhà nước quy định đối với đơn vị sự nghiệp công. Khi Nhà nước
điều chỉnh tiền lương cơ sở, đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư và đơn
vị tự bảo đảm chi thường xuyên phải tự bảo đảm tiền lương tăng thêm từ nguồn thu của
đơn vị; NSNN không cấp bổ sung.
1.2.5. Về trích lập các Quỹ:
Hàng năm, sau khi hạch tốn đầy đủ các khoản chi phí, nộp thuế và các khoản
nộp NSNN khác (nếu có) theo quy định, phần chênh lệch thu lớn hơn chi, đơn vị được
sử dụng để trích lập các quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp; quỹ bổ sung thu nhập; quỹ
khen thưởng và quỹ phúc lợi.
1.2.6. Về tự chủ trong giao dịch tài chính:
Đơn vị được mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng thương mại hoặc Kho bạc Nhà
nước để phản ánh các khoản thu, chi hoạt động dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng
ngân sách nhà nước. Lãi tiền gửi đơn vị được bổ sung vào Quỹ phát triển hoạt động sự
nghiệp hoặc bổ sung vào Quỹ khác theo quy định của pháp luật chun ngành (nếu có),
khơng được bổ sung vào Quỹ bổ sung thu nhập.
1.3. Điều kiện để các đơn vị sự nghiệp công lập được Nhà nước cho phép tự chủ
tài chính?
Theo quy định trước đây, chỉ các đơn vị sự nghiệp cơng lập tự bảo đảm tồn
bộ chi phí hoạt động thường xuyên từ nguồn thu sự nghiệp mới được Nhà nước xác
định giá trị tài sản để giao cho đơn vị quản lý theo cơ chế giao vốn cho DN. Các đơn
vị sự nghiệp công lập khác muốn được xác định giá trị tài sản để giao cho đơn vị quản
lý theo cơ chế giao vốn cho DN phải đáp ứng đủ các điều kiện sau: Tự bảo đảm trên

10% kinh phí hoạt động thường xun; có đề án sử dụng tài sản phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ được giao, được Bộ, cơ quan trung ương hoặc UBND cấp tỉnh phê duyệt; cam
kết thực hiện đúng quy định về quản lý, sử dụng tài sản đối với đơn vị tự chủ tài chính.
Trường hợp được Nhà nước cho phép hoặc yêu cầu tính đủ chi phí, bao gồm cả khấu
hao tài sản cố định vào giá thành sản phẩm dịch vụ, hàng hố thì đơn vị phải đảm bảo
tự bù đắp đủ các chi phí; Nhà nước khơng tăng thêm kinh phí, trừ các trường hợp Nhà
nước giao thêm nhiệm vụ hoặc bổ sung một phần cho tiền lương tăng thêm theo chế
độ.


Theo quy định mới, Chính phủ đã cho phép tất cả các đơn vị sự nghiệp tự bảo
đảm chi thường xuyên và chi đầu tư; đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường
xuyên; đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm một phần chi thường xuyên đều đủ điều
kiện được Nhà nước xác định giá trị tài sản để giao cho đơn vị quản lý theo cơ chế giao
vốn cho DN mà không cần thêm các điều kiện như quy định trước đây.
1.4. Cơ chế tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp cơng lập
Cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập
Về dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước:
- Ngân sách nhà nước chuyển từ hỗ trợ cho các đơn vị sự nghiệp công sang hỗ
trợ trực tiếp cho đối tượng người nghèo, đối tượng chính sách khi sử dụng dịch vụ sự
nghiệp cơng cơ bản, thiết yếu; chuyển từ hỗ trợ theo cơ chế Cấp phát bình quân sang
cơ chế Nhà nước đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công căn cứ vào
chất lượng đầu ra hoặc đấu thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp cơng. Việc bố trí ngân sách
nhà nước để thực hiện các dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước thực
hiện theo phân cấp hiện hành của pháp luật về ngân sách nhà nước, phù hợp với khả
năng cân đối của ngân sách nhà nước và lộ trình điều chỉnh tính đủ các chi phí hình
thành giá dịch vụ theo quy định của cơ quan có thẩm quyền.
- Danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước:
+ Các dịch vụ công cơ bản, thiết yếu theo quy định của pháp luật chuyên ngành
và pháp luật về ngân sách nhà nước, gồm: Các dịch vụ giáo dục mầm non, giáo dục phổ

thơng; y tế dự phịng, y tế cơ sở, bệnh viện ở vùng khó khăn, biên giới, hải đảo; khám,
chữa các bệnh phong, lao, tâm thần; nghiên cứu khoa học cơ bản; văn hóa, nghệ thuật
dân gian truyền thống, đào tạo huấn luyện vận động viên, huấn luyện viên thể thao quốc
gia; chăm sóc người có cơng và bảo trợ xã hội và các dịch vụ thuộc danh mục dịch vụ
sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước theo các lĩnh vực quy định tại Phụ lục I
ban hành kèm theo Nghị định này.
+ Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (sau đây gọi là các bộ, cơ
quan trung ương); Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi
là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) tiếp tục thực hiện danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử
dụng ngân sách nhà nước đã được cấp có thẩm quyền ban hành trong trường hợp danh
mục hiện hành phù hợp với quy định tại điểm a khoản này; đồng thời, rà soát để sửa
đổi, bổ sung cho phù hợp.
Về dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng ngân sách nhà nước:


Dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng ngân sách nhà nước gồm: Dịch vụ không
thuộc danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước quy định tại
Điều 4 Nghị định này; Dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công cung cấp từ hoạt động sản
xuất kinh doanh, liên doanh liên kết phù hợp với lĩnh vực chuyên môn của đơn vị
để đáp ứng nhu cầu của xã hội theo quy định của pháp luật có liên quan.
- Đơn vị sự nghiệp công được tự chủ sử dụng tài sản và các nguồn lực ở đơn vị để
cung cấp dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng ngân sách nhà nước, phù hợp với lĩnh
vực chuyên mơn được cấp có thẩm quyền giao theo ngun tắc: thực hiện theo đúng
quy định của pháp luật; được quyết định giá dịch vụ bảo đảm bù đắp chi phí và có tích
lũy hợp lý; trường hợp dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định
giá thì thực hiện theo mức giá cụ thể, khung giá do cơ quan có thẩm quyền quy định.
- Đơn vị sự nghiệp công được tự chủ quyết định các khoản chi để cung cấp dịch vụ
sự nghiệp công đảm bảo tính hợp lý, hợp lệ và phải quy định trong quy chế chi tiêu nội
bộ; phải tổ chức công tác kế toán theo đúng quy định của pháp luật về kế toán; mở sổ
sách kế toán, sử dụng, quản lý chứng từ, tổ chức hạch toán, theo dõi riêng đảm bảo ghi

nhận đầy đủ, chính xác doanh thu và phân bổ đầy đủ, chính xác chi phí đối với từng
hoạt động; phải đăng ký, kê khai, nộp đủ thuế và các khoản thu ngân sách khác (nếu
có) theo quy định của pháp luật; thực hiện chế độ kiểm toán nội bộ đầy đủ, định kỳ;
thực hiện chế độ báo cáo tài chính đúng, kịp thời với các cơ quan quản lý cấp trên và
các cơ quan có liên quan theo quy định. Thủ trưởng đơn vị sự nghiệp công chịu trách
nhiệm về hiệu quả quản lý, sử dụng tài sản công, đất đai được Nhà nước giao quản lý,
sử dụng; nguồn tài chính tại đơn vị theo quy định của pháp luật.
Trường hợp hoạt động dịch vụ sự nghiệp công khơng sử dụng ngân sách nhà nước
có chênh lệch thu nhỏ hơn chi, đơn vị phải tính tốn bù đắp khoản thiếu hụt bằng các
nguồn kinh phí hợp pháp của đơn vị, ngân sách nhà nước không cấp bù.
Phân loại mức tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập:
1.4.1. Đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư (sau
đây gọi là đơn vị nhóm 1) là đơn vị đáp ứng một trong các điều kiện sau:
a) Đơn vị có mức tự bảo đảm kinh phí chi thường xuyên xác định theo phương án
quy định tại Điều 10 Nghị định này bằng hoặc lớn hơn 100%; có mức tự bảo đảm chi
đầu tư bằng hoặc lớn hơn mức trích khấu hao và hao mòn tài sản cố định của đơn vị.
Mức tự bảo đảm chi đầu tư được xác định bao gồm các nguồn sau:
- Số dự kiến trích lập Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp trong năm kế hoạch
hoặc của bình qn 05 năm trước liền kề;
- Số thu phí được để lại để chi thường xuyên không giao tự chủ theo quy định.



b) Đơn vị cung cấp các dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng ngân sách nhà
nước, giá dịch vụ sự nghiệp công xác định theo cơ chế thị trường, có tính đủ khấu hao
tài sản cố định và có tích lũy dành chi đầu tư.
1.4.2. Đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên (sau đây gọi là đơn
vị nhóm 2) là đơn vị đáp ứng một trong các điều kiện sau:
a) Đơn vị có mức tự bảo đảm kinh phí chi thường xuyên xác định theo phương án
quy định tại Điều 10 Nghị định này bằng hoặc lớn hơn 100% và chưa tự bảo đảm chi

đầu tư từ nguồn Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, nguồn thu phí được để lại chi theo
quy định của pháp luật về phí và lệ phí, các nguồn tài chính hợp pháp khác theo quy
định của pháp luật;
b) Đơn vị thực hiện cung cấp dịch vụ sự nghiệp công thuộc danh mục dịch vụ sự
nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước, được Nhà nước đặt hàng hoặc đấu thầu cung
cấp dịch vụ sự nghiệp cơng theo giá tính đủ chi phí (khơng bao gồm khấu hao tài sản
cố định).
1.4.3. Đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm một phần chi thường xuyên (sau đây
gọi là đơn vị nhóm 3) là đơn vị có mức tự bảo đảm kinh phí chi thường xuyên xác định
theo phương án quy định tại Điều 10 Nghị định này từ 10% đến dưới 100%, được Nhà
nước đặt hàng hoặc đấu thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp cơng theo giá chưa tính đủ chi
phí và được phân loại như sau:
a) Đơn vị tự bảo đảm từ 70% đến dưới 100% chi thường xuyên;
b) Đơn vị tự bảo đảm từ 30% đến dưới 70% chi thường xuyên;
c) Đơn vị tự bảo đảm từ 10% đến dưới 30% chi thường xuyên.
1.4.4. Đơn vị sự nghiệp công do Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên (sau
đây gọi là đơn vị nhóm 4) gồm:
a) Đơn vị sự nghiệp cơng có mức tự bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên
xác định theo phương án quy định tại Điều 10 Nghị định này dưới 10%;
b) Đơn vị sự nghiệp cơng khơng có nguồn thu sự nghiệp.
1.5. Nguồn kinh phí quản lý hành chính được giao để các đơn vị sự nghiệp công
lập thực hiện cơ chế tự chủ tài chính



Kinh phí NSNN cấp
Các khoản phí, lệ phí được để lại theo chế độ quy định để đảm bảo hoạt động
của bộ máy thu phí, lệ phí theo quy định của cơ quan có thẩm quyền ( trừ số phí,
lệ phí được để lại mua sắm tài sản cố định và các quy định khác nếu có). Đối với
khoản kinh phí này, đơn vị phải mở tài khoản tại Kho Nhà nước, chịu sự kiểm





tra, kiểm soát của Kho bạc Nhà nước về thu - chi phí, lệ phí theo các quy định
của nhà nước về phí, lệ phí.
Các khoản thu hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.

1.6. Mục tiêu của việc tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập
 Thứ nhất, trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho đơn vị sự nghiệp trong
việc tổ chức công việc, sắp xếp lại bộ máy, sử dụng lao động và nguồn lực tài
chính để hồn thành nhiệm vụ được giao; phát huy mọi khả năng của đơn vị để
cung cấp dịch vụ với chất lượng cao cho xã hội; tăng nguồn thu, nhằm từng bước
giải quyết thu nhập cho người lao động; phát huy tính sáng tạo, năng động, xây
dựng “thương hiệu riêng” cho đơn vị mình.
 Thứ hai, thực hiện chủ trương xã hội hóa trong việc cung cấp dịch vụ cho
xã hội, huy động sự đóng góp của cộng đồng xã hội để phát triển các hoạt động
sự nghiệp, từng bước giảm dần bao cấp từ ngân sách nhà nước.
 Thứ ba, thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với đơn vị sự
nghiệp, Nhà nước vẫn quan tâm đầu tư để hoạt động sự nghiệp ngày càng phát
triển; bảo đảm cho các đối tượng chính sách - xã hội, đồng bào dân tộc thiểu số,
vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn được cung cấp dịch vụ theo quy định
ngày càng tốt hơn.
1.7. Thực trạng tình hình thực hiện cơ chế tự chủ tài chính của những đơn vị sự
nghiệp cơng lập
 Thành tựu:
Thực tiễn thời gian qua cho thấy, việc triển khai giao quyền tự chủ tài chính cho các
đơn vị sự nghiệp công lập đã mang lại một số kết quả tích cực, như các đơn vị sự
nghiệp cơng lập đã chủ động sử dụng nguồn kinh phí ngân sách nhà nước (NSNN) giao
để thực hiện nhiệm vụ có hiệu quả; đồng thời chủ động sử dụng tài sản, nguồn nhân lực

để phát triển và nâng cao số lượng, chất lượng hoạt động cung cấp dịch vụ sự nghiệp
công, từ đó phát triển nguồn thu.
Nguồn thu của các đơn vị sự nghiệp cơng lập cùng với nguồn kinh phí tiết kiệm 10%
chi hoạt động thường xuyên NSNN giao đã góp phần bảo đảm bù đắp một phần nhu
cầu tiền lương tăng thêm, theo quy định của Chính phủ. Nhờ tăng cường khai thác
nguồn thu, tiết kiệm chi và thực hiện cơ chế tự chủ, thu nhập và đời sống của người lao
động trong các đơn vị sự nghiệp công lập đã từng bước được nâng lên. Trong đó, thu
nhập tăng thêm của cán bộ, viên chức bình quân khoảng từ 0,5 đến 1,5 lần tiền lương


cấp bậc của đơn vị. Riêng một số đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực giáo dục đại
học tự bảo đảm tồn bộ chi phí hoạt động đã thực hiện chi trả thu nhập tăng thêm cho
người lao động khoảng 2 - 3 lần, như Đại học Quốc tế - Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí
Minh...
Về sắp xếp bộ máy và tinh giản biên chế, trong năm 2018, tại một số địa phương đã
thực hiện quyết liệt và đạt được được một số kết quả nhất định. Tại Hà Nội, sau khi
thực hiện sắp xếp, kiện toàn, các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc sở, ban, ngành
đã giảm từ 401 đơn vị xuống còn 280 đơn vị (giảm tương đương 30,2%); các đơn vị sự
nghiệp công lập cấp huyện đã giảm từ 206 đơn vị còn 96 đơn vị (giảm tương đương
53,4%). Tại tỉnh Quảng Ninh, địa phương này đã giao tự chủ tài chính cho 84 đơn vị sự
nghiệp công lập (tăng 15 đơn vị so với năm 2017), có thêm 1.442 viên chức khơng
hưởng lương từ NSNN (trong đó, số viên chức của 4 Bệnh viện thuộc Sở Y tế là 1.264
người), kinh phí ngân sách cấp năm 2018 giảm 120 tỷ đồng so với năm 2017.
Trong các năm 2017-2018, chỉ tính riêng ở Trung ương, các lĩnh vực y tế, giáo dục
và đào tạo đã giảm chi ngân sách nhà nước trực tiếp cho các đơn vị sự nghiệp công lập
mỗi năm khoảng 1.000 tỷ đồng.


Hạn chế:


Tuy vậy, kết quả này mới chỉ tập trung tại một số đơn vị năng động, sáng tạo và có
lợi thế về uy tín trong cung cấp dịch vụ sự nghiệp công hoặc ở một số ngành nghề có
khả năng xã hội hóa cao.
Theo báo cáo chưa đầy đủ của các bộ, ngành và địa phương, đến nay, tỷ lệ các đơn
vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm kinh phí hoạt động cịn thấp, chiếm khoảng 3,33%
tổng số các đơn vị sự nghiệp công lập của cả nước, tương đương 1.934 các đơn vị sự
nghiệp công lập.
Đồng thời, năm 2018 trong lĩnh vực khoa học và cơng nghệ có 74% đơn vị được
phê duyệt phương án tự chủ tài chính, trong đó phần lớn đăng ký đảm bảo một phần chi
thường xuyên và đảm bảo tồn bộ chi thường xun (Báo cáo tình hình thực hiện Nghị
định số 16/2015/NĐ-CP, Bộ Tài chính). Lĩnh vực sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác
có số lượng đơn vị tự đảm bảo chi thường xuyên và đầu tư lớn nhất (khoảng 40%).
Trong lĩnh vực y tế, có khoảng hơn 60% đơn vị tự đảm bảo một phần chi thường xuyên,
nổi bật có 04 bệnh viện gồm: Bệnh viện Chợ Rẫy, Bạch Mai, Việt Đức và Bệnh viện K
thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện cả về chi đầu tư và chi thường
xuyên.
Số lượng đơn vị và nhân lực trong các đơn vị sự nghiệp cơng lập (ĐVSNCL) ở nước
ta trước khi có Nghị quyết số 19-NQ/TW (khóa XII) là rất lớn: năm 2016, có 57.995


đơn vị, với 2.441.791 người (chưa tính tổ chức và biên chế sự nghiệp trong lực lượng
công an, quân đội và khu vực doanh nghiệp nhà nước).
Về thực hiện cơ chế tự chủ tài chính, có 57.171 ĐVSNCL thực hiện giao cơ chế tự
chủ về tài chính theo các mức độ khác nhau, cụ thể như sau: tự bảo đảm chi thường
xuyên và chi đầu tư có 123 đơn vị, chiếm tỷ lệ 0,21%; tự bảo đảm chi thường xuyên có
1.934 đơn vị, chiếm tỷ lệ 3,33%; tự bảo đảm một phần chi thường xuyên có 12.968 đơn
vị, chiếm tỷ lệ 22,36%; 42.146 đơn vị, chiếm tỷ lệ 72,67% do ngân sách nhà nước
(NSNN) đảm bảo tồn bộ kinh phí hoạt động. Còn 824 ĐVSNCL chưa được giao quyền
tự chủ về tài chính.
1.8. Đơn vị sự nghiệp cơng lập tự chủ tài chính thuộc quản lý của Nhà nước và

được hoạt động tự chủ trong phạm vi quyền hạn nào? Có nghĩa vụ gì?
- Thứ nhất, tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi
thường xuyên và chi đầu tư; đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên:
Tại Điều 12 Nghị định số 60/2021/NĐ-CP quy định về chi thường xuyên giao tự
chủ đối với kinh phí do ngân sách Nhà nước cung cấp cho hoạt động dịch vụ sự nghiệp
công thuộc danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách Nhà nước, bao gồm
cả nguồn ngân sách nhà nước đặt hàng hoặc đấu thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp công
theo quy định. Đồng thời, quy định cụ thể nội dung chi tiền lương và các khoản đóng
góp theo lương áp dụng đối với đơn vị nhóm 1 và nhóm 2 (điểm b khoản 1 Điều 12).
Đối với chi thường xuyên không giao tự chủ và chi thực hiện nhiệm vụ khoa học và
công nghệ được quy định mới tại Điều 13 Nghị định số 60/2021/NĐ-CP, Nghị định số
16/2015/NĐ-CP không quy định đối với nội dung này.
Về phân phối kết quả tài chính: Điều chỉnh tỷ lệ trích lập Quỹ bổ sung thu nhập
của đơn vị sự nghiệp công lập tự đảm bảo chi thường xuyên là tối đa không quá 2 lần
quỹ tiền lương ngạch, bậc, chức vụ, các khoản đóng góp theo tiền lương và các khoản
phụ cấp do Nhà nước quy định (điểm b khoản 1 Điều 14). Nghị định cũng quy định tiến
tới sẽ không trích lập Quỹ bổ sung thu nhập khi chế độ tiền lương theo Nghị quyết
27/NQ-CP có hiệu lực. Nghị định số 16/2015/NĐ-CP trước đây quy định tối đa không
quá 3 lần quỹ tiền lương ngạch, bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp lương do Nhà nước
quy định (khoản 3 Điều 13).
- Thứ hai, tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công đảm bảo một phần
chi thường xuyên:
Đối với quy định về chi thường xuyên giao tự chủ: Nghị định số 60/2021/NĐCP bỏ quy định được tự chủ chi hoạt động chuyên môn, quản lý. Bổ sung: Quy định


được tự chủ chi tiền thưởng (điểm c khoản 1 Điều 16); quy định tự chủ chi thuê chuyên
gia, nhà khoa học, người có tài năng đặc biệt thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức,
đơn vị (khoản 2 Điều 16). Bên cạnh đó, Nghị định này cũng quy định rõ căn cứ chi hoạt
động chuyên môn, quản lý tương ứng với mức tự đảm bảo chi thường xuyên (%) của
từng đơn vị (khoản 3 Điều 16). Đối với chi thường xuyên không giao tự chủ được quy

định mới tại Điều 17 Nghị định số 60/2021/NĐ-CP, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP
không quy định đối với nội dung này.
Về phân phối kết quả tài chính trong năm: Khoản 1 Điều 18 Nghị định số
60/2021/NĐ-CP quy định cụ thể tỷ lệ trích lập Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp theo
mức tự đảm bảo chi thường xuyên của đơn vị thì tỷ lệ trích lập tương ứng 10%, 15%
hoặc 20%. Nghị định số 16/2015/NĐ-CP quy định chung trích tối thiểu 15% để lập Quỹ
phát triển hoạt động sự nghiệp (gạch đầu dòng thứ nhất, điểm a khoản 3 Điều 14).
Tương tự Nghị định số 60/2021/NĐ-CP cũng quy định chi tiết hơn đối với các quỹ còn
lại như Quỹ bổ sung thu nhập và chi thu nhập tăng thêm, Quỹ khen thưởng và Quỹ phúc
lợi và Quỹ khác.
- Thứ ba, tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp cơng do ngân sách Nhà
nước bảo đảm chi thường xuyên:
Đối với chi thường xuyên giao tự chủ: Bỏ quy định được tự chủ chi hoạt động chuyên
môn, chi quản lý; Bổ sung quy định được tự chủ chi tiền thưởng (điểm c khoản 1 Điều
20); Bổ sung quy định tự chủ chi thuê chuyên gia, nhà khoa học, người có tài năng đặc
biệt thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị (khoản 2 Điều 20); Bổ sung thêm
khoản được tự chủ chi: Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật (nếu có) (khoản
4 Điều 20). Đối với chi thường xuyên không giao tự chủ và chi thực hiện nhiệm vụ
khoa học và công nghệ được quy định mới tại Điều 21 Nghị định số 60/2021/NĐ-CP.
Về phân phối kết quả tài chính trong năm được quy định cụ thể tại Điều 22 Nghị định
số 60/2021/NĐ-CP.


Nghị định số 60/2021/NĐ-CP bổ sung quy định cụ thể nguồn tài chính của đơn
vị SNCL theo hướng tách rõ nguồn thu. Cụ thể, nguồn thu hoạt động sự nghiệp
gồm:

- Thu từ hoạt động dịch vụ sự nghiệp công;
- Thu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh; hoạt động liên doanh, liên kết với các tổ
chức, cá nhân theo đúng quy định của pháp luật và được cơ quan có thẩm quyền phê

duyệt đề án phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của đơn vị sự nghiệp công;


- Thu từ cho thuê tài sản công: Đơn vị thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật về
quản lý, sử dụng tài sản công và phải được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt đề án cho
thuê tài sản công.








Đơn vị sự nghiệp công được tự chủ sử dụng tài sản và các nguồn lực ở đơn vị
để cung cấp dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng ngân sách nhà nước, phù hợp
với lĩnh vực chuyên môn được cấp có thẩm quyền giao theo nguyên tắc: thực
hiện theo đúng quy định của pháp luật; được quyết định giá dịch vụ bảo đảm bù
đắp chi phí và có tích lũy hợp lý; trường hợp dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa,
dịch vụ do Nhà nước định giá thì thực hiện theo mức giá cụ thể, khung giá do cơ
quan có thẩm quyền quy định.
Đơn vị sự nghiệp cơng được tự chủ quyết định các khoản chi để cung cấp dịch
vụ sự nghiệp cơng đảm bảo tính hợp lý, hợp lệ và phải quy định trong quy chế
chi tiêu nội bộ; phải tổ chức cơng tác kế tốn theo đúng quy định của pháp luật
về kế toán; mở sổ sách kế toán, sử dụng, quản lý chứng từ, tổ chức hạch toán,
theo dõi riêng đảm bảo ghi nhận đầy đủ, chính xác doanh thu và phân bổ đầy đủ,
chính xác chi phí đối với từng hoạt động; phải đăng ký, kê khai, nộp đủ thuế và
các khoản thu ngân sách khác (nếu có) theo quy định của pháp luật; thực hiện
chế độ kiểm toán nội bộ đầy đủ, định kỳ; thực hiện chế độ báo cáo tài chính đúng,
kịp thời với các cơ quan quản lý cấp trên và các cơ quan có liên quan theo quy

định. Thủ trưởng đơn vị sự nghiệp công chịu trách nhiệm về hiệu quả quản lý,
sử dụng tài sản công, đất đai được Nhà nước giao quản lý, sử dụng; nguồn tài
chính tại đơn vị theo quy định của pháp luật.
Trường hợp hoạt động dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng ngân sách nhà
nước có chênh lệch thu nhỏ hơn chi, đơn vị phải tính tốn bù đắp khoản thiếu hụt
bằng các nguồn kinh phí hợp pháp của đơn vị, ngân sách nhà nước không cấp
bù.
Theo Nghị định 16/2015/NĐ-CP quy định việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm cho các đơn vị sự nghiệp công được ổn định trong thời gian 3 năm (khoản
2 Điều 20). Nghị định 60/2021/NĐ-CP quy định đơn vị sự nghiệp công xây dựng
phương án tự chủ tài chính trong giai đoạn ổn định 5 năm, phù hợp với giai đoạn
phát triển kinh tế - xã hội do Chính phủ quy định (khoản 1 Điều 35). Đồng thời,
bổ sung thêm quy định lộ trình nâng mức độ tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp
cơng tự bảo đảm một phần chi thường xuyên (khoản 4 Điều 35) mà Nghị định
trước đây không quy định


Việc phân chia kết quả của hoạt động liên doanh, liên kết thực hiện theo thỏa
thuận trong Hợp đồng liên doanh, liên kết, cụ thể như sau:
- Đối với hình thức liên doanh, liên kết không thành lập pháp nhân mới: Đơn vị SNCL
thực hiện bổ sung toàn bộ kết quả của hoạt động liên doanh, liên kết vào nguồn tài chính
của đơn vị có hoạt động liên doanh, liên kết theo đề án liên doanh, liên kết đã được cấp
có thẩm quyền phê duyệt.
- Đối với hình thức liên doanh, liên kết thành lập pháp nhân mới: số tiền thu được từ
kết quả phân chia của hoạt động liên doanh, liên kết sau khi chi trả các chi phí lãi vay,
chi phí th tài sản đem đi góp vốn (nếu có); phần thu nhập được chia cịn lại của đơn
vị SNCL được quản lý và sử dụng theo đề án liên doanh, liên kết được cấp có thẩm
quyền phê duyệt.



1.9. Giải pháp hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp cơng
lập
Để bảo đảm hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, ngoài việc ban hành
đầy đủ khung pháp lý về cơ chế tự chủ tài chính, chúng ta cần phải tiếp tục hoàn
thiện cơ chế quản lý, sắp xếp và tổ chức lại hoạt động của các đơn vị sự nghiệp
công lập theo tinh thần của Nghị quyết số 19/NQ-TW của Hội nghị Trung ương 6 Khóa
XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả
hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
Đồng thời triển khai Nghị quyết 19, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
08/NQ-CP về Chương trình hành động của Chính phủ, trong đó, giao các Bộ nghiên
cứu sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về hoạt động
của các đơn vị sự nghiệp cơng lập. Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 429/QĐBTC về Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 08/NQ-CP và đang tích cực phối
hợp các Bộ, địa phương trong việc triển khai các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể nhằm hiện
thực hóa các mục tiêu của Nghị quyết 19, tiến tới giảm dần số lượng các đơn vị sự
nghiệp công lập do NSNN bảo đảm toàn bộ chi hoạt động thường xuyên, tăng số
lượng các đơn vị tự chủ tự bảo đảm về tài chính.
Trong thời gian tới, khi các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực đã hồn thiện và trình
cấp có thẩm quyền ban hành đầy đủ danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN,
việc hỗ trợ từ NSNN sẽ gắn với số lượng, chất lượng sản phẩm dịch vụ sự nghiệp công
được cung cấp, giá cung cấp dịch vụ và nhu cầu sử dụng để bảo đảm hiệu quả đầu tư từ
NSNN, tránh lãng phí; đẩy mạnh thực hiện cơ chế đặt hàng thực hiện dịch vụ sự nghiệp
cơng có lộ trình cụ thể thực hiện cơ chế đấu thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp công sử


dụng NSNN để tạo điều kiện cho cơ sở ngoài công lập cùng tham gia cung cấp; giảm
dần các sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN thực hiện theo phương thức
giao nhiệm vụ, giao kế hoạch.
2. TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐẠI HỌC CƠNG LẬP
2.1. Điều kiện tự chủ tài chính đối với các trường ĐH cơng lập ở Việt Nam
Cơ sở giáo dục đại học được thực hiện cơ chế tự chủ theo quy định của pháp luật về

giáo dục đại học khi đáp ứng đủ điều kiện sau đây:






Đã thành lập Hội đồng trường, Hội đồng Đại học và được tổ chức kiểm định chất
lượng giáo dục hợp pháp công nhận đạt chuẩn chất lượng cơ sở giáo dục đại học;
Đã ban hành và tổ chức thực hiện quy chế hoạt động của Hội đồng trường hoặc
Hội đồng Đại học; quy chế phối hợp giữa Hội đồng trường hoặc Hội đồng Đại
học, đảng ủy và nhà trường; quy chế tổ chức và hoạt động; quy chế dân chủ; quy
chế quản lý đào tạo, khoa học công nghệ, học sinh sinh viên, tài chính tài sản và
có chính sách bảo đảm chất lượng đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng do Nhà nước
quy định;
Thực hiện phân quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình đến từng đơn vị, cá nhân
trong cơ sở giáo dục đại học;
Xây dựng đề án tự chủ và thực hiện công khai đầy đủ các điều kiện bảo đảm chất
lượng, kết quả kiểm định, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm và các thông tin
khác theo quy định của pháp luật.

 Trong xu hướng gia tăng mức độ tự chủ tài chính của các cơ sở giáo dục đại học,
nguồn thu từ học phí ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, khoảng 70-80% tổng thu của các
trường. Phần kinh phí ngân sách nhà nước cấp có xu hướng giảm dần, nhờ đó áp lực
chi ngân sách cho giáo dục đại học đã giảm hơn so với trước.

2.2.Thực trạng tự chủ về tài chính ở các trường đại học công lập Việt Nam
Việc các trường đại học công lập đang nhận hỗ trợ ngân sách đào tạo,
chuyển sang tự chủ (tự thu - tự chi) và tăng học phí, theo nhiều cán bộ quản lý là
một hướng đi tất yếu nhằm bảo đảm chất lượng đào tạo, gia tăng phúc lợi, dịch

vụ phục vụ sinh viên cũng như bảo đảm nguồn lực nhất định để tái đầu tư cho cơ
sở vật chất, công tác nghiên cứu khoa học (NCKH)…
2.2.1. Thành tựu


Hiện nay, Chính phủ đã phê duyệt thí điểm 23 trường ĐH thực hiện tự chủ tài
chính. Với nỗ lực của các trường, đến nay theo số liệu mới nhất có 7 trường nằm
trong top 500 trường Châu Á và 2 đại học lọt top 1.000 của thế giới.
 Nguồn thu của các trường tăng lên.
 Trường có cơ hội trích lập các khoản tài chính để tái đầu tư cho hoạt động đào
tạo, nghiên cứu và phát triển nhà trường:
Trong 2 năm gần đây, số liệu công bố quốc tế nhiều hơn 5 năm trước đây cộng lại.
Điều đó dẫn đến thứ hạng của các trường đại học của chúng ta tăng mạnh mẽ trong
những năm gần đây. Số cơng trình nghiên cứu được cơng bố trong nước và quốc tế tăng
gấp đôi.
 Quan trọng hơn, khi nguồn thu đảm bảo và ổn định, lợi ích và phúc lợi phục vụ
cho người học sẽ tốt hơn:
Chính sách hỗ trợ, học bổng sẽ nhiều và đầy đủ… nhằm bảo đảm nguyên tắc học
phí tăng đi kèm với tăng chất lượng, gia tăng cơ hội việc làm và thu nhập cho sinh viên
sau khi ra trường bằng việc ngưỡng, chuẩn đầu ra cao hơn.
 Trường có thêm nhiều chính sách, chế độ đãi ngộ hấp dẫn dành cho cán bộ, công
nhân viên để thu hút thu hút nhân tài.
 Nên thực hiện tự chủ tài chính đối với các trường ĐH công lập.


2.2.2. Hạn chế
Một là, cơ chế phân bổ NSNN cho các trường ĐHCL cịn mang tính bình qn,
chủ yếu căn cứ theo mức độ tự đảm bảo kinh phí chi thường xuyên mà chưa gắn với
chất lượng sản phẩm đầu ra, hiệu quả sử dụng nguồn tài chính của từng trường. Mặt
khác, cơ chế phân bổ NSNN chưa thực sự trở thành công cụ điều tiết quy mô, cơ cấu

ngành, nghề đào tạo gắn với sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội.
Hai là, chính sách học phí theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 2/10/2015
của Chính phủ chưa bảo đảm tính đủ chi phí đào tạo cần thiết, đặc thù đào tạo của từng
ngành, nghề cũng như chưa gắn với yêu cầu chất lượng sản phẩm đầu ra và thương hiệu
của từng trường. Bên cạnh đó, chính sách học phí và cơ chế phân bổ NSNN chưa có sự
kết hợp để thực hiện chính sách hỗ trợ các đối tượng sinh viên diện chính sách, sinh
viên theo cơ chế đặt hàng đào tạo ở các ngành ít hấp dẫn, không thu hút được người
học, nhưng cần thiết cho xã hội.
Ba là, nguồn thu sự nghiệp của các trường ĐH cơng lập chủ yếu vào nguồn
thu học phí. Trong khi, nguồn thu từ hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công


nghệ là một trong những hoạt động chính, quan trọng của trường đại học nhưng chiếm
tỷ trọng rất nhỏ. Nguồn thu từ tài trợ, viện trợ… của các tổ chức, cá nhân cịn rất hạn
chế đối với nhiều trường. Ngồi ra, nguồn thu sự nghiệp của một số trường ở địa phương
do điều kiện kinh tế - xã hội phát triển chưa cao đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động
đào tạo, nghiên cứu khoa học nên việc huy động nguồn tài chính ngồi NSNN gặp khó
khăn, quy mơ nguồn thu nhỏ và phụ thuộc rất lớn vào NSNN cấp.
Ví dụ về sự thay đổi học phí của Trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn:
Trước khi tự chủ tài chính

Sau khi tự chủ tài chính

Học phí ĐH Khoa học xã hội và nhân
văn TPHCM năm 2019
 Cử nhân hệ đại trà: 184.000
VNĐ/tín chỉ
 Cử nhân tài năng: Miễn học phí
 Cử nhân hệ chất lượng cao:
36.000.000 VNĐ/năm học

 Cử nhân hệ văn bằng hai:
325.000 VNĐ/tín chỉ
 Cử nhân hệ vừa làm vừa học:
235.000 VNĐ/tín chỉ
 Cử nhân hệ liên thơng: 294.000
VNĐ/tín chỉ

Trường ĐH KHXH&NV (ĐHQG
TPHCM) vừa cơng bố đề án đổi mới cơ
chế hoạt động theo hướng tự chủ từ năm
học 2022 - 2023. Theo đề án, mức học phí
hệ đại trà dự kiến dao động từ 16 - 24
triệu đồng/năm, hệ chất lượng cao là 60
triệu đồng/năm.

Bốn là, trong cơ cấu chi của một số trường ĐH công lập, chi cho con người chiếm
tỷ trọng lớn, nhưng thu nhập của viên chức và người lao động chủ yếu là tiền lương
theo ngạch bậc, chức vụ. Mặt khác, nguồn tài chính chi cho đầu tư cơ sở vật chất, nghiên
cứu khoa học còn hạn chế đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng cao trình độ chun
mơn, nghiệp vụ và đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy, nghiên cứu khoa học của
giảng viên.
Năm là, cơ sở pháp lý về tự chủ tài chính ĐH cơng lập thiếu đồng bộ, một số quy
định chưa phù hợp với thực tiễn, thiếu tính cụ thể, rõ ràng dẫn đến khó khăn khi triển
khai thực hiện:


Ví dụ, Điều 32 Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH quy định “các
cơ sở GDĐH thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình theo quy định của pháp
luật…”. Tuy nhiên, trong lĩnh vực GDĐH còn bị chi phối bởi rất nhiều quy định khác,
như: Luật Ngân sách, Luật Đầu tư công, Luật Đấu thầu, Luật Quản lý, sử dụng tài sản

cơng,… Ngồi ra, thực hiện quy định của pháp luật về Hội đồng trường cịn mang tính
hình thức, hiệu lực, hiệu quả chưa cao.
2.3. Giải pháp phát triển giáo dục đại học trong điều kiện tự chủ tài chính
Nhằm hạn chế những bất cập cịn tồn tại, tự chủ tài chính tại các cơ sở GDĐH
cần quan tâm tới một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục hồn thiện mơi trường tự chủ tài chính đại học: Cơ chế tự
chủ nói chung và tự chủ tài chính đại học nói riêng cần được tiếp tục hoàn thiện để hạn
chế những vướng mắc trong q trình thực hiện như chính sách về tiền lương, chính
sách học bổng, hỗ trợ học tập; chính sách đầu tư cơng, chính sách về xã hội hố, thành
lập doanh nghiệp trực thuộc… và hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan đến tự chủ
tài chính phù hợp với mơ hình quản lý các cơ sở GDĐH, đảm bảo sự đồng bộ, thống
nhất giữa các văn bản pháp luật.
Các trường đại học nên được giao quyền tự chủ hơn trong quản lý thu, chi tài
chính phù hợp theo quy định. Cơ chế tự chủ cần được thực hiện trong môi trường công
khai, minh bạch các hoạt động thu, chi tài chính và các hoạt động chun mơn liên quan
đến thu, chi tài chính như việc mở ngành/chuyên ngành đào tạo, công tác tuyển sinh,
hoạt động cung cấp dịch vụ...
Nhà nước cũng cần quy định khung chi tiêu các nguồn thu sự nghiệp của các cơ
sở GDĐH với các nội dung chủ yếu: Tỷ trọng chi cho con người, tỷ trọng chi cho xây
dựng cơ sở vật chất, tỷ trọng chi nghiên cứu khoa học, tỷ trọng chi mua sắm trang thiết
bị hỗ trợ phát triển chuyên môn... Cùng với mở rộng quyền tự chủ, hoạt động thanh tra,
kiểm toán nội bộ được tăng cường nhằm đảm bảo tính chính xác, minh bạch và công
bằng trong quản lý, sử dụng tài chính của các cơ sở GDĐH cơng lập.
Thứ hai, đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến và thống nhất nhận thức về
cơ chế tự chủ tài chính tại các cơ sở GDĐH công lập: Cơ chế tự chủ tài chính đối với
các cơ sở GDĐH cơng lập đã được áp dụng nhiều năm, nhưng cách hiểu cịn có sự khác
biệt và chưa thống nhất. Nhiều người còn nhầm lẫn giữa “tự chủ” với “tự lo”. Sự không
thống nhất trong nhận thức đang là lực cản hiện hữu trong việc hoạch định chính sách
và trong triển khai cơ chế tại các trường đại học. Công tác tuyên truyền cần tiếp tục
được duy trì và đổi mới cách thức thực hiện để các cấp, các ngành, các cơ sở giáo dục



và các chủ thể có liên quan hiểu rõ và cùng thực hiện. Có như vậy cơ chế tự chủ tài
chính đối với các cơ sở GDĐH cơng lập mới có ý nghĩa và đạt hiệu quả.
Thứ ba, đẩy nhanh lộ trình và sớm hồn thiện việc tính đúng, tính đủ chi
phí trong giá dịch vụ GDĐH: Việc tính đúng, tính đủ chi phí trong giá dịch vụ GDĐH
đã được quy định chi tiết tại Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015. Theo đó,
đến năm 2020 thực hiện tính đúng, tính đủ chi phí tiền lương, chi phí trực tiếp, chi phí
quản lý và chi phí khấu hao tài sản cố định vào giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh
phí NSNN. Để hồn thiện lộ trình này cần có sự vào cuộc và thống nhất hành động của
các cấp, các ngành, đặc biệt cần có sự hướng dẫn cụ thể của Bộ Tài chính và Bộ Giáo
dục và Đào tạo để công tác này được triển khai đồng bộ.
Thứ tư, nâng cao trình độ và năng lực quản lý tài chính của các cơ sở GDĐH:
Q trình tự chủ tài chính cũng đặt ra nhiều rủi ro cho các nhà quản trị trường trong
việc thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của Nhà nước. Đội ngũ cán bộ quản lý tài
chính tại các cơ sở GDĐH cần khơng ngừng được đào tạo, nâng cao trình độ để thực
hiện được và thực hiện đúng các nghiệp vụ tài chính theo quy định của pháp luật.



×