Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH ĐẢNG CHÍNH TRỊ VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ MỘT ĐẢNG CHÍNH TRỊ TRỞ THÀNH ĐẢNG CẦM QUYỀN. LIÊN HỆ VỚI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.49 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

TÊN ĐỀ TÀI:
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH ĐẢNG CHÍNH TRỊ VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ MỘT
ĐẢNG CHÍNH TRỊ TRỞ THÀNH ĐẢNG CẦM QUYỀN. LIÊN HỆ VỚI ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN

Học phần: Đảng Chính Trị
Mã phách:………………………………….

1


Hà Nội – 2021

DANH MỤC VIẾT TẮT
ĐCQ
GCTS
GCPK

Đảng cầm quyền
Giai cấp tư sản
Giai cấp phong kiến

2


MỤC LỤC
Danh mục viết tắt
A. Mở đầu


1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
B. Nội dung
1. Khái quát về đảng chính trị
1.1. Khái niệm đảng
1.2. Khái niệm đảng chính trị
1.3. Khái niệm đảng cầm quyền
2. Quá trình hình thành đảng chính trị và điều kiện để một đảng chính trị
trở thành đảng cầm quyền
2.1. Q trình hình thành đảng chính trị
2.1.1. Điều kiện cho sự ra đời của đảng chính trị
2.1.2. Điều kiện hình thành đảng chính trị
2.2. Đều kiện để một đảng chính trị trở thành đảng cầm quyền
3. Liên hệ với Đảng Cộng sản Việt Nam
3.1. Quan niệm về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền
3.2. Về công tác xây dựng đảng hiện nay
3.2.1. Xây dựng đảng về chính trị
3.2.2. Xây dựng đảng về tư tưởng
3.2.3. Xây dựng đảng về đạo đức
3.3. Về công tác chỉnh đốn đảng hiện nay
3.3.1. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng
3.3.2. Cơng tác phịng chống tham nhũng, lãng phí
3.4. Đảng lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
3.5. Một số bài học kinh nghiệm về công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng
C. Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo


A. MỞ ĐẦU
3


1. Lí do chọn đề tài
Cơng cuộc đổi mới của Việt Nam ngày càng đạt được những kết quả to lớn, toàn
diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là về chính trị. Việt Nam coi
đổi mới hệ thống chính trị và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ
quan trọng then chốt, cấp bách. Trong hệ thống chính trị, đảng chính trị nói chung và
đảng chính trị cầm quyền nói riêng có mối quan hệ vơ cùng chặt chẽ và sâu sắc đến sự
hình thành, tổ chức, hoạt động của nhà nước. Do vậy tìm hiểu về đảng chính trị và
hoạt động của các đảng phái chính trị trong đời sống chính trị thế giới là yêu cầu cần
thiết đối với nước ta, làm phong phú thêm đời sống chính trị, cũng như đóng góp vào
các ngành khoa học nói chung.
Đảng chính trị ra đời, tồn tại và phát triển đến nay đã hơn 300 năm, xuất hiện
đầu tiên ở nước Anh năm 1678. Đảng chính trị đóng góp rất lớn trong đời sống chính
trị các nước Phương Tây. Mục tiêu, lý tưởng và phương thức hoạt động của đảng
chính trị phản ảnh rõ lợi ích, bản chất của giai cấp mà nó đại diện. Khi đảng chính trị
là đảng cầm quyền thì mới có cơ hội để tạo lập nên bộ máy nhà nước phục vụ các mục
tiêu của mình.
Việc nghiên cứu cung cấp cho chúng ta những góc nhìn lịch sử về q trình hình
thành đảng chính trị, sự đấu tranh giữa các đảng phái trong giành, giữ và thực thi
quyền lực nhà nước. Kinh nghiệm về nguyên tắc lãnh đạo của các đảng chính trị trong
vận động nhân dân và thu hút sự ủng hộ mạnh mẽ của quần chúng trong việc phát
triển kinh tế - xã hội, xây dựng đời sống chính trị- xã hội tiến tới xây dựng một nước
Việt Nam văn minh hiện đại.
Thực tiễn cho thấy, rất cần một đề tài nghiên về các đảng chính trị để chúng ta
rút ra những bài học về sự thành công cũng như thất bại của họ, từ đó cơng cuộc đổi
mới của Đảng ta tránh được vết xe đổ, vạch ra đường lối lãnh đạo đất nước sáng suốt
và đúng hướng. Chính vì vậy tơi chọn đề tài “Q trình hình thành đảng chính trị và

điều kiện để một đảng chính trị trở thành đảng cầm quyền. Liên hệ với đảng Cộng sản
Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4


Mục đích nghiên cứu: là làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về đảng chính
trị, phân tích nguyên nhân ra đời điều kiện hình thành của đảng chính trị và các điều
kiện để một đảng chính trị trở thành đảng cầm quyền. Để từ đó rút ra những bài học
kinh nghiệm đối với đảng Cộng sảng Việt Nam trong quá trình xây dựng, lãnh đạo,
chỉnh đốn đảng nhằm củng cố hơn nữa vai trò lãnh đạo nhà nước và nhân dân.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ khái niệm, nguyên nhân ra đời, điều kiện hình thành đảng chính trị
- Làm rõ những điều kiện để một đảng chính trị trở thành đảng cầm quyền
- Khái quát những kinh nghiệm và giá trị phổ biến trong quá trình hình thành và cầm
quyền của đảng chính trị trên thế giới, từ đó vận dụng vào cơng cuộc xây dựng
đảng Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: đối tượng nghiên cứu là đảng chính trị và đảng cầm
quyền.
Phạm vi nghiên cứu: phạm vi nghiên cứu các đảng chính trị với lịch sử thực sự
bắt đầu từ thời kì cận đại (khoảng cuối thế kỉ XVII đầu thế kỉ XVIII) đến nay.

4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên người viết đã sử dụng kết hợp các phương pháp
nghiên cứu:
-


Phương pháp tổng hợp
Phương pháp phân tích
Phương pháp thống kê
Phương pháp lịch sử lơ-gic
Phương pháp so sánh

5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu các đảng chính trị có ý nghĩa không chỉ về mặt lý luận mà về cả
thực tiễn. Trong bối cảnh Việt Nam đang đổi mới chính trị như hiện nay, nhất là vừa
thực hiện thành công Đại hội XIII của đảng và hướng tới những dấu mốc lớn hơn.
Phân tích về q trình hình thành các đảng chính trị trên thế giới, phương thức lãnh
đạo của họ cho thấy được tiến trình lịch sử chính trị diễn ra phong phú như thế nào, về
những hệ quả của nó qua đó xem xét tác động đến chính trị Việt Nam. Từ bài học kinh
nghiệm lý luận và thực tiễn sẽ làm cơ sở để đảng ta tiếp tục xây dựng và hoàn thiện

5


chủ trương, đường lối, chính sách phát huy những mặt tích cực khắc phục khó khăn
gặp phải trong điều kiện lãnh đạo nhà nước lãnh đạo nhân dân thời kì hội nhập, đổi
mới.

B. NỘI DUNG
6


1. Khái quát về đảng chính trị
1.1. Khái niệm đảng
Đảng là nhóm người kết với nhau để cùng thực hiện một mục đích chung nào đó,
trong sự đối lập với những nhóm người khác.

Đảng là một tổ chức xã hội tự nguyện, tập hợp những người có những đặc điệm
chung nhất định, tuân thủ theo những quy tắc nhất định, cùng thực hiện những nhiệm
vụ nhất định nhằm thỏa mãn mục tiêu nào đó. Với ý nghĩa như vậy, đảng được hiểu là
một tổ chức xã hội, một loại hình thiết chế xã hội và có thể được tổ chức ra vì bất cứ
mục tiêu gì. Khi một đảng có mục tiêu chính trị, tập hợp những người có chung đặc
điểm là cùng một giai cấp, cùng có mong muốn đấu tranh giành quyền lực chính trị,
thì đảng đó là đảng chính trị.

Khái niệm đảng chính trị

1.2.

Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về Đảng chính trị, để hiểu rõ đảng
chính trị là gì chúng ta cần tìm hiểu một số quan điểm của tác nhà tư tưởng chính trị
thế giới.
Nhà triết học chính trị Xơ viết Anatoli Butenko cho rằng: “Chính đảng là tổ
chức chính trị đồn kết những đại biểu tích cực nhất của một giai cấp xã hội nhất
định (hay một nhóm xã hội) và thể hiện (trong cương lĩnh và các văn kiện khác)
những lợi ích cơ bản của giai cấp đó”.
Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa “Đảng chính trị là tổ chức chính trị
thể hiện những lợi ích của một giai cấp hay tầng lớp xã hội, liên kết những đại diện
ưu tú nhất của giai cấp để lãnh đạo giai cấp đạt tới những mục đích và lý tưởng nhất
định”.
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin: “Đảng chính trị là một tổ chức
chính trị của một giai cấp, đại biểu lợi ích cho giai cấp đó. Đảng chính trị ra đời
nhằm mục đích đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Đảng chính trị
lãnh đạo giai cấp đấu tranh giành chính quyền bằng phương pháp cách mạng và bạo
lực cách mạng”.
Qua các định nghĩa trên có thể thấy, đảng chính trị là một liên kết các cá nhân
với một tập hợp chung những người có cùng niềm tin và mục đích chính trị, chia sẻ

mong muốn kiểm sốt bộ máy nhà nước bởi các phương thức hợp hiến. Đảng chính

7


trị luôn mang bản chất giai cấp, trong mỗi giai cấp có nhiều đảng chính trị khác
nhau, khơng có đảng chính trị đứng ngồi giai cấp, trên giai cấp. Nó vừa là đại diện
của giai cấp thống trị vừa lại diện của giai cấp bị thống trị. Đảng chính trị ra đời bắt
đầu từ cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống phong kiến và phát triển mạnh mẽ
trong xã hội hiện đại. Đảng sẽ mất ý nghĩa tồn tại khi sứ mệnh lịch sử của giai cấp
đã hoàn thành
Tóm lại: Đảng chính trị (hay cịn gọi là chính đảng), là một tổ chức chính trị
đại diện của một giai cấp, một lực lượng xã hội, gồm những người có cùng chính
kiến, tự nguyện tham gia hoạt động liện tục, nhằm thực hiện mục tiêu giành, giữ và
thực thi quyền lực nhà nước.
Nói cách khác, đảng chính trị là tổ chức chính trị bao gồm những người tự nguyện,
có cùng chính kiến, đại diện và bảo vệ lợi ích của một giai cấp, một tầng lớp xã
hội, hoạt động chủ yếu vì mục tiêu giành quyền lực nhà nước và sử dụng quyền lực
đó nhằm thực hiện lý tưởng của giai cấp.
1.3.

Khái niệm đảng cầm quyền (ĐCQ)

Khái niệm đảng cầm quyền (ĐCQ) xuất hiện rất sớm trong đời sống chính trị các
nước tư bản chủ nghĩa, ngay sau khi các đảng chính trị đầu tiên ra đời, các đảng đó đã
trở thành chỗ dựa chính trị cho các đại biểu tư sản năm giữ, chi phối các cơ quan nhà
nước như chính phủ, quốc hội. Tiêu biểu là sự ra đời của Đảng Tôry và Đảng Uych ở
nước Anh những năm 1688 khi hai đảng này thay nhau nắm quyền trị vì. Do lịch sử ra
đời của cách chính đảng tư sản trong cách mạng tư sản, mà nhiều đảng tư sản đại diện
cho các tập đoàn tư bản khác nhau từ đó hình thành chế độ đa ngun chính trị, đa

đảng đối lập, các đảng hợp tác và đấu tranh với nhau cho mục tiêu cầm quyền của
đảng mình. Trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp cơng nhân và giai cấp tư sản, các đảng
cộng sản ra đời, gánh vác sứ mệnh lãnh đạo giai cấp công nhân và quần chúng nhân
dân lao động làm cách mạng. cách mạng thành cơng, chính quyền thuộc về giai cấp
cơng nhân và nhân dân lao động, đảng cộng sản trở thành ĐCQ. Tiêu biểu nhất là
thắng lợi cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, đảng Cộng sản Nga trở thành ĐCQ. Ở
Việt Nam là sự chiến thắng của đảng Cộng sản Việt Nam trước thực dân Pháp, đã
thành lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.

8


Từ sự phân tích, có thể quan niệm: Đảng cầm quyền là khái niệm dùng trong
khoa học chính trị, chỉ một đảng chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và
lãnh đạo chính quyền để điều hành, quản lý đất nước nhằm trước hết phục vụ lợi ích
của giai cấp mình. Đảng cầm quyền một mặt là đại biểu trung thành cho lợi ích của
giai cấp thống trị, mặt khác duy trì sự lãnh đạo, tổ chức và quản lý xã hội vì lợi ích
chung.
Như vậy, ĐCQ là khái niệm phản ánh một đảng chính trị, giành được quyền thiết
lập, điều khiển và sử dụng chính quyền, đặc biệt là Chính phủ - cơ quan hành pháp của
nhà nước. Các đảng chính trị trong chế độ tư bản trở thành ĐCQ thông qua đấu tranh
nghị trường, bằng con đường bầu cử nghị viện tư sản và nguyên thủ quốc gia. Các
đảng Cộng sản trở thành ĐCQ bằng con đường cách mạng vô sản lật đổ chế độ thống
trị của giai cấp bóc lột và cũng bằng con đường bầu cử dân chủ, tức là con đường nhân
dân thực hiện quyền làm chủ của mình về chính trị thông qua phổ thông đầu phiếu,
bầu cử các đại diện chính trị của mình vào cơ quan nhà nước. Tuy nhiên con đường
này chỉ thực hiện một cách dân chủ, khi cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã
hội chủ nghĩa thành công, lập nên một kiểu nhà nước hoàn toàn mới trong lịch sử, nhà
nước của dân, do dân và vì nhân dân, dựa trên liên minh giai cấp giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.


2. Q trình hình thành đảng chính trị và những điều kiện để một đảng
chính trị trở thành đảng cầm quyền
2.1. Quá trình hình thành đảng chính trị
2.1.1. Điều kiện cho sự ra đời của đảng chính trị
Các đảng manh nha xuất hiện ngay từ những giai đoạn phát triển đầu tiên của xã
hội có giai cấp, gắn liền với những sự khác nhau về lợi ích của các giai cấp và của các
tập đồn hợp thành giai cấp.
Mỗi khi có vấn đề liên quan đến chính trị, lợi ích quyền lực của nhóm người này
đổi lập với nhóm người khác là xuất hiện những phe đảng, những băng đảng.
Dưới chế độ chiếm hữu nô lệ, có hai giai cấp cơ bản là chủ nơ và nơ lệ. Chủ nơ
bóc lột nơ lệ, nơ lệ đấu tranh chống chủ nô, chủ nô dùng nhà tù, quân đội để đàn áp nô
lệ. Chế độ chiếm hữu nơ lệ xuất hiện phe đảng, nhóm đảng, bè đảng. Đó là những

9


người cùng quan điểm, cùng lợi ích họp lại với nhau để đấu tranh bảo vệ quan điểm,
lợi ích của mình.
Chế độ phong kiến thay thế chế độ chiếm nơ. Xã hội phong kiến có hai giai cấp
cơ bản là giai cấp phong kiến và nông dân. Giai cấp phong kiến cấm quyền, bóc lột
nơng dân bằng tơ, thuế. Đặc điểm bè đảng, băng đảng thời phong kiến là những người
cùng chung lợi ích, tự liên minh với nhau ở các bàn trà, tiệc rượu để địi triều đình
phải nhượng bộ cho địa vị trong bộ máy chính quyền hay những yêu sách cụ thể.
Tuy nhiên, lịch sử thực sự của các Đảng chính trị chỉ bắt đầu từ thời kị cận đại.
Thế kỉ XVI-XVII, GCTS hình thành và trở nên giàu có hơn GCPK, nhưng quyền lực
chính trị vẫn nằm trong tay GCPK. Mâu thuẫn giữa GCPK với GCTS và quần chúng
nhân dân ngày càng sâu sắc, cần giải quyết bằng cuộc cách mạng và các cuộc cách
mạng tư sản đã có cống hiến quan trọng cho dân chủ và tiến bộ của nhân loại: Chế độ
cộng hòa đưoc thay thế cho chế độ quân chủ; hình thức bầu cử, ứng cử, tranh cử được

thay cho hình thức chuyên chế của nhà vua. Xã hội khơng cịn phân chia đăng cấp mà
thay vào đó là xã hội dân chủ tư sản, hoạt động theo pháp luật tư sản.
Cơ quan nhà nước do bầu cử lập nên. Để đảm bảo cho việc tranh cử thắng lợi, lên
nắm chính quyền, các ứng cử viên cần có tổ chức của mình. Những người có nhu cầu
và điều kiện để thành lập tổ chức chính trị của mình đầu tiên là GCTS. Tổ chức đó
chính là đảng chính trị. Các quốc gia có đảng chính trị xuất hiện trước tiên là Anh, Mỹ
và Pháp.
Trong xã hội hiện đại, tương ứng với cơ cấu giai cấp của nó, các Đảng chính trị
có thể là đảng tư sản, đảng vô sản, đảng địa chủ, đảng nơng dân, đảng tiểu tư sản... Có
những đảng phản ánh lợi ích của một liên minh giai cấp (như đảng tư sản - địa chủ...).
Đôi khi (ở các quốc gia nhiều dân tộc) các đảng có màu sắc dân tộc và đưa ra những
mục tiêu dân tộc. Nhưng ngay cả trong trường hợp này thì cơ sở của các đảng đó vẫn
là lợi ích giai cấp.
Như vậy, ngun nhân ra đời các đảng chính trị là do lực lượng sản xuất phát
triển rất cao tạo ra khối lượng sản phẩm ồ ạt, nhu cầu xã hội mạnh mẽ nên hình thành
các nhóm lợi ích khác nhau, để bảo vệ lợi ích cho các nhóm lợi ích nên hình thành tổ
chức chính trị là đảng chính trị với định hướng chính trị, tập hợp lực lượng chính trị,
vận động chính trị.

10


Tóm lại, nhân tố đưa đến sự ra đời đảng chính trị là mâu thuẫn xã hội, mâu thuẫn
lợi ích trong chủ nghĩa tư bản trở nên quyết liệt tới mức độ khơng thể dung hịa. Trước
chủ nghĩa tư bản hầu như khơng có đủ điều kiện để hình thành đảng chính trị.
2.1.2. Điều kiện hình thành đảng chính trị
- Phải có một nhóm người tiên tiến, tích cực đại diện cho một giai cấp, tầng lớp
xã hội đứng ra tập hợp lực lượng, liên kết lại trên cơ sở một hệ tư tưởng hay một
-


số quan điểm chung thống nhất.
Phải xây dựng được các nguyên tắc tổ chức và trên cơ sở đó phải xây dựng được

-

trên thực tế một thực thể liên kết tương đối bền vững.
Phải có một cương lĩnh thế hiện mục tiêu, đường lối chiến lược và nhiệm vụ thể
hiện lợi ích căn bản của giai cấp hoặc tầng lớp xã hội mà nhóm người ấy đại

diện.
- Phải nhận được sự đồng tình, ủng hộ nhất định của xã hội.
- Trong nhiều trường hợp, phải có điều kiện quy định pháp lý.
2.2. Điều kiện để một đảng chính trị trở thành đảng cầm quyền
Để trở thành đảng cầm quyền, đảng chính trị cần phải đảm bảo các điều kiện cơ
bản sau:
-

Đảng phải tồn tại và hoạt động hợp pháp.
Đảng và giai cấp mà đảng đại diện phải có cơ sở kinh tế - xã hội và được hình

-

thành từ trong quá trình phát triển của quốc gia dân tộc.
Đảng phải nắm quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và nắm cả lực lượng vũ

-

trang.
Đảng phải có tổ chức, chương trình hành động vừa bảo vệ lợi ích của giai cấp,


-

vừa thống nhất lợi ích của quốc gia, dân tộc, vừa theo kịp xu thế của thời đại.
Đảng phải biết tập hợp quần chúng, vận động cử trị ủng hộ mình. Bảo đảm số
ứng cử viên là thành viên của Đảng thắng cử tham gia vào cơ quan nhà nước và

-

có khả năng thực hiện lợi ích của Đảng.
Đảng phải có chính sách đối ngoại phù hợp.
Tùy theo điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc mà có một đảng hay đa đảng

chính trị hoạt động, có một hay đa đảng cầm quyền.
3. Liên hệ với đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay
3.1. Quan niệm về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền

11


Ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “đảng cầm
quyền". Năm 1969, trong Di chúc, Hồ Chí Minh sử dụng "Đảng cầm quyền" chỉ vai
trò của Đảng tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong điều kiện Đảng đã lãnh đạo
quần chúng nhân dân giành được chính quyền nhà nước và Đảng trực tiếp lãnh đạo bộ
máy nhà nước đó để tiếp tục hoàn thành sự nghiệp độc lập dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội.
Cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn được nhân dân tin tưởng, thừa
nhận là “Đảng cầm quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội". Đồng thời, vai trò này còn
được khẳng định trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để duy
trì vai trị cầm quyền vững chắc của mình, Đảng phải khơng ngừng chăm lo xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh, xác lập và thực hiện tốt nội dung, phương thức cầm

quyền của Đảng, ra sức phát huy vai trò là đội tiên phong của giai cấp cơng nhân,
nhân dân lao động và tồn dân tộc.
Trong q trình cầm quyền của đảng, việc tồn tại một đảng hay nhiều đảng ở mỗi
nước là do những điều kiện lịch sử - cụ thể quy định, khơng có khn mẫu chung cho
tất cả các nước, cũng như cho mọi giai đoạn, mọi thời kỳ trong phạm vi một nước.
“Chế độ đa đảng hay một đảng lãnh đạo đều có mặt ưu và nhược do điều kiện cụ thể
mỗi nước, mỗi giai đoạn lịch sử quy định. Vấn đề là ở chỗ bản chất của đảng cầm
quyền đó như thế nào? Phục vụ cho giai cấp, tầng lớp xã hội nào? Ở Việt Nam, từ
trước năm 1988, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo chính quyền, cịn có hai
đảng tham chính: Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam. Hai đảng này
đều do Đảng Cộng sản Việt Nam đứng ra vận động thành lập, thừa nhận vai trị lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, khơng phải là đảng đối lập. Năm 1988, hai đảng
tuyên bố tự giải thể sau khi hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, trên chính trường
Việt Nam chỉ cịn lại duy nhất một đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong văn bản chính trị và pháp lý ở Việt Nam, thuật ngữ được sử dụng phổ biến,
chính thức là Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội. Khái niệm “đảng cầm
quyền” được dùng như “đảng lãnh đạo” và vì vậy, “nội dung và phương thức cầm
quyền của Đảng” cũng được dùng như là nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước và xã hội. Khái niệm “đảng cầm quyền” không loại trừ nội dung
“Đảng lãnh đạo chính quyền” mà bao hàm trong đó. Khơng lãnh đạo chính quyền thì

12


Đảng không cầm quyền được. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt
Nam là đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Mục đích, lý tưởng cao cả khơng bao giờ thay đổi suốt quá trình lãnh đạo cách
mạng Việt Nam của Đảng ta là lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, là phấn đấu cho Tổ
quốc hoàn toàn độc lập cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và

trên toàn thế giới. Khi trở thành Đàng cầm quyền, mục đích lý tưởng khơng những
khơng thay đổi mà cịn có thêm những điều kiện và sức mạnh nhằm hiện thực hóa lý
tưởng ấy. Từ những lý giải trên, có thể định nghĩa: Đảng Cộng sản Việt Nam cầm
quyền là khái niệm phản ánh thời kỳ Đảng được nhân dân ủy quyền thiết lập hệ thống
chính trị đặc biệt là bộ máy nhà nước, bảo vệ và sử dụng hiệu quả bộ máy nhà nước
phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa; thực hiện dân giàu, nước mạnh xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
3.2.
Về công tác xây dựng Đảng hiện nay
3.2.1. Xây dựng đảng về chính trị

Kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội;
kiên định đường lối đổi mới và các nguyên tắc tổ chức, hoạt
động của Đảng; chỉ rõ định hướng vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đồng thời, Đại hội XIII bổ
sung, phát triển các nội dung mới là: Thực hiện nghiêm các
nguyên tắc, cơ chế, quy định và thực hành dân chủ gắn liền với
tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng. Coi trọng nâng cao
năng lực dự báo và ứng phó với các thách thức, biến động của
tình hình. Khi hoạch định chủ trương, giải pháp phải đánh giá
tác động và cân đối, bố trí nguồn lực để tổ chức thực hiện có
hiệu quả; hình thành cơ chế tổ chức thực hiện nghị quyết bài
bản, nghiêm túc, kiểm tra, giám sát chặt chẽ, xác định rõ trách
nhiệm của tập thể và cá nhân.
3.2.2. Xây dựng đảng về tư tưởng

13



Tăng cường giáo dục truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng; tuyên truyền sâu
rộng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước gắn với đẩy
mạnh các phong trào thi đua yêu nước, tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của các
cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân; khơng ngừng nâng cao
trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên. Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa
cá nhân, tệ quan liêu, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, nói khơng đi đơi với làm
trong cán bộ, đảng viên. Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết
và thường xuyên đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; chủ động cung
cấp thơng tin kịp thời, chính xác, khách quan, đúng định hướng để phịng, chống “diễn
biến hịa bình”, các thông tin xấu, độc trên in-tơ-nét và mạng xã hội.
Thực hiện tốt việc quy hoạch các cơ quan báo chí phù hợp với tình hình mới; tập
trung đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý báo chí, phóng viên, biên tập viên có
bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực, nghiệp vụ giỏi để nâng cao hiệu quả
công tác tuyên truyền; phát huy hơn nữa vai trò của văn học - nghệ thuật trên mặt trận
tư tưởng; đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ để phục vụ cho công tác
tuyên truyền, bảo đảm an ninh tư tưởng trên môi trường không gian mạng.
Nâng tầm tư duy lý luận của Đảng. Tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận mới,
khó, phức tạp, nhạy cảm phát sinh từ thực tiễn hoặc tồn tại trong thời gian dài; những
vấn đề chưa rõ về cơ sở lý luận, còn ý kiến khác nhau thì mạnh dạn thí điểm, tổng kết
kịp thời để có kết luận nhằm thống nhất nhận thức trong Đảng; tạo cơ chế, mơi trường
thuận lợi và bố trí nguồn lực cần thiết cho nghiên cứu lý luận. Có cơ chế, chính sách
thu hút, sử dụng, đãi ngộ các chuyên gia đầu ngành.
Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo
hướng khoa học, sáng tạo và hiện đại. Quan tâm chăm lo xây dựng, nâng cao hiệu quả
hoạt động của hệ thống các trường chính trị; thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao phẩm
chất, năng lực của đội ngũ giảng viên chính trị, báo cáo viên.

3.2.3. Xây dựng đảng về đạo đức
Kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4
khóa XI và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về xây dựng,

chỉnh đốn Đảng bằng các giải pháp mạnh mẽ, quyết liệt, đồng bộ.
Thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình từ Trung ương đến chi bộ;

14


cấp ủy cấp trên chủ động gợi ý kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân ở
những nơi có vấn đề phức tạp, có biểu hiện suy thối, “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa”; coi trọng kiểm tra việc sửa chữa, khắc phục hạn
chế, khuyết điểm.
Thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên,
nhất là cán bộ lãnh đạo và người đứng đầu các cấp; cán bộ có chức vụ càng cao càng
phải gương mẫu. Nêu gương phải trở thành một nội dung quan trọng trong phương
thức lãnh đạo của Đảng. Coi trọng công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng, kết hợp với
phát huy vai trị giám sát của báo chí và nhân dân đối với việc thực hiện trách nhiệm
nêu gương của cán bộ, đảng viên.
Kết hợp giữa giữ vững kỷ luật, kỷ cương của Đảng, đề cao pháp luật của Nhà
nước với giáo dục, bồi dưỡng nhân cách, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên.
Thực hiện có hiệu quả việc giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức
chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của
cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu và cán bộ chủ chốt.

Về công tác chỉnh đốn Đảng hiện nay
3.3.1. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng
3.3.

Tiếp tục cải tiến, đổi mới phương pháp, kỹ năng, quy trình cơng tác kiểm tra, giám
sát, kỷ luật đảng, bảo đảm khách quan, dân chủ, đồng bộ, thống nhất, chặt chẽ, khả thi.
Tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những
lĩnh vực, địa bàn, vị trí cơng tác dễ xảy ra tiêu cực, nơi người dân có nhiều bức xúc,

dư luận xã hội quan tâm.
Đẩy mạnh tự kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm của các cấp ủy, tổ chức đảng;
coi trọng kiểm tra, giám sát việc khắc phục, sửa chữa khuyết điểm. Tăng cường công
tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy trong việc chấp
hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định
của Đảng.
Nâng cao khả năng dự báo về những hành vi vi phạm của tổ chức đảng, đảng
viên trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng và sự
phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ để đề ra các chủ trương, biện pháp
phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm từ xa, từ sớm.

15


Mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra
các cấp, coi trọng giám sát theo chuyên đề. Chủ động nắm chắc tình hình hoạt động
của cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng
đầu các cấp, các ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị để sớm phát hiện dấu hiệu vi
phạm ngay từ khi mới xuất hiện.
Kết hợp chặt chẽ, có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với thanh tra,
kiểm toán của Nhà nước và khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ
pháp luật. Tăng cường sự phối hợp giám sát của Đảng với giám sát của Nhà nước, của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội để phát huy sức mạnh
tổng hợp và nâng cao hiệu quả, hiệu lực giám sát.

3.3.2. Công tác đấu tranh phịng chống tham nhũng, lãng phí
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực
với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ hơn, hiệu quả hơn. Phát huy sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nhân dân; thực hiện đồng bộ các biện
pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế, hình sự trong đấu tranh phịng,

chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Gắn phịng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu
cực với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Khẩn trương xây dựng, hoàn thiện các quy định về kiểm sốt quyền lực, trách
nhiệm giải trình bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch. Quy định rõ trách nhiệm của
người đứng đầu trong kiểm tra, phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và bảo
vệ người tích cực đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; xử lý
nghiêm những người lợi dụng chống tham nhũng để vu khống, làm mất đồn kết nội
bộ. Kiểm sốt có hiệu quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; chuyển
mạnh sang thực hiện thanh toán khơng dùng tiền mặt. Từng bước mở rộng hoạt động
phịng, chống tham nhũng ngoài khu vực nhà nước; tăng cường và nâng cao hiệu quả
hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo
dục, tạo sự thống nhất cao về ý chí và hành động trong đấu tranh phịng, chống tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực của cán bộ, đảng viên và nhân dân, trước hết là sự gương
mẫu, quyết liệt của người đứng đầu cấp ủy, địa phương, cơ quan, đơn vị.
3.4.

Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
16


Một là, cần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực: xây dựng
pháp luật, thi hành pháp luật và bảo vệ pháp luật. Tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ
thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, hiện đại, khả thi, công khai, minh bạch, phù hợp
với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và yêu cầu hội nhập quốc tế toàn
diện. Chỉ đạo chặt chẽ q trình chuẩn bị và thơng qua các dự án luật, bảo đảm quán
triệt đường lối, quan điểm của Đảng, tổng kết thực tiễn, tiếp thu có chọn lọc những
tinh hoa và kinh nghiệm lập pháp tiên tiến của nước ngồi; tập hợp trí tuệ của các nhà
khoa học, các chuyên gia, ý kiến đóng góp của Nhân dân, đặc biệt là các đối tượng có
liên quan đến việc thi hành pháp luật.

Hai là, chủ động xây dựng và đề xuất các nguồn lực để thúc đẩy phát triển các
giá trị của nhà nước pháp quyền có thể hình thành mạnh mẽ. Trước mắt, cần tập trung,
tận dụng mọi thời cơ, vượt lên mọi khó khăn, thách thức, đưa đất nước đến gần hơn
các giá trị của nhân loại, hội nhập tồn diện. Khuyến khích và đẩy mạnh xã hội học
tập, nâng cao trình độ dân trí, tạo lập mơi trường để rèn luyện ý thức và bản lĩnh của
cơng dân. Có các cơ chế thúc đẩy kinh tế, văn hóa phát triển, vì đời sống vật chất, tinh
thần của người dân có thực sự được cải thiện theo hướng đầy đủ và văn minh thì ý
thức, niềm tin, thái độ và hành động của họ mới tốt lên được.
Ba là, giữ vững lập trường quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh để tiếp thu có chọn lọc những giá trị phổ biến về xây dựng nhà nước pháp
quyền trên thế giới. Việc học hỏi kinh nghiệm, chọn lọc, tiếp thu và phát triển một
cách sáng tạo những tinh hoa, giá trị tiến bộ về nhà nước pháp quyền là một nhu cầu
cần thiết khách quan. Tuy nhiên, học hỏi và vận dụng như thế nào cho có hiệu quả,
thiết thực và phù hợp với điều kiện nước ta là điều không dễ dàng.
Bốn là, giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoản 1 Điều 4 Hiến pháp năm 2013). Nói cách khác,
là bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không thể được lãnh đạo
bởi một lực lượng nào khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc xác định Đảng
Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước là một nét đặc thù

trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
17


Việt Nam nói riêng và của bộ máy nhà nước các nước xã hội chủ nghĩa nói
chung.
Năm là, phải thiết lập được các giải pháp cơ bản trong xây dựng và hoàn thiện
nhà nước pháp quyền Việt Nam. Tập trung vào giải pháp có tính đột phá, đó là: nâng
tầm vai trị của pháp luật, khơng vì Nhà nước mà vì con người (có quyền con người,

pháp luật vì con người). Đó là tư tưởng cội nguồn về nhà nước pháp quyền của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, trong đó Nhà nước phải được quản trị tốt, minh bạch và phòng,
chống tham nhũng hiệu quả.
3.5.

Một số bài học kinh nghiệm về công tác xây dựng chỉnh đốn đảng

Thứ nhất, nâng cao bản lĩnh chính trị; kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện nghiêm Cương lĩnh, Điều lệ
và các nguyên tắc của Đảng; kịp thời tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận để đổi mới
sáng tạo, chống bảo thủ, trì trệ; đấu tranh kiên quyết với những biểu hiện cơ hội chính
trị.
Thứ hai, phải đặc biệt coi trọng sự đồn kết, thống nhất ý chí và hành động trong
Đảng, trước hết trong Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, lãnh đạo
chủ chốt và cấp uỷ các cấp. Người đứng đầu các cấp phải thực sự mẫu mực, nói đi đơi
với làm, nêu cao tinh thần trách nhiệm, đặt lợi ích của quốc gia - dân tộc, nhân dân lên
trên hết, trước hết. Thường xuyên tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng
với nhân dân, phát huy vai trò của nhân dân và thật sự dựa vào dân để xây dựng Đảng.
Thứ ba, phải thấm nhuần sâu sắc quan điểm công tác cán bộ là nhiệm vụ “then
chốt” của công tác xây dựng Đảng, có liên quan đến sự sống cịn của Đảng và vận
mệnh của chế độ; cán bộ là cái gốc của mọi công việc, là nhân tố quyết định sự thành
bại của cách mạng. Vì vậy, phải đặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp,
nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu thật sự có đức, có tài, có uy tín trong Đảng
và nhân dân.
Thứ tư, xây dựng Đảng phải gắn kết chặt chẽ với lãnh đạo phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm quốc phịng, an ninh và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Kết hợp
chặt chẽ, đồng bộ, toàn diện, hiệu quả giữa xây dựng và chỉnh đốn Đảng, trong đó xây
dựng Đảng là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ quan

18



trọng, thường xuyên, cấp bách; đồng thời, xác định đúng trọng tâm, trọng điểm, khâu
đột phá.
Thứ năm, trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện phải có quyết tâm chính trị
cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, cách làm bài bản, dân chủ, chắc chắn và có bước
đi phù hơp; kiên trì, cầu thị, lắng nghe; khơng cầu tồn, khơng chủ quan nóng vội, mất
cảnh giác và khơng tự mãn với thành tích đạt được. Đối với những việc mới, khó,
phức tạp thì tiển hành thí điểm, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, tìm ra cách làm phù
hợp, hiệu quả nhất để nhân rộng.

C. KẾT LUẬN
Trong tiến trình lịch sử phát triển của mỗi quốc gia hiện nay, đảng chính trị ln là
một nhân tố quan trọng khơng thế thiếu với đời sống chính trị. Từ khi xã hội xuất hiện
giai cấp cùng với những mâu thuẫn xung đột giữa các giai cấp đi đến không thể điều
hịa thì cũng là lúc các đảng phái bắt đầu ra đời để đại diện giai cấp đấu tranh vì lợi ích
mỗi bên. Việc tìm hiểu và phân tích về quá trình hình thành và các điều kiện để đảng

19


chính trị trở thành đảng cầm quyền cho ta góc nhìn rõ hơn về bối cảnh của các đảng
phái lúc đó. Qua đó, thấy được các đảng chính trị trên thế giới cũng tác động ít nhiều
đến chính trị Việt Nam từ đó thu thập những kinh nghiệm quý báu làm cơ sở để Đảng
Cộng sản Việt Nam hoàn thiện hơn sự lãnh đạo của mình, hướng tới những tương lai
tốt đẹp.

Danh mục tài liệu tham khảo
1. Lưu Văn An, Nguyễn Doãn Cương: Về quyền lực của Tổng thống
Pháp hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 2/2002.

2. Vũ Hồng Anh (1997): Chế độ bầu cử của một số nước trên thế giới,
20


Nxb. CTQG, HN.
3. Mai Hoài Anh: Mấy nét về tổ chức và hoạt động của Cơng đảng Anh,
Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 10/2011.
4. Lê Anh: Vận động tranh cử văn minh và đúng pháp luật, báo Trung
tâm bồi dưỡng đại biểu dân chủ- Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
19/5/2011.
5. Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2012): Cương
lĩnh chính trị bổ sung, phát triển năm 2011, Nxb. Tiến bộ, HN.

21



×